Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Cuộc tổng công kích năm 1968 của Bắc Việt đã chuyển những thắng lợi quân sự của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa thành những thất bại về chính trị và tâm lý.

tet1

Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson (1908-1973)

Với tất cả những lạc quan MACV báo cáo về Ngũ Giác Đài ; với những tuyên bố đầy niềm tin của Westmoreland trước báo chí trong lần viếng thăm Hoa Thịnh Đốn vào cuối năm 1967, nhưng dư luận nội địa Hoa Kỳ vẫn không tin Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đang nắm thế thượng phong vào mùa xuân năm 1968 ở Việt Nam.

Làm sao dư luận tin được khi thấy hình ảnh cái quốc ấn của Hoa Kỳ nằm dưới đất, bên cạnh là xác những người lính Mỹ chết để bảo vệ nó. Làm sao tin được tình hình an ninh ở miền Nam bắt đầu an toàn và cộng sản đang quay trở lại giai đoạn chiến tranh du kích vì bị thiệt hại nặng ở chiến trường, khi tòa đại sứ Mỹ ở trung tâm thủ đô Sài Gòn bị xâm nhập và bắn nát.

Từ đầu năm 1968, Tổng thống Johnson đã quyết định nhiều thay đổi về phương diện quân sự và ngoại giao liên quan đến tình hình Việt Nam. 19/01/1968, Johnson đề cử Clark Clifford thay McNamara ở chức tổng trưởng quốc phòng ; ngày 22/03, Johnson triệu hồi Wesmoreland trở lại Mỹ thay thế tướng Harold K. Johnson làm Tư lệnh Lục quân, và bổ nhiệm tướng Creigton Abrams thay Westmoreland ở MACV.

Không phải vì cuộc tổng tấn công vào đầu năm làm cho tổng thống Johnson có những quyết định này : ông đã có hai quyết định đó từ tháng 11/1967 sau khi McNamara thay đổi ý định theo đuổi cuộc chiến và đề nghị Johnson ngưng dội bom, tìm cách thương lượng với Hà Nội.

Lúc đầu, các cố vấn quan trọng của Johnson kể luôn vị tân tổng trưởng quốc phòng Clifford không đồng ý với đề nghị của ông tổng trưởng bỏ cuộc McNamara.

Nhưng đến tháng 3/1968, trừ giới quân nhân, tất cả những cố vấn có ảnh hưởng với Johnson đều khuyên Johnson nên xuống thang cuộc chiến và tìm giải pháp thương lượng.

Rồi chuyện khó khăn này dẫn đến chuyện khó khăn khác : Cuộc tổng tấn công của Bắc Việt ; Westmoreland xin thêm hơn 200 ngàn quân để dứt điểm đối phương ; và những cuộc trưng cầu dân ý của năm bầu cử tổng thống cho thấy đa số cử tri không còn ủng hộ Johnson thêm một nhiệm kỳ thứ hai. Chiến tranh Việt Nam đến giai đoạn này là một ung nhọt mà tổng thống Johnson không thể làm lơ.

Sự lo lắng của tổng thống Johnson không phải không có lý do.

Đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, lòng dân và thế lực chính trị tại nội địa Mỹ thay đổi.

Nhiều khó khăn quốc nội làm ảnh hưởng đến những quyết định của Johnson đối với chiến tranh Việt Nam.

Những người ủng hộ kế hoạch và đường lối chính trị của Johnson trong quá khứ lần lược lên tiếng phản đối. Mục sư Martin Luther King, một trong những người ủng hộ các chương trình xã hội và dân quyền của tổng thống Johnson từ năm 1964, bắt đầu lên tiếng phản đối, tuyên cáo Johnson đã bỏ rơi chương trình Đại Xã Hội, một chương trình nâng cao quyền bình đẳng và mức sống cho dân nghèo ở Hoa Kỳ, vì quá chú tâm về vấn đề Việt Nam.

tet2

Clark Clifford trở thành tân bộ trưởng quốc phòng Mỹ đầu năm 1968

Năm 1967 ngân sách quốc gia Hoa Kỳ bị thâm thủng gần 30 tỉ, và Johnson phải quyết định hoặc là tăng thuế, hoặc là giảm ngân sách quốc phòng.

Nhưng tăng thuế thì mất lòng cử tri ; giảm chi phí quân sự thì lại càng không được đối diện với cuộc chiến ở Việt Nam và tình hình an ninh chung trên thế giới.

Những dân biểu nghị sĩ thủ lãnh ở quốc hội, trước đây vẫn trung thành với Johnson, bây giờ chỉ trích Johnson và cuộc chiến ở Việt Nam.

Họ nói chiến tranh Việt Nam làm đổ vỡ nhiều kế hoạch quốc nội và quốc ngoại.

Nghị sĩ William J. Fulbright, chủ tịch ủy ban ngoại giao thượng viện hăm dọa ông sẽ đình trệ ngân khoản quốc phòng khi vấn đề được đem lên thượng viện bàn thảo.

Theo Fulbright, không những chương trình Đại Xã Hội của Johnson không thành công, ngược lại xã hội Hoa Kỳ đang trở thành một xã hội bệnh hoạn. Ông nghĩ Hoa Kỳ không có đủ tiền để chiến thắng hai cuộc chiến : cuộc chiến chống cộng ở Việt Nam và cuộc chiến chống bất bình đẳng và nghèo đói cho dân hạ lưu ở nội địa Mỹ.

Trong hai cuộc chiến đó, chẳng những Johnson không thắng được trận nào, mà không chừng thua luôn cả hai.

Ngoài Fulbright ra, những dân biểu, nghị sĩ có ảnh hưởng ở quốc hội bắt đầu đặt câu hỏi về sự thành công của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. "Quân chúng ta đông, nhưng đối phương đánh theo sự lựa chọn [chiến trường] của họ", nghị sĩ Stennis thổ lộ với nghị sĩ Hollings.

Trong khi đó, xã hội Mỹ càng ngày càng rối thêm. Từ mùa hè năm 1967, bạo động đã xảy ra ở nhiều thành phố trên đất Mỹ, phần lớn là những thành phố có dân da đen cư ngụ. 26 người chết ở Newark, New Jersey ; 40 ở Detroit, Chicago.

Bạo động càng dữ dội hơn khi mục sư Martin Luther King bị bắn chết vào đầu tháng 4/1968. Thẩm quyền an ninh dân sự và quân sự phải vận động 75 ngàn lính để tái lập trật tự.

Kết quả những cuộc biểu tình liên quan đến cái chết của King có 39 người chết và hơn 2.500 người bị thương, phần lớn là dân da đen. Nhưng đó chỉ là những bạo động nhỏ so với cuộc bạo động ở Chicago vào tuần lễ nghị hội đề cử ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ (Democratic Nomination Convention) vào mùa Hè năm 1968.

tet3

William J. Fulbright, chủ tịch ủy ban ngoại giao thượng viện

Với những biến chuyển dồn dập, tổng thống Johnson phải quyết định.

Trưa ngày 26 tháng 3-1968, một số nhân vật quan trọng và thân cận với tổng thống Johnson họp lại ăn trưa tại tòa Bạch Cung và đồng thời thảo luận, cho ý kiến về vấn đề Việt Nam.

Những người trí giả đang tụ họp vào buổi trưa thứ Ba này là những công thần của nước Mỹ họ đã phục vụ nước Mỹ từ ngày đầu của Đệ nhị Thế chiến cho đến ngày đầu của Chiến Tranh Lạnh, cho đến giai đoạn khó khăn đang đối diện Hoa Kỳ ngày hôm nay.

Có mặt trong bữa ăn đó là những công thần lão thành của Mỹ quốc như Dean Acheson, Douglas Dillon, John McCloy, Arthur Dean, Robert Murphy.

Trước khi gặp các trí giả cố vấn, sáng hôm đó Johnson đã gặp tham mưu trưởng liên quân Wheeler và đại tướng Abrams tại Tòa Bạch Ốc để nghe họ tường trình.

Khi nghe Wheeler và Abrams xin Johnson thêm quân, xin được đánh qua Lào và Cam Bốt, xin gia tăng dội bom Bắc Việt... để dứt điểm dối phương trong lúc đối phương đang bị thiệt hại nặng và hấp hối, Johnson trả lời họ bằng một giọng rất buồn và đau khổ.

Ông nói cho hai sĩ quan cao cấp là ông muốn làm cho đúng, dù ông bị thất cử trong nhiệm kỳ tới. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra cho chuơng trình Đại Xã Hội khi ông lấy bớt ngân quỹ dùng để xây cất gia cư cho dân ngèo, ngân quỹ của chương trình giáo dục và chương trình nâng đỡ giai cấp lao động ?

Ông nhấn mạnh năm nay là năm bầu cử mà ngân sách thì cần thêm tiền, phải tăng thuế, trong khi Việt Nam thì cần thêm quân.

Ông nói ông có thể có thể chịu đựng áp lực chính trị để thỏa mãn những đòi hỏi của giới quân nhân. Nhưng dù như vậy, ông vẫn chưa có thể nói cho người dân biết được tương lai cuộc chiến Việt Nam sẽ ra sao nếu Hoa Kỳ tiếp tục đi theo con đường đang đi.

Ông kết thúc cuộc nói chuyện với Wheeler và Abrams bằng lời hứa hẹn, là nếu đại tướng Westmoreland cần thêm 206 ngàn quân nữa thì ông sẽ cho nếu quân đội có dư được số quân đó.

tet4

Tổng thống Lyndon Johnson và Tướng William Westmoreland ở Washington DC tháng Tư 1968

Nội dung những gì Johnson muốn nói, chúng ta có thể đoán được, là dân Mỹ không còn ủng hộ cuộc chiến ở Việt Nam nữa.

Cuộc họp trưa ngày 26/01/1968 giữa các trí giả và tổng thống Johnson xảy ra như dự định.

Và chúng ta có thể đoán được những lời cố vấn của họ sẽ nói ra.

McGeorge Bundy, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Kennedy và Johnson đại diện cho phía muốn ngưng đánh, phát biểu vắn tắt : "Chúng ta không còn thì giờ để đạt được mục tiêu đã định ; đa số trong buổi họp này nghĩ chúng ta không nên gia tăng cường độ cuộc chiến, hay kéo dài cuộc chiến. Gia tăng hay kéo dài cuộc chiến là đi ngược lại quyền lợi quốc gia".

Johnson nghe những lời cố vấn trong sự ngỡ ngàng và có thái độ giận dữ khi nói chuyện trong phòng riêng với hai bộ trưởng Clifford và Rusk.

Dù thất vọng với những lời cố vấn của đa số trí giả, Johnson biết mình không thể nào đi ngược lại ý dân.

Sau buổi họp với những trí giả cố vấn, Johnson có khoảng năm ngày để soạn thảo một bài diễn văn, nói cho dân Mỹ biết ý định của ông về chiến tranh Việt Nam. Ông dự định sẽ đọc một bài diễn văn trước quốc dân vào ngày 31/03/1968 một chiều Chủ Nhật.

Một trong những người có nhiều ảnh hưởng đến các tổng trưởng, cố vấn, và chính Tổng thống Johnson về đường lối chiến tranh Việt Nam là Clifford người thay McNamara ở Bộ quốc phòng từ đầu năm 1968.

Theo nhiều sử liệu và hồi ký, tổng trưởng quốc phòng Clifford đã có ác cảm về cuộc chiến Việt Nam ngay trong những ngày đầu nhậm chức. Ông đã tỏ thái độ chống lại chiến tranh Việt Nam ngay sau trận tổng công kích Mậu Thân, và khi Westmoreland yêu cầu viện thêm 206 ngàn quân để thanh toán chiến trường.

Dựa vào phản ứng bi quan của dư luận, Clifford muốn, (1) quân đội Hoa Kỳ ngừng đánh và nhường chiến trường đó lại cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa ; (2) tìm một thương lượng trên mặt trận ngoại giao để đem Hoa Kỳ khỏi cuộc chiến.

Và khi Clifford đã quyết định thì khó có tướng lãnh nào ở Ngũ Giác Đài từ chối, hay cãi lại. Làm sao cãi lại với một người đã viết ra bộ luật đẻ ra chức Tổng trưởng quốc phòng, chức Tham mưu trưởng Liên quân, Quân chủng Không quân, CIA, hay Hội đồng An ninh quốc gia.

Trong chiến tranh Việt Nam, nếu Henry Kissinger là người bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải ký vào tờ giấy khai tử của chính mình vào năm 1973, thì năm 1968 Clark Cliford là người đã bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải tự đơn thân gánh vác cuộc chiến.

Như một điềm xấu, rạng sáng ngày 31/01/1968 (rạng sáng mùng 2 tết ở Sài Gòn ; trưa ngày 30 ở Hoa Thịnh Đốn) khi Việt Cộng tấn công vào thủ đô Sài Gòn, thì buổi trưa ở Hoa Thịnh Đốn quốc hội Mỹ biểu quyết chấp thuận Clifford vào chức vụ Bộ trưởng quốc phòng.

Rồi trong hai tuần lễ liên tiếp, những tin tức dồn dập từ MACV gởi về chẳng những không làm cho Bộ quốc phòng và Tòa Bạch Ốc lạc quan, trái lại càng làm cho giới thẩm quyền bên nhà rối loạn vì những tin tức trái ngược.

Quân đội Hoa Kỳ đụng trận trên bốn vùng chiến thuật. Căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ ở Lang Vei, 10 cây số nam Khe Sanh bị tràn ngập vào 7 tháng 2. Trong trận này, lần đầu tiên cộng sản dùng xe tăng để áp đảo một căn cứ. Căn cứ Khe Sanh thì bị áp lực dồn dập từ ngày 20 tháng 1 ; và từ tháng 2 trở đi căn cứ chỉ có thể nhận tiếp liệu bằng cách thả dù, vì phi trường không còn an toàn cho phi cơ lên xuống.

Tổn thất Mỹ trong hai tuần lễ đầu tiên là 400 và 416 tử thương. Tuần lễ thứ ba, 17/2/1968, Hoa Kỳ có 543 tử thương và 2.547 bị thương năm lần số thương vong trung bình hàng tuần trước tết (tuần lễ có số thương vong cao nhất của năm 1967 là 232 chế ; 1.381 bị thương).

Từ 6 tháng 1 đến 30 tháng 3, Hoa Kỳ có 4.778 tử thương. Chính con số tử thương này làm cho thẩm quyền Hoa Kỳ bên nhà ngạc nhiên, khi so sánh tình hình hiện tại và tình hình trong hai tường trình của Westmoreland và đại sứ Bunker trước đó hai tháng.

Tháng 11/1967, Westmoreland báo cáo với Hoa Thịnh Đốn : "quân đội Đồng Minh nắm thế thượng phong, dần dần có thêm sức mạnh để ngăn chận đối phương mở những cuộc tấn công có cấp số cao".

Với báo cáo và tin tức hoàn toàn trái ngược, ngày 28 tháng 2, Johnson ra lệnh cho tân tổng trưởng quốc phòng Clifford lập một ủy ban để duyệt xét lại tất cả kế hoạch về Việt Nam. Ông yêu cầu Clifford trong năm ngày làm việc, phải trả lời cho ông biết một số câu hỏi về tình hình Việt Nam để ông có thể quyết định. Một trong những câu hỏi quan trọng là có nên cung cấp quân theo lời yêu cầu của Westmoreland không ; và, những quyết định quân sự sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với công luận và quốc hội.

Sau năm ngày làm việc và hội họp để thâu thập ý kiến của các cố vấn dân sự, hỏi chuyện các tư lệnh quân sự, Clifford đi đến một quyết định trung dung khi trình bày cho tổng thống Johnson : gởi một số ít quân để thỏa nhu cầu chiến trường ; duyệt xét tình hình quân sự hàng tuần ; chú trọng đến tình hình chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa ; và duyệt xét lại tất cả kế hoạch quân sự và chiến lược của Hoa Kỳ đối với Việt Nam.

Trong buổi họp ngày thứ Hai, 4 tháng 3-1968, với sự có mặt của tham mưu trưởng ban tham mưu liên quân, Clifford lý luận với tổng thống và các tổng bộ trưởng quan trọng đang hiện diện : "Chúng tôi xin đề nghị trong bản báo cáo này là chỉ cung cấp đủ quân để đối phó với những cấp bách đang xảy ra ở mặt trận trong vòng ba, bốn tháng sắp đến... Chúng ta chỉ có thể giúp được như vậy".

Tiếp theo lời của Clifford, Bộ trưởng Tài Chánh Joe Flower cho tổng thống Johnson những tiên đoán về tình hình tài chánh quốc gia. Ông bộ trưởng tài chánh cho biết chính phủ phải quyết định giữa cuộc chiến Việt Nam và các chương trình xã hội kinh tế tại nội địa.

Sau khi nghe những tường trình và đề nghị của Clifford và Fowler, tham mưu trưởng liên quân Wheeler và bộ trưởng ngoại giao Rusk - hai người duy nhất đại diện cho phía quân sự và có lập trường cứng rắn với Bắc Việt - trình bày ý kiến của họ.

Đại tướng Wheeler trở nên nhân nhượng hơn với đòi hỏi của Ngũ Giác Đài và MACV : ông vẫn đề nghị cho thêm 205 ngàn quân, nhưng không cần gởi liền tất cả mà có thể trải số quân này ra trong một giai đoạn 9 tháng.

Khi đến phiên Dean Rusk, ông bộ trưởng ngoại giao cũng bắt đầu có thái độ hòa hoãn : thay gì giữ quyết định không ngưng oanh tạc miền bắc, ông đề nghị Hoa Kỳ ngưng oanh tạc vào những tháng mưa để có thể dọ xét thái độ của Hà Nội, coi họ muốn thương lượng hay không, mà Hoa Kỳ vẫn giới hạn được lưu lượng xâm nhập từ miền Bắc (mùa mưa giới hạn vận chuyển xâm nhập vào Nam rất nhiều).

Thái độ nhân nhượng của đại tướng Wheeler dễ hiểu : trong nhiều lần nói chuyện với Clifford trước buổi họp, Wheeler chưa lần nào cho Clifford một xác định rõ ràng về tình hình và tiến trình cuộc chiến.

Trong lần họp cuối cùng ngày 2 tháng 3 hai ngày trước khi đúc kết bản tường trình cho tổng thống, Clifford có một số câu hỏi và nhận được những câu trả lời như sau : Liệu 205 ngàn quân nữa có giải quyết được chiến trường không ? Không chắc chắn được.

Nếu 205 ngàn quân vẫn chưa đủ, thì cần thêm bao nhiêu nữa và khi nào thì cần ? Không cách gì tuyên đoán được.

Đối phương có thể gia tăng quân số nếu chúng ta gia tăng thêm quân ? Có thể.

Chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến bằng cách dội bom ? Dội bom gây nhiều thiệt hại về nhân mạng cho đối phương, nhưng dội bom không, thì không thể chấm dứt cuộc chiến. Nếu chúng ta gia tăng dội bom thì thương vong bên ta có thể hạ xuống không ? Rất ít, nếu nói là không thay đổi nhiều, vì phần lớn thương vong của chúng ta xảy ra trên chiến trường ở miền Nam.

Hoa Kỳ phải tiếp tục gởi quân gánh vác cuộc chiến bao lâu nữa ? Chúng tôi không biết đến khi nào thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa có thể thay thế gánh vác cuộc chiến.

Và với những câu trả lời như vậy, chúng ta có thể tạm hiểu được sự khó khăn của Clifford khi ông không muốn tăng thêm quân theo lời yêu cầu của MACV.

Với 90 phần trăm lực lượng quân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị tiêu diệt, với toàn thể cơ sở hậu cần bị khám phá và hủy hoại, Westmoreland và tư lệnh quân đội Hoa Kỳ Thái Bình Dương, đô đốc Sharp, thấy rõ đây là cơ hội cuối cùng và duy nhất để triệt tiêu sinh lực của đối phương.

Ngày 1 tháng 3, đô đốc Sharp thỉnh cầu Ngũ Giác Đài cho phép ông được dội bom tất cả các mục tiêu, trừ nhà thương, trường học, dân cư, và thuyền bè ngoại quốc.

"Không thể để cho đối phương đánh theo ý của họ, vì như vậy, trong ý nghĩa chiến lược, họ sẽ nắm lấy thế công trong khi chúng ta giữ thế thủ. Phải nhớ chúng ta đang dối diện với một đối phương rất lì", Sharp viết trong điện văn gởi về ban tham mưu liên quân.

Ngày hôm sau, 2 tháng 3, đại tướng Westmoreland xin phép được đánh qua Lào để cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh. Đồng thời ông thông báo hoạt động của cộng sản ở Thượng Lào rất nguy hiểm cho tình hình chung ở Đông Nam Á. Westmoreland đề nghị Hoa Kỳ can thiệp vào Thượng Lào qua lời yêu cầu của Thái Lan như được ghi ở các điều khoản trong hiệp ước Liên Phòng Đông Nam Á.

Ngày 4 tháng 3, đô đốc Sharp đánh thêm một điện tín về Hoa Thịnh Đốn nữa. Lần này, giọng văn trong điện tín quyết liệt hơn. "chúng ta đang đứng trước ngả tư của những quyết định : Chúng ta có thể xử dụng sức mạnh quân sự với tất cả hiệu lực chúng ta có thể cung ứng. Chúng ta có thể tiếp tục kế hoạch gia tăng áp lực từng nấc và chờ cuộc chiến kéo dài ra một cách vô hạn. Hoặc là chúng ta có thể rút quân ra khỏi Đông Nam Á như bại trận, để lại đồng minh chúng ta một mình đối diện với kẻ thù... Đến lúc chúng ta phải cứng rắn bằng lời nói và hành động - đó là phương cách duy nhất mà cộng sản hiểu được".

Nhưng, hoặc giới thẩm quyền dân sự ở Hoa Thịnh Đốn không thấy rõ kế hoạch quân sự cần phải áp dụng lập tức theo đề nghị của hai vị tư lệnh tiền phương, hoặc lời thỉnh cầu của giới quân sự bị loãng chìm trước những kêu gào phản chiến ở bộ quốc phòng. Đại tướng Wheeler biết mọi kế hoạch quân sự cần có quyết định chính trị để thi hành. Nhưng đến lúc này ông cũng nhận thấy các chính trị gia nghĩ cuộc chiến Việt Nam đã đi quá xa quyền lợi của nước Mỹ.

Sau khi mọi người trong buổi họp trình bày ý kiến của mỗi người, Johnson chấp nhận những đề nghị chính của Clifford : cho thêm liền 22 ngàn quân ; tuyên bố với Hà Nội Hoa Kỳ sẽ giới hạn oanh tạc trên vĩ tuyến 20, và ngưng oanh tạc vào mùa mưa trên miền Bắc. Những giới hạn đó tùy thuộc vào thái độ của Hà Nội ở chiến trường trong tương lai.

Như vậy, vào đầu tháng 3 năm 1968, khi Sài Gòn và những thành phố lớn ở Việt Nam vẫn còn mịt mù trong khói lửa, khi người dân Huế đang bàng hoàng bởi những cuộc thảm sát ghê rợn, và trong khi quân dân Việt Nam Cộng Hòa đang xả thân sống chết với những người cộng sản hiếu chiến, thì chính phủ Hoa Kỳ quyết định bỏ cuộc. Họ bỏ cuộc ngay thời điểm quan trọng và quyết liệt nhất đối với sự sống còn của Việt Nam Cộng Hòa.

Tối Chủ Nhật 31/03/1968, 9 giờ đêm tại tòa Bạch Ốc, tổng thống Johnson đọc một bài diễn văn làm mọi người sửng sốt ngay đối với những người thân cận soạn bài diễn văn đó.

Ông bắt đầu bài diễn văn bằng câu, "Đêm nay tôi muốn nói với quốc dân về cuộc chiến ở Việt Nam và nền hòa bình ở Đông Nam Á…".

Rồi ông thông báo ông sẽ không ra tái tranh cử lần thứ nhì, và Hoa Kỳ sẽ đơn phương ngừng dội bom ở miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở xuống, để chờ thái độ của Hà Nội về một thương lượng đình chiến.

Bài diễn văn của Johnson đêm 31 tháng 3 đưa cuộc chiến Việt Nam đến một giai đoạn hoàn toàn mới.

Nguyễn Kỳ Phong

Nguồn : BBC, 07/03/2018

Tác giả Nguyễn Kỳ Phong, định cư ở Mỹ từ 1975 và hiện sống ở Washington DC, đã viết nhiều tác phẩm về chiến tranh Việt Nam như Vũng lầy Tòa Bạch Ốc : Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam. Ông hiện đang soạn tác phẩm Những tài liệu tối mật về Chiến tranh Việt Nam.

Published in Diễn đàn

Năm Mậu Thân 1968, ở Việt Nam, một sự kiện xảy ra làm thay đổi hoàn toàn tình hình chiến tranh Việt Nam : Trận tổng công kích - tổng nổi dậy của Bắc Việt ở miền Nam vào tháng 1-1968. Một sự kiện đã thay đổi hoàn toàn ý định và đường hướng của các quốc gia liên hệ trong cuộc chiến.

vnch1

Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson và Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu dự hội nghị Mỹ - Nam Việt Nam tại Honolulu ngày 20/7/1968

Sơ lược về tình hình quân sự và chính trị của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa vào cuối năm 1967.

Phía Hoa Kỳ :

Từ ngày Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 3-1965, đến cuối năm 1967, quân lực Mỹ có hơn 485.600 quân ở trên nội địa Nam Việt Nam. Trong đó lính tác chiến của Lục Quân là 319.500, còn lại là các quân binh chủng khác.

Đến cuối năm 1967, tình hình quân sự tổng quát cho thấy quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ gây tổn thất nặng cho quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Mặc dù bên phía đồng minh cũng bị thiệt hại nặng, nhưng với hỏa lực mạnh, họ gây thiệt hại nhiều hơn cho đối phương.

Sau những trận càn quét vào mật khu và hậu cứ của Bắc Việt ở chiến trường B-2 (Tây Ninh, Bình Dương, Phước Long, Hậu Nghĩa…) với những cuộc hành quân như Atterboro, Junction City, Cedar Falls, các lực lượng Quân Đội Nhân Dân hay Quân Giải Phóng phải sơ tán về nội địa Lào và Cam Bốt.

Trong khi đó, ở B-3 Tây Nguyên (Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột), sau những trận đánh đẫm máu ở Dakto và A Shau, Ben Het, những đơn vị chủ lực Bắc Việt lần lượt rút về bên kia vùng ba biên giới.

Tuy không còn được thế thượng phong như những năm 1965-1966, Quân Đội Bắc Việt vẫn tiếp tục gây trở ngại cho các lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, nhất là ở Vùng I và Vùng II : Bắc Việt chỉ rút quân đi sau khi tiêu diệt tất cả các trại lực lượng đặc biệt (trừ trại lực lượng đặc biệt ở Khâm Đức/Bến Giằng ở Kontum) ở Vùng I của Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khi đó, ở tuyến đầu Vùng I - sát vùng Phi Quân Sự (vĩ tuyến 17) áp lực của quân đội Bắc Việt vẫn mạnh - nếu không nói là mạnh hơn : Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chạm trán với các đơn vị của Quân Đội Nhân Dân thường xuyên trong các cuộc hành quân tảo thanh phía nam sông Rào Quảng và bắc đường Số 9.

Qua những trận đụng độ thường xuyên này, giới quan sát chiến lược quân sự suy luận là quân đội Bắc Việt cố ý khiêu khích quân đội Mỹ ở Khe Sanh và phía tây Quảng Trị, gây một sự chú ý và quan tâm, hầu chuẩn bị cuộc tổng công kích Mậu Thân sắp đến.

Thực tế cho thấy sự suy luận của giới quan sát không sai lắm : Từ mùa Hè 1967, ba sư đoàn quân chính qui của Bắc Việt đè nặng áp lực vào căn cứ Khe Sanh, gây nhiều quan tâm cho cấp chỉ huy Hoa Kỳ ở mặt trận đó.

Hơn một tuần trước Tết Mậu Thân, một đơn vị cấp trung đoàn của Bắc Việt tràn ngập một tiền đồn lực lượng đặc biệt Mỹ ở Lang Vei, nằm phía tay nam Khe Sanh chừng 15km.

Giới quân sự Mỹ phải quan tâm vì quân đội Bắc Việt đã sử dụng xe tăng - lần đầu tiên - hỗ trợ quân tác chiến. Ý định kềm chân Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở tuyến đầu rõ hơn vào những tháng sau cùng của năm 1967, khi quân đội Bắc Việt gia tăng sự hiện diện cả bốn sư đoàn ở sát vùng Phi Quân Sự.

Quân báo Mỹ thấy được sự gia tăng quân số của Bắc Việt, nhưng không liên kết được sự kiện đó và sự chuẫn bị trận Mậu Thân của Miền Bắc.

Về phương diện tâm lý và tinh thần của quân đội Mỹ đến cuối năm 1967 :

Giới quân sự Mỹ tương đối thỏa mãn về những thiệt hại họ gây cho đối phương. Nhưng đồng thời họ cũng thấy được sự thiệt hại về nhân mạng quá cao ở phía họ.

Vị tư lệnh phó quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam than vãn trong một buổi họp vào cuối năm 1967, là lính Nhẩy Dù Mỹ chết quá nhiều trong các trận đánh ở Dakto, A Shau, Ben Het… và nhiều đơn vị không còn người để bổ sung.

Đến tháng 12 năm 1967, Hoa Kỳ có 16.250 tử trận. Chỉ trong năm 1967, Mỹ có 9.378 tử trận - con số cao gần gấp đôi năm 1966 (5.008).

Tuy nhiên, trong bản báo cáo cuối năm về cho Bộ quốc phòng, đại tướng Westmoreland và đô đốc Sharp tư lệnh Hoa Kỳ Thái Bình Dương, cho biết cuộc chiến đang có kết quả - với số lượng quân và hỏa lực đang có trong tay.

Nói một cách khác, họ thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm cuộc chiến.

Đại tướng Westmoreland, trong lần trở về Mỹ cuối năm 1967 để tường trình trước quốc hội về diễn tiến cuộc chiến ở Việt Nam, tuyên bố quân đội đồng minh và Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà thắng.

Khả quan hơn, là Việt Nam Cộng Hòa đang ổn định được tình hình chính trị nội bộ ; đang đôn quân để gia tăng sức mạnh quân đội. Nói chung, tất cả đều khả quan.

vnch2

Một nghĩa trang tại Huế

Và giới lãnh đạo Hoa Kỳ tin những gì Westmoreland báo cáo. Một chi tiết quan trọng trong những ngày cuối năm : cho đến cuối năm 1967, chưa ai biết được nhân vật chủ trương cuộc chiến là Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara đang đệ đơn từ chức. McNamara từ chức vì quá mệt mỏi với một cuộc chiến không đi đến đâu.

Sự bỏ cuộc của McNamara gây ra nhiều ảnh hưởng cho những những quyêt định của tổng thống Johnson vào tuần lễ kế tiếp sau khi trận Mậu Thân xảy ra.

Nội bộ Việt Nam Cộng Hòa

Khi tướng Westmoreland nói tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa đã được ổn định vào cuối năm 1967, thì ông ta quá khen về nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa.

Nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu vào ngày 31 tháng 10-1967, với liên danh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đắc cử. Sau cuộc bầu cử và sau khi xác định nhiệm vụ và vai trò trên hiến pháp, hai ông Thiệu và Kỳ cố gắng làm thân với nhau trước công chúng để cùng nhau lãnh đạo.

Trước đó chỉ hai tháng, hai ông Thiệu Kỳ tranh giành ghế tổng thống mãnh liệt đến độ các tướng lãnh trong Hội đồng quân Luật phải đứng ra can thiệp.

Tuy nhiên, sau bầu cử năm 1967,những hiềm khích cá nhân, và lòng nghi ngờ nhau vẫn tiếp tục.

Từ sự bất đồng ý kiến của hai vị lãnh đạo quân sự, chính trong giới quân sự ở cấp dưới cũng có những xung đột của các vị chỉ huy quân binh chủng. Chính trong trận Mậu Thân, một sự kiện xảy ra làm cho liên hệ giữa hai ông Thiệu và Kỳ hoàn toàn chấm dứt.

vnch3

Tướng Westmoreland tại chiến trường Nam Việt Nam

Cuối năm 1967, quân lực Việt Nam Cộng Hòa có hơn 340.000 quân chủ lực, và 300.000 lính Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Hải quân và Không Quân có được khoảng 17.000 người cho mỗi quân chủng. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được huấn luyện tốt, nhưng vũ khí trang bị thì quá lỗi thời, quá lạc hậu.

Nhiều tài liệu cho thấy chính những sĩ quan cao cấp của bộ tư lệnh quân viện (MACV) Hoa Kỳ đều phàn nàn là vũ khí của Việt Nam Cộng Hòa thua xa vũ khí hiện đại của Quân Đội Nhân Dân.

Với vũ khí hiện đại như AK-47 và B-40, quân đội Bắc Việt áp đảo tinh thần quân Việt Nam Cộng Hòa ở chiến trường -- nhận xét này đến từ tướng Westmoreland. Đến năm 1967 thì quân lực Việt Nam Cộng Hòa phục hồi lại tinh thần chiến đấu từ sau năm 1965 với những thất bại ở các trận Bình Giả, Đồng Xoài, Bồng Sơn, Ba Gia. Năm 1967, Việt Nam Cộng Hòa có 12.716 tử thương, so với năm 1966 là 11.953.

Tựu trung, tinh thần chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa rất hăng say và lớn dần trong cuộc chiến -- chỉ trừ về phương diện vũ khí chiến thuật của họ, quá lỗi thời so với đối phương.

Đại sứ Bunker, trong báo cáo một tuần trước tết, 24-1-68, gởi về cho tổng thống Johnson : "Năm 1968 chúng ta có thể khá hơn năm 1967, cũng như năm tình hình 1967 khả quan hơn năm 1966... Có thể nói [tình hình Việt Nam Cộng Hòa] từ giai đoạn bò chuyển sang giai đoạn đứng. Năm nay sẽ là giai đoạn tập đi".

Trước Tết 1968, khi được loan báo sẽ có hưu chiến để ăn tết, các bộ tư lệnh cho phép 50% quân số được đi phép ăn tết. Lúc Bắc Việt tấn công, không hơn phân nửa số quân nhân có mặt tại đơn vị.

Tình hình quân sự chính trị của Việt Nam Cộng Hòa trong năm 1967-1968

Từ đầu năm 1968, ngay trước ngày Bắc Việt tấn công vào đô thị Việt Nam Cộng Hòa, thẩm quyền ở bộ ngoại giao và quốc phòng quan tâm đến "con rùa của những phát triển" ở Việt Nam và cố gắng đốc thúc Việt Nam Cộng Hòa phải cấp bách thực hiện tất cả những kế hoạch quan trọng của họ.

Từ sau cuộc đảo chánh năm 1963 cho đến cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội của nền Đệ Nhị Cộng Hòa vào ngày 3/9/1967, tình hình nội bộ chính trị bị hết xáo trộn này đến xáo trộn khác.

Tất cả mọi kế hoạch đều cần thời gian và sự ổn định để thực hiện, nhưng trong ba năm 1964-1966, phải thành thật phán đoán, Việt Nam Cộng Hòa không có một giai đoạn nào được gọi là yên tịnh, ổn định về phương diện chính trị.

Từ đầu năm 1967, nhiều hình ảnh khả quan về quân sự và chính trị dần dần xảy đến trong năm : Việt Nam Cộng Hòa có được một hiến pháp mới ; bầu cử ở cấp xã, ấp thành công như dự định với 77 phần trăm người dân hưởng ứng ; giới hội đồng tướng lãnh thỏa thuận với nhau về hai người đại diện cho họ để ra ứng cử ; và hơn hết, người dân đã bắt đầu có lòng tin với chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa. Đầu năm 1967 chính phủ chỉ kiểm soát được 62 phần trăm dân chúng nông thôn ; cuối năm số đó tăng lên 67 phần trăm.

Năm 1966 có hơn 16 ngàn cán binh cộng sản ra hồi chánh, con số đó tăng lên gần 27 ngàn cho năm 1967. Với những khả quan đó, người Mỹ chỉ mong sau cuộc bầu cử là họ sẽ đề nghị một số kế hoạch cần phải cấp bách hóa để Việt Nam Cộng Hòa có ít nhiều phương tiện để tự lực cánh sinh trong tương lai tới.

Năm 1967 quân lực Việt Nam Cộng Hòa có tất cả 343 ngàn người ở các đơn vị chủ lực và khoảng 300 ngàn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Ba trăm bốn mươi ngàn quân chủ lực gồm một sư đoàn Nhảy Dù ; hai chiến đoàn Thủy quân lục chiến, Hải Quân, Không Quân, 10 sư đoàn Bộ Binh, và một số đơn vị khác.

Sau khi sắc luật động viên từng phần được ban hành, MACV và bộ tổng tham mưu Việt Nam Cộng Hòa dự định gia tăng quân số lên 685 ngàn giữa năm 1968 ; rồi 777 ngàn 12 hai tháng sau.

Nhưng sau khi trận Mậu Thân xảy ra, MACV và Việt Nam Cộng Hòa đồng ý phải cấp bách hóa vấn đề động viên để bổ sung vào những thương vong đang xảy ra tại chiến trường.

Năm 1968 quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã trả một giá cao để đẩy lui cuộc tấn công bất thần của Bắc Việt : gần 28 ngàn tử thương và 70 ngàn bị thương so với trung bình chỉ hơn 12 ngàn tử thương và 21 ngàn bị thương cho hai năm 1966 và 1967.

Hoa Thịnh Đốn, sau buổi họp quan trọng ngày 4 tháng 3 của các thẩm quyền tối cao tại tòa Bạch Ốc, ra lệnh cho mọi cơ quan liên hệ đến Việt Nam phải đốc thúc Việt Nam Cộng Hòa thực hiện nhanh chóng tiến trình đảm nhận cuộc chiến hay ít ra thay thế số thương vong của quân đội Hoa Kỳ.

vnch4

18/4/1968 : Thủy quân lục chiến Mỹ ở Khe Sanh

Mùa xuân năm 1968, với tình hình chiến sự nguy ngập bùng nổ trên bốn vùng chiến thuật, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra một số biện pháp gọi tái ngũ tất cả các cựu quân nhân cho đến hạng tuổi 33, với dưới 5 năm quân vụ. Ngày 19 tháng 6 quốc hội đưa ra bộ luật về quân dịch, hạ tuổi quân dịch từ 20 xuống 18. Song song với chuyện hạ tuổi quân dịch, Việt Nam Cộng Hòa khởi họa chương trình Nhân Dân Tự Vệ cho tất cả nam công dân tuổi từ 16 đến 50.

Đầu tháng 3-1968 MACV hoàn tất kế hoạch hai năm cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa : 800 ngàn quân vào năm 1970 (phân nửa là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân), với lối cấu trúc tương tự như quân đội Hoa Kỳ một lối cấu trúc mà sau này mọi người mới biết đó là một gánh nặng cho Việt Nam Cộng Hòa khi Hoa Kỳ cắt đi nhiều phương tiện. Kế hoạch hiện đại hóa quân đội và gia tăng quân số được tham mưu trưởng liên quân Wheeler và bộ trưởng quốc phòng Clifford chấp nhận ngay.

Như vậy, chỉ đến cuối năm 1968, Việt Nam Cộng Hòa có quân số mà họ dự định đến năm 1970 mới có. Đến năm 1968 Việt Nam Cộng Hòa mới tổng động viên để dồn nỗ lực vào việc chống cộng thì hơi trễ vì Bắc Việt đã động viên nhân lực, vũ khí và tài chánh trong kế hoạch đánh chiếm miền Nam từ mấy năm trước.

Đến cuối tháng 6/1968, tình hình trên chiến trường được coi là yên tĩnh trở lại, cuộc tấn công của cộng sản bị bẻ gãy hoàn toàn. Nhưng một biến cố xảy ra vào những ngày cuối cùng của trận Mậu Thân làm cho sự phân chia và hiểu lầm trong giới tướng lãnh lại trở nên trầm trọng.

Chiều ngày 2 tháng 6/1968, trong cuộc tổng công kích đợt 2 của cộng quân vào Sài Gòn, một trực thăng võ trang trong lúc yểm trợ, bắn lầm vào bộ tư lệnh dã chiến đang quan sát chiến trường ở Chợ Lớn, làm sáu sĩ quan cao cấp chết, và hai bị thương.

Tin đồn loan truyền ra đây là một vụ mưu sát đến từ tổng thống Thiệu hay người Mỹ, vì tất cả các nạn nhân là người thân cận của phó tổng thống Kỳ.

Sự nghi ngờ tăng thêm, khi ngày hôm sau, trung tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh Thủy quân lục chiến, kiêm tư lệnh Quân Đoàn III, kiêm tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, từ chức như là một phản đối.

Những ngày sau đó, từ tháng 6 đến tháng 10, nhiều tin tức về đảo chánh sẽ xảy ra, và một lần nữa tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa đem lại nhiều quan tâm cho người bạn Hoa Kỳ.

Năm 1968, với 27.915 tử thương và 70.968 bị thương, bằng một giá thật đắt quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã thật sự trưởng thành trong khói lửa. Cuộc chiến chống cộng bây giờ nằm trên vai của người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyễn Kỳ Phong

Nguồn : BBC, 28/02/2018

Định cư ở Mỹ từ 1975 và hiện sống ở Washington DC, tác giả đã viết nhiều tác phẩm về chiến tranh Việt Nam như Vũng lầy Tòa Bạch Ốc : Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam. Ông hiện đang soạn tác phẩm Những tài liệu tối mật về Chiến tranh Việt Nam.

Published in Diễn đàn