Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

ASEAN vẫn chưa thể tìm được tiếng nói chung về Trung Quốc bất chấp những căng thẳng đang gia tăng

Mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là phải độc chiếm Biển Đông như một phần mở rộng ảnh hưởng của họ thông qua sự kết hợp các chiến thuật bao gồm chính sách kinh tế để thống trị và chia cắt khu vực, triển khai khí tài hải quân, xây dựng đảo nhân tạo, quân sự hóa và phá hoại mong muốn của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong việc đạt được một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất và có hiệu lực.

asean1

Tổng thống Indonesia Joko Widodo (giữa) phát biểu tại lễ bế mạc Thượng đỉnh ASEAN tại Jakarta hôm 7/9/2023 - AFP

Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo và sau đó sáp nhập các đảo này vào cái gọi là "Khu Nam Sa" (trực thuộc cái gọi là thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam) là một chiến thuật vi phạm pháp luật cho phép Bắc Kinh tuyên bố rằng họ có quyền kiểm soát hành chính đối với các cấu trúc này. Điều này cho phép Trung Quốc sử dụng các tàu hải cảnh của họ để thực thi chính sách "quản lý" nội bộ tại các đảo đó.

Điều này sẽ đặt ra thách thức đối với các quốc gia ASEAN liên quan đến tranh chấp Biển Đông là họ không có tàu tuần duyên có đủ khả năng cạnh tranh với Trung Quốc cũng như không có luật pháp trong nước cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển của họ sử dụng vũ lực để bảo đảm yêu sách. Sự bất cân xứng này đồng nghĩa với việc các bên tranh chấp khác sẽ buộc phải sử dụng lực lượng quân sự để chống lại hành động hung hăng của Trung Quốc, điều này sẽ được coi là một sự leo thang, khiến Hải quân Trung Quốc phải can thiệp.

Lâu nay vẫn bị coi là một diễn đàn kém hiệu quả, Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần này được chú ý nhiều hơn sau khi Trung Quốc ngày càng gia tăng sự quyết đoán ở Biển Đông, động thái mà theo các nhà quan sát buộc ASEAN phải lên tiếng phản đối nếu không sẽ có nguy cơ bị bắt nạt hơn.

Ngày 5/8/2023, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã chặn và phun vòi rồng vào các tàu Philippines đang thực hiện nhiệm vụ tiếp tế cho quân đội được triển khai trên tàu BRP Sierra Madre ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp (1). Sau đó, ngày 28/8, Trung Quốc đã công bối một bản đồ thể hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông của họ. Brunei, Philippines, Malaysia, Việt Nam và Indonesia đã bác bỏ bản đồ do Trung Quốc công bố trong đó thể hiện yêu sách chủ quyền của nước này đối với 90% diện tích Biển Đông là vô căn cứ (2).

Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các hội nghị liên quan lần thứ 43 đã kết thúc tại Jakarta ngày 7/9. Trong bối cảnh môi trường địa chính trị ở Đông Nam Á và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương suy thoái với sự phân cực quyền lực ngày càng tăng, sự tham gia của các quan chức hàng đầu từ Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ, đã giúp hội nghị được đánh giá là thành công tốt đẹp.

Tuy nhiên, Indonesia và các nước thành viên ASEAN dường như đã tránh đối đầu trực diện với Trung Quốc về yêu sách bành trướng ở Biển Đông, do đó họ chọn cách bỏ qua những tranh chấp này tại hội nghị thượng đỉnh khu vực. Tổng thống Philippines Ferdinand "Bongbong" Marcos Jr. trước đó đã nói với giới truyền thông rằng ông sẽ đề cập tấm bản đồ gây tranh cãi mà Trung Quốc tuyên bố gần đây tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN (3), song một nhà ngoại giao ASEAN tham dự các cuộc họp nói với báo chí rằng "không có quốc gia nào thực sự nêu vấn đề cụ thể" (4).

ASEAN vẫn bị chia rẽ về cách ứng phó với yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở vùng biển tranh chấp này. Trong số các quốc gia thành viên ASEAN, Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei là những bên tranh chấp chính thức với Trung Quốc. Họ đã thất bại trong việc đưa sáu thành viên còn lại - Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar, Singapore và Thái Lan - vào cuộc để cùng nhau giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông một cách quyết đoán và tập thể trong một tuyên bố chung khi hội nghị thượng đỉnh kết thúc hôm 7/9. Myanmar đã không được mời tham dự hội nghị thượng đỉnh kể từ khi quân đội nước này lên nắm quyền vào tháng 2/2021.

222222222222222222222222

Tàu hải cảnh Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu tuần duyên Philippines gần Bãi Cỏ Mây hôm 5/8/2023. AFP

Chiến thuật chia rẽ ASEAN của Trung Quốc

Bên cạnh những thách thức từ môi trường bên ngoài đối với vai trò trung tâm, ASEAN còn bị thử thách bởi chính những vấn đề nội tại, trong khi lợi ích của các thành viên nhiều khi mâu thuẫn.

Bắc Kinh đang dùng chiến thuật duy trì quan hệ chặt chẽ với các quốc gia ASEAN không có tranh chấp như Campuchia, để họ có thể tránh được COC và thể hiện sức mạnh cường quốc trong khu vực. Bắc Kinh muốn phá vỡ sự thống nhất của ASEAN thông qua can dự kinh tế để không phải sử dụng sức mạnh quân sự nhằm thực thi ý chí của họ.

Campuchia và Lào dễ bị tổn thương trước ảnh hưởng của Trung Quốc và có thể phá vỡ sự đoàn kết trong ASEAN. Các quốc gia ASEAN có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi chiến thuật vùng xám của Trung Quốc là Việt Nam và Philippines. Cộng đồng quốc tế đã chứng kiến nhiều cuộc tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam và hàng loạt chiến thuật chống Philippines như tấn công bằng vòi rồng và chiến thuật bao vây tàu thương mại. Hà Nội và Manila có thể làm được rất ít nếu Bắc Kinh quyết định leo thang căng thẳng.

Mở rộng hợp tác quốc tế để chống lại Trung Quốc

Chỉ với sức mạnh tập thể, ASEAN và từng quốc gia Đông Nam Á mới có thể tìm ra cách đàm phán với Trung Quốc để đạt được kết quả tối ưu trong COC

Nỗi lo ngại lớn nhất đối với cộng đồng quốc tế liên quan vấn đề Biển Đông là các tuyến đường biển vận chuyển hàng hóa trị giá 5.500 tỷ USD qua Biển Đông sẽ bị gián đoạn. Đây là một mối đe dọa hiện hữu, đòi hỏi sự quản lý quốc tế liên tục và một liên minh mạnh mẽ để truyền thông điệp tới Bắc Kinh rằng hành vi quyết đoán của họ đang gây bất ổn. Các sáng kiến như Nhận thức về lĩnh vực hàng hải Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một ví dụ điển hình về việc các quốc gia cùng hợp tác để mang lại sự ổn định trong khu vực.

Các quốc gia thành viên ASEAN nên lôi kéo các cường quốc ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ và có lẽ cả Liên minh Châu Âu (EU) để xây dựng năng lực toàn diện nhằm chống lại các mánh khóe chiến thuật của Trung Quốc nhằm thống trị Biển Đông. Điều này có thể bao gồm xây dựng năng lực, cung cấp các tàu tuần duyên và các công cụ nâng cao nhận thức về lĩnh vực hàng hải, tuần tra thường xuyên hơn trong khu vực và huấn luyện để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh pháp lý về các ý tưởng trên Biển Đông.

Có nhiều cách để tăng cường hợp tác nội khối, quyền tự chủ chiến lược của ASEAN và cuối cùng là khả năng chống lại những mưu đồ của Bắc Kinh nhằm hiện thực hóa dã tâm của họ. Nhật Bản tiếp tục ưu tiên hỗ trợ tăng cường cơ sở hạ tầng và kết nối, hợp tác ngoại giao cũng như triển khai ODA và FDI để thúc đẩy hội nhập nội khối và tự chủ chiến lược sâu sắc hơn trong ASEAN. Tokyo cũng hợp tác song phương với các quốc gia Đông Nam Á để giúp nâng cao năng lực của họ.

Các cuộc tập trận của nhóm Bộ tứ hoặc tập trận hải quân RIMPAC nên được tiến hành thường xuyên ở Biển Đông. Các quốc gia Đông Nam Á nên được mời tham gia các cuộc tập trận nhằm nâng cao năng lực và kinh nghiệm đối phó trong các hoạt động an ninh trong khu vực. EU và các liên minh mới như Hàn-Nhật-Mỹ hay Mỹ-Philippines-Nhật-Australia tạo cơ hội mang lại lợi ích chung cho khu vực thông qua các cuộc họp ngoại giao, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai (HADR), hoạt động tìm kiếm cứu nạn và các hoạt động khác trong khu vực.

Với những hạn chế thể chế hiện nay, con đường ngắn hạn và trung hạn thực tế nhất để các thành viên ASEAN chia sẻ mối quan ngại và lợi ích an ninh hàng hải nằm ở việc tăng cường các hình thức tiểu đa phương. Những dàn xếp này gần đây nhận được nhiều động lực và kết quả tích cực, chẳng hạn như cuộc tuần tra ba bên Philippines-Indonesia-Malaysia.

Các quốc gia khác như Canada, Anh, Pháp có thể tăng cường chương trình đào tạo về pháp lý cho các nước Đông Nam Á để nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề ở Biển Đông thông qua các tổ chức quốc tế.

Cần phải có nỗ lực tập thể để nâng cao năng lực của từng quốc gia Đông Nam Á nói riêng cũng như trong ASEAN nói chung nhằm đảm bảo rằng các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông không leo thang thành xung đột hoặc được giải quyết thông qua phương pháp hoà bình trong các vấn đề quốc tế.

Vương Hoàng Tuyên

Nguồn : RFA, 20/09/2023

Tham khảo :

(1) https://edition.cnn.com/2023/08/06/asia/philippines-chinese-vessels-south-china-sea-intl-hnk/index.html

(2) https://apnews.com/article/china-map-territorial-dispute-south-sea-702c45165d7f9cade796700fffa5691e

(3) https://news.abs-cbn.com/news/09/06/23/marcos-seeks-asean-support-vs-hegemonic-ambitions-in-south-china-sea

(4) https://www.thejakartapost.com/world/2023/09/07/chinese-premier-stresses-solidarity-with-asean-amid-map-controversy.html

Published in Diễn đàn

Biển Đông : Trung Quốc và ASEAN thảo luận về Bộ Quy tắc về ứng xử vào tuần tới

RFA, 04/03/2023

ASEAN và Trung Quốc sẽ nối lại các vòng thảo luận về Bộ quy tắc về ứng xử ở Biển Đông (COC) vào tuần tới, theo thông báo hôm 4/3 của Bộ Ngoại giao Indonesia (DFA).

biendong1

Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi và Ngoại trưởng Trung Quốc Tần Cương tại họp báo ở Jakarta hôm 22/2/2023 - AFP

DFA thông báo tin này sau khi Ngoại trưởng nước chủ tịch luân phiên của ASEAN là Retno Marsudi có cuộc gặp với người đồng cấp Trung Quốc là Tần Cương hồi tuần trước.

Theo thông báo của DFA, cuộc thảo luận giữa hai bên sẽ diễn ra vào từ ngày 8 đến 9 tháng 3 tại Ban thư ký ASEAN và nhân cuộc họp lần thứ 38 của Nhóm làm việc chung.

Cuộc gặp cuối cùng giữa ASEAN và Trung Quốc về COC diễn ra tại Campuchia hồi tháng 10 năm ngoái.

"Cuộc gặp sẽ tiếp tục đàm phán và xem xét các câu chữ đang được đàm phán trong COC" - Teresita Daza, người phát ngôn của DFA cho báo chí biết.

ASEAN và Trung Quốc đã đàm phán COC từ khoảng 10 năm qua kể từ sau khi hai bên đạt được Tuyên bố chung về ứng xử tại Biển Đông ở Phnom Penh, Campuchia hồi năm 2002. 

Trung Quốc hiện là nước đòi chủ quyền phần lớn diện tích Biển Đông. Các nước khác cũng có những đòi hỏi chủ quyền tại vùng biển này gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, và Đài Loan.

Tình hình Biển Đông trong những tháng gần đây đã trở nên căng thẳng khi Philippines lên tiếng tố cáo Trung Quốc liên tục đe dọa chủ quyền của nước này ở vùng biển tranh chấp. Báo chí Việt Nam đưa tin, các tàu cá của ngư dân Việt Nam đi đánh bắt cá ở khu vực quần đảo Hoàng Sa thời gian qua thường xuyên bị tàu Trung Quốc đe doạ, cướp phá, thậm chí bắt nộp tiền chuộc. 

************************

Philippines phát hiện nhiều tàu Trung Quốc quanh đảo Thị Tứ

RFA, 04/03/2023

Philippines cho biết phát hiện một tàu Hải quân và hằng chục tàu dân quân biển Trung Quốc quanh đảo Thị Tứ thuộc Trường Sa.

biendong2

Đảo Thị Tứ - Reuters

Reuters loan tin ngày 4/3 dẫn thông báo của Tuần duyên Philippines như vừa nêu. Lực lượng bảo vệ biển này của Manila nói rõ số tàu dân quân biển của Trung Quốc lên đến hơn 40 chiếc. Còn chiếc tàu Hải quân Trung Quốc di chuyển chậm quanh đảo.

Thông cáo của Tuần duyên Philippiines cho rằng sự hiện diện phi pháp tiếp diễn của Trung Quốc quanh đảo Thị Tứ rõ ràng vi phạm trắng trợn vùng biển của Philippines cũng như không nhất quán về quyền qua lại vô hại.

Đại sứ quán Trung Quốc tại Manila chưa phản hồi gì về yêu cầu bình luận của Reuters đối với thông tin vừa nêu.

Đảo Thị Tứ hiện do Philippines trấn giữ và gọi tên là Pag-asa. Đảo này cách tỉnh Palawan chừng 480 km về phía Tây và có khoảng 400 nhân khẩu trên đó. Số này gồm quân nhân và lực lượng chấp pháp bảo vệ chủ quyền biển của Philippines.

Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trong đường đứt khúc chín đoạn mà Bắc Kinh tự vạch ra tại Biển Đông. Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế ở La Haye vào năm 2016 ra phán quyết tuyên rõ đường này không có giá trị cả về mặt pháp lý và mặt lịch sử ; tuy nhiên Trung Quốc không tuân thủ phán quyết của Tòa.

Ngoài Trung Quốc và Đài Loan, còn bốn nước khác trong khu vực có tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở Biển Đông. Đó là Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam.

***********************

Philippines nói phát hin tàu hi quân Trung Quc gn đo tranh chp

Reuters, VOA, 04/03/2023

Philippines ngày th By cho biết h đã phát hin mt tàu hi quân Trung Quc và hàng chc tàu dân quân xung quanh mt hòn đo do Philippines kim soát Bin Đông, gia lúc căng thng vì tranh chp ch quyn lãnh th gia tăng trong khu vc.

biendong3

Đo Th T thuc qun đo Trường Sa nm dưới s qun lý ca Philippines.

Lc lượng Tun duyên Philippines nói 42 tàu được cho là ca lc lượng dân quân bin Trung Quc đã được nhìn thy khu vc lân cn đo Th T, trong khi mt tàu hi quân và tàu cnh sát bin Trung Quc được quan sát thy "lng vng chm chp" vùng bin xung quanh.

Đi s quán Trung Quc ti Manila không tr li ngay lp tc yêu cu bình lun v phát biu này.

Đo Th T thuc qun đo Trường Sa là tin đn ln nht và quan trng nht v mt chiến lược ca Manila Bin Đông, vùng bin mà Bc Kinh tuyên b ch quyn, nơi mt s quc gia có tuyên b ch quyn chng chéo nhau.

Tng thng Ferdinand Marcos Jr hai tun trước cho biết Philippines "s không đ mt mt tc đt" lãnh th nào khi các nước Đông Nam Á phn đi "các hot đng hung hăng" ca Trung Quc trên bin.

Vi tên đa phương là Pag-asa, Th T nm cách khong 480 km v phía tây tnh Palawan ca Philippines. Là nơi sinh sng ca hơn 400 người, bao gm c nhân viên quân s và chp pháp, hòn đo này được Manila s dng đ duy trì yêu sách ch quyn lãnh th ca mình.

Các chuyên gia nói rng các đi tàu đánh cá và lc lượng hi cnh ca Trung Quc là trng tâm trong tham vng chiến lược ca nước này Bin Đông, duy trì s hin din mà thường xuyên gây phc tp cho các hot đng đánh cá và năng lượng ngoài khơi ca các quc gia ven bin khác.

"S hin din trái phép liên tc ca h rõ ràng là không phù hp vi quyn đi li bình thường và vi phm trng trn s toàn vn lãnh th ca Philippines," lc lượng tun duyên cho biết trong mt phát biu.

Ông Marcos tháng trước đã triu tp đi s Trung Quc đ phàn nàn v cường đ và tn sut ca các hành đng ca Trung Quc Bin Đông.

Philippines đã đ trình 77 công hàm phn đi các hot đng ca Trung Quc trên bin, trong đó nói rng mt tàu hi cnh Trung Quc vào ngày 6 tháng 2 đã chiếu "tia laser cp đ quân s" vào mt tàu tun duyên Philippines đang thc hin nhim v tiếp tế.

Trung Quc tuyên b ch quyn đi vi qun đo Trường Sa, trong khi Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Vit Nam đu có tuyên b ch quyn đi vi mt s hoc tt c các đo.

(Reuters)

Published in Châu Á

Làm thế nào để bảo vệ chủ quyền lãnh hải và tài nguyên khi kinh tế và thương mại khu vực này đã hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc ? Khả năng can thiệp của Hải quân Châu Á bị thu hẹp trước sức mạnh quân sự quá lớn và tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. Bài toán thêm nan giải đối với các nước bao quanh Biển Đông. Đó là câu hỏi chuyên gia Pháp, Roland Doise trên tạp chí về an ninh quốc phòng, DSI số tháng 11-12/2022.

asean1

Tàu sân bay Sơn Đông (Shandong) của Trung Quốc (ảnh chụp lúc công việc đóng tàu chưa hoàn tất). Châu Á trước sức mạnh của Hải quân Trung Quốc. Wikimedia

RFI Việt ngữ xin giới thiệu bài viết mang tựa đề Các lực lượng Hải quân Châu Á trước sức mạnh Trung Quốc : giới hạn và viễn cảnh, đăng trên báo chuyên về an ninh và quốc phòng DSI (Défense & Sécurité Internationale).

Ngay trong phần mở đầu, chuyên gia Roland Doise nêu bật khó khăn của Hải quân Châu Á, bao gồm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc đến các quốc gia Đông Nam Á. Tất cả những nước trong vùng không thể sánh được với sức mạnh và phương tiện của Trung Quốc cho nên các bên cố gắng hết sức "kềm chế" tránh để bị đẩy vào thế phải đối đầu.

Hơn nữa Bắc Kinh khai thác các "vùng xám" để uy hiếp đối phương, bất luận lớn hay bé, bằng cách huy động từ các lực lượng bán quân sự hay đội ngũ dân quân và cả những tàu cá để "thực hiện tham vọng về chủ quyền mà vẫn tránh dẫn tới xung đột". Bảo vệ chủ quyền lãnh hải lại càng khó khăn hơn. Các quốc gia trong khu vực, từ Philippines đến Indonesia hay Nhật, Úc đều "tăng cường khả năng phòng thủ" cho các lực lượng tuần duyên, cho Hải quân nhưng vẫn chưa đủ. Các bên bắt buộc phải "hợp tác" nhưng ngay cả giải pháp này cũng vấp phải hai trở ngại lớn : một là tính khả thi và hai là quyết tâm về chính trị của các bên liên quan.

Hợp lực trước cỗ máy đồ sộ Trung Quốc

Trước hết Roland Doise điểm lại các chương trình hợp tác giữa các lực lượng hải quân trong khu vực. Chuyên gia Pháp lưu ý, trên tuyến đầu đương nhiền là những quốc gia chung quanh Biển Đông và Hoa Đông. Số này cần hợp lực vì bốn mục tiêu : ngăn cản Trung Quốc lấn chiếm các vùng đặc quyền kinh tế, duy trì quyền tự do lưu thông trên biển, bảo vệ tài nguyên quốc gia và an ninh trước nguy cơ khủng bố cũng như các đường dây buôn lậu thuốc phiện hải tặc Trên cơ sở đó các bên đã có một loạt những thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương.

Tháng 8/2022 vào lúc công luận quốc tế tập trung vào mối căng thẳng tại eo biển Đài Loan, thì đó là thời điểm Hải quân Việt Nam và Indonesia tổ chức một chiến dịch thao diễn chung CODEX 22B-1. Cùng thời điểm này, Indonesia đã có hoạt động tương tự với nước láng giềng Malaysia. Vẫn trong tháng 8/2022 lãnh đạo Hải quân ASEAN đã họp lại tại Bali vào lúc 26 nước thuộc vành đai Thái Bình Dương RIMPAC tiến hành cuộc tập trận trên biển quy mô nhất trên thế giới.

Xa hơn về quá khứ, từ 2004 nhiều nước Châu Á hợp tác chống hải tặc tại eo biển Malacca. Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines hợp lực chống khủng bố Đó là chưa kể tới các chương trình hợp tác đa phương trong khuôn khổ Bộ Tứ QUAD (Mỹ - Úc - Nhật Bản - Ấn Độ) để bảo đảm an ninh trong vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương mà các đợt tập trận trong khuôn khổ chương trình Malabar luôn được chú ý đến nhiều hơn cả.

"Châu chấu đá voi"

Nhưng chính sách "hợp tác" đó của toàn Châu Á để làm đối trọng với Trung Quốc đã gặp nhiều giới hạn. Hạn chế thứ nhất là Hải quân Trung Quốc là một "ông khổng lồ" vào lúc mà Bắc Kinh khẳng định chủ quyền với hơn 80% diện tích Biển Đông. Thế nhưng Trung Quốc lại là đối tác thương mại quan trọng nhất của tất cả các bên liên quan.

Theo chuyên gia về quốc phòng và an ninh Roland Doise, trong thời gian phải đối mặt với khủng hoảng y tế - Covid - ngân sách quốc phòng của các nước Đông Nam Á tuy không giảm sụt nhưng đã không tăng lên tương tự như trong giai đoạn từ 2008-2020. Trong khi đó Bắc Kinh tiếp tục tăng ngân sách quan sự. Nói cách khác, Đông Nam Á không thu hẹp được khoảng cách với Trung Quốc. Tác giả đơn cử trường hợp cụ thể của Việt Nam chẳng hạn : 2009 Hà Nội đặt mua 6 tàu ngầm Kilo của Nga và chỉ một khoản chi tiêu này, theo ông Roland Doise chiếm hết "phân nửa" ngân sách quốc phòng của Việt Nam năm ấy.

Giới hạn thứ nhì trong các chương trình hợp tác Hải quân giữa các nước Châu Á để làm đối trọng với Trung Quốc là "ý chí chính trị" .

Chỉ riêng điểm này tác giả bài báo trên tạp chí về an ninh quốc phòng DSI nêu bật một số nét như sau : Thứ nhất một mặt các bên đều quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, khu đặc quyền kinh tế, nhưng quốc gia nào thì cũng "sợ" Trung Quốc và cố gắng "giữ thế cân bằng" tránh để làm phương hại đến những lợi ích kinh tế và thương mại.

Hơn nữa ASEAN chẳng hạn chỉ là một "không gian đối thoại" chứ không hẳn là một liên minh quân sự như NATO hay khối Liên Hiệp Châu Âu, do vậy trong trường hợp phải đương đầu với Bắc Kinh thì quốc gia nào cũng ý thức được rằng họ sẽ "đơn thương độc mã". Ở góc đài bên kia, Trung Quốc không bỏ lỡ cơ hội để khai thác kẽ hở đó sao cho có lợi nhất cho mình.

Yếu tố thứ nhì giải thích giới hạn chính trị trong hợp tác quân sự giữa các nước Châu Á là ngay cả các "đồng minh thân thiết nhất của Mỹ trong khu vực" như Hàn Quốc hay Thái Lan, Philippines chẳng hạn, ai cũng hiểu rằng, Mỹ thì xa, Trung Quốc thì gần. Seoul chẳng hạn tăng cường khả năng can thiệp và trang bị những phưng tiện hiện đại nhất cho Hải quân để có đương đầu với Hải quân Trung Quốc nếu cần, nhưng Hàn Quốc lại không dám công khai nói lên điều đó. Còn trong trường hợp của Bangkok, tuy có quy chế "Đồng minh lớn ngoài khối NATO" của Hoa Kỳ nhưng Thái Lan vẫn trang bị tàu ngầm, tàu đổ bộ của Trung Quốc. Indonesia, Malaysia cũng đã từng hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực quân sự và hợp tác với các tập đoàn sản xuất vũ khí Trung Quốc.

Vẫn theo Roland Doise, yếu tố thứ ba khiến mặt trận chung đối phó với Trung Quốc lỏng lẻo nằm ở chỗ một số thành viên trong khu vực không hoàn toàn thoải mái với các liên minh quân sự đa phương như QUAD hay AUKUS Tác giả nêu ra trường hợp cụ thể của Indonesia hay Malaysia. Lý do là các nước Đông Nam Á không muốn phải chọn đứng về phía Mỹ hay Trung Quốc.

Sau cùng, chuyên gia Pháp lưu ý rằng, chỉ riêng khái niệm về "tự do lưu thông trên trên biển", đừng quên rằng các nước Đông Nam Á không nhất thiết chia sẻ tầm nhìn của Mỹ. Không ít trong số này có "tầm nhìn về quyền tự do lưu thông của các tàu quân sự nước ngoài hạn hẹp không thua gì của Trung Quốc khi những chiếc tàu đó đi qua khu đặc quyền kinh tế" của các bên liên quan.

Để kết luận Roland Doise trong bài viết trên tạp chí chuyên đề DSI cho rằng, trước sức mạnh của Hải quân Trung Quốc, các nước trong vùng chia ra thành hai nhóm : một số dám nhìn nhận bất đồng với Bắc Kinh. Đó là những nước đồng minh của Mỹ và có một lực lượng phòng thủ khá tốt, như trường hợp của Úc, hay Nhật Bản, và trong một chừng mực nào đó là Philippines và Hàn Quốc. Số còn lại chủ trương "tránh voi chẳng xấu mặt nào" và do vậy tìm mọi cách tránh phải đương đầu với một ông khổng lồ quá lớn và "chỉ đẩy mạnh các hoạt động cộng tác về quân sự khi thực sự cần thiết".

Thanh Hà

Nguồn : RFI, 09/12/2022

Published in Châu Á

Từ 31/3 đến 3/4, Ngoại trưởng các nước Indonesia, Thái Lan, Philippines và Myanmar đã tới thăm Trung Quốc. So với danh sách "sang chầu" năm ngoái, năm nay, Philippines thay thế chỗ của Singapore. Còn Việt Nam, cả hai lần đều không được "triệu kiến". Tại sao như vậy ?

ngoaigiao1

Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tiếp Ngoại trưởng Myanamar - U Wunna Maung Lwin (trái) và Ngoại trưởng Indonesia - Retno Marsudi hôm 31/3 và 1/4/2022 ở tỉnh An Huy, Trung Quốc - Bộ Ngoại giao Trung Quốc

Bổn cũ soạn lại : Chia để trị

Không phải ngẫu nhiên, thông cáo của Bộ Ngoại giao Bắc Kinh về lời mời đối với bốn Ngoại trưởng ASEAN năm nay lại được đưa ra đúng vào dịp 28/3. Đó là ngày Mỹ từng lên kế hoạch tổ chức Hội nghị Cấp cao trực tiếp giữa các lãnh đạo ASEAN với Tổng thống Joe Biden tại Washington. Nhưng Hội nghị này bị Campuchia làm cho đình hoãn (1). Thông điệp hiển nhiên Bắc Kinh muốn trưng ra với thế giới là, các nước ASEAN muốn nói chuyện với Trung Quốc hơn là bay sang tận Washington để gặp gỡ Tổng thống Hoa Kỳ. Xung quanh ngày 28/3 năm nay có hai sự kiện ảnh hưởng trực tiếp tới những ngày "triều kiến" vừa rồi. Đấy là thời điểm Thủ tướng Lý Hiển Long đang có chuyến công du tám ngày tới Mỹ và hội đàm với Tổng thống Biden. Đồng thời 28/3 cũng là ngày Mỹ và đồng minh bắt đầu cuộc tập trận quân sự định kỳ trên đảo Luzon (Philippines), được coi là cuộc tập trận lớn nhất từ năm 1991.

Về Singapore, có thể chính sách đối ngoại của quốc đảo này năm nay đã đi lệch quỹ đạo Trung Quốc mong muốn. Việc Singapore lựa chọn các nguyên tắc trong chính trị quốc tế, chứ không chọn bên trong vấn đề Nga – Ukraine, đã khiến Trung Quốc không hài lòng. Singapre lại còn tham gia trừng phạt Nga. Tại Mỹ, ông Lý Hiển Long còn nhấn mạnh, Singapore không phải là kẻ thù của Nga, nhưng nước này không thể tán thành hoặc dung túng cho việc Nga xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác. Ông Lý cũng tuyên bố trước các nhà báo rằng Singapore chưa bao giờ là "cái loa" của Bắc Kinh cả (2). Rõ ràng, chính sách đối ngoại mới của Singapre đối với Nga và Trung Quốc về Ukraine đã khiến Singapore mất điểm trong con mắt Bắc Kinh.

Giới quan sát cũng quan tâm sâu sát hơn về các động cơ tại sao bốn nước ASEAN nói trên được "triệu kiến" lần này : Indonesia đang là chủ tịch G20. Bắc Kinh cần thuyết phục Jakarta không tẩy chay Putin dịp Thượng đỉnh năm nay. Thái Lan là chủ tịch Hội nghị APEC kỳ này. Dù là đồng minh của Mỹ nhưng thời gian qua Thái Lan cũng bị Mỹ gạt sang một bên lề ở mức độ nhất định, nên Trung Quốc rất muốn đào sâu thêm mâu thuẫn giữa hai nước. Philippines năm nay có bầu cử, việc Manila được "triệu kiến" là một thông điệp kép cho cả chính phủ ra đi và cho chính quyền sắp tới, về tầm quan trọng trong bang giao với TQuận Còn đối với Myanmar, rõ ràng Trung Quốc muốn giúp giải toả sức ép quốc tế cho tập đoàn quân phiệt ở Naypyidaw. Trung Quốc cũng muốn gửi thông điệp cho ASEAN không nên tiếp tục làm căng với Myanmar (TLTK của TTXVN ngày 15/4/2022, trích dẫn mạng "Quan sát Thượng Hải", Trung Quốc).

Chia để trị trong ASEAN là đường lối cố hữu xưa nay của Trung Quốc đối với ASEAN. Năm ngoái, sự phớt lờ Việt Nam trong các chuyến thăm của Ngoại trưởng Trung Quốc cho thấy căng thẳng ngày càng gia tăng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội do tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông và sự tích cực tái thiết quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ (3). Nhưng năm nay, cuộc chiến xâm lăng của Nga ở Ukraine càng khiến nội bộ ASEAN "sẩy đàn tan nghé". Tuy nhiên, sự "sẩy đàn" / phân rã trong ASEAN liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine có những khía cạnh khác với sự chia rẽ về vấn đề Biển Đông. Nhưng dù có khác nhau thế nào thì cuộc chiến tranh tàn khốc ở Châu Âu đã tác động tiêu cực tới vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực. Đặc biệt với cuộc khủng hoảng Myanmar còn kéo dài, lại diễn ra trong năm Hun Sen làm chủ tịch luân phiên, ASEAN đứng trước nguy cơ hầu như tê liệt hoàn toàn.

Điện đàm Bùi Thanh Sơn – Vương Nghị

Nếu như Singapore thăm Mỹ mà không chờ Cấp cao Mỹ – ASEAN thì ngược lại, Việt Nam vẫn trung thành với khuôn khổ Cấp cao, nhưng đã lobby mạnh để Mỹ giữ lời mời trước đây đối với Thủ tướng Phạm Minh Chính, tiến hành các hoạt động song phương trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh kỷ niệm 45 năm quan hệ giữa Mỹ và ASEAN. Cho đến trưa ngày 16/4 (giờ Washington), Campuchia, nước chủ tịch luân phiên của ASEAN vẫn chưa đưa ra phản ứng nào về tuyên bố mới của Nhà Trắng. Thượng đỉnh này sau đợt trì hoãn, nay nếu Hun Sen không có "chiêu" gì mới để phá, sẽ được diễn ra từ ngày 12 đến 13 tháng 5 (4). Tuy nhiên, chuyến thăm một tuần của ông Lý Hiển Long và chuyến thăm tháng tới của ông Phạm Minh Chính tại Mỹ là một trong nhiều nguyên nhân khiến năm nay, Singapore bị loại khỏi danh sách, còn Việt Nam thì dù đã nỗ lực "phấn đấu", nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu của Trung Quốc muốn Việt Nam phải quy phục hoàn toàn.

Điện đàm giữa Bùi Thanh Sơn với Vương Nghị ngày 14/4 là một minh chứng. Tuy thể hiện khá rõ chính sách chịu quy thuận Bắc Kinh của Hà Nội, nhưng Trung Quốc vẫn chưa thoả mãn. Cho dù tinh thần "thoả hiệp vô nguyên tắc" (appeasement) đã bao trùm khi ông Sơn nhấn mạnh "củng cố tin cậy chính trị" và "bày tỏ vui mừng trước đà phát triển tốt đẹp của quan hệ hai đảng, hai nước" trước bao nhiêu biến cố tiêu cực trong vòng mấy tháng gần đây. Từ hàng nông sản của Việt Nam bị chặn thông quan trên biên giới đến các cuộc tập trận liên miên của Trung Quốc trên Biển Đông tất cả đều không hề được đề cập trong cuộc điện đàm (5). Ngược lại, về phía Vương Nghị, ông chỉ toàn đưa ra những lời đe doạ : "Vấn đề Ukraine một lần nữa khiến các nước Châu Á nhận ra rằng duy trì hòa bình, ổn định là điều quý giá và việc đối đầu giữa các khối sẽ dẫn đến vô vàn rủi ro". Đưa Ukraine ra doạ, nhưng ông Nghị cũng hứa với ông Sơn rằng sẽ "không để thảm kịch Ukraine lặp lại trong khu vực" (6). 

Dư luận đều rõ, Hoa Kỳ đã phê phán lập trường của Trung Quốc trong cuộc chiến ở Ukraine, thậm chí Tổng thống Biden, thông qua điện đàm trực tuyến, đã trực tiếp cảnh cáo Tập Cận Bình không được tiếp tay cho Putin trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine. Ấy vậy mà Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn trong điện đàm với Vương Nghị vấn "hoan nghênh đóng góp của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hòa đàm, chấm dứt xung đột và ngăn chặn khủng hoảng nhân đạo", đồng thời cho biết rằng Việt Nam "chia sẻ nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc về lập trường của mình và hy vọng sẽ tiếp tục trao đổi với Trung Quốc về vấn đề Ukraine". Mặc dù có một lập trường chống Mỹ cao đến như vậy, ngả theo Tàu rõ ràng đến như thế, mà tại sao Việt Nam vẫn không được "triệu kiến" sang Trung Quốc cùng bốn nước kia ?

Câu trả lời nằm trong chuyến thăm Mỹ trong tháng 5 của Thủ tướng Phạm Minh Chính và trong cuộc tập trận bắn đạn thật của Việt Nam ở Trường Sa hồi tháng 4 năm ngoái được dư luận cho là để "tỏ thái độ" với Trung Quốc (7). Cùng thời điểm này, Trung Quốc tiếp tục điều hơn 200 tàu dân quân biển ra sát khu vực Đá Kennen và Đá Gaven hôm 11/4/2021, trong khi tại Đá Ba Đầu chỉ còn lại 9 thuyền, theo AFP. Vụ việc đã khiến tình hình vốn đã căng thẳng trên Biển Đông trở nên nóng bỏng hơn. Trước đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng tuyên bố vụ tàu dân quân Trung Quốc tập trung ở Đá Ba Đầu là hành động "xâm phạm nghiêm chủ quyền Việt Nam". Trong khi Philippines cử máy bay do thám tới khu vực có tàu cá của Trung Quốc, đồng thời cho triệu hồi đại sứ Trung Quốc.

ngoaigiao2

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn và Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại Trùng Khánh, Trung Quốc, hôm 8/6/2021. Báo Quốc Tế

Có thể Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng cảm thấy không khí căng thẳng mà Vương Nghị dành cho Bùi Thanh Sơn quả là "quá đà" nên đã lược bỏ các chi tiết liên quan đến trao đổi Việt – Trung về cuộc chiến tranh của Nga ở Ukraine. Truyền thông nhà nước chỉ nhắc lại "lập trường nhất quán của Việt Nam, theo đó kiên trì ủng hộ giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế". Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tường thuật lại lời của Ngoại trưởng Vương Nghị, với một số chi tiết cụ thể hơn. Ông Vương Nghị bêu xấu người Mỹ : "Hoa Kỳ cố gắng tạo ra căng thẳng trong khu vực và kích động đối kháng và đối đầu bằng cách thúc đẩy ‘Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương’. Những động thái như vậy sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến hòa bình và sự phát triển quý giá trong khu vực và làm xói mòn nghiêm trọng cấu trúc hợp tác khu vực lấy ASEAN làm trung tâm".

Vương Nghị vừa kích động vừa doạ nạt : "Chúng ta không thể để tâm lý Chiến tranh Lạnh trỗi dậy trong khu vực và thảm kịch Ukraine lặp lại xung quanh chúng ta. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều là các nước xã hội chủ nghĩa" "Trung Quốc sẵn sàng tăng cường đoàn kết và hợp tác với Việt Nam, chống lại các nguy cơ từ bên ngoài, ứng phó với tác động lan tỏa của cuộc khủng hoảng Ukraine trong khu vực, đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình và ổn định chung ở khu vực" (8). Việt Nam đi guốc trong bụng Trung Quốc nên chẳng những không mắc lỡm nhưng điều ông Vương nói, mà cũng không dại gì trương những lời dối trá sáo rỗng ấy lên truyền thông trong nước để chuốc thêm sự phẫn nộ của dân chúng.

Hoàng Trường Sa

Nguồn : RFA, 18/04/2022

Tham khảo :

1. https://www.voatiengviet.com/a/campuchia-l%E1%BA%A1i-cho-vi%E1%BB%87t-nam-tr%C6%B0%E1%BB%A3t-v%E1%BB%8F-chu%E1%BB%91i-/6481105.html

2. https://fulcrum.sg/singapore-and-the-united-states-speaking-hard-truths-as-a-zhengyou/

3. https://vn.sputniknews.com/20210119/tai-sao-ngoai-truong-trung-quoc-bo-qua-viet-nam-9955816.html

4. https://www.rfa.org/vietnamese/news/internationalnews/white-house-biden-to-host-us-asean-summit-in-dc-in-may-04162022195426.html

5. https://www.vietnamplus.vn/bo-truong-bui-thanh-son-dien-dam-voi-bo-truong-ngoai-giao-trung-quoc/783817.vnp

6. https://www.voatiengviet.com/a/dien-dam-voi-ngoai-truong-vietnam-ong-vuong-nghi-to-cao-my/6530815.html

7. https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-56755599

8. https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/china-foreign-minister-reaffirms-no-ukraine-crisis-be-repeated-in-the-region-04162022193653.html

Published in Diễn đàn

Tàu Trung Quc vn liên tc xâm phm

Thi gian va qua, các tàu Trung Quc đã thc hin xâm nhp bt hp pháp vào các vùng bin thuc EEZ ca nhiu quc gia, trong đó có Indonesia, Malaysia, Philippines và Vit Nam.

coc1

Tàu Trung Quốc nạo vét ở Đá Chữ Thập (quần đảo Trường Sa) hồi năm 2015 - Reuters

Theo d liu giám sát hi trình được công b ngày 18/10, tàu kho sát Da Yang Hao ca Trung Quc cui cùng đã ri vùng đc quyn kinh tế ca Malaysia, hai tun sau khi B Ngoi giao nước này triu Đi s Trung Quc đ bày t phn đi mt cách cng rn(1). Trước đó đã xut hin các tin tc v hot đng ca các tàu Trung Quc xung quanh qun đo Natuna trên Bin Đông, đc bit là s xut hin ca tàu khu trc Côn Minh 172 (Kunming 172) trong Vùng Đc quyn Kinh tế (EEZ) ca Indonesia (2).

B Ngoi giao Philippines va qua cũng đã phn đi mi đến Bc Kinh liên quan vic Trung Quc duy trì s hin din ca hơn 100 tàu thuyn ca h vùng lãnh hi mà Manila tuyên b ch quyn Bin Đông (3).

coc2

D liu theo dõi tàu bin cho thy tàu Trung Quc ra khi vùng nước ca Malaysia và hướng v phía bc. Hình : RFA

COC trong hi ngh cp cao ASEAN sp ti

Hi ngh cp cao ca Hip hi các quc gia Đông Nam Á (ASEAN) ln th 38 và các hi ngh cp cao liên quan s được t chc vào ngày 26-28/10 ti Brunei, sau đó là Hi ngh cp cao Đông Á vào tháng 11/2021. Hin ti, ASEAN có rt nhiu vn đ phi gii quyết, trong đó có cuc đi đu M - Trung ; Thái đ ca ASEAN vi AUKUS ; Vn đ Myanmar và COC.

Vào tháng tám năm nay, Ngoi trưởng Trung Quc Vương Ngh tiết l rng các bên đã đt được tha thun đi vi phn m đu ca COC (4).

Vì các tha thun ca ASEAN đu bt đu vi mt tuyên b chung v các nguyên tc, nên điu này không báo hiu đt được tiến trin ln. Tuy nhiên, ít nht điu đó có nghĩa là hai bên gi đây có th ngi li đ tho lun v nhng chi tiết cơ bn và quan trng nht ca COC.

Trong bài phát biu ti Singapore vào cui năm 2018, Th tướng Trung Quc Lý Khc Cường đã kêu gi ký kết COC vào năm 2021 (5). Hu hết các nước thành viên ASEAN coi thi hn đơn phương này ca Trung Quc là không thc tế, hoc như h đã nói mt cách lch s là y tham vng". Trong bt k trường hp nào, Covid-19 đã phá v mc tiêu 2021 ca Trung Quc.

Nhng cái mc v COC được đưa ra phn ánh mong mun ca các bên, ch chưa phi là da trên thc tế. Tt c các bên đu cam kết s tiến hành đàm phán COC t khi h ký kết Tuyên b v ng x ca các bên Bin Đông (DOC) năm 2002. Nhưng do s chm tr ca Trung Quc, các cuc đàm phán đã không được tiến hành cho đến năm 2014. Và Trung Quc đã không có thái đ nghiêm túc v tiến trình này cho ti sau khi Tòa Trng tài ra phán quyết vào năm 2016. Phán quyết khng đnh các tuyên b ch quyn ca Bc Kinh đi vi"các quyn lch s" bên trong ường chín đon" ca nước này vn bao trùm 80% din tích bin Đông là không hp l.

coc3

Bn đ Bin Đông có đường đt khúc chín đon mà Trung Quc t v ra trên bin. AFP

Bng vic th hin s nhit tình nhiu hơn đi vi tiến trình COC, Bc Kinh có th chuyn hướng s chú ý khi vic h bác b phán quyết năm 2016 ca Tòa Trng tài và cng c câu chuyn rng Trung Quc và ASEAN đang tích cc x lý tranh chp và không cn nước khác, đc bit là M,"can thip" và làm gia tăng căng thng bng vic trin khai các tàu chiến đến khu vc này.

Tuy nhiên, cũng có mt s bước tiến, dù không ln. Tháng 8/2017, Trung Quốc và ASEAN cùng nht trí v mt khuôn kh dài mt trang đ hướng dn các cuc tho lun trong tương lai. Mt năm sau, h ng h Bn d tho đàm phán duy nht (SDNT) dài 19 trang trong đó có ni dung đ trình ca mi bên trong hai bên v vic COC cn phi bao gm nhng gì. Tháng 8/2019, h đã đưa ra bn d tho đu tiên cng c SDNT và b sung các đ xut mi.

Bước tiếp theo là đàm phán v bn d tho th hai, nhưng do dch bnh, không cuc gp nào, dù là trc tiếp hay trc tuyến, được t chc trong c năm 2020. Tuy nhiên, trong na đu năm nay, các bên đã gt sang mt bên nhng lo ngi ca mình v vic tho lun nhng vn đ nhy cm thông qua liên kết video và đã 6 ln gp g trc tuyến.

Nhng đng thun và bt đng

Có s đng thun rng rãi gia các bên rng hòa bình và s n đnh bin Đông nm trong li ích ca tt c mi người. Các bên cũng nht trí v s cn thiết phi duy trì an toàn hàng hi, an ninh và quyn t do hàng hi phù hp vi lut pháp quc tế, trong đó có Công ước Liên hp quc v Lut bin (UNCLOS). Các bên đã nht trí thúc đy hp tác thc tế trong các lĩnh vc như bo v và nghiên cu khoa hc môi trường bin, an toàn hàng hi, chng ti phm xuyên quc gia và bo tn ngun sng.

Tuy nhiên, vn có nhng bt đng nghiêm trng trong các lĩnh vc khác. Điu quan trng nht là n lc ca Trung Quc đ các bên khác tha nhn yêu sách quyn tài phán ca mình bên trong ường chín đon". Ví d, Trung Quc đã gi ý rng các d án phát trin du khí bin Đông ch nên do các quc gia ven bin thc hin và loi tr các công ty năng lượng bên ngoài khu vc. Điu này phù hp vi quan đim t lâu nay ca Bc Kinh rng các bên tuyên b ch quyn Đông Nam Á nên cùng vi Trung Quc khai thác các ngun năng lượng các khu vc tranh chp.

Vn đ là "các khu vc tranh chp" mà Trung Quc đ cp bao gm c Vùng đc quyn kinh tế (EEZ) ca mt s nước Đông Nam Á cũng tuyên b ch quyn và hp pháp theo UNCLOS. Tòa Trng tài đã bác b các yêu sách ường 9 đon" ca Trung Quc trong EEZ ca các quc gia ven bin. Ngoài ra, Trung Quc cũng không mun các nước Đông Nam Á tiến hành tp trn quân s bin Đông vi lc lượng hi quân các nước bên ngoài khu vc.

Hu hết các nước thành viên ASEAN đu phn đi nhng điu khon này, và trong phn din gii đu tiên, các nước đu nhn mnh quyn hàng hi ca h theo UNCLOS, trong đó có quyn tiến hành các hot đng vi các quc gia hay các công ty nước ngoài.

Mt lĩnh vc gây bt đng khác là hình thc các hot đng mà COC cn cm. Vit Nam mun các bên thc hin"t kim chế" bng vic không xây dng các đo nhân to, không quân s hóa các đo san hô mà h chiếm gi bng vic trin khai vũ khí tn công, không quy ri ngư dân, các công ty du khí và tàu tiếp tế binh lính, và không tuyên b Vùng nhn dng phòng không (ADIZ). Không phi là ngu nhiên, nhng yêu cu này chính là các hành đng mà Trung Quc s dng đ thúc đy các tuyên b ch quyn.

Vit Nam cũng mun B quy tc ng x được áp dng cho tt c các cu trúc đa hình có tranh chp bin Đông, trong đó có qun đo Hoàng Sa mà Trung Quc chiếm gi năm 1974 nhưng Vit Nam vn tuyên b ch quyn. Bc Kinh không công nhn có tranh chp vi Hà Ni đi vi qun đo này. Nhng bt đng này khiến cho tiến trình COC vn khó có th đt được đng thun trong tương lai.

Thêm na, mt s quc gia như Lào, Campuchia đã đng v phía bo v các li ích ca Trung Quc trong quá trình đàm phán COC. Năm 2022, Campuchia s tr thành Ch tch luân phiên ca ASEAN, điu này d báo nhng khó khăn cho đàm phán COC trong thi gian sp ti. Gi đnh là Trung Quc mun ký kết COC trong Hi ngh cp cao ASEAN-Trung Quc hàng năm vào tháng 11/2022, thì vic hoàn tt các cuc đàm phán trong vòng 14 tháng ti là nhim v "bt kh thi". Vi tư cách là Ch tch ASEAN, Campuchia s phi có nh hưởng nào đó đi vi chương trình ngh s, nhưng Phnom Penh s không th vi vàng thông qua mt COC"thân thin" vi Trung Quc. 11 bên s cn đt được s đng thun đi vi các vn đ phc tp và gây tranh cãi được nêu trên. Và hãy nh rng h đã mt 7 năm ch đ nêu lên nhng gì h mun được đưa vào COC và trong các phn tiếp theo ca B quy tc, nhng thương lượng cng rn mi thc s bt đu.

ASEAN cn làm gì ?

Các nước ASEAN, đc bit là năm quc gia ven bin, cn phi đu tranh đ đm bo rng COC chc chn duy trì các quyn và quyn li trên bin ca h đã được ghi trong UNCLOS và ng h phán quyết ca Tòa Trng tài. Trung Quc có th "nói đãi bôi" v UNCLOS, nhưng mc tiêu ca Bc Kinh là vô hiu hóa Phán quyết năm 2016 và thúc đy tuyên b ch quyn ường chín đon". Bc Kinh s kch lit phn đi danh sách nhng điu cm ca Vit Nam và n lc ca Hà Ni đưa vn đ qun đo Hoàng Sa vào đó. Nhng thut ng s cn được xác đnh, bao gm"quân s hóa","t kim chế" và "các cu trúc đa hình liên quan bin Đông". Vic quyết đnh xem liu B quy tc có s ràng buc v m t pháp lý hay không cũng có th làm kéo dài các cuc đàm phán. Điu quan trng là vn đ này s quyết đnh tiến trình các cuc đàm phán, vì các quan chc t tt c các bên chc chn s đàm phán vi tinh thn kiên trì hơn nếu quc gia ca h b ràng buc v mt pháp lý bi kết qu cui cùng. Điu đó có nghĩa là mi t và mi điu khon s được phân tích k càng và được tranh lun. Vì nhng lý do này, khó có kh năng COC s được ký kết vào cui năm 2022.

Nguyễn Hải Phong

Nguồn : RFA, 22/10/2021

Published in Diễn đàn

Mối đe dọa mang tên Trung Quốc

Với sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng tăng, Trung Quốc đã trở thành kẻ bắt nạt hoặc bá chủ trong khu vực, đặc biệt ở khu vực Biển Đông. Trung Quốc tự ý tuyên bố chủ quyền đối với hơn 90% diện tích biển Đông và một phần nhỏ biển Bắc Natuna của Indonesia dựa trên bản đồ "đường 9 đoạn" gây tranh cãi. Điều này đi ngược lại luật biển quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982.

asean1

Hình minh hoạ. Dương Khiết Trì - Chủ nhiệm Văn phòng Ngoại sự Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc phát biểu tại lễ khai mạc ASEAN Trung Quốc Expo ở Nam Ninh hôm 27/11/2020 - AFP

Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei là các bên liên quan trực tiếp đến tranh chấp biển Đông với Trung Quốc. Indonesia không phải là quốc gia có tuyên bố chủ quyền ở khu vực này, song Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với một phần vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Indonesia tại biển Bắc Natuna.

Đã có những thời điểm đen tối trong lịch sử quan hệ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Nhiều quốc gia Đông Nam Á không hoàn toàn tin tưởng vào Trung Quốc. Bắc Kinh đã can thiệp vào các cuộc chiến tranh Đông Dương và giúp đỡ các phong trào cộng sản ở Đông Nam Á trong những năm 1960-1970.

Do đó, Indonesia đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong giai đoạn 1967-1990. Philippines chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1975. Trước đó, Manila coi Bắc Kinh là mối đe dọa an ninh. Tương tự, Malaysia và Thái Lan cũng lần lượt thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1974 và 1975. Brunei chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1991, do có các vấn đề liên quan đến chủ nghĩa cộng sản và người gốc Hoa.

Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng vũ lực đối với Việt Nam nhằm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 2012, Trung Quốc cũng chiếm đóng trái phép bãi cạn Scarborough mà Philippines tuyên bố thuộc quyền chủ quyền của họ. Các tàu chấp pháp của Trung Quốc thường xuyên quấy rối ngư dân Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia. Bắc Kinh cũng đe dọa và ngăn cản các hoạt động thăm dò năng lượng và đánh bắt cá bên trong vùng đặc quyền kinh tế của của Việt Nam, Philippines và Malaysia.

Gần đây, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo đất ở biển Đông, xây dựng trái phép một số đảo nhân tạo ở vùng biển này và biến một vài đảo trong số đó thành các cơ sở quân sự. Các hoạt động bất hợp pháp của Bắc Kinh đang gây ra mối đe dọa lớn đối với tự do hàng hải và hàng không quốc tế tại biển Đông. Với các hành vi cưỡng ép và bắt nạt của mình ở vùng biển này, Trung Quốc đã trở thành mối đe dọa lớn đối với hòa bình, sự ổn định và đoàn kết của ASEAN. Cho đến nay, Trung Quốc không khác gì "cáo già đội lốt thỏ non". 

Lợi dụng và chèn ép ASEAN

Với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 3.110 tỷ USD và dân số 673 triệu người, khu vực ASEAN đang phát triển nhanh chóng và là thị trường béo bở đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã và đang sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình dưới hình thức thương mại, đầu tư, viện trợ, cho vay và nguồn khách du lịch để tác động đến các nước như Campuchia, Lào và Myanmar. Trung Quốc vẫn đang tìm cách chia rẽ ASEAN thông qua ba quốc gia này trong một số trường hợp. Song câu hỏi thực sự là ASEAN phụ thuộc vào Trung Quốc hay Trung Quốc phụ thuộc vào ASEAN ?

Trung Quốc là quốc gia duy nhất đã khai thác tất cả các điểm yếu của ASEAN kể từ khi bắt đầu thiết lập quan hệ với khối này vào năm 1991 trong vai trò đối tác đối thoại. Trung Quốc thường xuyên ca ngợi quan hệ đối tác chiến lược của mình với ASEAN, song mục tiêu thực sự của họ là sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để cưỡng ép một số nước thành viên của khối.

Năm 2021, Trung Quốc và ASEAN sẽ kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ hữu nghị và hợp tác. Trong một bài phát biểu năm 2020, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh : "Mối quan hệ Trung Quốc-ASEAN đã phát triển thành mô hình hợp tác thành công và sôi động nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và là hình mẫu trong nỗ lực xây dựng cộng đồng nhân loại chung vận mệnh".

Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã nổi lên thành một nước đóng vai trò quan trọng trong khu vực ASEAN, từ đối tác đối thoại toàn diện vào năm 1996 đến đối tác chiến lược của ASEAN vào năm 2008. Trung Quốc và ASEAN đã ký thỏa thuận thương mại tự do vào năm 2002 để thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) có hiệu lực vào năm 2010. Trong 12 năm qua, Trung Quốc đã không ngừng phát triển và trở thành đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Thương mại, đầu tư và giao lưu nhân dân với ASEAN đã có những bước phát triển vượt bậc.

Vai trò của ASEAN đang nổi lên

Sau 30 năm duy trì quan hệ với Trung Quốc, ASEAN đã trở thành thị trường và đối tác thương mại lớn nhất của nước này. Đồng thời, ASEAN cũng đã có ảnh hưởng kinh tế đối với Trung Quốc. Điều này diễn ra vào một thời điểm khó khăn. Một mặt, cả thế giới chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 vào năm 2020, dẫn đến cuộc khủng hoảng kép về y tế và kinh tế trên toàn cầu. Mặt khác, Trung Quốc chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến thương mại do Mỹ – thị trường lớn nhất của Trung Quốc – phát động. Liên minh châu Âu (EU) cũng đã trở thành đối tác khó nhằn đối với Trung Quốc.

asean2

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu trên màn hình tại lễ khai mạc ASEAN Trung Quốc Expo ở Nam Ninh hôm 27/11/2020. AFP

Trung Quốc đã tìm thấy ở ASEAN một thị trường quan trọng và có tính chiến lược để thay thế thị trường Mỹ và EU. Bắc Kinh đã có những nỗ lực phi thường để thâm nhập thị trường ASEAN và đã có được thành công. Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã tăng từ 641,46 tỷ USD vào năm 2019 lên mức kỷ lục 731 tỷ USD vào năm 2020 – tương đương mức tăng ấn tượng là 7%.

Với GDP 14.120 tỷ USD và dân số 1,44 tỷ người, Trung Quốc có thể được xem là thị trường hấp dẫn đối với tất cả các nước khác, bao gồm cả các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy ASEAN không thể hưởng lợi nhiều từ Trung Quốc trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, cho vay hoặc nguồn khách du lịch.

Chính phủ Trung Quốc đã kiểm soát chặt chẽ mọi thứ để mang lại nhiều lợi ích nhất cho chính mình, chứ không phải cho ASEAN. Các nước ASEAN được hưởng lợi từ thị trường khổng lồ của Trung Quốc nhưng lại không có đủ năng lực và sản phẩm để thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc.

Trong những năm qua, Trung Quốc đã được hưởng thặng dư thương mại khổng lồ với một số nước ASEAN. Từ năm 2010, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường ASEAN nhờ ACFTA. Cũng từ năm đó, hầu như tất cả các nước ASEAN đều phải chịu thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Ví dụ, năm 2019, Trung Quốc đã đạt thặng dư thương mại 77,58 tỷ USD với ASEAN.

Điều đáng ngạc nhiên là ASEAN là nhà đầu tư lớn nhất vào Trung Quốc nếu xét về tổng vốn đầu tư trực tiếp (FDI). Ví dụ, năm 2019, tổng vốn FDI của các nước ASEAN đổ vào Trung Quốc đạt 124,61 tỷ USD, lớn hơn nhiều so với mức đầu tư 112,3 tỷ USD của Trung Quốc đổ vào ASEAN trong cùng năm. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tổng vốn FDI vào ASEAN đã sụt giảm 31% xuống còn 107 tỷ USD vào năm 2020.

Giao lưu nhân dân giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch, đang phát triển nhanh chóng. Năm 2019, 169 triệu người Trung Quốc đã đi du lịch nước ngoài, trong khi lượng khách quốc tế đến thăm Trung Quốc cũng lên đến 145,31 triệu người. Điều thú vị là lượng khách du lịch ASEAN tới thăm Trung Quốc cao hơn lượng khách du lịch Trung Quốc đến thăm các nước ASEAN. Ví dụ, năm 2019, 32,28 triệu khách du lịch Trung Quốc đã đến thăm các nước ASEAN, trong khi lượng khách du lịch ASEAN đến thăm Trung Quốc là 32,72 triệu người. Đây là điều bất lợi đối với ASEAN trong bối cảnh khối này phải đối phó với Trung Quốc trong các vấn đề phi kinh tế.

ASEAN cần phải làm gì ?

Các quốc gia ASEAN luôn e ngại sức mạnh từ Trung Quốc, chính vì thế Trung Quốc đã luôn hành xử theo cách "khoe cơ bắp" đối với các quốc gia khu vực này. Năm 2010, Ngoại trưởng Trung Quốc lúc đó là Dương Khiết Trì đã "ngạo nghễ" tuyên bố "Trung Quốc là một nước lớn, lớn hơn tất cả các nước Đông Nam Á cộng lại, và đó là một thực tế".

Trong tình hình hiện nay, Mỹ, EU, Ấn Độ, Nhật Bản và Australia đang thách thức ảnh hưởng và các hành vi ép buộc của Trung Quốc ở biển Đông. Điều không may là các nước ASEAN lại không nhận ra rằng thực chất Trung Quốc đang phụ thuộc rất nhiều vào khối này. Kể từ năm 2020, ASEAN đã trở thành thị trường lớn nhất của Trung Quốc. Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc lớn hơn nhiều so với đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN. Số khách du lịch ASEAN đến thăm Trung Quốc nhiều hơn số du khách Trung Quốc đến thăm ASEAN. Đã đến lúc ASEAN cần sử dụng đòn bẩy kinh tế mới này để chế ngự một Trung Quốc đang tỏ ra hung hăng. ASEAN không được để Trung Quốc ra lệnh cho mình.

Cho đến nay, Trung Quốc đã và đang thu được những lợi ích to lớn từ ASEAN. Vì vậy, các nước ASEAN cần phải suy nghĩ về cách thức cân bằng thương mại với Trung Quốc và cùng nhau tìm kiếm các lợi ích chung trên cơ sở bình đẳng. ASEAN phải tạo dựng quan hệ đối tác mới với các nước khác trên toàn cầu nhằm cân bằng sức mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Một khi Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mới được ký kết có hiệu lực, ASEAN sẽ trở thành "thái ấp" của Trung Quốc. RCEP dự kiến sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc hơn là cho ASEAN. Hy vọng rằng mọi hành động của ASEAN lúc này chưa phải là quá muộn.

Ngô Nguyễn Tường Duyên

Nguồn : RFA, 29/04/2021

Published in Diễn đàn

Các quốc gia Đông Nam Á có cơ hội hiếm có để tận dụng tuyên bố của Bắc Kinh về sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách, chẳng hạn như sáng kiến "Vành đai và Con đường" và Biển Đông.

asean1

Thủ tướng Trung Quốc Li Keqiang đã nói chuyện với các nhà lãnh đạo ASEAN Plus Three trong một hội nghị thượng đỉnh ảo ngày 14/4/2020. Ảnh màn hình này được lấy từ một video do đài truyền hình quốc gia Việt Nam VTV cung cấp, qua AP

Đầu tháng 3/2020, khi đại dịch Covid-19 buộc các chính phủ trên toàn thế giới phải đóng cửa biên giới và tạm dừng hoạt động kinh tế, tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc đưa tin rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã vượt qua Liên Hiệp Châu Âu (EU) để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Theo tờ báo này, kim ngạch thương mại gia tăng là minh chứng cho "chuỗi cung ứng không thể phá vỡ với Trung Quốc" và các liên kết mạnh mẽ của nước này với các nền kinh tế Đông Nam Á.

Ở một mức độ nào đó, tin tức như vậy không có gì bất ngờ. Năm 2019, 10 nền kinh tế Đông Nam Á hình thành nên khối ASEAN nằm trong số những bên hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra, khi nhiều công ty nước ngoài từ Trung Quốc đã dời tới khu vực này. Tuy nhiên, giọng điệu hân hoan của tờ Thời báo Hoàn Cầu khi đưa tin về sự kết nối vững vàng giữa Trung Quốc và ASEAN cho thấy một đề xuất hợp lý khác : Trong bối cảnh bất ổn địa chính trị hiện nay và những dự đoán về khả năng chia tách giữa Trung Quốc và Mỹ trên toàn cầu, phải chăng lời kêu gọi phụ thuộc lẫn nhau của Bắc Kinh chỉ có thể thực hiện được khi các nước Đông Nam Á sẵn sàng tham gia ? Nói cách khác, tại thời điểm hiện tại, và với sự phản ứng ngày càng dữ dội của cộng đồng quốc tế chống lại Bắc Kinh, phải chăng Trung Quốc cần các quốc gia Đông Nam Á không chỉ với tư cách đối tác kinh tế mà còn là bên duy nhất ủng hộ tầm nhìn của Trung Quốc về hợp tác xây dựng cộng đồng chung vận mệnh ?

Những câu hỏi như vậy chắc chắn mở ra một kịch bản đáng chú ý, khác với những tính toán thông thường về toàn cầu hóa và các liên minh chính trị. Trong một thế giới với những câu chuyện địa chính trị đao to búa lớn, các quốc gia Đông Nam Á thường chỉ đóng một vai trò tương đối khiêm tốn. Cùng lắm thì họ chỉ được coi là khéo léo cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ, hoặc ngả sang một trong hai siêu cường này. Đông Nam Á chắc chắn không phải là một mục tiêu cân nhắc lớn đối với Chính phủ Trung Quốc vào đầu năm 2020. Đối với Trung Quốc, 2020 dự kiến sẽ là năm của những mối quan hệ hợp tác lớn, đặc biệt là với các nước thành viên EU. Bắc Kinh đã đạt nhiều bước tiến theo hướng này trong năm 2019 bằng cách ký một thỏa thuận với Ý trong khuôn khổ sáng kiến "Vành đai và Con đường" ; tiếp tục can dự với các nước Đông và Trung Âu ; và thay đổi một cách nhanh chóng và dễ dàng liên minh "16+1" ban đầu thành "17+1" với việc kết nạp thêm Hy Lạp. Ngoài ra, một cuộc họp cấp cao đặc biệt chưa từng có dự kiến sẽ được tổ chức tại Đức vào tháng 9/2020. Nhiều phương án hợp tác dường như đều khả thi, thậm chí cả với Mỹ. Đáng chú ý nhất là bất chấp các căng thẳng thương mại trong suốt năm 2019, hai chính phủ đã ký thỏa thuận thương mại giai đoạn I vào đầu tháng 1/2020.

Tuy nhiên, vào tháng 6/2020, tất cả những điều này đã là quá khứ xa vời với những dấu hiệu cho thấy sự thay đổi cơ bản tiềm năng trong nhận thức của thế giới hậu đại dịch. Mặc dù chỉ vài tháng trước, một thế giới kết nối với nhau được cho là lẽ đương nhiên, nhưng giờ đây chính ý tưởng này lại bị hoài nghi. Nói cách khác, ngoài các tác động tai hại về xã hội, kinh tế và chính trị, đại dịch Covid-19 còn làm đảo lộn các câu chuyện về sự phụ thuộc lẫn nhau và vũ khí hóa các lập luận chống kết nối và toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, ngoài các viễn cảnh về sự tách rời giữa Mỹ và Trung Quốc, nay càng trở nên trầm trọng hơn do đại dịch, còn có ngày càng nhiều lời kêu gọi chấm dứt phụ thuộc vào các chuỗi cung ứng toàn cầu do Trung Quốc chi phối cũng như kêu gọi thảo luận về sự tự lực. Vào thời điểm bài này được viết, mọi dấu hiệu cộng tác tiềm năng với Mỹ đều đã tan biến, và khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đang tới gần, nhiều người dự đoán giọng điệu của Washington sẽ còn gây hấn hơn nữa. Mối quan hệ đối tác giữa Trung Quốc và các nước thành viên EU cũng có viễn cảnh u ám không kém : Các cuộc đàm phán với Đức dự kiến vẫn diễn ra vào tháng 9, nhưng có nhiều bình luận cho rằng giọng điệu và trọng tâm đàm phán đã có phần thay đổi. Cho dù Chính phủ Trung Quốc đã bày tỏ thiện chí khi điều động các đội ngũ y tế và cung cấp viện trợ cho các nước châu Âu bị dịch bệnh tác động mạnh trong suốt tháng 3 và tháng 4, nhưng chính phủ các nước EU vẫn chưa vượt qua được sự nghi ngờ đối với chính sách "ngoại giao y tế" của Bắc Kinh. Ngay cả trong liên minh "17+1" cũng tồn tại những rạn nứt. Và thậm chí theo lời của chính các chuyên gia hàng đầu Trung Quốc, trên hết, việc Bắc Kinh cho phép các nhà ngoại giao "chiến lang" đứng lên bảo vệ phản ứng ban đầu của Chính phủ Trung Quốc trước đại dịch và tán dương những ưu điểm của hệ thống chính trị Trung Quốc phần lớn là phản tác dụng.

Tuy nhiên, có lẽ tín hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy sự chuyển hướng cán cân giữa các liên minh và quan hệ đối tác xuất phát từ phản ứng ban đầu với dịch Covid-19. Ngược lại với Mỹ và EU, các nước Đông Nam Á đã nhanh chóng phối hợp với Trung Quốc ngay từ khi cuộc khủng hoảng Covid-19 mới bùng phát, nhanh chóng tổ chức Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc-ASEAN vào tháng 2. Tinh thần đoàn kết và phản ứng chung trong khủng hoảng không chỉ dừng ở đó. Trong những ngày đầu khi dịch bệnh bắt đầu lây lan, mặc dù thái độ bài Trung Quốc đang sục sôi trên toàn thế giới, nhưng các nước Đông Nam Á đã tiếp nhận tin tức từ Vũ Hán với sự đồng cảm, tinh thần đoàn kết và sự ủng hộ không gì lay chuyển được. Malaysia, Philippines, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Singapore đều quyên tặng Trung Quốc nhiều loại trang thiết bị y tế. Một nghệ sĩ Thái Lan thậm chí đã sáng tác một bài hát thể hiện tình đoàn kết với Vũ Hán. Để đáp lại, ngay khi virus bắt đầu lan ra ngoài biên giới, Trung Quốc đã gửi viện trợ y tế và cử các chuyên gia y tế tới khu vực Đông Nam Á. Sự phối hợp giữa Trung Quốc và ASEAN ở nhiều cấp độ đã cho thấy cả sự cần thiết lẫn lợi ích của việc phụ thuộc lẫn nhau và sự hợp tác trong thời kỳ khủng hoảng. Ngoài ra, chúng cũng thể hiện sự tương phản rõ rệt với các phản ứng ban đầu của các khu vực còn lại trên thế giới, đáng chú ý nhất là việc EU không hỗ trợ Ýngay sau khi cuộc khủng hoảng bùng phát mạnh vào đầu tháng 3.

Điều này ảnh hưởng ra sao đến tầm nhìn của Bắc Kinh về toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ? Một mặt là những viễn cảnh rời rạc về việc đẩy mạnh can dự với các nước đối tác châu Âu chủ chốt, sự thù địch với Mỹ và các thông lệ ngoại giao đáng ngờ. Mặt khác và trái ngược hoàn toàn là các quan hệ kinh tế mạnh mẽ, sự hợp tác chặt chẽ và đoàn kết với các nước ASEAN nhằm ứng phó với đại dịch Covid-19. Chính trong bối cảnh này nảy sinh một vấn đề hoàn toàn không thể ngờ tới : Đối với Bắc Kinh, việc hiện thực hóa tầm nhìn về sự phụ thuộc lẫn nhau rất có thể đòi hỏi Trung Quốc phải thể hiện sự thống nhất và đoàn kết với các nước Đông Nam Á với tư cách là đối tác chủ chốt trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Trái lại, đối với Đông Nam Á, điều này mang lại cơ hội có một không hai để tiếp nhận tầm nhìn của Trung Quốc về một thế giới toàn cầu hóa theo đúng nghĩa đen. Nói cách khác, các quốc gia Đông Nam Á có một cơ hội hiếm có để tận dụng tuyên bố của Bắc Kinh về sự phụ thuộc lẫn nhau và chủ nghĩa đa phương trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách, chẳng hạn như sáng kiến "Vành đai và Con đường" vàBiển Đông. Dưới đây là một số cân nhắc ban đầu về cả hai vấn đề.

Sáng kiến "Vành đai và Con đường"

Sự phụ thuộc lẫn nhau có thể là chìa khóa cho tính khả thi của BRI trong tương lai. Với đại dịch Covid-19, có nhiều tiếng nói hoài nghi về tính bền vững của sáng kiến chủ đạo này của Trung Quốc. Ngoài việc chấm dứt các hoạt động kinh tế trên toàn cầu, nhiều dự án cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ BRI đã bị ảnh hưởng trực tiếp do thiếu nguồn nhân lực sau khi các biên giới bị đóng cửa.

Ở Đông Nam Á, có rất ít thông tin về các dự án cơ sở hạ tầng đang diễn ra cho dù có nhiều can dự, số liệu năm 2018 cho thấy tổng số vốn đầu tư thông qua BRI vào khu vực này vượt quá 740 tỷ USD. Hiện tại, dựa trên nghiên cứu của các nguồn tin tức truyền thông Trung Quốc và khu vực, chỉ 13 dự án đã được xác định là đang hoạt động. Chiếm một phần rất nhỏ trong tổng số các dự án đầu tư vào khu vực, đây là những dự án duy nhất cho thấy khả năng thực hiện, tạm hoãn và gia hạn tiến độ hoàn thành ở nhiều cấp độ khác nhau.

Chắc chắn các dự án cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ BRI không phải là những dự án duy nhất bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, và việc đình chỉ cũng như tạm hoãn có thể là kết quả của nhiều thách thức. Tuy nhiên, ít nhất một vấn đề có liên quan đến tình trạng nan giải hiện nay đã cho thấy một cơ hội chưa từng có : Trên tinh thần hợp tác, và tận dụng tình hình biên giới đóng cửa cũng như sự án binh bất động do cách ly, các nước Đông Nam Á có thể đàm phán lại việc tuyển dụng nhân lực địa phương tại các địa điểm xây dựng dự án BRI. Tình cờ thay, những lợi ích mà đề xuất này mang lại có thể không chỉ gói gọn trong việc đáp ứng nhu cầu cấp thiết là khôi phục và duy trì hoạt động của các dự án. Trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, các dự án cơ sở hạ tầng BRI đã nhiều lần bị chỉ trích vì sử dụng gần như hoàn toàn công nhân Trung Quốc. Trên thực địa, điều này thường được hiểu là gần như không hoặc hoàn toàn không có cơ hội tuyển dụng nhân viên địa phương và không có khả năng có sự tham gia của công nhân địa phương trong các khía cạnh vận hành và kỹ thuật của các dự án. Do đó, việc xây dựng năng lực địa phương hoặc sự phối hợp trên nhiều phương diện giữa nhân sự của dự án và các cộng đồng địa phương sẽ gặp nhiều hạn chế. Trong bối cảnh rộng lớn hơn, hiện tượng này cũng cho thấy sự thất bại trong việc thực hiện các mục tiêu bao trùm của sáng kiến BRI, cụ thể là mục tiêu xây dựng "cộng đồng chung vận mệnh" vốn được quảng bá rộng rãi, các kịch bản "đôi bên cùng có lợi" và kết nối nhân dân.

Việc đàm phán lại về sự tham gia của nước sở tại có thể có nhiều lợi thế bên cạnh việc ngăn chặn các thiệt hại kinh tế xuất phát từ tình trạng phong tỏa hiện nay. Tăng thêm số lao động địa phương sẽ là một phương thức hữu ích nhằm tăng cường sự tham gia của nước sở tại. Quan trọng không kém, điều này cũng sẽ biến những khẩu hiệu tuyên truyền về sự phụ thuộc lẫn nhau thành một chiến lược có thể thực hiện được.

Biển Đông

Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, Trung Quốc đã tham gia nhiều sáng kiến để thể hiện cam kết của mình với tiến trình toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau và chủ nghĩa đa phương. Nổi bật nhất trong số này là sự hỗ trợ y tế trên toàn thế giới và sự ủng hộ không mệt mỏi của nước này đối với WHO. Tuy vậy, các tranh chấp trên Biển Đông là một ngoại lệ lớn trong nghị trình toàn cầu hóa của Trung Quốc.

Các tuyên bố chủ quyền và sự kiên trì của Bắc Kinh trong việc khẳng định các đặc quyền trong "đường 9 đoạn" ở gần như toàn bộ Biển Đông một lần nữa đã gây căng thẳng trong khu vực và cũng dẫn đến sự hiện diện gia tăng của Hải quân Mỹ. Trung Quốc cũng đã làm suy yếu thẩm quyền và uy tín của các tòa trọng tài quốc tế sau vụ tai tiếng bác bỏ phán quyết mang tính bước ngoặt theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 2016 ủng hộ Philippines và chống lại Trung Quốc. Chắc chắn, bản thân "đường 9 đoạn" là yếu tố gây rắc rối vì nó đi qua những khu vực thuộc đặc quyền của Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei Darussalam và Indonesia (quần đảo Natuna). Và vì Trung Quốc không phải là bên duy nhất đưa ra các tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi trong khu vực, tuyên bố gần đây nhất của Chính phủ Trung Quốc về việc đặt tên 25 đảo và bãi đá cũng như 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông là động thái mới nhất trong một loạt can dự trên biển gây tranh cãi tại khu vực trong nhiều năm qua.

Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh hoàn toàn nhận thức được rằng cần phải phát triển sự hiểu biết chung với các nước láng giềng về vấn đề Biển Đông. Chẳng hạn, một trong những nỗ lực gần đây nhất nhằm thể hiện sự đoàn kết là việc Đại sứ quán Trung Quốc phát hành bài hát nổi tiếng "Một đại dương" tại Philippines. Bài hát nhằm tôn vinh sự đoàn kết giữa những người Philippines và người Trung Quốc trên tuyến đầu ứng phó với cuộc khủng hoảng Covid-19. Những lời ca như "nhờ có tình yêu dạt dào như con sóng, tay trong tay, chúng ta cùng hướng đến một tương lai tươi sáng, bạn và tôi trên cùng một đại dương" hàm ý nhắc đến sự phụ thuộc lẫn nhau và tình đoàn kết giữa hai nước. Tuy nhiên, chiến lược này đã phản tác dụng. Cư dân mạng đã kịch liệt chỉ trích bài hát này vì cho rằng đó là một nỗ lực tuyên truyền ; nhiều người nghi ngờ ý nghĩa và ý đồ đằng sau lời ca và ý tưởng về "một đại dương". Thái độ của cộng đồng mạng chắc chắn khó có thể được nêu ra tại các cuộc họp chính thức, chẳng hạn như các cuộc đàm phán về quy tắc ứng xử ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc vốn đã bị hoãn lại. Tuy nhiên, với những người quan tâm, những lời chỉ trích về bài hát trên rõ ràng cho thấy giới hạn của ngôn từ đầy ẩn ý của Trung Quốc về sự tương đồng và thống nhất.

Cuối cùng, vụ việc bài hát "Một đại dương" cũng cho thấy rằng việc tìm kiếm tiếng nói chung chính là trọng tâm của bất kỳ cuộc đàm phán nào về Biển Đông. Đặc biệt, mặc dù cả ngôn ngữ trong các văn kiện luật quốc tế (nghị quyết của UNCLOS năm 2016) lẫn hành động tuyên truyền văn hóa (bài hát "Một đại dương") đều bị coi là không thể chấp nhận được, nhưng các tuyên bố tuân thủ các quan niệm và chuẩn mực chung có thể trở thành nền tảng cho cách đánh giá và cách hiểu khác về một không gian hàng hải chung. Chẳng hạn, việc Trung Quốc phản đối nghị quyết của UNCLOS năm 2016 có thể bị các nước khác lợi dụng như là một dấu hiệu để đưa ra những lời lẽ và tuyên bố tương tự về "quyền lịch sử" và truyền thống – đặc biệt là bằng cách tạo dựng các câu chuyện về kết nối trên biển và thể hiện sự hiện diện quan trọng từ trong lịch sử của nhiều cộng đồng địa phương trong khu vực. Chẳng hạn, Bắc Kinh đã nhiệt liệt tán thành chiến lược Trục hàng hải toàn cầu của Indonesia và thậm chí còn tìm cách liên kết với BRI.

Kết luận

Dưới sức ép địa chính trị và kinh tế vốn đã trở nên trầm trọng thêm do đại dịch Covid-19, các nước ở Đông Nam Á hiện có một cơ hội chưa từng có để tích cực định hình mối quan hệ mới với Trung Quốc, không phải dựa trên sự phụ thuộc mà thay vào đó là tận dụng các tuyên bố về sự phụ thuộc lẫn nhau mà Trung Quốc đề xuất. Việc can dự với Trung Quốc theo các điều khoản bình đẳng chắc chắn không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Dù vậy, khi Bắc Kinh vươn mình trở thành nước đi đầu ủng hộ chủ nghĩa đa phương trong thế giới hậu Covid-19, những thước đo và quy tắc về sự phụ thuộc lẫn nhau không chỉ do mình Trung Quốc quyết định. Khả năng của Bắc Kinh trong việc can dự với các đối tác khu vực có thể đóng vai trò là phép thử cho các khả năng và giới hạn của tầm nhìn "xây dựng cộng đồng chung vận mệnh" vốn được quảng bá rộng rãi. Vì một tầm nhìn như vậy chỉ khả thi khi các nước khác sẵn sàng tán thành và thực hiện nó./.

Marina Kaneti

Nguyên tác : ASEAN Must Make the Best of Its New Centrality in China’s Diplomacy, The Diplomat, 04/06/2020

Hồng Quyên giới thiệu

Nguồn : Nghiên cứu Biển Đông, 06/07/2020

Marina Kaneti, phó giáo sư trường Chính sách công Lý Quang Diệu, đại học Quốc gia Singapore. Bài viết được đang tải trên The Diplomat .

Published in Diễn đàn

ASEAN "rắn mặt" với Trung Quốc – Mỹ đồng tình ủng hộ

Hoàng Lan, Thoibao.de, 01/07/2020

Một ngày sau Tuyên bố "Tầm nhìn về ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng" được các lãnh đạo ASEAN thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 ngày 26/6, Hoa Kỳ là trong những cường quốc đầu tiên đã lên tiếng hoan nghênh lập trường của các nước Đông Nam Á về Biển Đông.

asean1

Cuộc họp Thượng đỉnh khối ASEAN lần thứ 36 qua cầu truyền hình, Hà Nội, ngày 26/6/2020

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo viết trên Twitter ngày 27/6 : "Mỹ hoan nghênh sự kiên định của các nhà lãnh đạo ASEAN về việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Trung Quốc không được phép coi Biển Đông là đế chế hàng hải của mình. Chúng tôi sẽ sớm thảo luận thêm về chủ đề này".

Điểm đáng chú ý là trong thông điệp của mình, ông Pompeo đã đính kèm bản Tuyên bố của các lãnh đạo ASEAN mang tên "Tầm nhìn về ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng : Vượt lên các thách thức và duy trì tăng trưởng", đã được thông qua nhân Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 36.

Các lãnh đạo ASEAN đã nhất trí tái khẳng định Công ước UNCLOS năm 1982 là cơ sở cho việc xác định các quyền trên biển, là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương. Tuyên bố chung của Thượng đỉnh ASEAN, do nước chủ nhà Việt Nam, chủ tịch luân phiên của khối, chủ trì soạn thảo, khẳng định các lãnh đạo ASEAN "nhấn mạnh tầm quan trọng của thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982.

Lo ngại về việc cải tạo các đảo, những diễn biến gần đây và những sự cố nghiêm trọng xảy ra gần đây tại Biển Đông, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực, các lãnh đạo khẳng định sự cần thiết phải tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau, tự kiềm chế trong các hoạt động và tránh các hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình và giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982".

asean01

Ảnh chụp màn hình đoạn chia sẻ trên Twitter của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo

Mặc dù Trung Quốc không được nêu đích danh trong Bản tuyên bố chung nhưng nhiều nhà quan sát cho rằng đây đã là một bước tiến cho thấy ASEAN đã bước đầu thống nhất được lập trường, để chống lại các tham vọng bành trướng của Trung Quốc.

Theo hãng tin Mỹ AP, tuyên bố về Biển Đông của khối ASEAN lần này là một trong những nhận định cứng rắn nhất của khối đối với việc Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông trên cơ sở lịch sử.

Trả lời hãng AP, ba nhà ngoại giao Đông Nam Á xin giấu tên nhận định : bản thông cáo nói trên "đánh dấu một bước tiến quan trọng" trên con đường khẳng định giá trị nền tảng của luật pháp quốc tế tại khu vực Biển Đông, nơi vốn được coi là một trong những địa điểm xung đột dễ dàng bùng phát thành chiến tranh, trong bối cảnh các tham vọng chủ quyền trên biển của Trung Quốc ngày càng gia tăng.

Theo giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về khu vực Đông Nam Á, tuyên bố của ASEAN mang ý nghĩa là một động thái bác bỏ các cơ sở mà Bắc Kinh dựa vào để yêu sách chủ quyền trên Biển Đông, thể hiện một sự thay đổi đáng kể trong lời lẽ của ASEAN đối với Trung Quốc.

Theo báo Philippines, cũng trong Thượng đỉnh nói trên, Tổng thống Philippines đã báo động về căng thẳng gia tăng tại nhiều khu vực tranh chấp. Với tư cách quốc gia phụ trách điều phối đối thoại giữa ASEAN và Bắc Kinh, Tổng thống Rodrigo Duterte kêu gọi các bên tìm kiếm các biện pháp mới, có thái độ mềm dẻo để đạt được mục tiêu giữ hòa bình và ổn định.

Theo ông Duterte, Manila đang nỗ lực thúc đẩy các bên đi đến được một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trong thời gian sớm nhất. Quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp cũng tiếp tục căng thẳng. Trong thời gian gần đây, Manila đã phải hai lần gửi công hàm phản đối Bắc Kinh về các hành động gây hấn.

Trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường hoạt động quân sự trên biển Đông giữa lúc các nước trong khu vực gồng mình chống đại dịch Covid-19, Philippines đang thay đổi những tính toán địa chính trị.

Philippines đang thực hiện những động thái chậm rãi nhưng chắc chắn nhằm thách thức Trung Quốc trên biển Đông. Giới chức Bộ Năng lượng và Bộ Ngoại giao Philippines đang kêu gọi Tổng thống Rodrigo Duterte nối lại hoạt động thăm dò năng lượng trong vùng biển tranh chấp này với mục tiêu củng cố an ninh năng lượng và tái khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên năng lượng dưới đáy biển bị Trung Quốc tranh chấp.

Trong khi đó, Bộ Tư pháp Philippines đang gia tăng sức ép, yêu cầu Trung Quốc bồi thường cao hơn cho 22 ngư dân Philippines suýt thiệt mạng vào năm ngoái, sau khi bị tàu quân sự Trung Quốc đâm chìm tàu cá.

Theo báo Asia Times, những động thái cứng rắn nêu trên phản ánh quan hệ chiến lược Washington – Manila đã hồi sinh, cũng như nhu cầu gia tăng của Philippines về việc bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế sắp xảy ra.

Bên cạnh đó, việc Philippines thay đổi thái độ với Trung Quốc còn phản ánh tầm ảnh hưởng vẫn lớn mạnh của nền tảng chính sách ngoại giao và quốc phòng của nước này, vốn từng bị đe dọa phá vỡ bởi lập trường thân thiện của Tổng thống Duterte đối với Bắc Kinh khi ông mới nhậm chức. Hồi đầu tháng này, Tổng thống Duterte quyết định tạm ngừng rút Thỏa thuận các lực lượng thăm viếng quân sự (VFA), vốn là trung tâm của quan hệ đồng minh Mỹ – Philippines. Theo giới chuyên gia, động thái này cho thấy Manila đang thay đổi những tính toán địa chính trị giữa lúc Bắc Kinh ngày càng hung hăng trên biển Đông.

Trước đây, Tổng thống Duterte từng vận động hành lang để đạt được thỏa thuận "đồng sở hữu" các nguồn tài nguyên tranh chấp thông qua những dự án thăm dò và phát triển với Trung Quốc. Tuy nhiên, động thái ngày càng ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông giữa khủng hoảng đại dịch Covid-19, trong đó có tăng cường tập trận hải quân trong các khu vực tranh chấp, dường như đã hủy hoại những nỗ lực trước đó của Bắc Kinh và Manila về một thỏa thuận chia sẻ tài nguyên.

Ngoài Philippines, giới quan sát nhận định ba nước khác có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc gồm Việt Nam, Malaysia và Indonesia, đã tỏ ra mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ chủ quyền và phản đối yêu sách của Bắc Kinh.

asean2

Công hàm của Mỹ gửi lên Liên Hiệp Quốc phản đối yêu sách ‘bất hợp pháp’ của Trung Quốc trên Biển Đông ngày 01/6/2020

Trên phương diện ngoại giao, các nước này đã lần lượt gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối "đường 9 đoạn" của Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982.

Liên Hiệp Quốc đã chứng kiến một cuộc chiến công hàm phản đối Trung Quốc trên Biển Đông từ cuối năm 2019 đến nay.

Ngày 12/12/2019, Malaysia gửi lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) Báo cáo ranh giới thềm lục địa mở rộng tại khu vực phía Bắc Biển Đông. Ngay trong ngày, Trung Quốc gửi Công hàm số CML/14/2019 tới Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc phản bác Báo cáo này của Malaysia. Tại Công hàm này, Trung Quốc cho rằng :

i) Trung Quốc có chủ quyền đối với bốn nhóm đảo là Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam), Trung Sa, Đông Sa (gọi chung là Nam Hải chư đảo) ;

ii) Trung Quốc có các vùng biển (nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) từ các nhóm thực thể và

iii) Trung Quốc có quyền lịch sử ở Biển Đông.

Tiếp theo, ngày 06/3/2020, Philippines gửi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hai công hàm : thứ nhất là Công hàm số 000191-2020 phản đối Công hàm số CML/14/2019 của Trung Quốc, Philippines tuyên bố các yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) ; thứ hai là Công hàm số 000192-2020 của Philippines đưa ý kiến về Báo cáo của Malaysia. Ngày 23/3/2020, Trung Quốc gửi Công hàm CML/11/2020 lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để phản bác các Công hàm của Philippines. Trong Công hàm này, Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa (của Việt Nam), bãi Scarborough (mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham) và các vùng biển lân cận ; yêu sách quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan cũng như vùng đáy biển và vùng đất dưới đáy biển. Trung Quốc cũng tiếp tục nhắc lại yêu sách quyền lịch sử ở Biển Đông.

Trong bối cảnh đó, ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi Công hàm số 22/HC-2020 lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để phản bác hai Công hàm CML/14/2019 và CM/11/2020 của Trung Quốc. Ngày 10/4/2020, Việt Nam gửi hai Công hàm số 24/HC-2020 và 25/HC-2020 lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lần lượt nêu ý kiến về báo cáo của Malaysia và về các công hàm của Philippines.

Đến ngày 01/6/2020, Mỹ cũng gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc liên quan tới Công hàm số CML/14/2019 do Phái bộ thường trực của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào ngày 12/12/2019 để phản hồi đệ trình của Malaysia lên Ủy ban về Ranh giới thềm lục địa (CLCS) ngày 12/12/2019. Trong công hàm của mình, Hoa Kỳ bác bỏ các yêu sách hàng hải này vì nó không phù hợp với luật pháp quốc tế như được phản ánh trong Công ước Luật biển 1982.

Không dừng lại ở các động thái ngoại giao, Mỹ còn khẳng định sự hiện diện mạnh mẽ của mình tại khu vực Biển Đông nhằm răn đe Trung Quốc.

Một mặt, Mỹ tăng cường cuộc tuần tra bảo đảm tự do hàng hải (FONOPS) trên không và trên biển với sự điều động một lực lượng hùng hậu không quân và hải quân trong khu vực mà gần đây nhất là sự có mặt của ba tàu sân bay Mỹ tại cửa ngõ Biển Đông hồi trung tuần tháng 6.

Mặt khác, Mỹ tiếp tục hỗ trợ trực tiếp nhiều nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc : Chỉ tính từ đầu năm 2020 ; vào tháng 3, tầu sân bay USS Theodore Roosevelt thăm cảng Đà Nẵng Việt Nam ; vào tháng 4, chiến hạm Mỹ "hiện diện" gần khu vực giàn thăm dò dầu khí West Capella của Malaysia ; vào tháng 5, Mỹ tặng nhiều máy bay không người lái cho Hải quân Malaysia…

Một sự kiện khác được coi là những thay đổi tích cực mới trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, đó là Việt Nam, cũng như New Zealand và Hàn Quốc được mời tham gia cuộc họp trực tuyến "Quad Plus" ngày 27/3/2020 với "Bộ Tứ" gồm Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản, trong đó nhiệm vụ chính của Quad là đoàn kết chống đà bành trướng của Trung Quốc ở Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Còn với Trung Quốc, Biển Đông được coi là mặt trận bên ngoài thứ ba sau Đài Loan và Hồng Kông nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc, khẳng định sức mạnh khổng lồ của quốc gia này.

Trả lời phỏng vấn RFI, Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân Sự Pháp (IRSEM) nhận định :

"Kỳ họp Quốc hội hàng năm là sự kiện lớn, quan trọng đối với chính trị Trung Quốc. Kỳ họp lần này diễn ra sau đỉnh điểm khủng hoảng dịch tễ Covid-19 trong khi cách xử lý dịch của Trung Quốc bị phản đối từ trong nước lẫn ở nước ngoài, đặc biệt phải kể đến việc tổng thống Mỹ Donald Trump lên án Trung Quốc phải chịu trách nhiệm với quốc tế.

Trong bối cảnh căng thẳng, chính quyền Bắc Kinh cần phải khuấy động tinh thần dân tộc nhằm tái thể hiện sức mạnh Trung Quốc trước một sự kiện mang ý nghĩa lớn, đó là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc vào năm 2021 (ngày 23/07/1921). Chính quyền trung ương tỏ rõ quyết tâm trong việc tập hợp, tăng cường đoàn kết dân tộc và khẳng định vị trí cường quốc bên trong lãnh thổ cũng như ở các vùng ngoại vi của nước này, như Đài Loan, Hồng Kông và mặt trận bên ngoài thứ ba chính là Biển Đông. Trong cả ba trường hợp, tầm cỡ tinh thần quốc gia và chính sách đối nội đều rất quan trọng".

Vì vậy mà ngay trong đại dịch Covid-19, Trung Quốc vẫn thúc đẩy chủ quyền phi pháp của mình trên Biển Đông. Về mặt hành chính, Trung Quốc ngang nhiên lập trái phép hai "quận" mới Tây Sa (Xisha) tại Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa, trực thuộc "thành phố Tam Sa" (Sansha) để hoàn thiện và củng cố hệ thống quản lý ở vùng biển chiến lược này. Về quân sự, Hải Quân Trung Quốc liên tục tập trận ở Biển Đông từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5/2020, trong đó có cả tầu sân bay Liêu Ninh tham gia. Ngân sách quốc phòng cũng được Quốc hội Trung Quốc bỏ phiếu tăng thêm 6,6% ngay cả trong bối cảnh suy thoái kinh tế do đại dịch.

Greg Poling, Giám đốc Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) cho biết : "Hàng ngày có hàng chục tầu hải cảnh Trung Quốc khuấy đảo quanh các đảo ở Trường Sa và có hàng trăm tầu cá sẵn sàng ra khơi. Những hòn đảo này đầy những radar giám sát. Chúng theo dõi được hết những gì xảy ra ở Biển Đông. Trong quá khứ, Trung Quốc không biết bạn khoan dầu ở đâu, giờ thì họ biết chính xác vị trí". Và dĩ nhiên kể cả mọi hoạt động của tầu thuyền trong vùng.

Hoàng Lan (Hà Nội)

Nguồn : Thoibao.de, 01/07/2020

***********************

Vai trò của Việt Nam trong thông điệp ‘mạnh mẽ’ của ASEAN với Trung Quốc

VOA, 30/06/2020

Các nhà lãnh đạo ca Hip hi các Quc gia Đông Nam Á (ASEAN) va đưa ra mt tuyên bố chung, được coi là mnh m nht ca h đi vi các yêu sách ca Trung Quc t trước ti nay và nhn được s hoan nghênh ca M, trong đó nhc ti Công ước Lut bin Liên Hp Quc 1982 và tm quan trng ca t do hàng hi.

asean3

Thủ tướng Vit Nam Nguyn Xuân Phúc (phi) nhn chiếc búa làm ch tch lun phiên ASEAN t Th tướng Thái Lan Prayuth Chan-Ocha ti Bangkok hi tháng 11/2019. Vit Nam, thay mt 10 nước thành viên ASEAN, vừa đưa ra tuyên b vi thông đip mnh m ti Trung Quc.

Trong tuyên bố tm nhìn được đưa ra ti Hi ngh Thượng đnh ASEAN thường niên va được t chc ti Vit Nam qua hình thc trc tuyến trong bi cnh đi dch Covid-19, nhng người đng đu khi Đông Nam Á cho rng Công ước Lut bin ca Liên Hiệp Quốc (UNCLOS 1982) phi là cơ s cho các quyn chủ quyn và quyn li Bin Đông.

Tuyên bố, do Vit Nam – vi tư cách là ch tch luân phiên – giám sát vic son tho và đưa ra thay mt cho khi 10 nước thành viên, nói : "Chúng tôi tái khng đnh rng UNCLOS 1982 là cơ c đ quyết đnh các li ích hàng hài, quyền ch quyn, tài phán và các quyn li chính đáng trên các khu vc hàng hi", trong bi cnh Trung Quc ngày càng có nhng đng thái mnh m nhm tăng cường kim soát Bin Đông trong lúc các quc gia láng ging còn đang vt ln vi đi dch do virus corona bắt ngun t Vũ Hán gây ra.

UNCLOS 1982 chính là cơ s đ tòa trng tài quc tế ti La Haye đưa ra phán quyến bác b đường lưỡi bò 9 đon mà Trung Quc đơn phương tuyên b trên Bin Đông trong v kin vi Philippines năm 2016.

"Tôi không hiểu nội tình của quá trình thương lượng đ ra tuyên b chung nhưng nếu chúng ta nhìn vào ni dung ca bn tuyên b chung thì chúng ta thy có vic nhn mnh ca vai trò lut pháp quc tế đc bit là Công ước Lut bin ca Liên Hiệp Quốc năm 1982", Tiến Lê Hng Hip ca Viện nghiên cu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có tr s Singapore nói. "Theo đánh giá ca nhiu người thì đây có th là mt bước tiến nht đnh khi so vi các bn tuyên b chung trước đây".

Tiến sĩ Hiệp còn cho rng bn tuyên b này "cũng có th coi là s ng hộ ca ASEAN đi vi phán quyết ca tòa trng tài năm 2016 trong v kin gia Philippines và Trung Quc vì phán quyết ca tòa trng tài đu da vào Công ước Lut bin 1982 và bên cnh đó phán quyết cũng ch ra là rt nhiu yêu sách ca Trung Quc trên Bin Đông không phù hợp vi công ước lut bin này".

Bản tho cui cùng ca Tuyên b Tm nhìn, được đăng ti trên trang web ASEAN Vietnam 2020, còn tái khng đnh "tm quan trng ca vic duy trì và thúc đy hòa bình, an ninh, n đnh và t do hàng hi cũng như hàng không trên Bin Đông".

Trung Quốc năm 2013 tuyên b mt khu nhn dng phòng không (ADIZ) trên hu hết khu vc Bin Đông và người phát ngôn ca B Ngoi giao nước này, Triu Lp Kiên, hôm 22/6 khng đnh rng "mi quc gia đu có quyn lp mt ADIZ và quyết đnh có thành lp mt ADIZ hay không da trên cường đ các mi đe dọa mà h phi đi mt trong an ninh quc phòng".

Vai trò chủ tch

Việt Nam, ch tch lun phiên ca ASEAN năm nay, luôn có mt lp trường cng rn hơn các quc gia khác trong khu vực đối vi Trung Quc. Nhng t ng như "các s c nghiêm trng gn đây xy ra ti Bin Đông" trong tuyên b ln này không có trong tuyên b ca năm ngoái khi Thái Lan làm ch tch.

Những tháng gn đây, căng thng gia Vit Nam và Trung Quc tăng cao khi Hà Nội t cáo Bc Kinh đâm chìm mt tàu cá ca ngư dân Vit gn qun đo Hoàng Sa. Trung Quc còn tiến hành các cuc tp trn quân s vào gia tháng 4 và tuyên b thành lp các qun hành chính Hoàng Sa và Trường Sa, mt đng thái mà Hà Ni phn đi.

Trong bài phát biểu khai mc hi ngh cp cao ASEAN ln th 36 hôm 26/6, Th tướng Nguyn Xuân Phúc nói rng "trong khi c thế gii đang gng mình chng dch, vn xut hin nhng hành đng thiếu trách nhim, vi phm lut pháp quc tế, nh hưởng đến môi trường an ninh và ổn đnh mt s khu vc, trong đó có khu vc ca chúng ta".

Tiến sĩ Hiệp, tác gi cun sách "Sng cnh Người khng l : Kinh tế chính tr ca các mi quan h ca Vit Nam vi Trung Quc trong thi kỳ đi mi", cho rng phát biu đó không nói c th ai "nhưng rõ ràng chúng ta hiu là nhc ti hành vi ca Trung Quc".

"Tôi nghĩ đấy là mt nhn xét khách quan và đúng vi s tht", Tiến sĩ Hip nhn đnh v phát biu ca Th tướng Phúc. "Tuy nhiên bn thân các lãnh đo Vit Nam dám nói lên thc tế đy thì tôi nghĩ là một điu đáng ghi nhn trong bi cnh mà Vit Nam lâu nay tương đi dè dt trong các phát biu liên quan ti tình hình Bin Đông liên quan ti Trung Quc".

Mỹ đã lên án vic Trung Quc li dng đi dch virus corona đ tiến hành các hot đng khiêu khích trên vùng biển có nhiu tranh chp cũng như "khuyến thích các quc gia phn đi hành vi sai trái ca Trung Quc", theo như li Đi s Daniel Kritenbrink nói hi cui tháng 4.

Theo Tiến sĩ Hiệp, ngôn t mnh m hơn ca tuyên b chung ASEAN mt phn là do nh hưởng ca vic Vit Nam làm ch tch vì "lâu nay trong lch s t các hi ngh ln trước thì Vit Nam đu có truyn thng là mun đưa vào các tuyên b chung nhng ngôn ng và nhng quan đim tương đi là mnh m, cng rn đi vi vn đ Bin Đông".

"Lần này với tư cách ch nhà, là nước làm ch tch ASEAN luân phiên thì ASEAN có li thế đ đưa các ngôn ng như mình mun vào trong tuyên b này", Tiến sĩ Hip nói.

Tuy nhiên một yếu t khác đóng góp vào "s mnh m hơn so vi các ln trước" trong ngôn t ca tuyên bố ln này, theo Tiến sĩ Hip, mt phn cũng vì "các đng thái gn đây ca Trung Quc trên Bin Đông đã đng chm ti các li ích ca các nước cùng tranh chp khác, ví d như Malaysia, Indonesia và Philippines chng hn. Nhng quc gia này cũng s có li ích trong việc đưa ra được mt bn tuyên b chung có ngôn ng mnh m hơn đ lên án các hành đng ca Trung Quc mt cách trc tiếp hay gián tiếp".

Bắc Kinh chưa lên tiếng v tuyên b tm nhìn ca ASEAN nhưng đã thông báo din tp quân s Hoàng Sa.

Sự hu thun ca M

Ngay sau khi bản tuyên b ca ASEAN 36 v Bin Đông được đưa ra, B trưởng Ngoi giao M Mike Pompeo hôm 27/6 nói rng "Hoa Kỳ hoan nghênh s kiên đnh ca các nhà lãnh đo ASEAN v vic gii quyết tranh chp Bin Đông theo lut pháp quc tế, bao gm Công ước Liên Hp Quc v Lut bin (UNCLOS) 1982". Trong đon chia s v Tuyên b "Tm nhìn v ASEAN gn kết và ch đng thích ng" trên Twitter, ngoi trưởng M còn nói "Trung Quc không được phép coi Bin Đông là đế chế hàng hi ca mình. Chúng tôi sẽ sm tho lun thêm v ch đ này".

"Lâu nay chúng ta thấy rng vn đ tranh chp Bin Đông đã tr thành mt phn trong đi đu chiến lược gia M và Trung Quc ti vì trong bi cnh Trung Quc m rng phm vi nh hưởng ca mình và gia tăng sức mạnh quân s, đc bit trong khu vc Bin Đông, thì nó nh hưởng ti các li ích ca Hoa Kỳ", Tiến sĩ Hip nói. "Chính vì vy mà Hoa Kỳ cũng đã can d ngày càng sâu hơn vào tranh chp Bin Đông. Và trong bi cnh gia tăng cnh tranh chiến lược gia M và Trung Quốc thì s là mt điu d hiu khi mà Hoa Kỳ có xu hướng hu thun các bên tranh chp Đông Nam Á, trong đó có Vit Nam".

Hai ngày sau khi Việt Nam đưa ra tuyên b thay mt các nước ASEAN, các hàng không mu hm ca M hôm 28/6 đã khi đng các cuc tập trận chung trên vùng bin Philippines.

Sau khi Trung Quốc đâm chìm tàu cá Vit Nam hi tháng 3, B Ngoi giao và B Quc phòng M đã ngay lp tc lên tiếng ch trích Trung Quc v hành đng "bt nt" Vit Nam và các nước trong khu vc. Hi tháng 4 va qua, Ngoại trưởng Pompeo đã đưa ra tuyên b v vic tái khng đnh cam kết ca M vi khu vc n Đ Dương-Thái Bình Dương và sc mnh mi quan h hp tác gia M và Vit Nam.

Tuy nhiên sự ng h ca M dù mang li thun li nhưng cũng s là thách thc cho Vit Nam cũng như các quc gia Đông Nam Á khác, theo Tiến sĩ Hip.

"Một mt thì v thế cũng như đòn by v mt ngoi giao ca Vit Nam và các nước Đông Nam Á trong vic đi phó vi các sc ép ca Trung Quc được gia tăng nhưng mt khác nó cũng có th to ra ri ro là bản thân Vit Nam cũng như các nước Đông Nam Á khác s b cun vào cnh tranh chiến lược gia M và Trung Quc, tr thành mt nn nhân theo mt nghĩa nào đó trong cuc đi đu gia (hai cường quc) và điu này có th gây ra nhng h lu lâu dài, khó lường đi vi v thế đc lp, t ch ca các quc gia trong khu vc, trong đó có Vit Nam", Tiến sĩ Hip nói.

Làm sao để va khôn khéo khai thác được s ng h ca M va đng thi không đ b cun vào cnh tranh chiến lược M-Trung Quc s là mt thách thc ln đối vi Vit Nam và các nước Đông Nam Á trong thi gian ti khi đi phó vi Trung Quc, theo Tiến sĩ Hip.

"Tuy nhiên tôi cho rằng bt chp nhng th thách, nhng ri ro như vy thì có s hu thun ca M vn là mt điu rt đáng quý, đáng k đi vi n lc của Việt Nam trong vic chng li các sc ép ca Trung Quc trên Bin Đông".

*************************

Báo Đảng Trung Quốc phản ứng sau tuyên bố ‘mạnh mẽ’ nhất của ASEAN về Biển Đông

VOA, 01/07/2020

Ngay sau khi Việt Nam thay mt các lãnh đo ASEAN đưa ra mt tuyên b được coi là "mnh m" nht t trước ti nay v Bin Đông, trong đó đ cp đến công ước lut bin 1982 và được M hoan nghênh, t Hoàn cu Thi báo ra mt bài xã lun nói truyn thông nước ngoài ám chỉ tuyên b nhm đến Trung Quc và rng s can thip ca M có th là nguyên nhân cho s "t tin" hơn ca các nước Đông Nam Á.

asean4

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại buổi khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN trực tuyến từ Hà Nội hôm 26/6. Việt Nam thay mặt khối đư a ra m ột tuyên bố chung về Biển Đông mà truyền thông quốc tế nói là một thông điệp mạnh mẽ gửi đến Trung Quốc.

Tại Hi ngh Thượng đnh ASEAN ln th 36 do Vit Nam, vi tư cách ch tch luân phiên, t chc qua hình thc trc tuyến, các lãnh đo ca khi đưa ra mt tuyên b chung "tái khng đnh rng UNCLOS (Công ước Lut bin ca Liên Hp Quc) 1982 là cơ s cho vic quyết đnh các li ích hàng hi, quyn ch quyn, tài phán và các quyn li chính đáng trên các khu vc hàng hi".

Tiến sĩ Lê Hng Hip ca Vin nghiên cu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak nói vi VOA hôm 29/6 rng theo đánh giá ca nhiu người thì tuyên b đưa ra hôm 26/6 "có th là mt bước tiến nht đnh khi so vi các bn tuyên b trước đây" và được coi là "s ng hộ của ASEAN đi vi phán quyết ca tòa trng tài năm 2016 trong v kin gia Philippines và Trung Quc".

Ba nhà ngoại giao ca Đông Nam Á không được nêu danh tính có chung ý kiến trên khi nói vi hãng tin AP ca M rng tuyên b cho thy nhóm các nước ASEAN muốn tăng cường khng đnh lut pháp khu vc Bin Đông.

Các hãng tin quốc tế khác cũng cho rng các nhà lãnh đo ASEAN ln này đã gi mt thông đip mnh m nht t trước ti nay đến Trung Quc trong bi cnh Bc Kinh tăng cường các đng thái nhm kim soát Biển Đông gia lúc các nước láng ging đang tp trung chng dch virus corona có ngun gc t Vũ Hán.

Tờ Hoàn cu Thi báo, ph bn ca t Nhân dân Nht báo ca Đng cng sn Trung Quc, hôm 29/6 nói rng truyn thông quc tế nói quá lên rng tuyên b này c th nhm ti Trung Quc.

"So với các tuyên b trước đây ca ASEAN v Bin Nam Trung Hoa (mà Vit Nam gi là Bin Đông), tuyên b ln này dường như đã tăng cường s khng đnh ca h đi vi vùng bin có tranh chp", bài xã lun ca Hoàn cu Thi báo viết, và cho rng có mt s yếu tố đóng góp vào đng thái này.

Một ngày sau khi ASEAN đưa ra tuyên b chung ti Hà Ni, Ngoi trưởng M Mike Pompeo nói Hoa Kỳ hoan nghênh s kiên đnh ca các nhà lãnh đo ASEAN v vic gii quyết tranh chp Bin Đông theo lut pháp quc tế, bao gm UNCLOS 1982, và cảnh cáo "Trung Quc không được phép coi Bin Đông là đế chế hàng hi ca riêng mình".

Hoàn cầu Thi báo cho rng s can thip liên tc ca M trong khu vc có th đã "làm thúc đy s t tin ca ASEAN trong vic tăng cường tuyên b đi vi Bin Đông. Washington tin rằng các vn đ Bin Đông nh hưởng trc tiếp đến li ích ca h, vì vy h s không mun vng mt trong các cuc đàm phán v COC (b quy tc ng x trên Bin Đông)".

Trung Quốc và khi ASEAN đang trong quá trình thương tho mt b quy tắc ng x trên Bin Đông (COC) trong nhiu năm qua và t báo Đng ca Bc Kinh cho rng các thành viên ASEAN có ý đnh duy trì các tuyên b cũng như bo v các li ích ca h trong nhng cuc tho lun sp ti vi Trung Quc. S khng đnh mnh m hơn trong tuyên bố mi nht ca khi ASEAN th hin ý đnh này, theo Hoàn cu Thi báo.

"Trong số nhng nước này, Vit Nam dường như đang đưa ra nhiu yêu sách nht", bài xã lun viết. "Vi tư cách là ch tch luân phiên ca ASEAN trong năm nay, Hà Ni có th lôi kéo các nước khác c gng ti đa hóa li ích ca h trong các cuc đàm phán COC vi Bc Kinh".

Căng thẳng tăng cao trong nhng tháng gn đây gia Trung Quc và Vit Nam cũng như mt s quc gia Đông Nam Á khác, gm Indonesia, Philippines và Malaysia, về Biển Đông. Theo nhn đnh ca Tiến sĩ Hip vi VOA hôm 29/6, điu này cũng góp phn vào s mnh m hơn so vi các ln trước trong ngôn t ca tuyên b ln này vì các đng thái gn đây ca Trung Quc trên Bin Đông đã đng chm ti các li ích ca các nước cùng tranh chấp khác.

Hoàn cầu Thi báo nhc ti s căng thng vi mt s quc gia Đông Nam Á, và nói rng "nhng xung đt gn đây gia Bc Kinh và Hà Ni ch yếu xut phát t s xích mích liên quan đến vic khai khác du khí dưới đáy bin" và rng "Bc Kinh và Jakarta đang tranh cãi về nhng tuyên b ch quyn hàng hi chng ln trên các khu vc Bin Đông".

Hầu hết các tranh chp hàng hi trên khu vc Bin Đông là gia Trung Quc và mt s ít các nước thành viên ASEAN, nên, theo Hoàn cu Thi báo, Trung Quc nên dùng các cơ chế song phương đ thương lượng vi Vit Nam và Indoneisa. Theo nhiu nhà quan sát tng nhn đnh, Trung Quc luôn mun đàm phán song phương vi các nước láng ging có tranh chp trên Bin Đông đ tránh s can thip ca M.

Một bin pháp khác mà bài xã luận ca Hoàn cu Thi báo nói Trung Quc có th thc hin là dn dt dư lun quc tế.

"Các phương tin truyn thông phương Tây hin nay không tr mt n lc nào đ khuy đng rc ri khu vc Bin Đông vi s cường điu vô căn c", bài xã luận viết. "Vi mt câu chuyn quen thuc và git gân, h gieo rc bt hòa gia Trung Quc và mt s nước cùng tuyên b (ch quyn) trong khu vc. Dư lun phương Tây đã phá v nghiêm trng các n đnh hòa bình v vn đ Bin Nam Trung Hoa (tc Bin Đông)".

Tờ báo Đng Trung Quc còn cho rng Bc Kinh phi "n lc hơn na đ m rng hp tác vi các nước ASEAN, đc bit trong lĩnh vc an ninh phi truyn thng, như nghiên cu hàng hi chung, hot đng cu h và trn áp cướp bin. "Nhiu li ích ln nhau có kh năng tạo ra s tin tưởng ln nhau nhiu hơn. Đây là mt cách khác đ gim thiu các vn gia vi các nước Đông Nam Á vi Trung Quc".

Published in Diễn đàn

Dư luận Việt Nam đang quan tâm tin đồn rằng Trung Quốc có thể ra tuyên bố về Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) bao trùm toàn bộ quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa mà Việt Nam xem là thuộc chủ quyền của mình.

asean0

Trung Quốc đã xây dựng và lắp đặt các thiết bị quân sự của Trung Quốc triển khai trái phép ở đá Chữ Thập của Việt Nam. Ảnh : ISI.

Báo Hong Kong South China Morning Post ngày 31/5 dẫn một nguồn tin quân đội Trung Quốc nói Bắc Kinh đã lên kế hoạch cho việc lập ADIZ ở Biển Đông từ năm 2010.

Nguồn này nói cơ quan chức năng Trung Quốc chỉ đang chờ thời điểm thích hợp để công bố.

Trả lời BBC News tiếng Việt, Tiến sĩ Chunjuan Nancy Wei, Đại học Bridgeport, bang Connecticut, Hoa Kỳ, bình luận :

"Có thể đoán rằng kế hoạch ADIZ cho Biển Nam Trung Hoa (South China Sea) có tồn tại.

"Quan tâm chính yếu là liệu Trung Quốc có khả năng thực thi nó trên thực tế không".

Tiến sĩ Chunjuan Nancy Wei, nghiên cứu về tranh chấp Biển Đông, từng được Connecticut College mời để thuyết trình về chính sách Đông Á của Trung Quốc cho các đại diện bộ ngoại giao Việt Nam.

Bà nói : "Việc Trung Quốc có hoạt động xây đắp thành công tại Hoàng Sa và Trường Sa rõ ràng là bước quan trọng hướng tới việc hiện thực hóa vùng ADIZ".

Tuy nhiên, bà nói Trung Quốc nhận thức Vùng Nhận dạng Phòng không ở Biển Đông có thể gây tác hại cho quan hệ với các láng giềng Đông Nam Á, với Mỹ.

"Vì thế Trung Quốc vẫn thận trọng chưa tuyên bố", bà nói.

Hoa Kỳ là nước đầu tiên thành lập vùng ADIZ, năm 1950 trong Chiến tranh Lạnh với Liên Xô.

Nhưng theo tài liệu nghiên cứu của Quốc hội Mỹ, không có luật quốc tế nào cụ thể để quản trị vùng ADIZ, mà chỉ có một số quy tắc thông thường ví dụ tự do đi lại.

Theo định nghĩa chính thức của chính phủ Việt Nam, vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) là "vùng trời đặc biệt được thiết lập có kích thước xác định trong đó tàu bay phải tuân theo các phương thức báo cáo hoặc nhận dạng đặc biệt ngoài các phương thức liên quan đến việc cung cấp dịch vụ không lưu".

Ngày 23/11/2013, Trung Quốc tuyên bố thành lập vùng ADIZ trên biển Hoa Đông, tạo ra phản đối từ nhiều nước gồm cả Nhật và Hàn Quốc.

Tiến sĩ Chunjuan Nancy Wei cho rằng các biện pháp gần đây của Bắc Kinh ở Biển Đông cũng còn là nhắm tới Đài Loan.

"Bắc Kinh thất vọng vì họ là thành viên duy nhất trong Hội đồng Bảo an chưa hoàn tất thống nhất quốc gia".

"Vùng ADIZ sẽ giúp tăng cường độ sâu chiến lược của Bắc Kinh trong quốc phòng khi so với Đài Loan và các láng giềng".

Đối với Việt Nam, nếu Trung Quốc tuyên bố vùng ADIZ ở Biển Đông, dường như có nghĩa là tranh chấp chủ quyền biển đảo đã được đẩy lên cả vùng trời.

Lo ngại về kế hoạch ADIZ của Trung Quốc đặt trong bối cảnh năm 2019 xuất hiện các diễn tiến căng thẳng ở Biển Đông.

Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN thông qua Tuyên bố chung, ngày 31/7/2019, có đoạn : "Chúng tôi đã thảo luận về tình hình ở Biển Đông, trong đó các bộ trưởng bày tỏ lo ngại về việc cải tạo đất, các hoạt động và sự cố nghiêm trọng trong khu vực, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực".

Tháng 10 năm ngoái phát biểu tại Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói : "Tình hình biển Đông gần đây diễn biến phức tạp, trong đó có việc vi phạm nghiêm trọng các vùng biển của Việt Nam được xác định theo luật pháp quốc tế, trái với Tuyên bố DOC và các thỏa thuận cấp cao".

Gần đây hơn, ngày 9/4/2020, Việt Nam gửi Công hàm tại LHQ bác bỏ yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 28/5 Việt Nam lại phản đối Trung Quốc khi có tin binh sĩ Trung Quốc đồn trú trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đã thu hoạch nhiều kg rau xanh nhờ công nghệ trồng rau trên cát.

Phản ứng của Hoa Kỳ cũng gây quan tâm lớn.

Ví dụ ngày 29/5, Hạm đội 7 Hải quân Mỹ nói họ vừa điều khu trục hạm USS Mustin đã đi trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Phú Lâm và đảo Đá Tháp thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Phản ứng ASEAN ?

Nếu một ngày Trung Quốc thực sự tuyên bố đơn phương lập vùng ADIZ ở Biển Đông, liệu có xảy ra xung đột vũ trang ?

Tiến sĩ Chunjuan Nancy Wei nhận định rủi ro chiến tranh phụ thuộc ba yếu tố.

"Liệu tuyên bố ADIZ có đưa ra trong bối cảnh một quốc gia khiêu khích Trung Quốc ?"

"Washington sẽ tuyên truyền thế nào về việc này, vì nó sẽ tác động tới cái nhìn của quốc tế".

"Thứ ba, hành động của Mỹ là gì. Yếu tố thứ ba này quan trọng nhất".

Từ khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố vùng ADIZ ở biển Hoa Đông năm 2013, không lực Trung Quốc đã tiến hành tuần tra trong vùng này.

Tuy nhiên, có vẻ Trung Quốc ít khi thực thi "chấp pháp" với máy bay quân sự và dân sự tại đây.

Quay lại khả năng xảy ra vùng ADIZ của Trung Quốc trên Biển Đông, Tiến sĩ Chunjuan Nancy Wei nói tiếp.

"Nếu Hoa Kỳ chỉ thỉnh thoảng đưa máy bay vào vùng ADIZ, hai nước Mỹ và Trung Quốc sẽ có thể tự tuyên bố họ thành công, giữ mặt mũi cho nhau".

Nhưng với ASEAN, bà cho rằng ASEAN sẽ khó phản ứng công khai chống Trung Quốc "ngay cả nếu kế hoạch ADIZ được thông báo".

"10 nước trong ASEAN vẫn chia rẽ về Trung Quốc", bà chỉ ra.

Nguồn : BBC, 06/06/2020

Published in Diễn đàn

Tại sao Indonesia ban hành công hàm mới về Biển Đông vào lúc này ?

Nguyễn Lý Sơn, RFA, 30/05/2020

Indonesia lên tiếng

Chúng ta còn nhớ ngày 12/12/2019, Malaysia đã tái yêu sách khu vực thềm lục địa mở rộng bằng cách gửi một bản Báo cáo mới cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS). Lần lượt các quốc gia liên quan như Trung Quốc, Philippines và Việt Nam đã gửi các công hàm ngoại giao lên CLCS để tỏ thái độ của mình, qua đó cũng thể hiện quan điểm của mình về tranh chấp Biển Đông.

indo1

Tổng thống Indonesia "Jokowi" Joko Widodo trong chuyến thăm quần đảo Natuna ở Biển Đông hôm 8/1/2020 - AFP

Đặc biệt đã có "cuộc chiến công hàm" giữa Việt Nam với Trung Quốc khi Việt Nam gửi công hàm bác bỏ các lập luận và yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông.

Ngày 26/5/2020, Phái đoàn thường trực Indonesia tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm tới Tổng Thư ký Liên Hợp quốc để thể hiện quan điểm của Indonesia trước các quan điểm của các quốc gia đã kể trên.

Nội dung công hàm của Indonesia ngày 26/5/2020

Cụ thể, Indonesia muốn nhắc lại lập trường của mình như đã thể hiện trong một công hàm trước đây mang số 480/POL-703/VII/10 ngày 8/7/2010, như sau :

1. Indonesia nhắc lại một lần nữa rằng Indonesia không phải là một bên trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông ;

2. Hơn nữa, Indonesia nhấn mạnh rằng lập trường của mình về quyền có vùng biển của các thực thể trên biển như đã thể hiện ở công hàm năm 2010 đã được công nhận bởi Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) giữa nước Cộng hòa Philippines và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Tòa trọng tài Biển Đông), trong đó không có một thực thể nào tại quần đảo Trường Sa có thể có Vùng Đặc quyền Kinh tế hoặc Thềm Lục địa của riêng nó ;

3. Indonesia nhắc lại rằng bản đồ Đường chín đoạn thể hiện yêu sách chủ quyền lịch sử rõ ràng là thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và vi phạm nghiệm trọng UNCLOS 1982. Quan điểm này cũng được công nhận bởi Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài rằng toàn bộ những quyền lịch sử mà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có thể có đối với các nguồn tài nguyên vật chất hay sinh vật đều bị bãi bỏ vì những giới hạn về khu vực biển xác định theo UNCLOS 1982.

Là một quốc gia thành viên của UNCLOS 1982, Indonesia kiên trì kêu gọi tuân thủ luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982. Indonesia sau đây tuyên bố rằng Indonesia sẽ không bị ràng buộc bởi bất kỳ yêu sách nào trái với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Phái đoàn thường trực nước Cộng hòa Indonesia tại Liên Hợp quốc xin đề nghị lưu hành công hàm này tới toàn bộ thành viên của Ủy ban về Ranh giới thềm lục địa (CLCS), toàn bộ các quốc gia thành viên của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển, và tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp quốc.

Công hàm này của Indonesia thể hiện điều gì

Công hàm mới đây của Indonesia là văn bản mới nhất trong loạt công hàm từ các nước ASEAN và Trung Quốc sau khi Malaysia gửi lên Liên Hiệp Quốc bản đệ trình tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông ngoài khơi bờ biển phía Bắc nước này, nhiều khả năng là khu vực giàu tài nguyên.

Greg Poling, chuyên gia từ Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) của Mỹ cho rằng động thái của Indonesia cung cấp một "cơ sở quan trọng" cho Manila để theo đuổi phán quyết lịch sử bác bỏ "đường 9 đoạn" của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây cũng là lần hiếm hoi Indonesia đề cập với Liên Hiệp Quốc về phán quyết của Tòa trọng tài ở La Haye (The Haag) năm 2016.

Trong công hàm, Indonesia cũng công khai đề cập đến phán quyết của Tòa trọng tài năm 2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, theo đó "không có bất kỳ thực thể nào thuộc Quần đảo Trường Sa được phép lấy làm căn cứ để tính Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hay Thềm lục địa".

Indonesia cũng chỉ trích "đường 9 đoạn" phi pháp của Trung Quốc lấn chiếm các vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của một số quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Philippines. Tiếp nối từ công hàm năm 2010, Indonesia tái khẳng định rằng bản đồ "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc yêu sách về quyền lịch sử hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và có mức độ nghiêm trọng tương đương việc vi phạm UNLCOS 1982. Quan điểm này cũng đã được công nhận bởi phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài, trong đó nói rằng mọi quyền lịch sử mà Trung Quốc đòi hỏi đối với các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật đều bị bác bỏ bởi giới hạn về vùng biển được xác định theo UNLCOS 1982.

Indonesia cũng cho rằng rằng bản đồ "đường lưỡi bò" ngụ ý yêu sách quyền lịch sử rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và tương đương với việc làm đảo lộn UNCLOS 1982.

Như vậy, việc Indonesia gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc về vấn đề Biển Đông đã tăng thêm sức nặng cho một loạt động thái ngoại giao gần đây của các nước thành viên ASEAN phản đối các yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Cả 4 quốc gia : Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia mặc dù có những lợi ích khác nhau nhất định, nhưng các quốc gia này đều thống nhất với nhau ở hai điểm. Thứ nhất là các quốc gia đều phản đối "đường lưỡi bò" vì những sự tham lam và đi ngược lại UNCLOS 1982. Thứ hai, tất cả các quốc gia này đều viện dẫn Phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài, coi đó là một phần quan trọng trong luật biển quốc tế nói chung khi diễn giải điều 121 UNCLOS 1982. Theo đó, không có thực thể nào thuộc Trường Sa có thể có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa kèm theo.

Có thể nói hành động của Indonesia đã tạo ra một nền tảng mới cho sự đoàn kết của các quốc gia ASEAN trước vấn đề này. Đặc biệt với sự thể hiện quan điểm như trên của Indonesia - quốc gia lớn nhất của ASEAN.

Hồi đầu tháng 5, Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi đã tuyên bố Jakarta đang theo sát các diễn biến gần đây ở Biển Đông. Bà nhấn mạnh : "Indonesia quan ngại về các động thái gần đây ở Biển Đông, nơi có nguy cơ leo thang căng thẳng vào thời điểm toàn thế giới cần nỗ lực phối hợp chống Covid-19. Indonesia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, bao gồm đảm bảo tự do hàng hải và vùng trời ở khu vực này, đồng thời kêu gọi tất cả các bên tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS)".

Ngoại trưởng Indonesia cũng lưu ý trong bối cảnh các cuộc đàm phán COC bị ngưng trệ, tất cả các quốc gia liên quan nên thể hiện sự kiềm chế : "Chúng ta duy trì cam kết đảm bảo có được một COC hiệu quả, thực chất và khả thi bất chấp diễn biến hiện nay của đại dịch Covid-19". Đó cũng chính là mục tiêu quan trọng mà các nước ASEAN cần phải hướng tới.

Chính vì vậy, dư luận đang trông đợi Việt Nam, với tư cách là Chủ tịch của ASEAN năm nay có thể kết nối và tạo ra sự đồng thuận cần thiết trong ASEAN để có thể cùng nhau cất lên tiếng nói thống nhất trong tiến trình tìm kiếm COC cho Biển Đông.

Nguyễn Lý Sơn

Nguồn : RFA, 30/05/2020

**********************

Việt Nam, Đài Loan, Hồng Kông trong tâm bão cuộc đọ sức Mỹ - Trung

Minh Anh, RFI, 30/05/2020

Liệu Hoa Kỳ có quay trở lại cảng Cam Ranh của Việt Nam hay không ? Trung Quốc và Mỹ đọ sức ở đại hội đồng Y tế Thế Giới, ai thắng ai thua ? Tương lai nào cho quan hệ Trung Quốc - Đài Loan ? Tăng ngân sách quốc phòng, phải chăng Trung Quốc muốn tiếp tục khẳng định thế siêu cường ? Và Hồng Kông, thời kỳ tự do sắp chấm dứt ? Trên đây là những câu hỏi lớn trong tháng Năm này.

indo2

Mỹ và Trung Quốc đối đầu nhau trong mọi phương diện. Reuters/Hyungwon Kang/Files

Việt Nam khó có thể để Mỹ trở lại vịnh Cam Ranh

Tháng Năm chập chờn bóng đen một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong cuộc khẩu chiến giữa hai siêu cường hàng đầu thế giới liên quan đến nguồn gốc dịch bệnh virus corona chủng mới, tổng thống Mỹ Donald Trump dọa cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Lời đồn thổi rộ lên từ cuối tháng 4 đầu tháng 5/2020 cho rằng Mỹ muốn quay trở lại vịnh Cam Ranh của Việt Nam chẳng khác gì như châm thêm dầu vào lửa.

Theo phân tích của chuyên gia người Úc, Carl Thayer, giáo sư danh dự Học Viện Quốc Phòng Úc với ban tiếng Anh đài RFI, điều này khó thể xảy ra do chính sách "Ba Không" của Việt Nam. Ông cũng ghi nhận là số lần tầu chiến Mỹ cập cảng Việt Nam ngày một nhiều : "Về vịnh Cam Ranh, vài năm gần đây, Hoa Kỳ đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa tại Việt Nam".

Dù vậy, giáo sư Carl Thayer thận trọng cảnh báo : "Bất chấp chuyến thăm cảng Đà Nẵng của hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt, ba chuyến thăm khác của tầu chiến Mỹ và cuộc thăm chính thức Việt Nam của tổng thống Obama, Trung Quốc vẫn là đối tác kinh tế lớn nhất của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Mỹ. Kinh nghiệm lâu nay của tôi về Việt Nam cho thấy Hà Nội chẳng được lợi gì khi xem Trung Quốc là kẻ thù vĩnh viễn của họ".

WHO : Trung Quốc ghi một điểm trước Mỹ ?

Ngày 19/05/2020, Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) kết thúc cuộc họp đại hội đồng trong bối cảnh Hoa Kỳ và Trung Quốc đối chọi nhau gay gắt về nguồn gốc dịch bệnh Covid-19 và cách xử lý cuộc khủng hoảng của WHO, bị Mỹ tố cáo là "theo đuôi" Trung Quốc.

Trước sức ép của Mỹ, WHO thông qua một nghị quyết yêu cầu "đánh giá độc lập và khách quan" hoạt động của cơ quan này trong công cuộc đối phó với dịch Covid-19. Nhưng nghị quyết này không tháo gỡ được áp lực đe dọa của Mỹ. Tổng thống Donald Trump kỳ hạn cho Tổ chức Y tế Thế giới trong vòng một tháng để cải cách cụ thể, nếu không, Hoa Kỳ sẽ rút ra khỏi Tổ Chức.

Về điểm này, chuyên gia địa chính trị Pascal Boniface, Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược IRIS đánh giá như sau :

"Trên bình diện ngoại giao, đương nhiên Trung Quốc đã thắng. Một phần là vì cam kết của chủ tịch Tập Cận Bình. Nếu Trung Quốc tìm ra được vác-xin, đây sẽ được xem như là tài sản chung của thế giới, và như vậy sẽ được đưa ra sử dụng đại trà. Cam kết này còn nhằm chống lại những tuyên bố của lãnh đạo người Anh hãng dược Sanofi, cho rằng vác-xin tìm được trước hết sẽ dành cho thị trường Mỹ. Tiếp đến là do sự vắng bóng của Trump đã nhường chỗ cho Trung Quốc.

Chúng ta có thể nghĩ rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng là bên thắng cuộc trong lần họp này. Cuộc họp gây quỹ mà Liên Hiệp Châu Âu tổ chức hôm 08/5 để tìm nguồn tài trợ cho việc nghiên cứu một vác-xin đã thành công, quyên góp được 8 tỷ euro. Và Châu Âu đã đưa ra được một hình ảnh đa phương, không bị nghi ngờ giấu giếm như Trung Quốc, hay có sự thèm muốn trá hình. Do Hoa Kỳ thoái lui, sự có mặt của Liên Hiệp Châu Âu khẳng định sự hiện diện của phương Tây, và như vậy cũng nhằm không để Trung Quốc là cường quốc duy nhất độc chiếm địa bàn".

Chuyên gia Anh : "Bắc Kinh không tha thứ cho tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn"

Ngày 20/05/2020, trong bài phát biểu nhậm chức nhiệm kỳ hai tổng thống Đài Loan, bà Thái Anh Văn khẳng định người dân Đài Loan sẽ không chấp nhận đánh đổi "Hòa bình, Bình đẳng, Dân chủ và Đối thoại" cho nguyên tắc "Một quốc gia, hai chế độ" mà Bắc Kinh đang sử dụng để thâu tóm Đài Loan và làm thay đổi nguyên trạng giữa đôi bờ eo biển.

Ông Steve Tsang, chuyên gia ngành Nghiên Cứu Phương Đông và Châu Phi (SOAS) trường Đại học Luân Đôn, trả lời câu hỏi đài RFI nhận định về tương lai quan hệ hai bên bờ eo biển trong bốn năm tới sẽ không mấy gì sáng sủa hơn so với bốn năm vừa qua.

"Trong bốn năm tới chúng ta sẽ chứng kiến một sự tiếp nối nếu không muốn nói là xuống cấp trong mối quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc, vốn dĩ đã rất căng thẳng. Đài Loan là một ví dụ điển hình cho thấy làm thế nào một đất nước dân chủ, về văn hóa và chủ yếu là người Hoa, đã xử lý tốt cuộc khủng hoảng Covid-19.

Đây chính là một sự tương phản rõ nét trước sự bất lực của Trung Quốc hồi đầu mùa dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc, rõ ràng tỏ ra khó chịu và tức giận, chắc chắn sẽ không tha thứ cho Thái Anh Văn về việc đã chống dịch thành công và tái đắc cử trên cơ sở một cương lĩnh không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc về Đài Loan".

Ngân sách quốc phòng Trung Quốc : Vẫn tăng cho dù khủng hoảng kinh tế.

Khóa họp Quốc hội thường niên của Trung Quốc ngày 22/05/2020, sau hơn hai tháng rưỡi bị trễ vì dịch bệnh Covid-19 đã tập trung mọi sự chú ý của giới quan sát. Lần đầu tiên Trung Quốc không thông báo mục tiêu tăng trưởng kinh tế như thông lệ. Ngược lại, Bắc Kinh cho biết duy trì mức tăng ngân sách quốc phòng ở mức 6,6%.

Theo nhận định của ông Mathieu Duchâtel, giám đốc chương trình Châu Á, Viện Montaigne với đài RFI, bất chấp bối cảnh kinh tế khó khăn, công cuộc hiện đại hóa quân đội Trung Quốc vẫn được tiếp tục.

"Những năm gần đây, mối tương quan giữa ngân sách quốc phòng và tăng trưởng kinh tế là khá mạnh. Thường thì tăng trưởng kinh tế thấp hơn mức tăng quốc phòng một điểm. Ví dụ như trong năm 2019, mức tăng chính thức cho quốc phòng là 7,5%, trong khi tăng trưởng kinh tế là 6,5%.

Năm nay, chúng tôi vẫn chưa có số liệu về tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, nhưng chúng ta cũng có thể dự đoán bởi vì Ngân hàng Thế giới đưa ra con số là -3%, nhưng con số này có thể còn tệ hơn nữa. Tín hiệu mà Trung Quốc muốn đưa ra là quốc phòng vẫn là yếu tố được bảo đảm, tránh không bị tác động của khủng hoảng kinh tế, tiếp tục được tăng cường, đồng thời gởi đến quốc tế một tín hiệu về sức mạnh và ổn định".

Hồng Kông : Quy chế "Một quốc gia, Hai chế độ" đã chấm dứt ?

Đỉnh điểm thời sự tháng Năm là cuộc khủng hoảng ở Hồng Kông lại trỗi dậy, với việc Trung Quốc thông qua Luật An ninh Quốc gia mới. Đạo luật nghiêm cấm và trừng phạt mọi hành vi "phản bội, ly khai, phản loạn, và lật đổ" chế độ sẽ được áp đặt với Hồng Kông. Người dân đặc khu hành chính lên án đây là một biện pháp bóp nghẹt "các quyền tự do". Hoa Kỳ lập tức phản ứng dọa rút "quy chế ưu đãi thương mại" đối với Hồng Kông.

Trên đài RFI, ông Jean-Philippe Béja, giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Gia Pháp, chuyên gia về chính trị Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh đã "thất hứa" với chính những cam kết của mình đưa ra vào thời điểm Anh Quốc nhượng địa.

"Đây là một sự thay đổi sâu rộng đến mức người ta không khỏi nghi ngờ việc gìn giữ công thức "Một nhà nước, Hai chế độ". Luật Cơ Bản - một dạng Hiến pháp của Hồng Kông ghi rất rõ là Luật quốc gia, tức là luật của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không thể áp dụng ở Hồng Kông ngoại trừ các lĩnh vực ngoại giao và quốc phòng. Luật an ninh vùa được thông qua chẳng liên quan gì đến ngoại giao cũng như quốc phòng cả. Hơn nữa, lúc đầu, chính quyền Hồng Kông từng nói là không thể sửa đổi Luật Cơ Bản Hồng Kông trong một sớm một chiều, thế rồi chỉ trong một đợt nghỉ cuối tuần, họ đã thay đổi ý kiến.

Việc thông qua dự luật về an ninh cho thấy là Bắc Kinh hoàn toàn coi thường những cam kết mà họ đã đưa ra vào năm 1984 và năm 1990 khi thiết lập Luật Cơ Bản và muốn áp đặt đạo luật này ở Hồng Kông vì Trung Quốc hiểu rõ là người dân Hồng Kông đang đứng dậy chống lại mọi hành động can thiệp của Bắc Kinh. Và nhất là chính quyền Hồng Kông hiện nay tuân theo lệnh của Bắc Kinh, đã hoàn toàn bất lực không làm được bất kể điều gì để có được ảnh hưởng đối với xã hội Hồng Kông".

Minh Anh

Nguồn : RFI, 30/05/2020

Published in Diễn đàn
Trang 1 đến 2