Biển Đông từ lâu được coi là nguyên nhân chính gây căng thăng và bất ổn tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Làm rõ quan điểm của các bên yêu sách là một nhiệm vụ nghiên cứu nhằm tạo ra các biện pháp xây dựng lòng tin và tăng cường nỗ lực để kiểm soát những xung đột có thể xảy ra trong khu vực. Mục đích của bài viết này nhằm làm rõ quan điểm của Việt Nam về tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và các vùng biển tại Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam sẽ được xem xét trên ba khía cạnh : (1) chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa ; (2) các vùng biển bao quanh hai quần đảo này ; và (3) giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.
Trường Sa Lớn, đảo thủ phủ huyện đảo Trường Sa, nơi Việt Nam ngày đêm bảo vệ chủ quyền
1. Giới thiệu
Hoàng Sa (tiếng Anh : Paracels, tiếng Trung : Tây Sa) và Trường Sa (tiếng Anh : Spratlys, tiếng Trung : Nam Sa) là hai quần đảo nằm ở trung tâm của Biển Đông (tên quốc tế : South China Sea, Việt Nam gọi là Biển Đông, Philippines gọi là Biển Tây). Tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa đã tồn tại hơn một trăm năm và đối với quần đảo Trường Sa đã tồn tại tám mươi năm. Ban đầu, tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa chỉ phát sinh giữa hai bên tranh chấp là Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng do sự thay đổi về địa chính trị sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự phát triển của khoa học công nghệ cả về lĩnh vực dân sự và quân sự, khủng hoảng dầu mỏ và trật tự pháp lý trên biển mới được xác lập bởi luật biển giữa những năm 1970 và 1980, tranh chấp chủ quyền đã mở rộng tới quần đảo Trường Sa và các vùng biển xung quanh hai quần đảo này.
Cũng có một số các bên tranh chấp như Anh và Nhật Bản đã có yêu sách đối với một số đảo nhưng sau đó đã từ bỏ. Kể từ năm 1956, đặc biệt cuối những năm 1970 đã xuất hiện các bên tranh chấp mới như Philippines, Malaysia và Brunei. Sau hai cuộc hải chiến vào năm 1974 và 1988, Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một số đảo đá tại quần đảo Trường Sa. Sự kiện Vành Khăn năm 1995 giữa Trung Quốc và Philippines đã đưa ASEAN và Trung Quốc đến đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC), kết quả đầu tiên của tiến trình này là việc kí kết Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) năm 2002 [1] . Ngay sau khí ký kết DOC, tình hình ở Biển Đông đã hạ nhiệt trong một vài năm. Tuy nhiên, từ 2009 sau khi Phái đoàn thường trực của Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa (PRC) tại Liên hợp quốc đệ trình bản đồ hình chữ U (đường đứt khúc 9 đoạn) lên Ủy ban Liên hợp quốc về Ranh giới thềm lục địa (CLCS), những tuyên bố về "lợi ích cốt lõi" [2] của Trung Quốc và "lợi ích quốc gia" [3] của Mỹ tại Biển Đông thì tình hình tại đây lại căng thẳng trở lại và làm dấy lên mối lo ngại sâu sắc đối với cộng động quốc tế. Lịch sử tranh chấp phức tạp và những nỗ lực bất thành trong việc tìm kiếm các giải pháp giải quyết tranh chấp có thể chấp nhận được đã khiến cho những tranh chấp ở Biển Đông trở thành một trong những tranh chấp phức tạp nhất trong bản đồ chính trị quốc tế [4].
Hiện tại, Việt Nam và Trung Quốc yêu sách toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi Brunei, Malaysia và Philippines yêu sách một phần hoặc hầu hết đối với quần đảo Trường Sa [5]. Có rất nhiều bài viết làm rõ quan điểm của các bên và đề xuất các giải pháp cho tranh chấp [6]. Một vài lý do đã được đưa ra để giải thích cho sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông : vị trí địa lý của Biển Đông ; tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông ; cuộc chạy đua đối với quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại khu vậy này ; thiếu sự rõ ràng của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) về quy chế của đảo và đảo đá, và những tình cảm dân tộc. Để hiểu được tình hình này, nghiên cứu về quan điểm của các bên trong tranh chấp dưới ánh sáng của sự pháp triển của luật pháp và thực tiễn quốc tế là điều cần thiết.
Bài viết này không cố gắng nghiên cứu toàn diện về quan điểm của tất cả các bên tranh chấp và các bên liên quan. Bài viết cũng không có tham vọng phân tích tất cả sự phát triển của luật pháp quốc tế có thể ảnh hưởng đến cuộc cạnh tranh về chủ quyền và các quyền tại Biển Đông. Việt Nam là một trong các bên tranh chấp bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi xung đột Biển Đông. Do đó, bài viết này chỉ nghiên cứu quan điểm của Việt Nam về tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông. Quan điểm của Việt Nam sẽ được xem xét trên ba khía cạnh : (1) chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa ; (2) các vùng biển xung quanh các đảo này ; và (3) giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp (ảnh Hồng Chuyên)
2. Quan điểm của Việt Nam về chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 30 đảo nhỏ, đá và bãi nửa nổi nửa chìm, trong khoảng vĩ độ 16o – 17o Bắc và kinh độ 111o – 113o Đông trên một vùng biển rộng khoảng 16000 km2. Quần đảo Trường Sa nằm trong khoảng vĩ độ 12o – 4o Bắc và kinh độ 109o – 118o Đông, bao gồm hàng trăm đảo, đá, bãi nửa nổi nửa chìm trải trên vùng biển rộng gấp 10 lần vùng biển của quần đảo Hoàng Sa, khoảng 160000 và 180000 km2. Hai quần đảo này còn có một số lượng lớn bãi ngầm và bãi san hô. Khoảng cách từ quần đảo Hoàng Sa đến điểm gần nhất của đất liền Việt Nam (cảng Đà Nẵng) là 170 hải lý và đảo Hải Nam Trung Quốc là 160 hải lý. Quần đảo Trường Sa cách Vịnh Cam Ranh (Việt Nam) 250 hải lý và cách Đảo Hải Nam Trung Quốc 520 hải lý [7]. Trong một thời gian dài, những chấm nhỏ li ti của hai quần đảo này chỉ được biết đến như những điểm cực kỳ nguy hiểm đối với các nhà hàng hải hay là nơi trú ẩn của ngư dân trong khu vực [8]. Đến đầu thế kỉ 17, các triều đại của Việt Nam (nhà Nguyễn và Tây Sơn) là những triều đại đầu tiên thực hiện chức năng nhà nước đối với những hòn đảo không có người sinh sống và xa xôi này. Làn sóng chiếm hữu thường xuyên những hòn đảo không có người sinh sống, nghèo tài nguyên và không có nước sạch này diễn ra lần đầu tiên vào giữa những năm 1920 và 1930 khi Pháp, đại diện cho Triều đình phong kiến Việt Nam trong mọi quan hệ đối ngoại từ năm 1884, phái những đội quân thường trú tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ khi Pháp và Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Giữa những năm 1950, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa đã tiếp quản phía tây quần đảo Hoàng Sa trong khi Trung Quốc tiếp quản phía đông. Tại quần đảo Trường Sa, quân Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình (Itu Aba), một số đảo khác dưới sự kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa. Giai đoạn chiếm đóng thứ 3 diễn ra giữa những năm 1970 và 1980 khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát phía tây quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1976, miền Bắc và miền Nam Việt Nam hợp nhất thành Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Philippines tham gia vào tranh chấp Trường Sa từ những năm 1970 trong khi đó Malaysia lần đầu tiên kiểm soát một đảo thuộc quần đảo này vào năm 1983. Giai đoạn chiếm đóng thứ 4 được đánh dấu bởi sự có mặt lần đầu tiên của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa sau một cuộc va chạm ngắn với tàu vận tải của hải quân Việt Nam. Quan điểm của Việt Nam và các bên tranh chấp khác có thể tìm hiểu bằng cách phân chia lịch sử tranh chấp thành các giai đoạn thích hợp. Hành động của các bên qua đó có thể xem xét dưới ánh sáng của luật thời điểm.
A. Trước thế kỉ 20 (xem tài liệu đính kèm, PDF)
B. Từ đầu thế kỷ 20 cho đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II (xem tài liệu đính kèm, PDF)
Quan điểm của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.pdf
Hải chiến Trường Sa 1988
Nguyen, Hong Thao
Nguyên tác : "Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys : Its Maritime Claims", Journal of East Asia and International Law, 5 (1), pp. 165-211.
Nguyễn Thái Giang, Nguyễn Thị Lan Hương, Quách Thị Huyền biên dịch
Việt Long hiệu đính
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 20/06/2013
Tài liệu trích dẫn :
[1] Xem "Tuyên bố về ứng xử giữa các bên tại Biển Đông giữa ASEAN – Trung Quốc", được kí nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 tại vào ngày 14/11/2002 http://www.aseansec.org/13163.htm
[2] Carlyle Thayer, China’s Core interest in the South China Sea, SCRIBD, Sep. 17, 2010
http://www.scribd.com/doc/38047349/Thayer-China-s-Core-Interest-in-the-South-China-Sea .
[3] Xem "Remarks by Hilary Clinton, Secretary of State" tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, ARF 17, Hà Nội, Việt Nam, 23/7/2010.
http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm
[4] HungdahChiu & Choon-hoPark, Legal Status of the Paracels and SpratlysIslands, 3 Oean Dev. & Intl. L. 3 (1975).
[5] Tại đây, Trung Quốc và Việt Nam được coi như một bên tranh chấp vì có cùng quan điểm đối với tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa.
[6] Greg Austin, China's Ocean Frontier : International Law, Military Force and National Development (1998) ; Bob Catley & Malmur Keliat, Spratlys : The Dispute in the South China Sea (1997) ; Robert Beckman, China, UNCLOS and the South China Sea, Asian Soc'y Int'l L. 3rd Biennial Conference Paper 12 (2011) http://cil.nus.edu.sg/wp/wp-content/uploads/2009/09/AsianSIL-Beckman-China-UNCLOS-and-the-South-China-Sea-26-July-2011.pdf ; John Chao, South China Sea : Boundary Problems Relating to the Nansha and Hsisha Islands, 9 Chinese Y.B. Int'l L. & AFF. 66-156 (1989-1990) ; Lee G. Cordner, The Spratly Islands Dispute and the Law of the Sea, 25 Oean Dev. & Intl. L. 61 (1994) ; Monique Chemillier-Gendreau, Sovereignty over the Paracel and Wpratly Islands (2000) ; Jorge Coquia, Maritime Boundary Problems in the South China Sea, 24 U. Brit. Colum. L. Rev. 117-125 (1990) ; Coopera tive Monitoring in the South China Sea : Satellite Imagery, Confidence-Building Measures, and the Spratly Islands Disputes (John Baker & David Wiencek eds. 2002) ; Eric Denégé, Géostratégie de la Mer de Chine méridionale et des bassins maritimes adlacents (1999) ; Daniel Dzurek, The Spratly Islands Dispute : Who’s On First ?, 2 Mar. Briefing (1996) ; Alex Elferink, The Islands in the South China Sea : How Does Their Presence Limit the Extent of the High Seas and the Area and the Maritime Zones of the Mainland Coasts ?, 32 Oean Dev. & Intl. L. 169-190 (2001) ; Fishing in Troubles Waters. Proceedings of an Academic Conference on Territorial Claims in the South China Sea (Ronald Hill et al. eds. 1991), 97 Centre of Asian Studies Occasional Papers & Monographs ; Xavier Furtado, International Law and the Dispute Over the Spratly Islands : Whither UNCLOS ? 21 Contemp. Southeast Asia 386-404 (1999) ; Marius Gjetnes, The Spratlys : Are They Rocks or Islands ?,32 Oean Dev. & Intl. L. 191-204 (2001) ; B.A. Hamzah, Jurisdictional Issues and Conflicting Claims in the Spratlys, 11 Foreign Rel. J. 1-26 (1990) ; Christopher Joyner, The Spratly Islands Dispute : Rethinking the Interplay of Law, Diplomacy and Geo-politics in the South China Sea, 13 Int'l J. Mar. & Coastal L. 193-236 (1998) ; Van Hoi Luu, The Sino-Vietnamese Difference on the Hoang Sa and Truong Sa Archipelagoes (1996) ; R. Haller-Trost, The Spratly Islands : A Study on the Limitations of International Law (1990) ; Dieter Heinzig, Disputed Isl ands in the South China Sea : Paracels, Spratlys, Pratas, MacClesfield Bank, (1976) ; Kriangsak Kittichaisaree ; The Law of the Sea and Maritimer Boundary Delimitation in South-East Asia (1987) ; Chiu & Park, chú thích 4 ; Victor Prescott, Limits of National Claims in the South China Sea (1999) ; Victor Prescott, The Gulf of Thailand : Maritime Limits to Conflict and Cooperation (1998) ; Eric Hyer, Special Issue : The South China Sea Territorial Disputes, 12 am. Asian Rev. 1-209 (1994) ; War or Peace in the South China Sea ? (Timo Kivimaki ed. 2002) ; Hong Thao Nguyen, Le Vietnam et ses différends maritimes dans la Mer de Chine méridionale (2004) ; Hong Thao Nguyen & Ramses Amer, Managing Vietnam Maritime Boundary Disputes, 38 Oean Dev. & Intl. L. (2007) ; Marwyn Samuels, Contest for the South China Sea (1982) ; Mark Valencia & Jon Van Dyke & Noel Ludwig, Sharing the Resources of the South China Sea (1997) ; Hong Thao Nguyen & Ramses Amer, A New Legal Arrangement for The South China Sea, 40 Oean Dev. & Int'l. L. 333-349 (2009) ; Zou Keyuan, SouthChina Sea Studies in China : Achievements, Constraints and Prospects, 11 SING. Y.B. Int'l L. 85 (2007).
[7] Sách trắng Bộ Ngoại giao Việt Nam năm 1988, The Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Archipelagoes and International Law 32(1988), tại http://www.presscenter.org.vn/ en//images/42905-bngvietnam88.pdf (truy cập ngày 30 tháng 3, 2012).
[8] Chemillier-Gendreau, chú thích số 6, tr.16 ; Samuels, chú thích số 6, tr.40.
****************************
C. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Cộng Hòa Trung Hoa chiếm phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa và Itu Aba (đảo Ba Bình theo tiếng Việt), một đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng thời gian, Pháp và Chính quyền Bảo Đại tái chiếm phần phía tây của Hoàng Sa và một số đảo của Trường Sa. Phần phía đông của Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa từ năm 1956. Phần phía tây của Hoàng Sa bị Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm vào năm 1974. Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa chiếm được quyền kiểm soát một số đảo tại Trường Sa lần đầu tiên vào năm 1988 thông qua việc sử dụng vũ lực. Kể từ đó, Trung Quốc đã mở rộng kiểm soát lên đến 9 đảo đá tại khu vực quần đảo Trường Sa. Philippines lần đầu tiên vào năm 1978 chính thức yêu sách chủ quyền với hầu như toàn bộ quần đảo Trường Sa (gọi tên là Nhóm đảo Kalayan – Nhóm đảo Tự do, KIG) theo cách của gọi của Philippines), trừ đảo Trường Sa. Malaysia yêu sách chủ quyền với phần phía nam của quần đảo Trường Sa thông qua việc phát hành các bản đồ vào năm 1979. Trong bối cảnh này, năm 1976, nước Việt Nam thống nhất tiếp tục duy trì quan điểm là danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, được củng cố một thời gian dài bởi các Vua và Chúa Nguyễn cũng như là các chính quyền Pháp thuộc và Sài Gòn, chưa bao giờ bị từ bỏ cả. Việt Nam Cộng Hòa tiếp nhận danh nghĩa chủ quyền, quyền và các yêu sách từ Pháp đối với các đảo phù hợp với Hiệp định Geneve năm 1954 – Ba Hiệp định về Ngừng chiến với Việt Nam, Lào và Campuchia [1]. Là bên nắm giữ danh nghĩa chủ quyền hợp pháp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nam Việt Nam đã thực hiện tổ chức quản lý hành chính, khai thác kinh tế và bảo vệ hiệu quả hai quần đảo này.
Năm 1956, Bộ Kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa đã cấp phép khai thác phân chim trên đảo Quang Ảnh, Hữu Nhật và Phú Lâm cho Lê Văn Cang. Năm 1959, giấy phép cũng được cấp cho Công ty Phốt-phát Việt Nam đảm nhiệm việc khai thác phân chim cho đến tận năm 1963. Năm 1973, một nghiên cứu chung đã được triển khai bởi Công ty và đối tác Nhật Bản – Tập đoàn Marubeni. Về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa đã được chuyển từ tỉnh Thừa Thiên sang tỉnh Quảng Nam theo Nghị định số N 174-NV ngày 13/7/1961. Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tuần tra thường xuyên tại các vùng nước quanh khu vực các đảo.
Đối với Trường Sa, hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã đến Trường Sa và dựng bia thể hiện chủ quyền vào ngày 22/8/1956. Với Nghị định 143/VN ngày 20/10/1956, quần đảo Trường Sa đã được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy. Từ 11 đến 16/6/1961, các tàu hộ vệ Vân Đồn và Vạn Kiếp (HQ02 và HQ06) đã được điều đến tuần tra các đảo Song Tử Đông, Thị Tứ, Loại Ta và An Bang thuộc quần đảo Trường Sa. Các đơn vị hải quân đến đảo Trường Sa, An Bang, Loại Ta, Thị Tứ, Song Tử Đông, Song Tử Tây, Nam Yết năm 1962, 1963 và 1964 nhằm mục đích dựng các cột chủ quyền đối với các đảo này. Ngày 6/9/1973, với Nghị định N 420 – BNV/HCDP/26, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy [2].
Việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974 của Trung Quốc là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và không thể tạo ra một danh nghĩa pháp lý cho quần đảo này. Quan điểm này đã được khẳng định chắc chắn nhiều lần trong các Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Việt Nam phát hành (cả Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) [3], các Tuyên bố của Chính phủ đối với các vùng biển của Việt Nam và về đường cơ sở vào các năm 1977 và 1982 ; Nghị quyết 1994 của Quốc hội phê chuẩn UNCLOS và các phát biểu chính thức của lãnh đạo Việt Nam. Ví dụ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tái khẳng định trước Quốc hội vào ngày 25/11/2011 rằng : "Chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Chúng ta đã kiểm soát hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17, khi chưa có một quốc gia nào yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo này" [4]. Hiện nay, Việt Nam kiểm soát hơn 20 đảo, bãi cát, đá thuộc quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc giữ quan điểm rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của mình và Việt Nam đã hơn một lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo này [5]. Yêu sách này dựa trên bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 liên quan đến chiều rộng của các vùng lãnh hải của Trung Quốc, Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phản kháng việc Chính phủ Mỹ ấn định khu vực chiến đấu của lực lượng vũ trang Mỹ năm 1965, và phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm vào năm 1956. Dựa vào các bằng chứng này, Trung Quốc tuyên bố rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [6]. Chúng tôi sẽ không xem xét phát biểu của ông Ung Văn Khiêm bởi vì không có bằng chứng trung lập. Ông Ung Văn Khiêm không có quyền hạn công nhận hay từ bỏ lãnh thổ. Bài phát biểu, nếu tồn tại, không diễn ra trong bối cảnh đàm phán về lãnh thổ. Hai tài liệu khác phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam bị chia cắt trong giai đoạn 1954 – 1975 cùng với mối quan hệ cực kỳ gắn bó giữa hai nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung Quốc "vừa là đồng chí vừa là anh em" [7].
Ngày 4/9/1958, bị đe dọa bởi Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ trong khu vực eo biển Đài Loan, Trung Quốc thông báo tuyên bố mở rộng chiều rộng lãnh hải ra 12 hải lý. Tuyên bố này áp dụng cho cả Trung Quốc đại lục và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc bao gồm Tây Sa, Nam Sa [8]. Ngày 14/9/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai : "Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ : Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc". Trong Sách Trắng năm 1979, Bộ Ngoại giao Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố rằng cách hiểu của Trung Quốc về bức thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc, khi mà mục đích và hàm ý của công hàm chỉ nhằm công nhận chiều dài lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc [9]. Liệu sự im lặng về tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa trong bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có được coi như là sự ngầm công nhận đối với chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo này ? Liệu nó có ảnh hưởng pháp lý nào nhằm loại bỏ Việt Nam không còn quyền đòi hỏi chủ quyền trong tương lai ? Câu trả lời là "không" [10].
Một hành động đơn phương sẽ tạo ra hậu quả pháp lý bắt buộc cho quốc gia thực hiện nếu như hành động đơn phương này được thực hiện trong phạm vi giới hạn của thẩm quyền quốc gia, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế và không trái đối với các nguyên tắc jus cogens (các nguyên tắc bắt buộc không được vi phạm) của luật quốc tế . Mục đích thật sự của quốc gia khi có tuyên bố đơn phương nên được diễn giải một cách cẩn trọng. Các hạn chế sự độc lập của các quốc gia do vậy không thể suy diễn [11]. Tòa Án Công lý Quốc tế (ICJ) trong vụ Thử vũ khí hạt nhân (Nuclear Tests Case) đã nhắc lại lập luận : "Một khi các quốc gia đã ra các tuyên bố hạn chế sự tự do hành động trong tương lai của họ thì một sự giải thích hạn chế là cần thiết" [12]. Qua thực tiễn hoạt động của các quốc gia và các phán quyết của Tòa [13], Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC) đã có hướng dẫn xác định các hành động đơn phương và hiệu lực pháp lý của chúng [14]. Theo như ILC, để xác định các ảnh hưởng pháp lý của các tuyên bố đơn phương, cần thiết phải xem xét nội dung, hoàn cảnh thực tế của các tuyên bố đơn phương được đưa ra và các phản ứng mà các tuyên bố này gây ra. Một tuyên bố đơn phương sẽ dẫn đến việc quốc gia tạo ra nó bắt buộc phải thực hiện cam kết này chỉ khi nó được tuyên bố trong các điều khoản cụ thể và rõ ràng. Trong trường hợp có nghi ngờ như là phạm vi trách nhiệm thực hiện từ các tuyên bố này, trách nhiệm thực hiện sẽ chỉ được diễn giải một cách hạn chế. Khi diễn giải nội dung của các dạng nghĩa vụ thực hiện như vậy, việc đầu tiên quan trọng nhất là xem xét nội dung văn bản của tuyên bố cùng với bối cảnh và hoàn cảnh tuyên bố này được đưa ra [15].
Khi áp dụng các hướng dẫn này, chúng ta có một số đánh giá về nội dung văn bản bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, và hoàn cảnh văn bản này được viết.
Bia chủ quyền Việt Nam ở đảo Nam Yết (Trường Sa) - Ảnh: N.Đ.Q.
Trước tiên, vào thời điểm đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không kiểm soát hai quần đảo Hoàng Sà và Trường Sa. Theo Hiệp định Geneve, Việt Nam bị tạm thời chia làm hai khu vực quản lý hành chính với ranh giới là vĩ tuyến 17 trong khi chờ đợi thống nhất thông qua tổng tuyển cử. Trung Quốc là một bên ký Hiệp định Geneve. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vỹ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa. Vào thời điểm này, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có danh nghĩa pháp lý de jure về chủ quyền cũng như không thực hiện chủ quyền de facto trên thực tế trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nó không có quyền từ bỏ đối với lãnh thổ mà nó không sở hữu [16]. Thậm chí các chính quyền miền Nam Việt Nam, hai chính phủ đối lập, Việt Nam Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1969, chỉ có quyền quản lý đối với hai quần đảo nhưng không có quyền chuyển nhượng bất cứ phần lãnh thổ nào cho ngoại quốc. Năm 1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ việc Trung Quốc sử dụng vũ lực tại Hoàng Sa khi đưa ra tuyên bố 3 điểm [17].
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mọi dân tộc
- Giữa các nước láng giềng có nhiều vụ tranh chấp về vấn đề biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại. Các tranh chấp đó có khi rất phức tạp, đòi hỏi được xem xét kỹ càng ; và
- Các nước liên quan phải cùng nhau xem xét vấn đề trên tinh thần bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt, và giải quyết vấn đề bằng thương lượng.
Tuyên bố công nhận sự tồn tại của tranh chấp, nhắc lại rằng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mọi dân tộc và kêu gọi đàm phán. Ngày 14/2/1975, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa đã công bố sách trắng về các quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phù hợp với nguyên tắc tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết được quy định trong luật pháp quốc tế và Hiệp định Geneve, số phận các phần lãnh thổ của Việt Nam phải được định đoạt bởi người dân của đất nước thống nhất. Việt Nam được thống nhất vào năm 1976 và cơ quan đại diện cao nhất của người Việt Nam là Quốc hội đã được bầu vào năm 1976. Việt Nam thống nhất, gọi tên là Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế thừa lãnh thổ từ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử vào năm 1976. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và 1992, Nghị quyết của Quốc hội năm 1994 và Luật về biên giới quốc gia năm 2003 đều tái khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam.
Thứ hai, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và 1957 quy định rằng việc chuyển nhượng lãnh thổ phải được quyết định thông qua trưng cầu dân ý. Tuyên bố của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý để từ bỏ lãnh thổ. Trong trường hợp liên quan đến chủ quyên đối với các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, và South Ledge (Malaysia/Singapore) liên quan đến lập luận của Singapore rằng Chính quyền Johor đã công nhận chủ quyền của Singapore đối với các đảo này [18], Tòa án đã có quan điểm không xem xét trả lời của Johor có tính hiến pháp với nghĩa tạo ra tác động pháp lý quyết định đối với Johor [19]. Lời văn trong thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có bất cứ tính hiến pháp nào đối với lãnh thổ của Nam Việt Nam. Do đó, bức thư này không có hiệu lực pháp lý quyết định đối với số phận của Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ ba, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không bao giờ phủ nhận các yêu sách và các hoạt động khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Nam Việt Nam. Nếu như bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc, bước logic tiếp theo sẽ là tuyên bố phủ nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Điều này không bao giờ xảy ra, cả trong năm 1956 và năm 1974. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn tiếp tục ủng hộ lập trường của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam.
Thứ tư, tên gọi của văn bản tiếng Trung Quốc năm 1958 là Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc. Bức thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng công nhận và đồng ý quyết định liên quan đến chiều rộng 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc. Bức thư này không chứa đựng bất cứ sự từ bỏ các đảo có lợi cho Trung Quốc. Việc chuyển chủ quyền lãnh thổ từ một quốc gia này cho một quốc gia khác thường được thực hiện thông qua hiệp ước. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ngày 2/11/1957, Ủy ban Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư đến Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất hai Đảng cầm quyền tôn trọng nguyên trạng status quo các vấn đề tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại, và giải quyết tất cả tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình vào thời điểm phù hợp. Bức thư tháng 11/1957 viết : "Vấn đề biên giới là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết thông qua các nguyên tắc thực định của luật pháp hay do quyết định của hai chính phủ" [20]. Vào tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có phản ứng tích cực đối với thư của Đảng Lao Động Việt Nam. Vấn đề tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại được hiểu là chỉ liên quan đến vấn đề biên giới trên bộ ; không đề cập đến trường hợp tranh chấp của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, hai nước đã đồng ý rằng các tranh chấp của hai nước sẽ được giải quyết trong một thời điểm thích hợp thông qua đàm phán. Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nằm trong bối cảnh tranh chấp giữa Hà Nội và Bắc Kinh. ICJ đã phán quyết : "Không gì có thể ngăn cản các bên đạt thỏa thuận bằng con đường thông thường, đó là một thỏa thuận với điều kiện có đi có lại" [21]. Một số tác giả đã so sánh bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Tuyên bố Ihlen trong vụ án đảo Greenland [22]. Tuyên bố Ihlen được đưa ra trong bối cảnh tìm kiếm giải pháp cho Greenland và Spitzberg. Tuyên bố Ihlen không phải là "cho không" ("open-handed"). Tuyên bố này công nhận chủ quyền của Đan Mạch đối với Greenland để đổi lại việc Đan Mạch công nhận chủ quyền của Na-uy đối với Spitzberg. Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng đặc điểm có đi có lại. Do đó rất khó có thể xem xét Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ năm, trong cuộc chiến, Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào hỗ trợ vật chất từ Trung Quốc. Điều này đã đặt Hà Nội vào thế khó xử. Bức thư chỉ ủng hộ việc áp dụng nguyên tắc 12 hải lý cho chiều rộng lãnh hải. Đây là một hành động thể hiện thiện chí của Bắc Việt Nam ủng hộ Trung Quốc, đang phải đối mặt với nguy cơ bị Mỹ xâm lược khi nước này nỗ lực đưa tàu sân bay vào hoạt động tại eo biển Đài Loan. Việc bảo lưu tình trạng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được thể hiện trong bức thư vì Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có quyền hạn đối với hai quần đảo này.
Nhà nghiên cứu Monique Chemillier Gendreau đã nhận xét : "Đúng là công hàm của Phạm Văn Đồng chỉ hết sức hạn chế trong ghi nhận và tán thành quyết định về chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc. Thật không đúng để khẳng định rằng Việt Nam đã "thừa nhận yêu sách của Trung Quốc" đối với hai quần đảo" [23] . Không bên nào, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Việt Nam Cộng Hòa công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Vậy liệu thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có tạo ra hiệu lực của nguyên tắc estopel (nguyên tắc mặc nhiên thừa nhận) ? "Anh không thể vừa có chiếc bánh lại vừa ăn hết nó" là nguyên tắc ngăn ngừa các quốc gia có hành động không nhất quán gây tổn hại đến các quốc gia khác [24]. Theo Ian Brownlie, đặc điểm cốt lõi của nguyên tắc estoppel là nhân tố hành xử gây tổn hại nghiêm trọng cho bên khác, do họ dựa vào cách hành xử đó để thay đổi quan điểm của mình và phải chịu một số tổn hại [25]. Trong vụ tranh chấp thềm lục địa Biển Bắc, tòa ICJ đã phán quyết : "Bên dựa vào nguyên tắc estoppel phải chỉ ra, cùng với một số điều kiện khác, là mình đã có các hành động đặc biệt do dựa vào phát biểu của bên kia" [26].
Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện, đặc biệt là điều kiện cần thiết "vì phát biểu này mà gây tổn hại cho bên khác" của nguyên tắc estoppel gây ra cho Trung Quốc. Trước tiên, Trung Quốc không chứng minh được quan điểm của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị thay đổi và bị thiệt hại do dựa vào tuyên bố của Bắc Việt Nam. Thứ hai, Trung Quốc đã giữ im lặng đối với tuyên bố của Mỹ liên quan đến khu vực tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ tại Biển Đông vào năm 1965, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Điều này liệu có cho thấy Trung Quốc thờ ơ trong việc bảo vệ yêu sách chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa khi bị nước ngoài xâm lược ? Thứ ba, nguyên tắc estoppel chỉ được áp dụng cho các hành động của một bên về một vấn đề trong một giai đoạn liên tục trong lịch sử. Trong trường hợp này, nguyên tắc estoppel được áp dụng như thế nào cho các tuyên bố của hai chính phủ khác nhau đó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ? Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì không có thẩm quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kế tục của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa và có quyền lựa chọn quyền và nghĩa vụ của bên nào để kế tục. Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa kế quyền và các hành động của Nam Việt Nam, vốn là bên duy nhất có quyền tài phán đối với Hoàng Sa và Trường Sa [27].
3. Lập trường của Việt Nam về các vùng biển quanh đảo (xem tài liệu đính kèm, PDF)
A. Lập trường của Việt Nam về các vùng biển theo UNCLOS
B. Chế độ pháp lý của các đảo Hoàng Sa và Trường Sa
4. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết tranh chấp tại Biển Đông
5. Kết luận
Download toàn bộ nội dung văn bản tại đây
Quan điểm của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.pdf
Nguyen, Hong Thao (2012)
Nguyên tác : "Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys : Its Maritime Claims", Journal of East Asia and International Law, 5(1), pp. 165-211.
Nguyễn Thái Giang, Nguyễn Thị Lan Hương, Quách Thị Huyền biên dịch
Việt Long biên dịch
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 10/06/2013
Tài liệu trích dẫn
[1] Zou Keyuan, The Sino-Vietnamese Agreement on Maritime Boundary Delimitation in the Gulf of Tonkin, 34 Oean Dev. & Intl. L. 22-24 (2005) ; Hong Thao Nguyen, Maritime Delimitation and Fishery Cooperation in the Tonkin Gulf, 34 Oean Dev. & Intl. L. 41-44 (2005) ; Ted McDorman, People’s Republic of China-Vietnam, 5 Int'l Mar. Boundaries 3755‐3758 (2005).
[2] Vụ Thông tin và Báo chí, Bộ Ngoại giao Việt Nam, chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa (1979) [Sách trắng Việt Nam 1979] ; Sách trắng Việt Nam 1981, tài liệu đã trích dẫn số 30 ; Sách trắng Việt Nam 1988, tài liệu đã trích dẫn số 7.
[3] Như trên
[4] Ban Bien Tap, Vietnamese PM Nguyen Tan Dung’s explanatory report at 2nd session of 13th NA, (Dec. 5, 2011), available at http://nguyentandung.us/vietnamese-pm-nguyen-tan-dung-s-explanatory-report-at-2nd-session-of-13th- na.html (last visited on Mar.30, 2012).
[5] Su Hao, China’s Positions and Interests in the South China Sea : A Rational Choices in its Cooperative Policies (CSIS, 2006), available at http://csis.org/publication/chinas-positions-and-interests-south-china-sea-rational-choices-its- cooperative-policies (last visited on Mar.30, 2012).
[6] Austin, tài liệu đã trích dẫn số 6 trang 126-130. Xem tài liệu Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các tài liệu khác liên quan đến việc Chính phủ công nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ của Trung Quốc (1980).
[7] Luu, tài liệu đã trích dẫn số 6, trang 75-78.
[8] Xem tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, 1 :28 PEKING REV. 21 (Sept. 9, 1958).
[9] Vietnam White Paper 1979.
[10] Xem thêm giải thích chính thức, Sách Trắng Việt Nam Vietnam White Paper 1988, tài liệu đã trích dẫn số 7, trang 20-23.
[11] The S.S. Lotus Case (Fr. v. Turk.), 1927 P.C.I.J. (Ser. A) No. 10 (Sept. 7) tại http://www.worldcourts.com/ pcij/eng/decisions/1927.09.07_lotus.htm (last visited on Mar.30, 2012).
[12] Nuclear Tests Case (Austl. v. Fr.), 1974 I.C.J. 267, �44 ; Nuclear Tests Case (N.Z. v. Fr.), 1974 I.C.J. 473, �47.
[13] Island of Palmas Arbitration (Neth. v. U.S.), 2 Report of International Arbitral Awards (U.N. Ser.) 829, in David Harris Cases and Materials on International Law 190 (5th ed.1998) ; Legal Status of Eastern Greenland Case, supra note 10 ; Temple at Prear Vihear Case (Cambodia v. Thai.), 1962 I.C.J. 6 (June 15) ; North Sea Continental Shelf Case (Ger. v. Neth.), 1969 I.C.J. 26, �30 (Feb. 20) ; Burkina Faso v. Mali (Frontier Dispute), 1986 I.C.J. 574 (Dec. 22) ; Nuclear Tests Case (Austl. v Fr.), id. at 253-267 ; Nuclear Tests Case (N. Z. v Fr.), id. 457-473 ; Application of the Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide Case (Bosn.& Herz. v. Serb. & Montenegro), 1996 I.C.J. 622 (July 11) ; Pedra Branca/Pulau Batu Puteh Case, supra note 10.
[14] U.N. International Law Commission, 58th sess. (2006), Guiding Principles Applicable to Unilateral Declarations of States Capable of Creating Legal Obligations, available at http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/draft %20articles/9_9_2006.pdf (truy cập lần cuối ngày 30 tháng 3 năm 2012).
[15] Như trên, điều 3 và 7
[16] Chemillier-Gendreau, tài liệu đã trích dẫn số 6, trang 130.
[17] Sách trắng Việt Nam 1981, tài liệu đã trích dẫn số 30, trang 139.
[18] Chi tiết, xem S. Jayakumar & T. Koh, Pedra Branca : Tbe Road to the World Court (2009).
[19] Pedra Branca/Pulau Batu Puteh Case, tài liệu đã trích dẫn số 10, trang 227.
[20] Vu Duong Ninh (ed.), Bien gioi tren dat lien Viet Nam-Trung Quoc [China‐Vietnam Land boundary], Hanoi (Cong An Nhan Dan ed. 2011).
[21]Burkina Faso v. Mali Case, tài liệu đã trích dẫn số 94, trang 574.
[22] Xem Austin, tài liệu đã trích dẫn số 6 trang 125-130, 149 ; R. Haller-Trost, The Contested Maritime and Territorial Boundaries ò Malaysia : an International Law Perspective 321 (1998) ; Daniel Dzurek, The Spratlys Island Dispute : Who’s on first ?, 2 MAR. BRIEFINGS 53 (1996) ; Jianming Shen, International Law Rules and Historical Evidences Supporting China’s Title to the South China Sea Islands, 21 Hastins Int'l & Comp. L. Rev. 57 (1997).
[23] Chemillier-Gendreau, tài liệu đã trích dẫn số 6, trang 129.
[24] Fisheries Case (U.K.v.Nor.), 1951 I.C.J. 116 ; Temple of Preah Vihear Case, tài liệu đã trích dẫn số 94, trang 6 & 26.
[25] Brownlie, tài liệu đã trích dẫn số 63, trang 646.
[26] North Sea Continental Shelf Case, tài liệu đã trích dẫn số 94, trang30.
[27] Chemillier-Gendreau, tài liệu đã trích dẫn số 6, trang 130. Viết :"thực tế là trong thời điểm đặc biệt của sự chia cắt giữa Việt Nam trong lịch sử làm cho vị trí của Việt Nam bị mờ nhạt. Việt Nam thống nhất hiện nay phải quyết định thực thể nào mình kế thừa đối với vấn đề tranh chấp này. Logic của lãnh thổ quy định việc kế thừa quyền và các hành động của Nam Việt Nam, thực thể duy nhất có quyền tài phán xét trên quan điểm địa lý".
1. Ít nhất, từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa không phải là lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius)
Sử sách Trung Hoa suốt từ các đời Tần, Hán đến tận sau Thế chiến thứ II, không có tài liệu nào xác nhận, Biển Đông với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc (Biển Đông được người Trung Quốc và giới hàng hải gọi là中国南海Trung Quốc Nam Hải, 花南Hoa Nam, South China Sea, người Philippines từ 2012 gọi là biển Tây Philippines, West Philippine Sea ; quần đảo Hoàng Sa được người Trung Quốc gọi là西沙Tây Sa, tiếng Anh : Paracels và Trường Sa người Trung Quốc được gọi là 南沙 Nam Sa, tiếng Anh : Spratlys). Trong khi đó, không ít bản đồ phương Tây vẽ trước thế kỷ XIX, thư tịch cổ Trung Hoa do chính người Trung Hoa viết, lại đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam [1] .
Cảnh sát biển Việt Nam thực thi nhiệm vụ trên biển (Ảnh tư liệu)
Phía Trung Quốc thường tuyên truyền chủ quyền của họ đối với Biển Đông có từ hơn 2000 năm trước. Nhưng những chứng cứ chủ yếu lại chỉ là những ghi chép của người đương thời và người đời sau về các con đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, các hoạt động thám hiểm, buôn bán, đánh cá… và qua đó có ghi chép về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các vùng mà những người chứng kiến đã đi qua. Cũng có tài liệu nói người đánh cá Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và các nước khác khi buôn bán, đánh cá hoặc gặp thiên tai trên biển… đã từng sống trên các đảo tuỳ theo mùa vụ, nhưng cụ thể từ khi nào và mùa vụ là bao nhiêu lâu thì chưa thấy tài liệu nào ghi chép thật rõ [2] , và chỉ riêng điều đó thì cũng không có ý nghĩa về mặt chủ quyền. Ở đây các nhà nghiên cứu đôi khi thường bắt gặp có sự nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn của những người làm sử thiếu khách quan. Theo luật pháp quốc tế, việc thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền trên các vùng biển đảo, ngày nay, không phụ thuộc vào việc phát hiện, thám hiểm hay thực thi buôn bán, làm ăn trên biển. Cũng không phụ thuộc vào sự hiểu biết của người quan sát về biển đảo. Từ thế kỷ thứ VIII, người Bắc Âu, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh… đã có tiếng là những Viking [3] gồm những nhà thám hiểm, nhà buôn, chiến binh, và cả những hải tặc đã tung hoành trên nhiều vùng biển của địa cầu. Những ghi chép của người Anglo-Saxon về hải dương từ lâu đã là nguồn tra cứu phong phú và quý giá của nhân loại. Tiếp theo là những người Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam… cũng có mặt ở nhiều vùng trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Phương Đông không có các Viking, ít các nhà thám hiểm nên người phương Đông có mặt trên biển chủ yếu là buôn bán, làm ăn, đánh cá…
Trước đây, phía Trung Quốc còn đưa thêm nhà thám hiểm người Hồi là Trịnh Hòa vào hồ sơ tranh chấp biển đảo. Nhưng thực ra Trịnh Hòa chỉ đi ngang qua Biển Đông và các ghi chép về 7 chuyến đi của ông cũng không thấy nói gì đến Hoàng Sa, Trường Sa : Từ năm 1405-1433, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa chỉ huy đoàn thám hiểm "hạ Tây dương" 7 lần đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ lụa trên biển tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của Trịnh Hòa trên thực tế không hề dừng ở Biển Đông. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành Tổ mất, triều Minh đã phê phán những cuộc hải trình này chỉ là phô diễn và làm suy yếu kinh tế quốc gia [4] . (Gần đây, khi đụng đến những vấn đề Biển Đông, các chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa không còn được phía Trung Quốc nhắc đến như trước đó nữa).
Trên thực tế, kể từ Định ước Berlin năm 1885, nguyên tắc "quyền phát hiện" và nguyên tắc "chủ quyền lịch sử" không còn phù hợp và đã bị thay thế bới nguyên tắc "chiếm hữu thực sự" và "có hiệu lực". Ngày nay, nguyên tắc chiếm hữu biển đảo còn được quy định chặt chẽ hơn : thực sự, không gián đoạn, hòa bình và minh bạch [5] . Nghĩa là, nếu giả sử luật pháp quốc tế vẫn còn căn cứ vào luận thuyết chủ quyền lịch sử hay sự phát hiện biển đảo để xác định chủ quyền thì quyền chiếm hữu và sở hữu các châu lục ngày nay hầu hết đã thuộc về các Viking, các nhà thám hiểm hoặc các tay cướp biển Tây Âu.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa được các triều đại phong kiến Việt Nam thực thi từ rất sớm. Có tài liệu nói từ thế kỷ XV. Nhưng rõ nhất là từ đầu thế kỷ XVII đến tận năm 1932, khi Pháp chính thức tuyên bố kế thừa và tiếp tục chủ quyền tại hai quần đảo này, các triều đại phong kiến Việt Nam đều đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền thực tế đối với Hoàng sa và Trường Sa. Quá trình này diễn ra một cách liên tục, với những hoạt động kinh tế – xã hội rất hòa bình và lúc đó cũng chưa hề có tranh chấp. Về mặt pháp lý, ít nhất từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa đã không còn là lãnh thổ vô chủ nữa (Terra Nullius) [6] .
Năm 1698, Hoàng Sa trở thành địa danh nổi tiếng được các nhà hàng hải phương Tây biết đến qua các biên niên sử hàng hải với các vụ mắc cạn của tàu l’Amphitrite dưới thời vua Louis XIV khi đi từ Pháp sang Trung Quốc [7] . Nghĩa là, Hoàng Sa được biết đến như một bãi cát nguy hiểm ở vùng Biển Đông Việt Nam. Tàu bè quốc tế đến vùng này nếu không biết có thể mắc cạn, làm mồi cho đói, khát và chết.
Thời các Chúa Nguyễn, tức là từ giữa thế kỷ XVI cho đến khi Tây Sơn chiến thắng năm 1777, hàng năm các Chúa nguyễn đều phái người ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ trên đảo nhằm thực thi chủ quyền và thu hoạch sản vật trên đảo cùng những sản vật của các tàu bị đắm trôi dạt vào đảo. Trong sách "Lịch triều Hiến chương loại chí" Quyển "chi Ngũ dư địa chí", trang 11a, 12a, Phan Huy Chú ghi chép : "Các vương triều trước (thời các Chúa Nguyễn) đặt đội Hoàng Sa 70 suất, người xã An Vĩnh luân phiên đi. Hàng năm vào tháng 3 nhận chỉ thị sai đi, mang 6 tháng lương, dùng 5 chiếc thuyền nhỏ, trương buồm xuất dương, 3 ngày 3 đêm đến đảo. Đến đây mặc tình đánh bắt cá ăn, được đồ quí khí vật trên thuyền rất nhiều, lại lấy được hải sản rất nhiều. Tháng 8 trở về, vào cửa Eo (Thuận An) để đến thành Phú Xuân" [8] .
Năm 1753, một sự kiện có liên quan đến chủ quyền Hoàng sa xảy ra với những người lính của Đội Bắc Hải đã được Lê Quý Đôn ghi chép khá kỹ trong "Phủ biên tạp lục" : "Hoàng Sa gần Hải Nam, Châu Liêm. Người đi thuyền thường gặp người Bắc quốc (Trung Quốc) đánh cá ngoài biển, hỏi thăm thì được biết họ là người huyện Văn Xương, Quỳnh Châu. Quan Chính đường sưu tra công văn trong đó kể rằng vào tháng 7 năm Càn Long thứ 18 (1753), 10 người lính thuộc đội Cát Liêm, xã An Bình, huyện Chương Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay) đến Vạn Lý Trường Sa 萬里長沙 thu thập các vật, 8 tên lính lên bờ thu thập, chỉ có 2 người lưu lại giữ thuyền. Chợt cuồng phong nỗi lên, đẩy thuyền xa đến cảng Thanh Lan 青瀾港 (Hải Nam, Trung Quốc). Viên quan tại đây điều tra sự thực bèn cho áp giải trở về. Nguyễn Phúc Chu sai Cai bạ Thuận Hóa Thức lượng hầu gửi thư phúc đáp" [9] . Sự kiện này cũng là một dấu hiệu về việc người Trung Quốc không coi Hoàng Sa là của mình.
Năm 1816, vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo Hoàng Sa, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevié đã ra lệnh thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo một tấm bia có dòng chữ "Cộng Hòa Pháp – Vương quốc An Nam – quần đảo Hoàng Sa, 1816" [10] .
Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu thuế trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ đó đến năm 1847-1848, việc quản lý hành chính các đảo này được triều Nguyễn duy trì nhằm giúp đỡ các cuộc hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng [11] .
Theo nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt, các dữ kiện lịch sử chiếm hữu Hoàng Sa cho thấy "Việt Nam đã có tuyên bố rõ ràng và thực thi quyền của mình ở Paracels ít nhất suốt 70 năm từ trước 1770 cho tới khi vua Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền năm 1816, và tiếp tục cho đến thời Minh Mạng được ghi rõ ràng trong chính sử Việt Nam cho đến 1837… Thời gian có mặt của Việt Nam ở Paracels như thế kéo dài liên tục ít nhất là 74 năm từ 1774 tới ít nhất là (từ lúc Lê Quý Đôn nói về chuyến đi Hoàng Sa cho tới năm sau khi Minh Mạng ra lệnh vẽ bản đồ), thời gian này được ghi nhận trong chính sử. Ý chí và hành động nhằm khẳng định chủ quyền được vua Gia Long và vua Minh Mạng đã thể hiện trong văn bản. Các chuyến ra đảo dù chỉ kéo dài nhiều nhất là sáu tháng nhưng liên tục năm này qua năm khác. Và như thế là đủ" [12] .
2. Nước Pháp công nhận việc thực thi chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chịu trách nhiệm kế thừa
Năm 1884, Hiệp ước Patenôtre Huế áp đặt chế độ thuộc địa, nước Pháp có nghĩa vụ bảo hộ, giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ xứ An Nam. Ngày 9/6/1885, Hiệp ước Pháp – Thanh tại Thiên Tân chấm dứt xung đột Pháp Thanh ; Việt Nam vĩnh viễn thoát khỏi chế độ phên thuộc. Ngày 26/6/1887, Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nghĩa là từ đây, mọi tuyên bố hay hành vi của Pháp về Hoàng Sa, Trường Sa, được hiểu là và trên thực tế là, đại diện cho Việt Nam, của Việt Nam.
Năm 1895 con tàu La Bellona và năm 1896 con tàu Imeji Maru bị đắm gần Hoàng Sa. Những người đánh cá ở Hải Nam đến thu lượm đồng từ hai chiếc tàu đắm này. Các công ty bảo hiểm của hai con tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa trả lời là không chịu trách nhiệm, lấy lý do là Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, cũng không phải là lãnh thổ Việt Nam [13] .
Năm 1899, Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải đăng nhưng việc này không thành vì lý do tài chính.
Vào năm 1909, Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa. Cuộc đổ bộ không quá 24 giờ. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu thị chủ quyền của Trung Quốc. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước, kể cả nước Pháp đại diện cho An Nam vì cho rằng đó chỉ là một nghi thức hải quân nhân chuyến thám sát đảo xa.[14] Sự kiện này cũng làm lộ ra mâu thuẫn trong lập luận của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ lâu, thì tại sao Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử với tư cách là người lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo.
Năm 1920, một công ty Nhật Bản là Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa, Pháp từ chối. Cũng bắt đầu năm 1920, Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.
Ngày 30/3/1921, Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố sát nhập Hoàng Sa với Hải Nam, Pháp không phản đối. Ngay sau đó các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội người Pháp ở Hà Nội đã chỉ trích Toàn quyền Đông Dương về thái độ này. Ngày 8/3/1925 Toàn quyền Đông Dương là Martial Henri Merlin long trọng ra tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa là lãnh thổ của Pháp. Chính phủ bảo hộ nhận trách nhiệm về chủ quyền của mình ở Hoàng Sa, Trường Sa và đẩy mạnh các hoạt động tuần tra, kiểm soát và nghiên cứu khoa học.
Cũng bắt đầu từ năm 1925, Viện Hải dương học Nha Trang tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo Hoàng Sa do tiến sĩ Krempt tổ chức.
Năm 1927, Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.
Đầu năm 1930, Ba tàu Pháp La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale đã khảo sát chuẩn bị cho việc chiếm hữu quần đảo Trường Sa.
Ngày 13/4/1930, toàn quyền Đông Dương Pasquier điều Thông báo hạm La Malicieuse ra quần đảo Trường Sa. Tại đây, đại úy hải quân De Lattrie đã nhân danh nước Pháp bắn 21 loạt đại bác, tuyên bố chủ quyền toàn bộ các đảo ở Trường Sa với các vùng biển phụ cận và kéo cờ trên đảo "Île de la Tempête" (đảo Bão Tố, tức đảo Spratly, nay gọi là đảo Trường Sa Lớn). Văn bản báo cáo ghi rõ, Trường Sa nằm ở 8039 độ vĩ Bắc và 111055 kinh đông.
Ngày 23/9/1930 Pháp gửi thông báo ngoại giao tới các nước có liên quan về chủ quyền của Pháp trên đảo Trường Sa, Nói rõ : "Phủ Toàn quyền Đông Dương ra thông cáo để thông báo cho các nước thứ ba biết việc Cộng Hòa Pháp chiếm hữu toàn bộ quần đảo Spratly (Trường Sa)". Thông báo này cũng được đăng trên Công báo của Phủ Toàn quyền.
Năm 1931, Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, bán quyền khai thác cho Công ty Anglo – Chinese Development. Pháp phản đối.
Năm 1932, Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa, sát nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên. Nghĩa là Pháp công nhận và chịu trách nhiệm kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ trước đó, tiếp tục thực thi chủ quyền tại hai quần đảo này. Đây là một bước đi quan trọng và là sự kiện đặc biệt có ý nghĩa trong việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với lãnh thổ quốc gia.
Năm 1933, quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Ngày 26/7/1933 nước Pháp ra thông báo chính thức về sự chiếm hữu các đảo Trường Sa trên nhật báo của Pháp. Pháp cũng đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Tòa án Quốc tế, nhưng Trung Hoa từ chối.
Việc thuyết phục nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương quan tâm ngày càng thiết thực hơn đến chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào những năm đầu thế kỷ XX, nên hiểu là một quá trình không đơn giản. Lúc đó, khác với ngày nay, việc chiếm hữu các đảo xa mang lại tốn kém, phức tạp, nguy hiểm nhiều hơn là lợi ích. Chính chủ quyền hiển nhiên đã có từ lâu trong lịch sử của các vương triều An Nam đối với biển đảo mới là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy các quan chức Pháp tại Hà Nội thiết tha hơn và cảm thấy trách nhiệm nặng nề hơn với Hoàng Sa, Trường Sa. Công đầu trong việc này thuộc về tờ tuần báo "Thức tỉnh kinh tế Đông Dương" (L’Éveil Économique de l’Indochine).
Tuần báo L’Éveil économique de l’Indochine ra số đầu tiên vào thứ bảy, ngày 16/6/1917 và số cuối cùng vào năm 1934. Người sáng lập, là Chủ bút và cũng là tác giả của nhiều bài viết trong tuần báo này là Henri Cucherousset (1879 – 1934, ông qua đời tại Hà Nội và cũng là người đặc biệt yêu mến Hoàng Sa, chiến đấu không mệt mỏi cho chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa). Trong 835 số tuần báo, Chính phủ Pháp và An Nam đã triệt để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa với chính quyền Quảng Đông (lúc đó ly khai khỏi Trung Quốc và cũng không được Trung Quốc và các nước khác thừa nhận). Ông Henri Cucheroussset đã đưa vấn đề ra Thượng viện và Hạ viện Pháp, vì lý do Toàn quyền Đông dương ở Hà Nội không đủ nỗ lực quan tâm đến vấn đề. Trên tờ tạp chí này, các sự kiện sau đây đã được phản ánh :
- Các đề nghị đối với chính quyền bảo hộ : Đặt trạm hải đăng, trạm khí tượng, trạm phát sóng cực ngắn, các phao đèn và cọc tiêu, vẽ các bản đồ quần đảo Hoàng Sa : tỷ lệ 1:200.000, & 1:25.000 ; Xây dựng cảng cá và tổ chức nơi trú ẩn cho ngư dân, phát triển công nghiệp cá, phát triển các tầu đánh cá có thể đánh bắt xa bờ từ 2 đến 300 km ; Thiết lập hệ thống hành chính trên hai quần đảo và cần thiết có quân đội thường trú bảo vệ và tuần tra khu vực [15] .
- Trách nhiệm của nước Pháp và các quan chức Pháp tại Đông Dương : Tác giả trách cứ một số quan chức Đông Dương vô trách nhiệm đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa như ông Monguillot (Thống sứ Bắc Kỳ, có lúc được cử làm quyền Toàn quyền Đông Dương), Trung tá Rémy hạm trưởng Hải quân Pháp tại Sài Gòn và đặc biệt là ông Toàn quyền Pière Pasquier. Và nhờ đó, các chính khách đã quan tâm đến vấn đề quần đảo Hoàng Sa như Thượng nghị sĩ Albert Sarraut, Nghị sĩ Ernest Outrey, Thượng nghi sĩ Bergeon… và đề nghị tổ chức một hội nghị về quần đảo này tại Luxembourg (Thượng nghị viện Pháp) và lâu đài Bourbon (Hạ nghị viện Pháp).
- Vỉa phốt phát có diện tích khoảng 4 triệu m2 có độ dầy trung bình 2m, tức 8 triệu mét khối và với có thể thu được 2 tấn/m3 phốt phát tức 16 triệu tấn. Phốt phát ở Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính quyền quản lí lơ là để Nhật Bản và Trung Quốc khai thác bất hợp pháp, không mang lại lợi ích nào cho An Nam.
- Bằng con tầu Malicieuse, ngày 13/4/1930, nước Pháp đã chính thức đặt chủ quyền của An Nam dưới sự bảo hộ của Pháp đối với quần đảo Trường Sa [16] .
- Chính quyền Pháp và An Nam đã dựng lại bia chủ quyền cho quần đảo Hoàng Sa trên đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) với dòng chữ : République française – Royaume d’An Nam – Archipel des Paracels 1816 – île Pattle – 1938 (Cộng Hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Paracels 1816 – đảo Pattle 1938). Chính quyền Pháp đã lần lượt đặt hai trạm khí tượng trên đảo Boisée (Phú Lâm) và trên đảo Pattle (Hoàng Sa). Trước đó, vào năm 1933, Quần đảo Trường Sa đã được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa.
3. Việt Nam "xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa" trước cộng đồng quốc tế tại San Fansico 1951
Ngày 14/3/1933, Pháp cho đội tàu gồm Malicieuse, tàu pháo Arlete và hai tàu thuỷ văn Astrobale và de Lanessan từ Sài Gòn đến Trường Sa với hàng loạt các đảo như đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), cụm rạn London Reefs (Trường Sa Đông, đá Đông, đá Tây và đá Châu Viên gọi là London Reefs), bãi san hô Tizard (Ba bình, Bàn Than, Sơn ca, Núi thị, Én đất, Nam yết, Đá Lạc, Ga ven), bãi san hô Loại Ta, cụm rạn Thị Tứ và rạn Thám hiểm Phía Bắc. Tại từng địa điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính thuộc nơi đó. White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands Republic of Vietnam Ministry of Foreign Affairs Saigon, 1975.
Ngày 19/7/1933, Bộ Ngoại giao Pháp ra bản thông báo về tuyên bố chủ quyền của Pháp, kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu, gồm 6 thực thể :
1. Trường Sa Lớn ; tuyên bố chủ quyền 13/4/1930 (île de la Tempête, Spratly).
2. An Bang ; tuyên bố chủ quyền 7/4/1933 (Caye-d’Amboine, Amboyna Cay ; Trung Quốc gọi là 安波沙洲 : An Ba sa Châu).
3. Ba Bình ; tuyên bố chủ quyền 10/4/1933 (Itu-Aba, Đài Loan gọi là太平).
4. Nhóm Song Tử ; tuyên bố chủ quyền 10/4/1933 (Groupe de Deux-îles ; Song Tử Đông (Northeast Cay, tiếng Filipino : Parola, Trung Quốc gọi là 北子岛 Bắc Tử đảo ; & Song Tử Tây (Southwest Cay, Trung Quốc gọi là 南子岛 Nam Tử đảo),
5. Loại Ta, tuyên bố chủ quyền 11/4/1933 (Loaita Island (South Island of Horsburgh) ; Trung Quốc gọi là 南钥岛 Nam Thược đảo)
6. Thị Tứ ; tuyên bố chủ quyền 12/4/1933 (Thitu Island ; Trung Quốc gọi là中业岛 Trung Nghiệp đảo).
"Những hòn đảo nói trên và các đảo phụ thuộc từng đảo này thuộc chủ quyền của Pháp".
Từ ngày 24/7/1933 đến 25/9/1933, Pháp lần lượt thông báo cho các quốc gia có thể có lợi ích tại Trường Sa biết về hành động của Pháp. Trừ Nhật Bản, tất cả các nước được thông báo đều không phản đối ; Trung Quốc, Hà Lan (đang kiểm soát Indonesia) và Mỹ đều im lặng.
Ngày 21/12/1933, thống đốc Nam Kỳ là Jean-Félix Krautheimer kí Nghị định số 4702-CP sát nhập số đảo trên và "các đảo phụ thuộc" vào địa phận tỉnh bà Rịa.
Năm 1939, Thứ trưởng Ngoại giao Anh là Butter tuyên bố rằng Pháp đã thực thi đầy đủ chủ quyền trên quần đảo.
Năm 1937, bất chấp sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo nằm ngoài khơi Đông Dương, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt dưới quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật tuyên bố là bị chiếm đóng.
Năm 1938, Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa. Ngày 4/4/1939, chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định của Nhật và bảo lưu chủ quyền của Pháp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brevie ký Nghị định số 3282 tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành 2 đơn vị : "Croissant và các đảo phụ thuộc", "Amphitrite và các đảo phụ thuộc".
Khi Chiến tranh Thế giới II sắp kết thúc, ba cường quốc Anh – Mỹ – Trung (lúc đó Tưởng Giới Thạch đại diện cho Trung Quốc) đã nhóm họp tại Cairo, Ai Cập ngày 27/11/1943 để bàn về những quyết định hậu chiến và ra Tuyên bố Cairo. Về biển đảo ở Thái Bình Dương, Tuyên bố viết rõ : "Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu Chiến tranh thế giới I năm 1914 và tất cả những lãnh thổ mà Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng Hòa Trung Hoa". Trong Tuyên bố này, Không có gì liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này có nghĩa rằng, Tuyên bố Cairo khẳng định các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc chỉ có "Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ". Và ngày 26/7/1945, tại Posdam của nước Đức bại trận, các nguyên thủ quốc gia gồm Harry Truman, Winston Churchill và Tưởng Giới Thạch khẳng định các Điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện. Tuyên bố Potsdam về "các điều kiện định cho sự đầu hàng của Nhật" tương tự như một tối hậu thư đối với Nhật Bản. Sự thực thì Trung Quốc lúc đó đã quá thỏa mãn với phần thưởng hậu chiến là có được Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ, mà không có Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 15/8/1945, Nhật Bản thua trận phải rút khỏi Đông Dương và ngày 26/8/1945, quân đội Nhật phải rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 6/1946, Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa tại đảo An Vĩnh, nhưng ngay sau đó phải rút vì lý do chi viện cho chiến cuộc đang căng thẳng ở Bắc Việt Nam.
Chúng tôi một lần nữa muốn lưu ý rằng, suốt chiều dài lịch sử cho đến tận năm 1945, ngoài nỗ lực thị uy của chính quyền Quảng Đông năm 1909, Trung Quốc không hề có sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính thực tế nào trên các đảo ở Biển Đông.
Cuối năm 1946, Trung Quốc (lúc đó là Chính thể Tưởng Giới Thạch) đưa quân chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền ở đó. Tháng 1/1947, Trung Quốc đổ bộ lên đảo Woody (Phú Lâm) của quần đảo Hoàng Sa. Pháp lập tức phản đối việc xâm phạm trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm với những nhân viên Việt Nam cần mẫn cho đến khi Trung Hoa đại lục cưỡng chiếm bằng quân sự vào năm 1974. Ngày nay thông tin về khí tượng thủy văn phát đi từ Hoàng Sa vẫn được toàn thế giới biết đến với danh nghĩa một trạm khí tượng của một hòn đảo nhiệt đới Việt Nam. Hai bên đàm phán tại Paris. Cũng năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa lại từ chối.
Tháng 10/1949, Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, chính phủ Trung Hoa Dân quốc chạy ra Đài Loan. Tháng 5/1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rút khỏi các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.
Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý quần đảo này. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ là Phan Văn Giáo đã chủ trì việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng Sa. Một năm sau đó, với thế giới và với Hoàng Sa – Trường Sa, đã diễn ra một sự kiện quan trọng, đó là hội nghị San Francisco, California (Mỹ) giữa lực lượng Đồng minh với Nhật Bản.
Trước khi hội nghị San Francisco diễn ra, Trung Quốc đại lục đã thể hiện yêu sách của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai ngày 15/8/1951. Nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch thì không phản ứng gì. Lúc đó, đa số các nước vẫn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch là đại diện chính thức cho Trung Quốc.
Hội nghị San Fransisco diễn ra từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, có phái đoàn của 51 quốc gia tham dự để thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại Châu Á – Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Trong hội nghị này, Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa.
Ngày 5/9/1951, Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đã đề nghị 13 khoản tu chính. Trong đó, có khoản tu chính liên quan đến việc Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Trung Hoa đại lục đối với đảo Hoàng Sa. Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 1 phiếu trắng và 2 phiếu thuận.[17] Danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.
Ngày 7/9/1951, cũng tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam : "Cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt các mầm mống tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa" [18] . Kết thúc hội nghị là việc ký kết Hòa ước với Nhật ngày 8/9/1951. Trong hòa ước này, ở Điều 2, đoạn F, ghi rõ : "Nhật Bản khước từ mọi chủ quyền và đòi hỏi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa". 50 phái đoàn nghe lời tuyên bố của phái đoàn Việt Nam, không quốc gia nào phản đối [19] .
Sau Hội nghị San Francisco, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do chính quyền Bảo Đại quản lý. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt Nam cộng hòa. Nhưng khi đó chính quyền Trung Quốc đại lục đã bí mật cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh, Amphitrite Group, 宣德群岛, Tuyên Đức quần đảo). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là Nguyệt thiềm (Crescent Group, 永乐群岛, Vĩnh Lạc quần đảo) vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ. Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng Hòa cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia. Ngày 13/7/1961, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 174-NV về việc đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy danh là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang [20] .
4. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa là trắng trợn vi phạm tuyên ngôn 1970 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc
Ngày 4/9/1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 14/9/1958 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi công thư cho Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai thông báo "tán thành" và "tôn trọng" quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Công thư này không hề nói gì về Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1961, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam. Năm 1973, thuộc tỉnh Phước Tuy.
Tháng 1/1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng, 75 sĩ quan và binh sĩ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Nghĩa là kể từ 1974, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam đã bị tước mất yếu tố vật chất (Corpus), nhưng chủ quyền của Việt Nam vẫn không bị gián đoạn do được đảm bảo bằng yếu tố tinh thần (Animus). Tháng 12/1982, huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập. Nhưng điều quan trọng hơn, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 24/10/1970 ghi rõ : "Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp" [21] . Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Đối với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời điểm tháng 1/1974 "Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó" [22] .
Ngày 14/2/1975, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.[23]
Tháng 5/1975, Việt Nam thống nhất, quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại quần đảo Trường Sa. Năm 1977, Việt Nam ra tuyên bố lãnh hải đất nước, kể cả lãnh hải của các đảo. Khoảng thời gian này, một số quốc gia Đông Nam Á khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.
Tháng 3/1988, lần đầu tiên Trung Quốc có mặt trên quần đảo Trường Sa bằng cách đưa quân tới xâm lược bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma, do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ. Ngày 11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ xuất phát từ Cam Ranh với 70 bộ đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu chiến Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép. Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin. Trận xung đột đã làm hai tàu của Việt Nam bị chìm, một tàu hỏng, 64 sĩ quan và chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía Trung Quốc bắt làm tù binh. Trung Quốc còn chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu hộ. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc chiếm đóng Gạc Ma.
Tháng 4/1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5/1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1990, Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.
Năm 1992, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.
Năm 1994, Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho Công ty Crestone.
Tháng 2/1995, Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ do Philippines quản lý trên quần đảo Trường Sa.
Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo Trường Sa thì do sáu quốc gia và vùng lãnh thổ chiếm giữ là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
***
Những sự kiện điển hình vừa dẫn ra ở trên cho thấy ý đồ và bước đi của nhà cầm quyền Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua đã diễn ra theo một logic đáng ngại cho hòa bình và công pháp quốc tế. Nhưng không dừng ở đó, Ngày 26/5/2011 và này 30/11/2012 tàu Trung Quốc đã vào tận khu vực thềm lục địa Việt Nam và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cắt cáp địa chấn, cáp thu tín hiệu của tàu Binh Minh 02 thuộc Tập đoàn PetroViệt Nam. Tháng 5/2014 Trung Quốc đã đưa giàn khoan khổng lồ Haiyang Shiyou 981 cùng với hàng chục máy bay chiến đấu, hàng trăm tàu bán quân sự và quân sự vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Ngày 26/5/2014, tàu Trung Quốc số 11209 đã đâm chìm tàu cá ĐNa 90152 của ngư dân Đà Nẵng trong ngư trường truyền thống của Việt Nam ở vị trí cách giàn khoan này 17 hải lý. Tháng 6/2014 Trung Quốc đưa tiếp nhiều giàn khoan khác xuống Biển Đông, trong đó giàn khoan Nam Hải 09 hạ đặt ngay tại cửa vịnh Bắc Bộ, nơi đang chờ được phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực chất đây là một cuộc xâm lăng với tất cả các dấu hiệu vừa "cổ điển" vừa chưa có tiền lệ của nó. Cổ điển vì đã vượt biên giới, có vũ khí, hành động đơn phương với mưu đồ cưỡng chiếm lãnh thổ và thôn tính dài lâu. Nhưng lại chưa có tiền lệ vì sử dụng "lãnh thổ di động", chưa nổ súng và có thể không nổ súng nhưng vẫn có khả năng biến lãnh thổ quốc gia khác thành vùng tranh chấp rồi mới cưỡng đoạt. Giấc mộng Trung Hoa trên thực tế đã dần trút bỏ "lá nho che đậy không kém phần trơ trẽn" của nó [24] .
"Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói", đây là nhận định của Thủ tướng Việt Nam tại cuộc họp báo ngày 22/5/2014 tại Manila, nhân chuyến viếng thăm Philippines và tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á 2014. Tại cuộc họp báo này, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nói rõ : "Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển. Nhất định Việt Nam không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó" [25] .
Điều Thủ tướng nói chính là điều thuộc về ý nguyện của nhân dân.
Hồ Sĩ Quý
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 19/11/2023
Giáo sư Tiến sĩ Hồ Sĩ Quý là nguyên Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Bài đã đăng trên tạp chí "Thông tin Khoa học xã hội" số 6/2014.
Tài liệu trích dẫn :
[1]. Xem : Lưu Văn Lợi (1995), Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà xuất bản Công an Nhân dân ; Trần Xuân Hiến (2014), Tư liệu Hoàng sa Trường sa trong thư tịch cổ Trung Quốc (Tư liệu Viện Thông tin Khoa học Xã hội) ; Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa Trường Sa thuộc Việt Nam.
Về tên gọi Hoàng sa : Năm 1838 nhà truyền giáo người Pháp Joan-Luis-Taberu đã xuất bản cuốn "Dictionarium Latino-An Namiticum completum et novo ordine dispositum ("Từ điển Việt-Latin"). Trong đó quần đảo Hoàng Sa được định nghĩa là "Paracel seu Cát vàng". Tiếp sau đó, nhà địa lý Hà Lan Villem Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng Châu Âu là "Pracel". Về sau do sự mai một của thời gian và các nhà đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác nên "Pracel" đã bị gọi chệch đi thành "Le Paracel". (Xem : Вьетнамцы никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014).
[2]. Xem : Keith Johnson (2014), Lord of the Sea, Foreign Policy, 2014, May 16. ; Phạm Hoàng Quân (2013). Về địa danh và vị trí vạn lý trường sa, vạn lý thạch đường trên địa đồ hàng hải thời Minh, Thư viện Đại học Oxford ; Phạm Hoàng Quân (2013), Phân tích tổng quan nguồn sử liệu Trung Hoa liên quan đến Biển Đông Việt Nam.
[3]. Viking : thuật ngữ chỉ những nhà thám hiểm tài ba, phiêu lưu trên biển.
[4]. Xem : Mạnh Kim (2014), Sự thật về các chuyến Tây Dương của thái giám Trịnh Hòa & Từ Đặng Minh Thu (2007), Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc.
[5]. Xem : Vũ Quang Việt (2010), Tranh chấp Biển Đông Nam Á : đi tìm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế, Tạp chí "Thời đại mới" số 19/7/2010.
[6]. Những bản đồ sớm nhất vẽ Hoàng Sa, Trường Sa là "Hồng Đức bản đồ" vẽ năm Hồng Đức thứ 21 (Canh tuất, 1490) dưới triều Lê Thánh Tông và bộ bản đồ trong "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" hay "Toản Tập An Nam Lộ" do Đỗ Bá Công Đạo soạn vào năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó Hoàng Sa, Trường Sa được thể hiện với tên gọi chung là "Bãi Cát Vàng". Nghĩa là, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được thể hiện trên các bản đồ Việt Nam cách đây khoảng 500 – 600 năm. (Xem : Võ Long Tê (1974), Les archipels de Hoàng – Sa et de Trường – Sa selon les anciens ouvrages vietnamiens d’histoire et de géographie, Ministère de la Culture, de l’Education et de la Jeunesse. Sài Gòn. tr. 33-43 và Phụ lục). Trước thời Minh Mạng, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xem như một quần đảo, nên gọi là Hoàng Sa, hoặc Vạn Lý Trường Sa. Nhưng sau cuộc thám sát thời Vua Minh Mạng, và cuộc thám sát của Kergariou-Locmaria năm 1787 – 1788, vị trí quần đảo Hoàng Sa mới được xác định chính xác như hiện nay. Từ đó quần đảo Hoàng Sa mới được phân biệt với quần đảo Trường Sa ở phía Nam. Bản đồ "Đại Nam nhất thống toàn đồ" được vẽ sau đó đã ghi rõ hai tên khác nhau cho hai quần đảo. (Xem : Từ Đặng Minh Thu (2007). Sđd.).
Nhiều tài liệu đã mô tả kỹ quá trình thực thi chủ quyền của Việt Nam. Mới đây, Tiến sĩ Trần Công Trục một lần nữa mô tả chi tiết lịch sử chiếm hữu và khẳng định, Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt từ thời chúa Nguyễn, qua thời Tây Sơn đến thời các triều Nguyễn, với 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng với tư cách Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xem : Trần Công Trục (2014), Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc.
Cũng về quá trình này, sách trắng của Việt Nam "Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế" công bố 1988 cũng đã dẫn các nguồn tài liệu có giá trị như Đại Nam thực lục tiền biên (1600-1775), Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876), các châu bản triều Nguyễn về các bản tấu, phúc tấu, các dụ của các Vua, và hàng loạt bản đồ, tài liệu… của nước ngoài.
[7]. Xem : François Froger, Relation du premier voyage des François à la Chine fait en 1698, 1699 et 1700 sur le vaisseau "l’Amphitrite", herausgegeben von E. A. Voretzsch.
[8]. Nguyên văn : "Tiền vương lịch triều tri Hoàng Sa đội thất thập suất, dĩ An vĩnh nhân luân phiên thái thủ. Tuế dĩ tam nguyệt thụ thị hành sai, tệ lục nguyệt lương, giá tiểu thuyền ngũ chích, xuất dương tam nhật tam dạ thỉ chí thử đảo cư tứ tình thái thủ, bổ ngư vi thực, sở đắc tào vật khí bửu thậm chúng, dữ thái thủ hải (vật) phả đa, dĩ bát nguyệt hồi nhập yêu môn tựu Phú – xuân thành. (pp. 11a. 12a). (Trích theo : Võ Long Tê (1974). Les archipels de Hoàng Sa et de Trường Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens d’histoire et de géographie. Ministère de la Culture, de l’Education et de la Jeunesse. Sài Gòn. tr. 76.).
[9]. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Quyển chi Nhị. Tờ 82b-85a : "Hoàng sa chử chính cận Hải nam Liêm Châu phủ. Thuyền nhân thời ngộ Bắc quốc ngư Châu, dương trung tương vấn, thường kiến Quỳnh Châu Văn xương huyện. Chính đường quan, tra thuận hóa công văn nội xưng, Càn long thập bát niên, An nam Quảng nghĩa phủ Chương nghĩa huyện Cát liêm đội An bình xã quan nhân thập danh, ư thất nguyệt vãng Vạn Lý Trường sa thái thập các vật. Bát danh đăng ngạn, tầm mích các vật, chỉ tồn nhị danh thủ thuyền. Cuồng phong đoản xúc phiêu nhập Thanh lan cảng, y quan tra thực áp tống hồi tịch. Nguyễn phúc Chu lịnh Thuận hóa cai bạ thức lượng hầu vi thư dĩ phục". (Trích theo : Võ Long Tê (1974). Sđd. tr. 56.).
[10]. Võ Long Tê trích M.A. Dubois de Jancigny và Jean Baptiste Chaigneau. Xem : Võ Long Tê (1974), Sđd. tr. 168). & Вьетнамцы никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014.
[11]. Xem : Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà xuất bản Công an Nhân dân.
[12]. Vũ Quang Việt (2010). Sđd.
[13]. Xem : L’Éveil économique de l’Indochine số 741.
[14]. Duy Chiến, Chủ quyền Hoàng Sa thời Pháp thuộc & Nguyễn Nhã, Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa : Nguyên nhân và giải pháp, Hội thảo Việt Nam học lần thứ III, Hà Nội 2009, Tiểu ban 1.
[15]. L’Éveil économique de l’Indochine số 394, 398, 491, 602, 627, 644 …
[16]. L’Éveil économique de l’Indochine. 4/5/1930. – No 672, Tr. 18…
[17]. Theo sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa (1975). Xem : République du Vietnam, Ministère des affaires étrangères. Saigon, 1975. Livre blanc sur Hoang SA (Paracel) et des îles de Truong SA (Spratly). & Bản tiếng Anh : White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands - Phạm Ngọc Bảo Liêm (2010). Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tạp chí Xưa và Nay, Số 360, 7/2010 (tài liệu này ghi 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận).
[18]. Les États Associés à la conférence de San Francisco les 6 et 7 Septembre 1951 : Viet-nam Declaration du Président Trần Văn Hữu. France-Asie – Saigon, 1951, 6ème année, tome VII, 66-67 (Déc. 1951), pp. 502-505.
[19]. Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa (1975). Sđd & Phạm Ngọc Bảo Liêm (2010). Sđd.
[20]. Sắc lệnh này in trong Công báo Việt Nam Cộng Hòa, số ra ngày 29/7/1961, tr. 2695, cột 1, chụp từ microfilm kí hiệu "Film S 3419 1961 : no.25-58 (June-Dec.) reel 13", barcode : HX7G6V, Thư viện Lamont, Đại học Harvard - Xem : Nguyễn Tuấn Cường (2014) Sắc lệnh 1961 của Việt Nam Cộng Hòa về quần đảo Hoàng Sa.
[21]. Declaration on Principles of International Law Concerning Friendly Relations and Co-operation among States in Accordance with the Charter of The United Nations, United Nations General Assembly Resolution 2625 (XXV), 24 October 1970.
[22]. Rowiński Jan (1990). Biển Đông, khu vực tiềm tàng tranh chấp ở Châu Á, Warszawa. (Trích theo : Nguyễn Thái Linh (2014), Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế).
[23]. République du Vietnam, Ministère des affaires étrangères. Saigon, 1975, Livre blanc sur Hoang Sa (Paracel) et des îles de Truong Sa (Spratly). Bản tiếng Anh : White Paper on Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands
[24]. 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局(Website Chinanew nói về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ tiến hành để thực hiện Giấc mộng Trung Hoa trong 50 năm tới : 1/ Đài Loan 2020-2025 ; 2/ Biển Đông 2025-2030 ; 3/ Tây tạng 2035-2040 ; 4/ Điếu Ngư-Lưu Cầu 2040-2045 ; 5/ Ngoại Mông 2045-2050 ; Nga 2055-2060. Từ năm 2011 đến nay, 6/2014, bài viết này đã bị phản đối gay gắt trên khắp thế giới. Nhưng Trung Quốc vẫn không chịu gỡ bỏ).
[25]. Thủ tướng : Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông.
Người sưu tập bản đồ cổ Trung Quốc để chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Mỹ Hằng, BBC, 21/07/2023
Sinh ra và lớn lên ở miền biển Quảng Ngãi, sau khi sang Mỹ học tập và định cư, anh Trần Thắng - hiện là kỹ sư hàng không - vẫn tha thiết với biển đảo quê nhà. Anh đã tốn không ít tiền của và công sức sưu tập hàng trăm bản đồ cổ của Trung Quốc cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa chưa từng thuộc chủ quyền của nước này.
Kỹ sư hàng không Trần Thắng
Trong cuộc trò chuyện với BBC News Tiếng Việt, anh Trần Thắng cho biết hành trình sưu tập bản đồ của anh bắt đầu năm 2013, khi Tiến sĩ Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu Thư viện, Viện Hán Nôm, công bố tặng bản đồ nhà Thanh cho Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Bản đồ này nói về chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc dừng lại tại đảo Hải Nam, phía nam Trung Quốc.
"Khi ấy tôi đang lướt mạng tìm mua vài món cổ vật Việt Nam. Tôi đã thử tìm bản đồ Trung Quốc và rất vui khi thấy các bản đồ Trung Quốc giống như bản đồ nhà Thanh.
"Trong đầu tôi thoạt nghĩ, mình phải sưu tập các bản đồ Trung Quốc, Hoàng Sa và Trường Sa giúp cho Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo".
Sách Atlas - Trung hoa Dân quốc Bưu chính dư đồ, Tổng cục Bưu chính, Bộ Giao thông, Trung hoa Dân quốc, 1919 (62cm x 38cm). Sách có 29 bản đồ, viết bằng 3 ngôn ngữ Trung Hoa, Anh, Pháp.
Đêm đầu tiên, anh Thắng tìm được khoảng năm, bảy bản đồ Trung Quốc do các nước phương Tây phát hành. Anh gửi số bản đồ này về Việt Nam cho Tiến sĩ Trần Ðức Anh Sơn (nguyên Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng) đánh giá.
Kết quả bước đầu cho thấy đây là những bản đồ có độ tin cậy cao. Có thêm động lực, anh Trần Thắng bắt đầu dấn thân vào hành trình sưu tầm bản đồ cổ Trung Quốc.
Chỉ sau gần một năm, anh sưu tập được 150 bản đồ cổ.
Trong bộ sưu tập có 75 bản đồ Trung Quốc trong 400 năm, từ bản đồ năm 1618 phát hành tại Hà Lan cho đến bản đồ năm 2008 phát hành tại Mỹ. Các bản đồ này đều do các nước phương Tây phát hành.
Ðặt biệt, anh Thắng sưu tập được ba sách Atlas Trung Quốc quí hiếm. Cuốn đầu tiên do Hội truyền giáo Trung Quốc phát hành tại London năm 1908. Và cuốn Trung Hoa Dân Quốc Bưu chính Dư đồ do Bộ Giao thông & Truyền tin Trung Hoa Dân Quốc phát hành năm 1919, tái bản năm 1933.
"Dù bản đồ xuất bản tại Trung Quốc hay tại phương Tây, chúng có chung một điểm là đảo Hải Nam là điểm cuối nằm ở phía nam của Trung Quốc. Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc", anh Thắng nói.
Trong bộ sưu tập của anh Thắng, có 50 bản đồ Hoàng Sa và 25 bản đồ khu vực Ðông Nam Á. Các bản đồ Hoàng Sa được vẽ nằm sát với nước An Nam (tên gọi Việt Nam ngày xưa).
Anh Thắng tiếp tục gửi toàn bộ bản đồ này về Ðà Nẵng, nơi có Bảo tàng Hoàng Sa, để bảo quản và nghiên cứu.
Những bản đồ đặc biệt quý hiếm
Trong bộ sưu tập của mình, anh Thắng cho hay có những bản đồ đặc biệt quý hiếm. Trong đó phải kể đến bộ sách bản đồ thế giới Atlas sáu quyển do Viện trưởng Viện địa lý Hoàng gia Bỉ, Giáo sư Phillipe Vandermaelen, phát hành năm 1827 và được nhà vua Bỉ phê chuẩn.
"Bộ Atlas cổ này thuộc loại đồ sộ nhứt thế giới trong thời gian bấy giờ. Quyển Châu Á có bản đồ Hoàng Sa thuộc về nước An Nam, trên bản đồ Hoàng Sa (Paracels) ghi rất rõ về địa lý và chính trị nước An Nam", anh Thắng nói.
Ngoài ra còn có sách Atlas Trung Hoa Dân Quốc Bưu chính Dư đồ do Bộ Giao thông Trung Hoa phát hành năm 1919 có 29 bản đồ thể hiện cho thuộc 29 tỉnh, xuất bản bằng ba ngôn ngữ - Trung Hoa, Anh, Pháp. Bản đồ tỉnh Quảng Ðông bao gồm đảo Hải Nam nằm về phía nam của Trung Quốc. Trong phần phụ lục của sách, không ghi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo tiếng Anh hoặc Trung Hoa.
Theo nhận định của anh Thắng, sách Atlas Trung Hoa Dân Quốc Bưu chính dư đồ tái bản năm 1933, không gì thay đổi so với cuốn đầu tiên năm 1919.
"Như vậy bản đồ Biển Ðông ngày nay do Trung Quốc vẽ, gọi là "đường lưỡi bò", chiếm trọn Biển Ðông, không có trong sách bản đồ nhà nước Trung Hoa Dân Quốc trước năm 1933", anh Trần Thắng nói với BBC.
Giá trị pháp lý của bộ sưu tập
Theo anh Thắng, Việt Nam có bộ Châu Bản nhà Nguyễn ghi rõ triều đình quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Triều đình nhà Nguyễn có hải đội đi ra Hoàng Sa và Trường Sa hằng năm. Xa hơn, dưới thời Lê, sử sách cũng ghi về hai quần đảo này.
Bộ sưu tập bản đồ của anh Thắng là tư liệu bản đồ về Trung Quốc và Hoàng Sa, do nhà nước Trung Hoa và các nước phương Tây phát hành.
Anh Thắng cho rằng sự kết hợp giữa bộ sưu tập bản đồ cổ của anh và bộ Châu bản nhà Nguyễn sẽ tạo thế vững chắc về pháp lý và lịch sử để bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông của Việt Nam.
Trao đổi với BBC News tiếng Việt, Giáo sư Carl Thayer từ Đại học New South Wales, Úc - người từng có mặt trong một số triển lãm bộ sưu tập bản đồ của anh Trần Thắng, nhận định :
"Trong các bản đồ luật quốc tế, chẳng hạn như bộ sưu tập đồ sộ của Trần Thắng, không có giá trị pháp lý trừ khi chúng được đính kèm với một hiệp ước để minh họa cho một quan điểm. Nhưng những bản đồ này thực sự có giá trị trong việc chống lại các yêu sách chính trị sâu rộng của Trung Quốc đối với tất cả các thực thể ở Biển Đông dựa trên lịch sử".
Giáo sư Thayer kể lại rằng, ông đã nhiều lần đặt câu hỏi với các học giả và quan chức Trung Quốc tại các hội nghị quốc tế như sau : "Các vị tuyên bố Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, đặt tên, chiếm giữ và quản lý tất cả các thực thể đất ở Biển Đông.
"Các vị có thể cho tôi ví dụ nào về việc Trung Quốc bị một cường quốc nước ngoài buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát hành chính của mình đối với một thực thể ở Biển Đông không ? Có xảy ra vũ lực không ? Thường dân có bị giết không ?
"Tôi chưa bao giờ nhận được một ví dụ nào để giải thích cách thức Philippines, Malaysia, Philippines và Việt Nam chiếm đóng các thực thể đất ở Biển Đông mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm đóng và quản lý", Giáo sư Carl Thayer nói với BBC.
Theo phân tích của Giáo sư Thayer, những tấm bản đồ trong bộ sưu tập của anh Trần Thắng cho chúng ta biết rằng các quan chức Trung Quốc và các chính phủ nước ngoài cũng như các nhà vẽ bản đồ đều đồng ý rằng cho đến thế kỷ 19, Trung Quốc không đưa ra yêu sách nào ngoài đảo Hải Nam.
"Điều đáng chú ý là các bản đồ được sản xuất ở các nước Châu Âu khác nhau đều có chung điểm này", Giáo sư Thayer nói.
Kỹ sư hàng không Trần Thắng (phải) và Giáo sư Carl Thayer
Cũng theo Giáo sư Thayer, trong luật pháp quốc tế, yêu sách chủ quyền phải dựa trên sự chiếm đóng và quản lý liên tục. Và "bộ sưu tập bản đồ của Trần Thắng chỉ là điểm khởi đầu".
"Ai đã vẽ bản đồ và tại sao họ lại làm như vậy ?
"Các yêu sách về chủ quyền phải được các bên yêu sách chứng minh bằng bằng chứng về sự chiếm đóng và quản lý liên tục, chẳng hạn như xây dựng một ngôi đền, ngọn hải đăng, đài phát thanh, trường học và các tài liệu như giấy khai sinh cấp cho cư dân địa phương.
"Yêu sách chủ quyền được coi là có cơ sở khi các quốc gia nước ngoài thừa nhận và tôn trọng sự chiếm đóng và quản lý của một quốc gia khác", Giáo sư Thayer nói với BBC.
Khoảng trống trong giáo dục Việt Nam
Trong quá trình tìm hiểu thông tin về Hoàng Sa, Trường Sa và sưu tập các bản đồ cổ, anh Trần Thắng nhận thấy có khoảng trống về thông tin lịch sử của hai quần đảo này trong sách giáo khoa Việt Nam.
"Việc nghiên cứu Biển Ðông của Việt Nam cũng chưa đặt đúng mức độ quan trọng của nó.
"Việt Nam chưa có đủ đội ngủ chuyên viên dầy dạn kinh nghiệm về Biển Ðông bao gồm các mặt như luật pháp quốc tế về biển đảo, địa chính trị, hàng hải, v.v...
"Ngoài ra, dưới sức ép Trung Quốc, Việt Nam phải giữ mức độ dung hòa tránh xung đột ở Biển Ðông", anh Trần Thắng nhận định.
Anh Thắng nhấn mạnh rằng cần phải đưa thông tin chính xác và đầy đủ về lịch sử hình thành và phát triển hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào sách giáo khoa Việt Nam để giảng dạy cho các thế hệ học sinh về chủ quyền biển đảo của quê hương mình.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các bảo tàng về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông để ghi nhận mọi mặt về địa chính trị, du lịch, kinh tế, năng lượng dầu mỏ, khí đốt, sinh thái biển, lịch sử phát triển diễn ra tại các vùng biển này.
"Hiện nay, Việt Nam có nhà trưng bày Hoàng Sa ở Ðà Nẵng và Trường Sa ở Nha Trang ở mức cơ bản. Chúng ta cần xây dựng những nhà trưng bày trở nên chuyên nghiệp và sống động hơn nhằm thu hút người Việt và du khách quốc tế đến tham quan".
Sau khi bộ sưu tập bản đồ cổ của anh Thắng được công bố, Bộ Thông tin và truyền thông Việt Nam đã kết hợp với bộ sưu tập sẵn có của bộ để tổ chức hơn 100 cuộc triển lãm từ bắc vào nam trong năm 2015-2016.
"Tôi có dự cuộc triển lãm tại Hà Nội và tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Tôi cũng nghe nói cuộc triển lãm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Ðà Nẵng thu hút hàng ngàn người xem, mọi người sắp hàng dài.
"Sau khi tham dự các cuộc triển lãm, tôi rất vui vì mình đóng góp đôi chút vào công việc và khơi dậy tinh thần nhận thức về bảo vệ chủ quyền biển đảo tại Việt Nam", anh Thắng tâm sự.
Không dừng lại ở việc sưu tập bản đồ cổ, anh Thắng còn phối hợp với các tổ chức liên quan tổ chức một số hội thảo Biển Đông, thu hút nhiều học giả Việt Nam và quốc tế. Trong đó có thể kể đến hội thảo do Viện văn hóa và giáo dục Việt Nam (IVCE) mà anh Trần Thắng sáng lập, kết hợp với khoa Ðông Nam Á học thuộc đại học Yale năm 2015.
"Từ hội thảo này, tôi nhận được phản ánh từ các học giả Mỹ rằng tài liệu về Biển Ðông tại Việt Nam viết bằng tiếng Anh rất ít, điều này làm khó khăn cho các học giả Mỹ khi nghiên cứu về Biển Ðông".
Từ mối quan tâm của học giả Mỹ, anh Trần Thắng nhen nhóm ý định dịch những sách Biển Ðông hay ra tiếng Anh, phục vụ cho các học giả Mỹ, Châu Âu, Canada, Úc và phương Tây và thư viện các trường đại học.
Vài năm qua, anh đã thu thập khoảng 100 sách và tư liệu, chọn ra khoảng 20 sách tốt nhất, rồi từng bước chuyển dịch ra tiếng Anh và tìm nhà xuất bản hợp tác.
Anh Thắng cũng gửi tặng bộ sưu tập bản đồ cổ đến 100 thư viện Ðông Nam Á thuộc các đại học hàng đầu tại Mỹ và các học giả Mỹ.
Ảnh Trung Hoa Dân quốc Bưu chính dư đồ (62cm x 38cm), do Tổng cục Bưu chính, Bộ Giao thông, Trung hoa Dân quốc, phát hành năm 1919.
"Khi có đầy đủ bản đồ Trung Quốc và Hoàng Sa, sinh viên Mỹ và giáo sư có nguồn tư liệu tham khảo về nguồn gốc của biển đảo khu vực Biển Ðông, nơi có mật độ hàng hải lớn nhứt thế giới. Ðặc biệt, tư liệu bản đồ này chống lại bản đồ "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc đơn phương đưa ra cho thế giới".
Đôi nét về 'người sưu tập bản đồ' Trần Thắng
Anh Trần Thắng sinh ra tại Quảng Ngãi. Khi anh lớn lên, gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống.
Khi anh Thắng đỗ vào Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh thì gia đình đi xuất cảnh tại Mỹ năm 1991. Tại Mỹ, anh học tại University of Connecticut với ngành kỹ sư cơ khí.
Sau khi tốt nghiệp đại học, anh Trần Thắng làm việc cho công ty sản xuất động cơ máy bay Pratt & Whitney từ năm 2000-2020. Anh đảm nhận nhiều vị trí khác nhau như thiết kế, phân tích mô phỏng, qui trình ráp động cơ...
"Tôi yêu thích công việc hàng không máy bay, nơi rèn luyện cho người kỹ sư nhiều kỹ năng sắc bén, hiểu về mô hình nền công nghiệp máy bay hiện đại", anh Thắng nói với BBC.
Ngoài công việc chính, anh Trần Thắng cùng bạn bè thành lập Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York năm 2000 với mục đích giới thiệu văn hóa Việt Nam tại các trường đại học và trung tâm văn hóa Mỹ, quảng bá giáo dục Mỹ tại Việt Nam.
Từ năm 2002-2016, anh Thắng của các cộng sự của mình về Việt Nam mỗi dịp hè để làm các hội thảo Du học Mỹ, nhằm giúp cho các bạn trẻ Việt Nam tìm cơ hội du học tại Mỹ.
"Tôi cho rằng từ đó mà làn sóng du học Mỹ hình thành và phát triển mạnh trong 10 năm gần đây", anh Thắng nói.
Hiện tại anh Trần Thắng đang có dự xây dựng trường nội trú trung học Mỹ và đại học Mỹ tại Ðà Lạt nhằm thu hút học sinh và sinh viên Mỹ về Việt Nam học ngắn hạn, đồng thời thu hút học sinh và sinh Châu Á đến học trong đó có Việt Nam.
Anh cũng chia sẻ về kế hoạch xây dựng Trung tâm Việt-Mỹ nơi tập trung các chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật và học giả người Việt tại Mỹ để trợ giúp cho Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khắp Việt Nam.
Mỹ Hằng
Nguồn : BBC, 21/07/2023
******************************
Người gốc Việt triển lãm bản đồ Hoàng Sa trên đất Mỹ
Nguyễn Đông, VnExpress, 10/05/2016
Lần đầu tiên những bản đồ cổ giúp chứng minh chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa do Việt kiều Trần Thắng sưu tầm được trưng bày ở Mỹ.
Một bản đồ cho thấy quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ảnh : Trần Thắng.
20 bản đồ Hoàng Sa, 20 bản đồ cổ Trung Quốc và 2 sách atlas Trung Quốc được triển lãm tại Hội thảo quốc tế "Sự xung đột trong Biển Đông", tổ chức tại ĐH Yale, Mỹ cuối tuần qua. Ðây là 40 bản đồ trong bộ sưu tập 150 bản đồ cổ Hoàng Sa và Trung Quốc, cùng 3 sách atlas Trung Quốc mà ông Trần Thắng, Việt kiều Mỹ, sưu tập từ giữa năm 2012. Những bản đồ này đã được ông Thắng gửi tặng cho Việt Nam và UBND huyện đảo Hoàng Sa, Đà Nẵng.
20 bản đồ Hoàng Sa do các nước phương Tây và Việt Nam vẽ, từ năm 1618 đến 1859, cho thấy vùng quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Trong khi đó, 20 bản đồ các nước phương Tây vẽ về Trung Quốc từ năm 1626 đến 1980, cho thấy miền Nam của Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Hai sách bản đồ Atlas, một cuốn do Nhà nước Trung Hoa phát hành tại Nam Kinh năm 1933, cuốn còn lại do Phái bộ truyền giáo Trung Quốc phát hình tại Anh năm 1908 cũng chỉ rõ lãnh thổ nước này dừng lại ở Hải Nam.
Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia người Australia nghiên cứu các vấn đề về Biển Đông, từng nhận xét bộ sưu tập của ông Trần Thắng cho thấy những mâu thuẫn trong tuyên bố của Trung Quốc về cái gọi là "chủ quyền không thể tranh cãi" đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trao đổi với VnExpress, ông Trần Thắng, chủ tịch Viện văn hóa - giáo dục Việt Nam (IVCE), cho biết các học giả tham dự hội thảo đều cho rằng, hiện chưa có sách hoặc công trình nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng tiếng Anh được phát hành rộng rãi. Điều này khiến các học giả quốc tế than phiền rằng họ không có tài liệu để nghiên cứu.
"Việt Nam được một số học giả quốc tế tranh đấu bảo vệ lợi ích Biển Ðông. Chính phủ Việt Nam cũng cần lập ra quỹ về Biển Ðông để tạo mọi điều kiện phát triển thông tin về Biển Ðông. Từ nguồn ngân sách này, có thể dùng dịch sách, các công trình nghiên cứu, phim tài liệu và tài liệu về Biển Ðông sang tiếng Anh và tiếng Trung Quốc", ông Thắng nói và cho rằng quỹ Biển Ðông cũng sẽ hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu Biển Ðông.
The Atlas of The World, Johnsons Atlas, New York, 1869, cũng cho thấy lãnh thổ phía nam của Trung Quốc kết thúc ở đảo Hải Nam. Ảnh : Trần Thắng.
Hiện Trung Quốc và các nước trong khối Ðông Nam Á tăng cường phát triển quân sự, có nghĩa là phát triển "sức mạnh cứng". Cái giá phát triển sức mạnh cứng là hàng tỷ tỷ USD, trong khi giá thành phát triển sức mạnh mềm như đầu tư nghiên cứu Biển Đông chỉ vài triệu USD. "Ðiều quan trọng của sức mạnh mềm là gìn giữ được hoà bình trong khu vực trong các cuộc xung đột về Biển Ðông", ông Thắng nói.
"Tôi nghĩ Chính phủ cần phải công khai giải pháp cụ thể về Biển Đông. Ví dụ như trường hợp Philippines họ chọn giải pháp về môi trường biển và giá trị pháp lý về đường lưỡi bò để chống lại Trung Quốc tại tòa án quốc tế, và giải pháp này được công khai trong nước và cả thế giới", ông cho biết thêm.
-----------------------------
Ông Trần Thắng tốt nghiệp kỹ sư cơ khí tại University of Connecticut và làm việc cho công ty động cơ máy bay Pratt & Whitney từ năm 2000. Ông đồng thời là Chủ tịch Viện văn hóa - giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York, nhằm phát huy giáo dục Mỹ tại Việt Nam và giới thiệu văn hóa Việt Nam tại các Đại học Mỹ.
Năm 2012, ông Trần Thắng sưu tầm 150 bản đồ cổ Trung Hoa, bản đồ Hoàng Sa và 3 sách atlas Trung Hoa chứng minh chủ quyền biển đảo Việt Nam. Với đóng góp này, ông nhận được bằng khen của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ủy Ban biên giới - Bộ Ngoại giao, UBND thành phố Ðà Nẵng.
Nguyễn Đông ghi
Nguồn : Vnexpress, 10/05/2016
***********************
Người sưu tầm 100 bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa
Nguyễn Đông, VnExpress, 02/11/2012
Tạm gác công việc bận rộn của một kỹ sư máy bay, ông Thắng lên mạng rồi đến các cửa hàng đồ cổ tìm mua các bản đồ của Trung Quốc và thế giới chứng minh quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là phần lãnh thổ của Việt Nam.
Ông Trần Thắng vừa quyết định tặng 100 tấm bản đồ quý cho Việt Nam. Ảnh : NVCC.
Ông Trần Thắng (*), 42 tuổi đang sống tại tiểu bang Connecticut (Mỹ), Chủ tịch Hội Văn hóa - Giáo dục Việt Nam tại Mỹ (IVCE), vừa quyết định tặng toàn bộ số bản đồ mình cất công sưu tầm cho Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng, nơi có chương trình nghiên cứu Hoàng Sa, Trường Sa.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Thắng cho biết, đã sưu tầm được 100 bản đồ độc bản. Trong đó có 70 bản đồ lãnh thổ Trung Quốc, 15 bản đồ vẽ Hoàng Sa nằm sát bờ biển Việt Nam, 15 bản đồ khu vực Đông Dương hay Đông Nam Á, và 2 sách toàn đồ chứng minh Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa.
Theo ông Thắng, các bản đồ cổ và sách toàn đồ của Chính phủ Trung Quốc nói lên tính lịch sử và tính pháp lý rất cao. "70 bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Quốc đã chỉ rõ miền nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. 15 bản đồ vẽ Hoàng Sa nằm sát bờ biển Việt Nam. Tại sao người Tây phương không vẽ Paracels (Hoàng Sa) nằm sát Hàn Quốc, Trung Quốc, Philippines, Singapore, Brunei, mà lại vẽ nằm sát Việt Nam ? Là vì từ Paracels đến bờ biển của An Nam gần so với các nước khác và trên đảo Paracels có người An Nam sinh sống nên người Tây phương cho rằng đảo này thuộc về An Nam", ông Thắng lý giải.
Nhà sưu tầm cho hay, 5 bản đồ vẽ các tuyến đường hàng hải trọng điểm đều đi qua Hoàng Sa nơi Pháp quản lý vùng biển và đảo của Indochina. Ngoài ra, Hoàng Sa có thể là nơi dừng chân cho các tàu bè trên tuyến hàng hải Nam - Bắc Châu Á. Sau hiệp định Geneva 1954, Pháp trao trả "toàn vẹn lãnh thổ" cho Việt Nam, tất nhiên phải có cả Hoàng Sa.
Bản đồ do Petrus hay Pieter vẽ năm 1594 có thể hiện 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở biển Đông với tên gọi chung là Pracel, còn vùng lãnh thổ trong đất liền thì ghi là Costa de Pracel (Bờ biển Hoàng Sa).
Kể về hành trình sở hữu những tấm bản đồ quý, ông Thắng chia sẻ, cuối tháng 7 vừa qua, sau khi biết tin tiến sĩ Mai Hồng (Hà Nội) tặng bản đồ nhà Thanh (miền Nam Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam) cho bảo tàng Lịch sử Việt Nam, ông đã lên mạng và thấy có người rao bán vài tấm bản đồ cổ của Tây phương về lãnh thổ của Trung Quốc. Ông liền liên hệ và mua lại những bằng chứng này.
Là người "ngoại đạo" nên ông Thắng cẩn thận gửi các bản đồ này cho hai người bạn thân quen là Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn (Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng) và Tiến sĩ Nguyễn Nhã xem. "Hai vị này có cảm nhận tốt thế là tôi bắt đầu tìm kiếm bản đồ. Khi ấy có nguồn cảm hứng thế nào mà tôi toát ra suy nghĩ rất nhanh là phải sưu tầm nhiều bản đồ của Tây phương để chứng minh miền Nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam", ông Thắng kể.
Tạm gác lại công việc bận rộn của một kỹ sư máy bay, ông tìm đến những cửa hiệu đồ cổ, điểm rao bán bản đồ để tìm mua. Số lượng bản đồ về lãnh thổ Trung Quốc được xuất bản tại Anh, Đức, Pháp, Hà Lan, Mỹ, Ý... trong thời gian 1626 - 1980 ngày một nhiều lên. Tuy nhiên, ông chỉ tìm được một tấm bản đồ có Hoàng Sa vẽ nằm sát bờ biển Việt Nam.
"Khi ấy tôi hơi lo lắng vì mình đã chứng minh miền nam của Trung Quốc dừng tại đảo Hải Nam, nghĩa là Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc. Vậy làm thế nào mình chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam ? Nếu chỉ có một bản đồ thì không đủ thuyết phục ?", ông tự đặt câu hỏi và nỗ lực tìm kiếm câu trả lời. Giữa tháng 9, ông tình cờ phát hiện tấm bản đồ cổ có Hoàng Sa và liền sau đó ông sưu tầm thêm được 15 bản đồ cùng loại.
Ông Thắng cũng phát hiện điều rất lạ là cả 3 cuốn Toàn đồ Trung Hoa dân quốc Bưu dư đồ của Trung Quốc in tại Nam Kinh năm 1919 và 1933 (gồm 78 bản đồ), và Atlas of The Chinese Empire do phái bộ China Inland Mission xuất bản tại Anh năm 1908 (gồm 23 bản đồ) đều không liệt kê Hoàng Sa, Trường Sa.
Tuy nhiên, do giá các cuốn sách cổ này rất đắt đỏ, bản thân lại không đủ tiền nên ông Thắng kêu gọi bạn bè thân đóng góp. Việc này được thực hiện bí mật, phòng khi thông tin lan rộng sẽ có người khác mua mất. "Trong 2 tuần chờ đợi tiền, tôi rất hồi hộp, ngày nào cũng đi làm về sớm xem sách còn trên mạng không. Khi cầm được sách trên tay tôi mới cảm thấy thanh thản", vị kỹ sư độc thân trải lòng.
Bản đồ Scherer Atlas Novus (Đức) năm 1670 cũng cho thấy lãnh thổ của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa. Ảnh : Trần Thắng.
Mua được bản đồ quý, ông lại bỏ thời gian kiểm tra lại thông tin về nhà xuất bản, năm xuất bản, mã số, làm khung, bọc giấy kính để bảo quản. Từ đây, ông bắt đầu giới thiệu cho người Mỹ và các bạn trẻ người Việt biết về Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Toàn bộ hình ảnh về bộ sưu tập này được lưu lại tại trang web của Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam.
"Tôi nghĩ rằng mọi người Việt trong và ngoài nước đều là những người yêu nước, không riêng gì tôi. Tôi làm công việc sưu tập tài liệu bản đồ một cách tự nhiên, không bị áp lực nào về tính thời sự chính trị. Tôi không xem việc này là của Chính phủ hay việc kia là của người dân. Tôi thấy việc nào có lợi cho xã hội cho cộng đồng là làm", ông Thắng chia sẻ và cho biết, sau khi công bố tài liệu sẽ cùng với các luật sư ở Mỹ gặp nhau để cùng bàn cách giúp Việt Nam về tính pháp lý tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi xem qua bản sao của gần 100 bản đồ ông Trần Thắng gửi từ Mỹ về, Giáo sư Sử học Phan Huy Lê nhận xét, bộ sưu tập này dù có một số chưa xác định đầy đủ xuất xứ nhưng đều rất quý, phong phú hơn những bộ sưu tập về bản đồ liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa trước đây. Cảm kích trước tấm lòng của một nhà khoa học nước nhà luôn hướng về quê hương, giúp Việt Nam có thêm chứng cứ khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, Giáo sư Lê đã viết thư cảm ơn ông Thắng.
"Ý nghĩa của những tấm bản đồ này gắn liền với ý nghĩa lịch sử và pháp lý. Đặc biệt, những tấm bản đồ của Trung Quốc đến năm 1933 cho thấy thời điểm đó chính quyền Bắc Kinh không có nhận thức về về lãnh thổ phía Nam, tất cả bản đồ đều ghi rõ lãnh thổ của Trung Quốc kéo dài đến đảo Hải Nam. Trong khi đó, những tấm bản đồ của thế giới vẽ Châu Á, Đông Nam Á và Việt Nam đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa gắn liền với Việt Nam", Giáo sư Phan Huy Lê nói.
Nguyễn Đông
Nguồn : VnExpress, 02/11/2012
(*) Năm 1991, ông Trần Thắng cùng gia đình sang Mỹ định cư. Ông tốt nghiệp kỹ sư cơ khí và làm cho công ty sản xuất động cơ máy bay Pratt & Whitney từ năm 1999. Ông cũng là người đứng ra thành lập Viện Văn hóa & Giáo dục Việt Nam tại New York để phát triển văn hóa Việt Nam, cũng như phát triển hợp tác giáo dục giữa hai nước.
Theo nội dungHòa ước San Francisco ngày 8 tháng Chín năm 1951 và Công hàm 14 tháng Chín 1958 của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa .
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và hoà bình. Nguồn : Internet
Ngày 11 tháng 12 năm 2015 Đại diện thường trực của nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã racông hàm, mục đích phản biện các lý lẽ của Phi trình bày tại Tòa Trọng tài Quốc tế tại La Haye, Hòa lan (CPA) trong vụPhi đơn phương kiện Trung Quốc về hải phận Biển Đông, theo Phụ lục VII của UNCLOS. Nội dung như thường lệ khẳng định quyền, quyền lịch sử và chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Nhưng lần này nội dung công hàm còn cho biết các văn kiện quốc tế trước Thế chiến thứ II, như Tuyên bố Cairo 1943, Tuyên bố Potsdam 1945 và một số văn kiện khác, nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đại diện của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc có ra công hàm phản đối đồng thời và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng không thấy phía Việt Nam đề cập đến các văn kiện quốc tế mà Trung Quốc đã nhắc trong thông cáo của mình.
Có thật là các Tuyên Bố Cairo, Tuyên bố Potsdam (và các văn kiện quốc tế khác) đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa, như nội dung của công hàm công bố tại Liên Hiệp Quốc ngày 11/12/2015 ?
Không có câu trả lời nào cụ thể hơn bằng cách xem xét lại các văn kiện trên (và các văn kiện quốc tế khác, có liên quan đến các lãnh thổ mà Nhật đã cưỡng chiếm của các quốc gia khác trong Thế chiến Thứ II).
Tuyên bố Cairo
Tháng 11 năm 1943, ba lãnh tụ Theodore Roosevelt, Winston Churchill và Tưởng Giới Thạch gặp nhau tại Cairo, thủ phủ nước Ai Cập, thảo luận về điều kiện để Trung Hoa đứng về phía Đồng minh cũng như mục đích của cuộc chiến. Sau cuộc họp, một bản tuyên bố chung được công bố trước công chúng, gọi là "Tuyên bố Cairo".
Nguyên văn bản Tuyên bố (1) (tạm dịch lại) như sau :
"Mục đích chiến đấu duy nhứt của (các nước Đồng minh) là kết thúc cuộc xâm lược của Nhật Bản. Các nước Đồng Minh không hề có mục tiêu mở rộng lãnh thổ. Chúng tôi chỉ giải phóng các vùng lãnh thổ đã bị Nhật Bản chiếm đóng bởi bạo lực".
Các vùng đất mà Nhật Bản phải từ bỏ :
Tất cả những đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã chiếm từ sau Thế chiến I ;
Trả lại cho Trung Hoa những vùng mà Nhật đã cướp của Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ ;
Tất cả các vùng lãnh thổ mà đế quốc Nhật đã chiếm bằng vũ lực ;
Nhân dân Hàn Quốc lấy lại chủ quyền đất nước mình trong một thời gian nhất định.
Những điểm cần nhấn mạnh trong bản Tuyên bố :
a/ Các cường quốc (gồm Trung Hoa) không có mục tiêu mở rộng lãnh thổ.
b/ lãnh thổ Nhật trả lại cho Trung Hoa gồm Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ.
Tuyên bố Cairo không có dòng chữ nào nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tối hậu thư Postdam
Còn gọi là Tuyên bố Potsdam, là tối hậu thư của các nước Đồng minh Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa gởi cho Nhật Bản ngày 26 tháng 6 năm 1945. Văn kiện này quan trọng vì được sự nhìn nhận vô điều kiện của Nhật. Nội dung (2) tối hậu thư tái xác nhận hiệu lực Tuyên ngôn Cairo.
Nội dung gồm một số điều :
Thi hành các điều đã xác định theo tuyên bố Cairo ;
Lãnh thổ Nhật Bản sẽ chỉ giới hạn trên các đảo Hondo, Hokkaido, Kiousiou và Si Kok cũng như trên một số đảo nhỏ khác sẽ được xác định do các nước đồng minh ;
Nhật sẽ bị hoàn toàn giải giới và các lực lượng quân đội Nhật sẽ giải ngũ.
Nội dung tuyên bố này không nói đến số phận các vùng lãnh thổ của các nước bị Nhật chiếm (trước Thế chiến II) cũng như nhắc đến Hoàng Sa và Trường Sa.
Cho rằng Tuyên bố Cairo 1943 và Tuyên ngôn Potsdam 1945 nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa là không đúng sự thật.
Các văn kiện quốc tế khác
"Các văn kiện khác" có nhắc, hay có liên quan, đến Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật ký văn bản đầu hàng ngày 2 tháng 9 trên chiến hạm Missouri, là các văn kiện : 1/ Hòa ước San Francisco 1951, 2/ các thỏa ước Pháp-Trung ký tháng Hai năm 1946 tại Trùng Khánh về trao đổi lợi ích kinh tế tại vùng Hoa Nam với thẩm quyền lãnh thổ ở Đông dương. 3/ Hòa ước Trung-Nhật 1952 và 4/ Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Trung-Nhật 1978.
Các văn kiện này nói gì về số phận Hoàng Sa và Trường Sa ?
1. Hiệp ước Trùng Khánh 28 tháng Hai 1946
Sau khi Nhật ký văn kiện đầu hàng trên chiến hạm Missouri của Mỹ neo trong vịnh Tokyo ngày 2 tháng Chín 1945. Tất cả các lãnh thổ mà Nhật đã chiếm của các quốc gia khác trước chiến tranh từ lúc đó đặt dưới thẩm quyền của Đồng Minh. Quân đội Nhật ở các vùng lãnh thổ này có trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự trong lúc chờ đợi quân Đông minh vào giải giới.
Số phận Việt Nam, không có quyết định nào của Đồng minh trao trả "nền độc lập" của Việt Nam cho phe nào. Việc "giải giới" quân đội Nhật, khu vực phía nam vĩ tuyến 16 do quân đội Anh phụ trách và khu vực bắc vĩ tuyến 16 dưới trách nhiệm của quân Trung hoa.
Lãnh tụ De Gaule của Pháp, đứng về phe chiến thắng Đồng minh, có toan tính "đưa Đông dương thuộc chủ quyền của Pháp", vì vậy thỏa thuận với Anh, thay thế quân Anh đổ bộ vào "tiếp thu" Nam kỳ, cùng với quân đội Anh giải giới quân Nhật.
Về phía Bắc kỳ, Pháp liền ký kết với Trung Hoa Hiệp ước Trùng Khánh (Tchong Quing) ngày 28 tháng 2 năm 1946. Diễn tiến đượcghi lại như sau :
Le 28 février 1946, à 16 heures, Meyrier signe avec le ministre des Affaires étrangères Wang Shijie le texte qui consacre la rétrocession définitive des concessions françaises. En contrepartie de l’abandon de l’exterritorialité et du retour des concessions, la Chine accepte de retirer ses troupes du Tonkin dès que les troupes françaises auront pris la responsabilité du Nord de l’Indochine :
"La relève des troupes chinoises stationnées en Indochine au nord du 16e parallèle commencera entre le 1er et le 15 mars, et devra être terminée au plus tard le 31 mars. Les États-majors chinois et français se mettront d’accord pour fixer les modalités d’exécution de cette opération".
Theo đó quân đội Trung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Pháp vào thay thế. Đổi lại, Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới của Pháp tại Trung Hoa đồng thời cam kết dành sự ưu đãi về kinh tế cho Trung Hoa, như nhượng tuyến đường xe lửa Vân Nam – Hải Phòng, dành ưu đãi về kinh tế, kiều dân Trung Hoa sống tại Việt Nam được hưởng qui chế ưu đãi đặc biệt.
Theo các điều ước của các hiệp ước Trùng Khánh trao đổi " kinh tế lấy lãnh thổ ", Trung Hoa không còn thẩm quyền "giải giới" quân Nhật ở Hoàng Sa và Trường Sa. Thẩm quyền giải giới các đảo dưới vĩ tuyến 16 thuộc Anh (sau đó Anh nhượng lại cho Pháp).
Pháp đã gởi quân đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để khẳng định chủ quyền, ngay sau khi Nhật rút quân. Tại Hoàng Sa và Trường Sa, quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Đến tháng 10-1946, quân Pháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủ quyền.
Câu "các văn kiện quốc tế khác" đã ghi trong Tuyên bố của Trung Quốc không thể loại trừ các hiệp ước Pháp-Trung ký tại Trùng Khánh 28 tháng Hai 1946. Nội dung các hiệp ước này là Trung hoa từ khước mọi thẩm quyền, nếu có, về lãnh thổ ở Đông dương, cũng như ở các lãnh thổ trên biển.
2. Hòa ước San Francisco 8 tháng Chín 1951
Hội nghị San Francisco bắt đầu từ ngày 4 tháng Chín, kết thúc với Hòa ước gọi là "Hòa ước San Francisco", ký ngày 8 tháng Chín năm 1951. Hội nghị gồm có 52 quốc gia tham gia, trong đó có 49 quốc gia ký hiệp ước hòa bình với Nhật.
Vào thời điểm đầu hàng, 14/8/1945, Nhật đã có tuyên chiến với 46 nước, trong đó không có Việt Nam. Từ thời điểm này đến ngày mở đầu Hội nghị San Francisco ngày 4 tháng 9 năm 1951, Hội nghị đón nhận thêm 9 nước khác (tuyên bố chiến tranh với Nhật). Các nước này là các nước đã bị Nhật chiếm đóng lúc chiến tranh, không tự chủ về ngoại giao, vì ở tình trạng dưới quyền bảo hộ của một nước khác. Một trong 9 nước đó là Việt Nam.
Cả hai bên Đài loan và lục địa đều không tham dự Hội nghị San Francisco. Phía Bắc Kinh, qua tuyên bố của Châu Ân Lai là không nhìn nhận mọi kết quả phát sinh từ Hội ngị này.
Hòa ước San Francisco 1951 viết bằng 4 ngôn ngữ : Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Nhật. Nhưng chỉ có ba ngôn ngữ đầu là có hiệu lực pháp lý. Hòa ước bao gồm gồm 7 chương, 27 điều và một lời mở đầu. Điều 2 (3) khoản (f) nói về lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa, nguyên văn như sau :
"f) Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracel Islands".
Nhật phải từ bỏ mọi quyền, mọi danh nghĩa và mọi yêu sách liên quan đến quần đảo Spratly (Trường Sa) và quần đảo Paracels (Hoàng Sa).
Điều 2 của Hiệp ước San Francisco 1951 không hề xác định Hoàng Sa và Trường Sa, (kể cả đảo Đài Loan và quần đảo Bành hồ), sẽ trả về cho nước nào, hay giao cho chính phủ nào có thẩm quyền quản lý !
Vì vậy, muốn tìm hiểu các vùng lãnh thổ do Nhật từ bỏ sẽ giao cho quốc gia nào ta phải nghiên cứu về "tiền Hội nghị San Francisco" đồng thời xét đến công pháp quốc tế và tập quán quốc tế về những vấn đề chủ quyền ở các vùng lãnh thổ bị từ bỏ.
Theo tác giả Focsaneanu Lazar trong "Les Traités de paix du Japon" (in : Annuaire français de droit international, volume 6, 1960. pp. 256-290). Hội nghị San Francisco đã đưa ra 4 giải pháp để giải quyết số phận các vùng lãnh thổ mà Nhật từ bỏ. Lược dịch ra như sau :
(a) Đề nghị thứ nhứt, các vùng đất (Nhật từ bỏ) thuộc quyền quản lý của tất cả các nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tức hình thức "cộng đồng quản lý" (condominium). Việc chuyển giao chủ quyền ở các vùng lãnh thổ này đã được thực hiện lúc Nhật ký kết Tuyên bố Potsdam và đầu hàng vô điều kiện (14/8/1945). Điều 2 Hiệp ước San Francisco chỉ nhằm mục tiêu hợp pháp hóa hành vi từ bỏ lãnh thổ của Nhật mà thôi. Vấn đề "kế thừa" những vùng lãnh thổ (Nhật từ bỏ) không còn liên quan đến Nhật cũng như nội dung Hiệp ước San Francisco cũng như Hòa ước Trung-Nhật 28/4/1952.
(b) Đề nghị thứ hai, các vùng đất (Nhật từ bỏ) thuộc quyền quản lý của các nước ký kết vào Hiệp ước. Đề nghị này bị Liên Xô chống đối. Hai nước Ấn Độ và hai nước Trung Hoa đòi hỏi "cộng đồng quản lý" ngay cả lãnh thổ của Nhật.
(c) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ (terrae derelictae).
(d) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ, người ta có thể chiếm hữu. Điều này hàm ý, những nước tham chiến đang chiếm đóng tạm thời tại các vùng lãnh thổ đó có thể chiếm đóng vĩnh viễn và tuyên bố chủ quyền.
Chiếu những điều xảy ra trên thực tế, ta thấy điều (a), (d) và (c) lần lượt được thực hiện.
Một chi tiết quan trọng : điều 2 của Hiệp ước San Francisco là do đại diện phái đoàn Pháp đề nghị.
Hành vi của Pháp dĩ nhiên là có tính toán (để lấy lại thuộc địa Đông dương).
Bởi vì, từ ngày 28 tháng 2 năm 1946 Pháp đã ký kết với Trung Hoa Hiệp ước Trùng Khánh (như đã viết đoạn trên). Nội dung kết ước Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới của Pháp tại Trung Hoa. Đổi lại quân đội Trung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Pháp vào thay thế.
Trong khi đó, phía nam vĩ tuyến 16, vì lý do chiến lược, Anh cũng đồng ý nhượng quyền lại cho Pháp.
Tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật rút đi Pháp liền gởi quân đến các nơi này để khẳng định chủ quyền. Tại Hoàng Sa quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Tháng 10-1946, quân Pháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủ quyền.
Như thế, hành động của Pháp phù hợp hoàn toàn theo nội dung các đề nghị "tiền hội nghị" San Francisco" về việc giải quyết các vùng đất do Nhật từ bỏ.
Đó là Nhật từ bỏ chủ quyền Hoàng sa và Trường Sa. Hai vùng lãnh thổ này trở thành "đất vô chủ - terrae derelictae", các quốc gia có quyền tuyên bố sáp nhập, hay khẳng định chủ quyền.
Tuyên bố của Thủ tướng Trần văn Hữu của Việt Nam Dân Quốc (Etat National du Viet Nam - còn gọi là Quốc gia Việt Nam) trước Hội nghị "thâu hồi Hoàng Sa và Trường Sa" thuộc chủ quyền Việt Nam. Tuyên bố này, trên lý thuyết, "có giá trị pháp lý" chừng mực vì Việt Nam tham gia Hội nghị với tư cách "quốc gia độc lập có chủ quyền về lãnh thổ". Việt Nam lúc đó lệ thuộc Pháp về ngoại giao và quốc phòng.
Điểm yếu này của Việt Nam dầu vậy lại được bổ túc và hoàn thiện do các hành vi thể hiện trên thực địa (cắm mốc, dựng bia, ra tuyên bố trước công chúng quốc tế…) của Pháp.
Pháp đã khẳng định lại chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, dưới sự mặc nhiên chấp thuận của các đại cường Hoa Kỳ và Anh.
3. Hòa ước Trung - Nhật 28/4/1952
Tháng 4 năm 1952, Nhật chọn phía Trung Hoa Dân quốc là đại diện cho Trung Hoa để ký riêng hiệp định Hòa bình.
Đây không phải là một lựa chọn " chiến lược ", mà do thủ tục pháp lý : chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch có tuyên bố chiến tranh với Nhật, do đó cần ký hiệp ước để kết thúc chiến tranh. Phe Mao không tuyên bố chiến tranh thì không thể ký hiệp ước hòa bình với Nhật.
Điều 2 Hiệp ước Hòa bình 28/4/1952 giữa Trung Hoa Dân quốc và Nhật Bản, nguyên văn như sau :
"It is recognized that under Article 2 of the Treaty of Peace with Japan signed at the city of San Francisco in the United States of America on September 8, 1951 (hereinafter referred to as the San Francisco Treaty), Japan has renounced all right, title and claim to Taiwan (Formosa) and Penghu (the Pescadores) as well as the Spratly Islands and the Paracel Islands" (4).
Tạm dịch : Hai bên nhìn nhận rằng theo điều 2 của Hiệp ước San Francisco ngày 8/9-1951, Nhật từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa chủ quyền cũng như mọi yêu sách về đảo Đài Loan, Bành Hồ cũng như quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Một hiệp ước nhắc lại một điều ước của một hiệp ước khác, ở đây là hòa ước San Francisco 1951. Số phận Hoàng Sa và Trường Sa thế nào phải qui chiếu lại nội dung điều 2(f) của Hòa ước San Francisco, hay các kết ước khác có liên quan, như kết ước Pháp-Trung ký tại Trùng Khánh 28 tháng Hai 1946.
Các học giả Đài Loan cho rằng nội dung điều 2 Hiệp ước đã nói rõ Hoàng Sa và Trường Sa trả cho Trung Hoa Dân Quốc là thiếu sót và không có căn cứ.
4. Hòa ước Trung - Nhật 12/8/1972
Tuyên bố chung Trung-Nhật ngày 2 tháng Bẩy 1971, Nhật nhìn nhận chính phủ ở Bắc kinh là đại diện chính đáng và duy nhứt đại diện cho quốc gia (Etat, State) Trung Hoa. Ngày 12/8/1972 Nhật ký Hiệp ước "Hòa bình và Hữu nghị" với lục địa. Hai bên đồng thuận rằng tất cả các kết ước trước đó giữa Nhật và chính phủ Trung Hoa Dân quốc là vô hiệu lực (caduc). Dĩ nhiên bao hàn luôn Hòa ước 28/4/1952 giữa Nhật và chính phủ Trung hoa Dân quốc (Đài loan).
Vấn đề là Trung Quốc không có tuyên bố chiến tranh với Nhật. Nước Cộng hòa nhân dânTrung Quốc của Mao Trạch Đông khai sinh sau khi Nhật đầu hàng tháng 8/1945. Không có tuyên bố chiến tranh sao lại ký hiệp ước hòa bình ?
Điều này chỉ có thể giải thích là Bắc kinh "kế thừa" di sản chống Nhật của Tưởng Giới Thạch. Gút mắc ở đây là chính phủ Bắc Kinh không thể kế thừa di sản mà họ đã phủ nhận (như việc phủ nhận hòa ước 1952).
Nội dung Hòa ước 12/8/1972 tái khẳng định nội dung Tuyên bố Potsdam 1945.
5. Công hàm 14 tháng Chín 1958 của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ban bố "Tuyên bố lãnh hải quốc gia". Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau :
Điều 1 : Lãnh hải của Trung Quốc rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3 : Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của Trung Quốc thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước Trung Quốc.
Điều 4 : Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi một văn kiện ngoại giao (note diplomatique), Việt Nam quen gọi công hàm (công hàm 1958) nguyên văn như sau :
"Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể".
Khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa "ghi nhận và tán thành" Tuyên bố của Trung Quốc, mặc nhiên "ghi nhận và tán thành" luôn việc Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Trong các công hàm của Trung Quốc gởi văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đặc biệtcông hàm CML/42/2020 ngày 17 tháng Tư 2020, Trung Quốc vịn vào công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng để cho rằng Việt Nam đã phạm "estoppel", nguyên tắc "không được nói ngược" của Công pháp quốc tế.
Theo học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu "La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys", công hàm 1958 đã "im lặng" trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này khiến Việt Nam phạm vào lỗi "acquiescement" – "đồng thuận ám thị".
Theo bà học giả, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ 1958-1975 đã có những hành vi như công bố các bài báo, các bản đồ, sách giáo khoa… nội dung khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Các dữ kiện này đã củng cố hành vi "đồng thuận ám thị", khiến hành vi "ám thị" trở thành một "nghĩa vụ" buộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải thực hiện.
6. Kết luận :
Thực tế cho thấy không một văn kiện quốc tế nào nhìn nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc, như Tuyên bố của Trung Quốc dẫn trên.
Ngoại trừ công hàm 14 tháng Chín 1958 của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng. Công hàm này nhìn nhận Tuyên bố 4 tháng Chín 1958 về hải phận và chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.
Công hàm 1958 có phải là một "văn kiện quốc tế" hay không ?
Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào "tư cách pháp nhân" của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (và Việt Nam Cộng Hòa) là những "quốc gia độc lập có chủ quyền", là "đối tượng của công pháp quốc tế", thì công hàm 1958 là "văn kiện quốc tế".
Trung Quốc có thể đặt nền tảng trên văn kiện này để củng cố hồ sơ Biển Đông, yêu sách toàn bộ Biển Đông (theo bản đồ chữ U chín đoạn) mà Việt Nam không làm được điều gì.
Nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có "tư cách pháp nhân Quốc gia", Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải là "đối tượng của luật quốc tế". Hiển nhiên công hàm 1958 không phải là "văn kiện quốc tế".
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : VOA, 17/09/2021
Ghi chú :
(1) Nguyên văn Tuyên bố Cairo : President Roosevelt, Generalissimo Chiang Kai-shek and Prime Minister Churchill, together with their respective military and diplomatic advisors, have completed a conference in North Africa. The following general statement was issued :
"The several military missions have agreed upon future military operations against Japan. The three great Allies expressed their resolve to bring unrelenting pressure against their brutal enemies by sea, land and air. This pressure is already rising.
"The three great Allies are fighting this war to restrain and punish the aggression of Japan. They covet no gain for themselves and have no thought of territorial expansions. It is their purpose that Japan shall be stripped of all the islands in the Pacific which she has seized or occupied since the beginning of the first World War in 1914, and that all the territories Japan has stolen from the Chinese, such as Manchuria, Formosa, and the Pescadores, shall be restored to the Republic of China. Japan will also be expelled from all other territories which she has taken by violence and greed. The aforesaid three great powers, mindful of the enslavement of the people of Korea, are determined that in due course Korea shall become free and independent.
"The three great Allies are fighting this war to restrain and punish the aggression of Japan. They covet no gain for themselves and have no thought of territorial expansions. It is their purpose that Japan shall be stripped of all the islands in the Pacific which she has seized or occupied since the beginning of the first World War in 1914, and that all the territories Japan has stolen from the Chinese, such as Manchuria, Formosa, and the Pescadores, shall be restored to the Republic of China. Japan will also be expelled from all other territories which she has taken by violence and greed. The aforesaid three great powers, mindful of the enslavement of the people of Korea, are determined that in due course Korea shall become free and independent.
"With these objects in view, the three Allies, in harmony with those of the United Nations at war with Japan, will continue to preservere in the serious and prolonged operations necessary to procure the unconditional surrender of Japan".
(2) Tối hậu thư Potsdam (Tuyên bố Potsdam) của các nước Đồng minh là Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa gởi cho Nhật Bản ngày 26 tháng 6 năm 1945, một số điều bó buộc Nhật Bản phải chấp nhận gồm có các việc : thi hành các điều đã xác định theo tuyên bố Caire ; lãnh thổ Nhật Bản sẽ chỉ giới hạn trên các đảo Hondo, Hokkaido, Kiousiou và Si Kok cũng như trên một số đảo nhỏ khác sẽ được xác định do các nước đồng minh ; Nhật sẽ bị hoàn toàn giải giới và các lực lượng quân đội Nhật sẽ giải ngũ. Liên Xô ký nhận vào Tuyên bố Potsdam ngày 8 tháng 8 năm 1945. Ngày 10 tháng 8 chính phủ Nhật cho biết họ sẵn sàng chấp nhận các điều kiện của Tối hậu thư Potsdam đòi hỏi vì họ nghĩ rằng nội dung Tối hậu thư không có điều nào xúc phạm đến đặc quyền của Nhật Hoàng. Ngày 11 tháng 8, Hoa Kỳ, nhân danh các nước Đồng minh, xác định lại rằng thẩm quyền của Nhật hoàng và chính phủ Nhật sẽ đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của lực lượng Đồng minh.
Tối hậu thư Potsdam (Tuyên bố Potsdam) của các nước Đồng minh là Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa gởi cho Nhật Bản ngày 26 tháng 6 năm 1945, một số điều bó buộc Nhật Bản phải chấp nhận gồm có các việc : thi hành các điều đã xác định theo tuyên bố Caire ; lãnh thổ Nhật Bản sẽ chỉ giới hạn trên các đảo Hondo, Hokkaido, Kiousiou và Si Kok cũng như trên một số đảo nhỏ khác sẽ được xác định do các nước đồng minh ; Nhật sẽ bị hoàn toàn giải giới và các lực lượng quân đội Nhật sẽ giải ngũ. Liên Xô ký nhận vào Tuyên bố Potsdam ngày 8 tháng 8 năm 1945. Ngày 10 tháng 8 chính phủ Nhật cho biết họ sẵn sàng chấp nhận các điều kiện của Tối hậu thư Potsdam đòi hỏi vì họ nghĩ rằng nội dung Tối hậu thư không có điều nào xúc phạm đến đặc quyền của Nhật Hoàng. Ngày 11 tháng 8, Hoa Kỳ, nhân danh các nước Đồng minh, xác định lại rằng thẩm quyền của Nhật hoàng và chính phủ Nhật sẽ đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của lực lượng Đồng minh.
Ngày 14/8/1945 Nhật tuyên bố đầu hàng. Ngày 31 tháng 8, tại Yokohama, McArthur thành lập ban Chỉ huy Đồng minh Tối cao. Ngày 2 tháng 9 đại diện Nhật Hoàng ký vào văn bản tuyên bố đầu hàng không điều kiện với tướng Douglas Mac Arthur tại vịnh Tokyo. Mac Arthur đại diện các nước Đồng minh là Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa và Liên Xô cũng như đại diện cho quyền lợi các nước đã tuyên bố chiến tranh với Nhật. Văn kiện đầu hàng không điều kiện được đại diện 9 nước sau đây ký nhận : Hoa Kỳ, Trung Hoa, Anh, Liên Bang Xô-viết, Úc, Canada, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp, Hòa Lan và Tân Tây Lan. Sự kiện này cần nhắc nhở vì sự hiện diện của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp trong văn bản đầu hàng của Nhật Bản là một sự kiện quan trọng (cho việc khẳng định chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
(3) Article 2 :
a) Japan, recognizing the independence of Korea, renounces all right, title and claim to Korea, including the islands of Quelpart, Port Hamilton and Dagelet.
b) Japan renounces all right, title and claim to Formosa and the Pescadores.
c) Japan renounces all right, title and claim to the Kurile Islands, and to that portion of Sakhalin and the islands adjacent to it over which Japan acquired sovereignty as a consequence of the Treaty of Portsmouth of September 5, 1905.
d) Japan renounces all right, title and claim in connection with the League of Nations Mandate System, and accepts the action of the United Nations Security Council of April 2, 1947, extending the trusteeship system to the Pacific Islands formerly under mandate to Japan. (1)
e) Japan renounces all claim to any right or title to or interest in connection with any part of the Antarctic area, whether deriving from the activities of Japanese nationals or otherwise.
f) Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracel Islands.
(4) https://treaties.un.org/doc/Publication/UNTS/Volume%20138/v138.pdf
"Mỹ trở mặt nhanh như trở bánh tráng"
Trương Nhân Tuấn, 21/09/2020
Vụ Tòa Đại sứ Mỹ ở Hà Nội hôm 9/9 đăng bài báo kỹ niệm 25 ngày quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt trong đó đính kèm bản đồ Việt Nam có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chưa đến tuần lễ sau thì bài viết vẫn còn nhưng bản đồ có Hoàng Sa và Trường Sa đã bị gỡ xuống. Báo chí Việt Nam bàn luận sôi nổi chung quanh sự việc này.
Có người phê bình rằng "Mỹ trở mặt nhanh như trở bánh tráng" (sic !).
Bản đồ Biển Đông với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Việc đăng lên để một tuần rồi lấy xuống không hề là một sự lầm lẫn (kiểu lỗi do thằng đánh máy) của tòa Đại sứ Mỹ. Đây là một hành vi tuy kém phần tế nhị ngoại giao nhưng nó là một thủ đoạn chính trị có tính toán.
Nhiều người cho rằng tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là một phần trong tranh chấp ở Biển Đông. Điều này không đúng lắm. Thực tế cho thấy mọi tranh chấp ở Biển Đông đều có nguồn gốc từ tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa (và một số bãi cạn khác thuộc về thềm lục địa Phi, Mã Lai, Indonesia...). Tức là chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là "chìa khóa" giải quyết hầu hết các tranh chấp ở Biển Đông.
Quan sát bản đồ "bụng chửa" của Việt Nam (công bố từ cuối thập niên 70 thế kỷ trước) ta thấy tầm quan trọng của Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào thời điểm đó, Việt Nam chủ trương hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có đầy đủ hiệu lực vùng biển và thềm lục địa theo khoản 1 và 2 điều 121 UNCLOS. Tức là các đảo Hoàng Sa và Trường Sa có lãnh hải, vùng tiếp cận, vùng kinh tế độc quyền 200 hải lý và thềm lục địa (200 hải lý và có thể mở rộng thêm 100 hải lý) giống như qui định của UNCLOS đối với đất liền. Hệ quả điều này phần lớn vùng biển và thềm lục địa phía Tây của Phi và Mã Lai (và Brunei) đều có chồng lấn với Việt Nam. Do việc này mà các quốc gia Phi và Mã Lai đã chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền một số đảo thuộc Trường Sa của Việt Nam, với mục đích làm giảm thiểu sự mất mát đến từ việc phân định biển với Việt Nam.
Phi đã chiếm đóng các đảo Thị Tứ, Song Tử Đông và một số các đảo khác vào các thập niên 50, 60 thế kỷ trước. Tương tự "bản đồ bụng chửa" của Việt Nam và "bản đồ đường lưỡi bò" của Trung Quốc, Phi đưa ra yêu sách vùng biển Kalayan, bao gồm hầu hết các đảo thuộc Trường Sa, với lý do địa lý các đảo này "gần Phi".
Mã Lai chiếm một số đảo đá như đá Hoa Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa… Mã Lai đã xây dựng đá Hoa Lau trở thành một "đảo nhân tạo", trên đó có cả phi trường.
Yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, ngoài việc áp dụng UNCLOS giống như Việt Nam, các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa là "đảo", có đầy đủ hiệu lực biển và thềm lục địa như đất liền. Trung Quốc còn có yêu sách "vùng nước quần đảo", như qui định của UNCLOS về "quốc gia quần đảo", theo đó vùng biển nằm trong các đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xem là "nội hải". Ngoài ra Trung Quốc còn có yêu sách gọi là "quyền lịch sử", bao gồm vùng biển được giới hạn trong phạm vi bản đồ "9 đoạn".
Yêu sách "vùng nước quần đảo" của Trung Quốc sinh ra do sự "ngộ nhận", hoặc "diễn giải sai" nội dung UNCLOS. Theo giải thích của Tòa CPA qua phán quyết 14/7/2016, nhân vụ xử Phi đơn phương kiện Trung Quốc, "vùng nước quần đảo" chỉ áp dụng cho quốc gia quần đảo mà thôi.
Còn về yêu sách "quyền lịch sử" của Trung Quốc trong vùng biển giới hạn bởi tấm bản đồ "lưỡi bò" thì không phù hợp với Công pháp quốc tế. Luật quốc tế không nhìn nhận "quyền lịch sử - droit historique", ngay cả khi quyền này áp dụng trên đất liền.
(Khái niệm về "quyền lịch sử" phát sinh khi có các vụ kiện tụng vì tranh chấp các nguồn nước và đồng cỏ giữa các bộ tộc và quốc gia Châu Phi. Nguyên nhân phát sinh do các đế quốc Anh, Pháp… đã phân định biên giới (hầu hết các quốc gia Châu Phi) "trong phòng giấy" và "trên bản đồ", với đường biên giới xác định bằng đường thẳng kinh tuyến và vĩ tuyến, hay đường thẳng nối các điểm cố định. Việc phân định bất kỳ khiến nhiều bộ tộc phải chia làm hai, mỗi bên thuộc về một quốc gia khác nhau. Hoặc trường hợp nhiều bộ tộc lâu đời đã uống nước ở nguồn nước đó và chăn nuôi trên đồng cỏ quen thuộc đó. Sau khi phân định biên giới nguồn nước và đồng cỏ đó thuộc về một quốc gia khác. Hệ quả dĩ nhiên đường biên giới không được các bên tôn trọng và tranh chấp đổ máu diễn ra. Trước tòa một bên nại "quyền lịch sử" để tiếp tục tiếp cận các nguồn nước và đồng cỏ. Tòa bác lập luận này, cho rằng "quyền lịch sử" không bắt nguồn từ "tập quán" của các quốc gia cũng không hề là "một lý thuyết luật học". Dầu vậy Tòa chấp nhận việc thay đổi đường biên giới "qui ước" dựa trên tính "effectivité", nếu một bên có bằng chứng cụ thể. Trong một số trường hợp Tòa nhìn nhận quyền "uti possidetis". Theo đó trước khi "giải thực" phe nào kiểm soát được ở đâu thì sau khi "giải thực" vùng đất đó sẽ thuộc về bên đó. (Vùng Khmer Krom của Việt Nam thuộc diện này).
Tranh chấp ở Biển Đông sẽ tan biến đi (hoặc giảm bớt 90%) nếu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác định là hai "quần thạch", các đảo thuộc hai nhóm này là "đá", theo điều 121 khoản 3 UNCLOS.
Điều 121 khoản 3 UNCLOS nói rằng những đảo nào không thích hợp cho con người sinh sống hay không có một nền kinh tế tự tại thì đảo đó không có vùng kinh tế độc quyền cũng như thềm lục địa (200 hải lý tính từ đường cơ bản).
Ta thấy ngay rằng các đảo hoang ngày xưa, không phù hợp cho đời sống con người, như vì khí hậu khắc nghiệt, hoặc không có nước ngọt, không có đất trồng trọt… Thì nay với dụng cụ tối tân người ta có thể sưởi ấm, lọc nước mặn thành nước ngọt, trồng cây lương thực không cần đất một cách dễ dàng.
Các đảo hoang (hay đảo đá) này, nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, đã phù hợp với tất cả các qui định của UNCLOS về "đảo".
Sự "mù mờ", hay "kẻ hở" trong định nghĩa về "đảo" của UNCLOS khiến quốc gia nào có lãnh thổ là "đảo" cũng đưa ra yêu sách "tối đa". Bất kể đảo lớn nhỏ bao nhiêu, con người có thể sinh sống trên đảo hay không, đảo có nền kinh tế tự tại hay không... tất cả đều có yêu sách lãnh hải, vùng biển kinh tế độc quyền và thềm lục địa như là lãnh thổ trên lục địa.
Lãnh thổ các quốc gia như Pháp, Mỹ, Nhật... đều có các đảo cực kỳ nhỏ bé, diện tích tương tự các đảo Trường Sa, các quốc gia này vẫn xem các đảo đó là "đảo", như định nghĩa của điều 121 khoản 1 và 2.
Phán quyết CPA 14/7/2016 đã "giải thích" điều 121 UNCLOS rằng không có đảo nào thuộc Trường Sa được xem là "đảo" như định nghĩa ở điều 121 khoản 1 và 2. Kể cả đảo Ba Bình là đảo lớn nhứt.
Trở lại "cuộc chiến công hàm" đang diễn ra ở Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc Liên Hiệp Quốc. Các quốc gia Châu u nhập cuộc. Lập trường của các quốc gia Anh, Pháp, Đức... thể hiện rõ rệt qua các văn bản đã công bố hôm 16 tháng chín 2020. Các quốc gia này không ủng hộ phía nào trong tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia ở Biển Đông. Điều mà các quốc gia này "bảo vệ", thứ nhứt "quyền tự do không lưu và hải hành" trên Biển Đông và thứ hai UNCLOS phải được áp dụng một cách "thống nhứt và phổ cập" cho tất cả các quốc gia.
Nội dung công hàm không hề đề cập đến phán quyết PCA mà chỉ đặt nền tảng trên UNCLOS.
Hiển nhiên các quốc gia này tránh nói đến phán quyết PCA 14/7/2016, phần giải thích về hiệu lực các đảo Trường Sa. Bởi vì nếu công nhận phán quyết thì lợi ích quốc gia của họ có thể bị tổn hại.
Ý chí của các quốc gia Anh, Đức và Pháp là muốn bộ Luật quốc tế về biển (UNCLOS) trở thành "erga omnes", một thứ luật lệ áp dụng "thống nhứt và phổ cập", tức "đồng đẳng" cho tất cả các quốc gia tranh chấp trong khu vực.
Điều này không hẳn sẽ "cứu" được Việt Nam và các quốc gia (như Phi, Mã Lai...) thoát khỏi các yêu sách của Trung Quốc.
Bởi vì việc "phân định biển" không được UNCLOS "luật hóa - codification". Chỉ có việc phân định "ranh giới lãnh hải" được luật hóa mà thôi. Do đó các quốc gia phân định biển và thềm lục địa (ngoài vùng lãnh hải 12 hải lý) theo cách "tùy thích", miễn sao hai bên được "thỏa mãn".
Vì vậy không ai có thể cấm cản việc phân định ranh giới biển giữa hai quốc gia, thí dụ Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam và Phi... mà hiệu lực các đảo Hoàng Sa và Trường Sa không đặt trên tiêu chuẩn nào.
Ngay cả khi phán quyết của tòa PCA 14/7/2016 đã giải thích rằng tất cả các "đảo" thuộc Trường Sa đều là "đá", ngay cả đảo Ba Bình lớn nhứt Trường Sa. Thì không có gì cấm cản giữa Việt Nam và Trung Quốc, nếu hai bên này có "ý kiến khác" với nội dung phán quyết nói trên.
Vụ phân định biển vùng đảo Bạch Long Vĩ và Cồn Cỏ trong vịnh Bắc Việt phản ảnh sự "tùy tiện" ở việc giải thích hiệu lực biển của các đảo. Các đảo Bạch Long Vĩ và Cồn Cỏ của Việt Nam hội đủ các điều kiện là "đảo" của UNCLOS : có đất đai trồng trọt, có dân cư sinh sống ổn định, có nền kinh tế tự tại… Nhưng Việt Nam chấp nhận các đảo này có hiệu lực còn kém hơn là "đá". Mỗi hòn đá trên biển, chỉ cần nhô lên một chút xíu 1cm² là đủ để có lãnh hải 12 hải lý. Đảo Cồn Cỏ có hiệu lực 3 hải lý và đảo Bạch Long Vĩ có hiệu lực 25%.
Do đó chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là quan trọng "nền tảng", là "chìa khóa" để giải quyết 90% tranh chấp ở Biển Đông.
Nếu Việt Nam khẳng định được Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và việc này được quốc tế (kể cả Trung Quốc) nhìn nhận. Thì mọi yêu sách của Trung Quốc đương nhiên bị "hóa giải". Việt Nam tuyên bố các đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "quần thạch", tức là "đá", thì hầu hết các tranh chấp ở Biển Đông được giải quyết.
Nhưng thực tế, về pháp lý cũng như tương quan sức mạnh, Việt Nam đang ở vào thế "yếu".
Nhiều lần tôi khuyến cáo Việt Nam cần vận động các quốc gia (thông qua thủ thuật "action popularis" của Công pháp quốc tế) sao cho Phán quyết của Tòa PCA 14/7/2016 trở thành "luật". Phi đơn phương kiện Trung Quốc theo thủ thục qui định ở Mục VII UNCLOS nhằm "giải thích và cách áp dụng Luật Biển". Do đó phán quyết cũng là Luật, áp dụng cho tất cả các bên tranh chấp (erga omnes).
Vận động của Việt Nam chỉ thành công "chừng mực". Các quốc gia Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc... chỉ ủng hộ việc áp dụng UNCLOS và không hoàn toàn ủng hộ phán quyết của PCA, ngoài việc phản bác danh nghĩa "quyền lịch sử" của Trung Quốc ở Biển Đông. Đơn giản vì quyền này không được công pháp quốc tế nhìn nhận.
Xét lại toàn diện, và từ nền tảng, Việt Nam vẫn "cô đơn" trong "cuộc chiến công hàm". Đến nay Việt Nam vẫn không thể phản biện được Trung Quốc những lập luận mà Trung Quốc đã nêu ra trong công hàm 17/4/2020. Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã bị "estoppel" sau khi đã nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc qua công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng.
Theo tôi, muốn tránh được điều này Việt Nam phải chứng minh rằng, bất kỳ ở thời điểm nào trong lịch sử, ở bất kỳ hoàn cảnh chiến tranh phân chia đất nước ra sao… vẫn luôn có một Việt Nam quản lý liên tục và hữu hiệu Hoàng Sa và Trường Sa.
Thực tế và lịch sử cho thấy, trong suốt thời gian từ 1958 đến 1975 Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa, thì ở phía nam vĩ tuyến 17° đã hiện hữu một Việt Nam khác luôn kiểm soát liên tục và quản lý hành chánh, khai thác kinh tế hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là Việt Nam Cộng Hòa.
Vấn đề là Đảng cộng sản Việt Nam không thể kế thừa danh nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa, nếu các tập lịch sử xuất phát từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa luôn luôn khẳng định rằng Việt Nam Cộng Hòa là một tập đoàn "ngụy", "tay sai đế quốc Mỹ".
Điều này, tôi nói đi nói lại nhiều lần, nếu không sớm thực hiện một cuộc "hòa giải quốc gia" để "kế thừa" danh nghĩa Việt Nam Cộng Hòa thì Hoàng Sa và Trường Sa sớm hay muộn cũng sẽ mất vào tay Trung Quốc.
Việt Nam không phản biện được lập luận của Trung Quốc. Dư luận quốc tế nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Hệ quả Việt Nam sẽ phải phân định biển với Trung Quốc mà hiệu lực Hoàng Sa và Trường Sa lại do Trung Quốc quyết định.
Do đó việc Tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội "nhá đèn" về tấm bản đồ có Hoàng Sa và Trường Sa là một thông điệp mạnh mẽ đến Việt Nam. Mỹ vẫn "để cửa" nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam, như đã từng làm các việc này trong các cuộc đàm phán hậu chiến tranh Thế chiến thứ II.
Sắp tới nguyên tắc "một Trung quốc" của Mỹ có thể sẽ chấp dứt và Đài loan có thể được Mỹ nhìn nhận là "quốc gia độc lập". Không có điều gì có thể ngăn cản Mỹ nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam, hay thuộc Đài Loan, hay thuộc về Trung Quốc.
Sau Thế chiến thứ II, Mỹ đứng đầu phe "Đồng minh" thắng trận. Mỹ đã hưởng nhiều "chiến lợi phẩm" lấy được từ Nhật và Đức, như về lãnh thổ là các đảo trên Thái Bình Dương. Mỹ có nhiều quyết định liên quan đến nền độc lập của các quốc gia như Đại Hàn và các quốc gia thuộc địa khác ở Châu Á và Châu Phi. Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về quốc gia nào, lý ra cũng do Mỹ quyết định, qua hội nghị San Francisco 1951.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : nhantuan.truong, 21/09/2020
**********************
Mỹ đăng bản đồ Việt Nam có Hoàng Sa, Trường Sa – sự cố hay có ẩn ý ?
Bùi Thư, BBC, 18/09/2020
Sự kiện Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đăng bản đồ Việt Nam có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa rồi sau đó thay bản đồ mới gây ra nhiều tranh luận.
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 17/9 đã lên tiếng liên quan đến "sự kiện bản đồ" mới đây của Đại sứ quán Mỹ.
Trước đó, trang Facebook chính thức của Đại sứ quán Mỹ ngày 9/9 đã đăng bài viết nhìn lại 25 năm quan hệ đối tác Việt Nam - Mỹ. Đáng chú ý, bài viết có kèm hình ảnh bản đồ Việt Nam bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy nhiên, vào ngày 15/9, sau khi báo chí và dư luận xôn xao, Đại sứ quán Mỹ đã thay bản đồ mới với hình ảnh Hoàng Sa, Trường Sa "biến mất".
Sự cố hay ẩn ý ?
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, thạc sĩ Hoàng Việt - giảng viên luật, nhà nghiên cứu Biển Đông - chia sẻ với BBC News tiếng Việt : "Khó nhận định đây là ý định rõ ràng của phía Mỹ hay là sự cố nên chúng ta cũng chưa biết rõ được. Tôi nghiêng về khả năng sự cố nhiều hơn vì nếu họ có ý định thì đã không vội vã thay đổi như thế".
"Chắc là sau khi đưa bản đồ này, thấy dư luận chú ý thì họ tìm cách thay bản đồ đó đi", ông nói.
Tuy nhiên, ông Hoàng Việt cũng đưa thêm giả thuyết: "Có thể phía Mỹ đưa ra một chủ ý nào đó nhưng sau đó, phía Việt Nam cảm thấy điều này không có lợi cho họ trong bối cảnh căng thẳng quan hệ Mỹ - Trung. Làm như vậy khác nào dẫn đến việc Trung Quốc nghĩ Việt Nam đi theo Mỹ để chống lại Trung Quốc. Vì vậy, có thể Việt Nam đã yêu cầu phía Mỹ thay bản đồ đó đi".
Bản đồ có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được Đại sứ quán Mỹ đăng tải ngày 9/9
Sự kiện Mỹ đăng tải bài viết kèm bản đồ có Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo vốn là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc cùng nhiều quốc gia khác, đã tạo ra một không khí sôi nổi trên mạng xã hội. Nhiều người Việt phấn khởi khẳng định đây là động thái cho thấy Mỹ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Khang Vũ, người tự giới thiệu đang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành an ninh Đông Á và vũ khí hạt nhân tại Đại học Boston, viết trên Twitter cá nhân: "Đại sứ quán Mỹ kỷ niệm 25 năm quan hệ Việt - Mỹ bằng tấm bản đồ có Hoàng Sa và Trường Sa. Đây có phải là một tín hiệu cho thấy Mỹ ủng hộ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này?"
Không khí hồ hởi thể hiện rõ trên các diễn đàn mạng xã hội của người Việt, trong đó đa phần cho rằng Mỹ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Việt Nam. Nhiều người bình luận : "Sự kiện chưa từng có", "Mỹ là đối tác tốt chưa từng có".
Bộ Ngoại giao Việt Nam phản ứng
Trái với sự vui mừng trước đó, sau khi Đại sứ quán Mỹ thay bản đồ mới không có Hoàng Sa và Trường Sa, một không khí giận dữ bao trùm các mạng xã hội.
Tính đến sáng 18/9, bài viết của Đại sứ quán Mỹ trên Facebook đã nhận được 6.900 lượt thả biểu tượng cảm xúc, trong đó có tới 5.500 biểu tượng giận dữ. Trong số hơn 1.700 bình luận dưới bài viết, nếu như các bình luận trước ngày 15/9 gồm nhiều từ cảm thán như "tuyệt vời", "hoan hô chính phủ Mỹ", thì sau đó tất cả các bình luận đều có nội dung bày tỏ sự thất vọng.
"Mỹ lật nhanh như lật bánh tráng vậy. Thế nên Việt Nam cần đề phòng", một người tên Huyen Nguyen bình luận trên bài viết này.
Nhiều bình luận bức xúc dưới bài viết trên trang Facebook của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội về vụ việc.
Trang Facebook của Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa, một nhóm hoạt động về chủ quyền biển đảo tại Việt Nam, đã đăng bài viết với nhan đề "Sự tráo trở của nước Mỹ".
"Sau 6 ngày đã đánh bay mất '2 củ khoai' nhà chúng tôi… Chợt nhớ ra Mỹ mang danh họ nhà Lươn từ lâu... Ai còn mong chờ Mỹ giúp Việt Nam thì hãy tìm cho ra '2 củ khoai' rồi hãy chờ", tác giả viết.
"Hai củ khoai" trong đoạn trích trên được hiểu là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng
Trên Facebook của mình, Facebooker Mai Quốc Ấn lên tiếng : "Tôi yêu cầu Đại sứ quán Mỹ lập tức thay đổi bản đồ minh họa có đầy đủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa!".
BBC News Tiếng Việt đã liên lạc bằng email tới Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội vào hôm 16/9 nhưng chưa nhận được bình luận chính thức về vấn đề này.
Phía chính phủ Việt Nam dù không đề cập trực diện động thái của Mỹ nhưng đã tận dụng dịp này để đưa ra thông điệp quen thuộc.
Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 17/9 ở Hà Nội, khi được hỏi về sự việc Mỹ thay thế bản đồ nói trên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói : "Việt Nam nhất quán lập trường quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam".
"Lập trường nhất quán và xuyên suốt nêu trên của Việt Nam đã được bày tỏ nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả tại Liên Hiệp Quốc và được nhiều quốc gia tôn trọng, ủng hộ", bà Hằng khẳng định.
Lập trường của Mỹ như thế nào ?
Trái ngược với các phản ánh giận dữ, phê phán nhằm vào Mỹ, nhiều người cho rằng không ủng hộ chủ quyền của các bên tranh chấp tại Biển Đông là chính sách ngoại giao nhất quán của Washington và điều đó sẽ không thay đổi.
Nhà báo Đỗ Hùng viết trên Facebook cá nhân : "Lưu ý là Mỹ phản đối Trung Quốc ở Biển Đông là phản đối trò bắt nạt, phản đối các yêu sách của Trung Quốc vốn đã bị Tòa án Trọng tài thường trực bác bỏ hồi năm 2016. Tuy nhiên, lập trường của Mỹ về các tranh chấp cụ thể đối với các thực thể tại Biển Đông, trong trường hợp này là Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn là không công khai bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào".
Theo nhà báo Đỗ Hùng, "lợi ích của Việt Nam thì Việt Nam cứ đòi, cứ đấu tranh bảo vệ chứ không nên kỳ vọng Mỹ sẽ bảo vệ, đòi hỏi giùm".
"Vấn đề của Việt Nam là xử lý các phản ứng của Mỹ theo hướng có lợi nhất cho mình, chứ không phải kỳ vọng Mỹ sẽ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Việt Nam theo cách đó", ông viết thêm.
Tiến sĩ Lương Hoài Nam cũng chia sẻ quan điểm trên Facebook cá nhân : "Chính sách của Mỹ hàng chục năm nay là không đứng về bên nào trong tranh chấp Biển Đông. Không chỉ Mỹ, mà tất cả các cường quốc khác cũng vậy. Chính sách đó sẽ không thay đổi dù Tổng thống Mỹ là ai. Mỹ và các đồng minh bảo vệ tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế và điều này cũng sẽ không thay đổi".
"Chúng ta nên ủng hộ nhà nước bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông bằng kiến thức, sự hiểu biết thay vì ngộ nhận, đem gán cho Mỹ hay cho các quốc gia khác những điều không đúng với chính sách, quan điểm của họ (làm như thế về bản chất là lừa dối nhau). Càng không nên chia sẻ các tin giả, các thuyết âm mưu gây chia rẽ dân tộc", ông kết luận.
Trao đổi với BBC News tiếng Việt, thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng có lẽ người ta chú ý tới việc này vì Mỹ là một cường quốc mà Mỹ và Trung Quốc đang có những vấn đề căng thẳng trên Biển Đông.
Ông nhận xét : "Nói cho cùng thì thế giới này, Mỹ vẫn là một siêu cường lớn nhất nên những gì Mỹ nói, Mỹ làm đều ảnh hưởng không chỉ riêng Việt Nam mà toàn thế giới".
"Nếu không có Mỹ, khó có quốc gia nào ngăn ngừa được tham vọng và hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông. Chính vì vậy, những thái độ, phát biểu của Mỹ đặc biệt quan trọng không chỉ với Việt Nam, mà với các quốc gia ASEAN có liên quan đến vấn đề Biển Đông", ông phân tích.
Quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc kiểm soát, Việt Nam tuyên bố chủ quyền
Thạc sĩ Hoàng Việt cũng lưu ý tranh chấp hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa chỉ là một phần của tranh chấp trên Biển Đông và là câu chuyện rất phức tạp.
"Nếu muốn giải quyết sẽ phải đưa ra những cơ chế trước Tòa án Quốc tế. Mỹ, Úc hay Anh thì không thể thay thế Tòa án Quốc tế để phán quyết rằng đây thuộc chủ quyền của quốc gia này hay quốc gia khác", ông giải thích.
Theo ông Hoàng Việt, Mỹ cần đưa ra tiếng nói thận trọng, không thể thích Việt Nam thì khẳng định đó là của Việt Nam.
"Tranh chấp Trường Sa liên quan đến nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia là đồng minh với Mỹ, trong khi Việt Nam chỉ là quan hệ đối tác với Mỹ. Nếu công nhận là của Việt Nam thì những quốc gia như Philippines, Malaysia sẽ như thế nào?", ông Việt nêu vấn đề.
*************************
Việt Nam lên tiếng vụ Đại sứ quán Mỹ thay ảnh bản đồ không có Hoàng Sa – Trường Sa
VOA, 18/09/2020
Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 17/9 lên tiếng khẳng định lập trường về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa sau khi báo chí yêu cầu bình luận về việc Đại sứ quán Hoa Kỳ thay đổi hình ảnh bản đồ Việt Nam mà không có hai quần đảo này trên trang mạng xã hội Facebook của sứ quán.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (Twitter MoFAVietNam Spokesperson).
"Việt Nam nhất quán lập trường quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam cóđầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lýđể khẳng định chủ quyền với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa phù hợp với luật pháp quốc tế", báo Tuổi Trẻ dẫn lời bà Lê Thị Thu Hằng, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam nói.
Tuy nhiên, nội dung trả lời này cho đến tối 18/9 vẫn không được Bộ Ngoại giao Việt Nam đăng lên trang tin chính thức bên cạnh các nội dung khác đã đăng trong cùng ngày họp báo.
Theo bà Hằng, "lập trường nhất quán và xuyên suốt" của Việt Nam đãđược bày tỏ nhiều lần và dưới nhiều hình thức khác nhau vàđược nhiều quốc gia tôn trọng, ủng hộ.
Ảnh bản đồ Việt Nam đãđược thay đổi trên trang Facebook của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội.
Trước đó, hôm 9/9, trong bài viết về nhìn lại quan hệđối tác Hoa Kỳ - Việt Nam trong 25 năm qua nhân Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 33 (AMM 53) trên trang Facebook, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đăng kèm ảnh bản đồ Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Hành động này nhận được sựủng hộ nồng nhiệt với rất nhiều "like" và bình luận ủng hộ từ công luận Việt Nam.
Tuy nhiên, sau khi báo chí đưa tin về sự kiện này, Đại sứ quán Mỹđã thay đổi hình ảnh này trên trang Facebook, thay bằng ảnh tương tự nhưng cắt cận cảnh hơn, làm mất hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên bản đồ. Lập tức, bài viết nhận hàng trăm bình luận phản đối và chỉ trích từ các cư dân mạng Việt Nam.
Cho đến thời điểm tối 18/9, Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn chưa lên tiếng bình luận chính thức gì về sự thay đổi này. Tuy nhiên, trang VnExpress phiên bản tiếng Anh dẫn lời bà Rachael Chen, tuỳ viên báo chí của Đại sứ quán Hoa Kỳ, nói trong một tuyên bố rằng Hoa Kỳ không đưa ra lập trường về các tuyên bố chủ quyền lãnh thổđối với các thực thểđất liền trên Biển Đông.
"Hoa Kỳ hoan nghênh những dấu hiệu tiến bộ gần đây trong các cuộc thảo luận giữa các quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền về nỗ lực giải quyết hoà bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, và hoan nghênh về sự nhất quán của các lãnh đạo ASEAN rằng các tranh chấp ở Biển Đông cần được giải quyết phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS", VnExpress dẫn lời bà Chen nói.
Giữa bối cảnh căng thẳng về tranh chấp chủ quyền đang gia tăng gần đây giữa Việt Nam, các quốc gia láng giềng và Trung Quốc, bất kỳ một động thái nào từ phía Hoa Kỳ hay các quốc gia phương Tây liên quan đến khu vực Biển Đông đều tạo ra một hiệu ứng lớn đối với công luận và giới hữu trách địa ph