Trong hành trình phát triển, mọi thể chế chính trị đều có một "sứ mệnh lịch sử" gắn liền với bối cảnh thời đại, kinh tế, xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò trung tâm trong công cuộc giành độc lập, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, khi đất nước đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình, vai trò của Đảng cộng sản cũng đứng trước thách thức lớn : liệu họ có thể đưa Việt Nam vượt qua ngưỡng phát triển này, hay sự cáo chung sẽ đến như một kết cục tự nhiên do giới hạn của thế chế ?
Khi đất nước đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình, vai trò của Đảng cộng sản cũng đứng trước thách thức lớn
Bẫy thu nhập trung bình
Bẫy thu nhập trung bình là tình trạng mà một quốc gia không thể vượt qua ngưỡng phát triển để đạt mức thu nhập cao hơn. Nó xảy ra khi các động lực tăng trưởng ban đầu (chi phí lao động thấp, khai thác tài nguyên) cạn kiệt, trong khi quốc gia đó lại không tạo ra được các nguồn động lực mới như đổi mới sáng tạo, công nghệ, hay cải cách thể chế.
Các nhà kinh tế chia bẫy thu nhập trung bình thành hai giai đoạn :
- Bẫy thu nhập trung bình thấp : Đây là giai đoạn mà thu nhập bình quân đầu người dao động ở mức khoảng 4.000-5.000 USD. Các nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm.
- Bẫy thu nhập trung bình cao : Khi thu nhập bình quân tăng lên khoảng 8.000-12.000 USD, nền kinh tế phải chuyển dịch sang lĩnh vực công nghệ cao và dịch vụ. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi thể chế chính trị linh hoạt và quyền tự do, điều mà các chế độ độc tài thường thiếu.
Việt Nam hiện đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình thấp. Với mức thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 3.000-4.000 USD (4.284 USD năm 2023, theo VnEconomy), nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu hàng hóa giá trị thấp và đầu tư từ nước ngoài. Dù đã có những thành tựu nhất định, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng.
Bẫy thu nhập trung bình và những ngưỡng cản của thể chế độc tài
Bẫy thu nhập trung bình không chỉ là một hiện tượng kinh tế mà còn là phép thử đối với khả năng thích ứng và cải cách của thể chế chính trị.
Khi nền kinh tế dựa trên lao động giá rẻ và tài nguyên cạn kiệt, quốc gia cần chuyển mình sang giai đoạn phát triển dựa vào sáng tạo, công nghệ và giá trị cao. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các yếu tố không tương thích với chế độ độc tài, như :
- Tự do sáng tạo : Các quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình đều cần một môi trường khuyến khích sáng tạo, tự do tư tưởng, và trao quyền cho cá nhân. Đây là những điều hiếm hoi tồn tại trong các hệ thống kiểm soát thông tin và hạn chế tư duy độc lập.
- Thể chế linh hoạt : Quá trình chuyển đổi đòi hỏi sự minh bạch, trách nhiệm giải trình và khả năng thích nghi cao từ các chính sách nhà nước – những điều mà chế độ độc tài thường không đáp ứng được.
- Khả năng kiểm soát tham nhũng : Khi nền kinh tế đạt mức phức tạp cao hơn, sự lãng phí và tham nhũng trở thành gánh nặng lớn, cản trở động lực tăng trưởng.
Việt Nam, dù đã đạt được những bước tiến quan trọng, vẫn loay hoay trong việc tìm lối thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thấp. Với thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.000 USD, nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào đầu tư nước ngoài và xuất khẩu giá trị thấp, trong khi chất lượng giáo dục, sáng tạo và quản trị công chưa đủ để thúc đẩy bước nhảy vọt tiếp theo.
Sứ mệnh lịch sử đã hoàn thành
Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn lịch sử quan trọng nhất của mình : giành độc lập, thống nhất đất nước và tạm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Nhưng khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, những yếu tố từng làm nên thành công của Đảng cộng sản lại trở thành rào cản của họ :
- Kiểm soát cứng nhắc : Hệ thống kiểm duyệt và tư duy bảo thủ hạn chế khả năng đổi mới và tiếp cận các xu hướng toàn cầu.
- Cơ chế thiếu cạnh tranh : Khi mọi quyền lực tập trung vào một tổ chức duy nhất, sự giám sát và phản biện từ các lực lượng xã hội bị triệt tiêu, dẫn đến trì trệ và lạm dụng quyền lực.
- Tầng lớp trung lưu ngày càng phát triển và có nhu cầu cao hơn về chất lượng sống, tự do cá nhân và quyền tham gia chính trị.
Nếu những nhu cầu này bị bỏ qua, bất ổn xã hội là điều khó tránh khỏi.
Một quy luật lịch sử
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng những quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình thành công đều có một điểm chung : thể chế dân chủ.
Dân chủ không chỉ mang lại sự tự do về chính trị mà còn là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sáng tạo, cải cách kinh tế, và phát triển bền vững. Không có chế độ độc tài nào có thể duy trì vai trò lãnh đạo khi quốc gia bước vào giai đoạn phát triển kinh tế cao hơn.
Sự cáo chung của Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không đến từ việc "bị ghét bỏ", dù có, mà từ chính quy luật khách quan của phát triển : hệ thống này không còn phù hợp với nhu cầu và động lực của xã hội hiện đại.
Những quốc gia vượt qua bẫy thu nhập trung bình, như Hàn Quốc hay Đài Loan, đều trải qua quá trình dân chủ hóa mạnh mẽ. Chính sự cởi mở về chính trị đã thúc đẩy sáng tạo, tạo động lực phát triển và đảm bảo sự ổn định lâu dài. Ngược lại, những quốc gia không thể thay đổi, như một số nước Nam Mỹ, đã rơi vào vòng xoáy trì trệ kéo dài hàng thập kỷ.
Chính sự cởi mở về chính trị đã thúc đẩy sáng tạo, tạo động lực phát triển và đảm bảo sự ổn định lâu dài.
Những đảng viên kiên trung, những người đã góp công lớn cho Đảng cộng sản cũng không nên đau buồn vì mình đã đóng góp vào quá trình đập phá đất nước cho tới ngày hôm nay mà nên nhìn nhận sự cáo chung này như là một kết quả tự nhiên của sự hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và tiến tới một tương lai thịnh vượng, cần một thể chế mới – dân chủ đa nguyên, linh hoạt hơn, sáng tạo hơn và phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Nếu Đảng cộng sản lựa chọn tham gia vào tiến trình dân chủ hóa, họ có thể chuyển mình từ một người "lãnh đạo duy nhất" thành một tác nhân quan trọng trong lịch sử của quốc gia. Đây là nhiệm vụ lịch sử, nhiệm vụ mà Đảng cộng sản có thể tham gia để không phải kéo dài sự dằn vặt. Ngược lại, nếu tiếp tục bảo thủ, lịch sử sẽ tự viết nên hồi kết của mình, như đã từng xảy ra với nhiều chế độ độc tài khác trên thế giới.
Trần Khánh Ân
(29/11/2024)
Đảng đối diện thế nào với "bẫy thu nhập trung bình" để bảo đảm tính chính danh ?
Đặc trưng nổi bật của cải cách hiện nay ở Việt Nam là "tính chính danh của chế độ do Đảng cộng sản lãnh đạo" tùy thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn tăng trưởng tương đối cao và ổn định khi bắt đầu từ điểm xuất phát kinh tế thấp và dư địa cải cách lớn trước sức ép từ nguy cơ sụp đổ chế độ.
Trong các văn kiện của Đảng, mục tiêu (cũng là "nhiệm vụ chính trị") được đặt ra là "đến năm 2030 tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người khoảng 7.500 USD và 27.000 - 32.000 USD vào năm 2050. Lúc đó Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao".
Vào năm 2021 số liệu là khoảng 3.700 USD, và để đạt mục tiêu 2030 thì mỗi năm trong giai đoạn này cần tăng GDP thêm trên 7,5% [còn để trừ đi tỷ lệ tăng dân số (P)]. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trung bình GDP/P trong thập kỷ gần đây thì đây là một thử thách. Và, với cách ngoại suy đơn giản như vậy cho thời kỳ đến năm 2050 thì dường như là thách thức lớn.
Hơn thế, thực tế quá trình tăng trưởng GDP gần đây phản ánh những đặc điểm rõ rệt trạng thái "bẫy thu nhập trung bình". Để chứng minh điều này quá trình này, từ Đổi mới cuối những năm 1980 đến nay, có thể phân chia tương đối thành hai giai đoạn :
1. khoảng 20 năm đầu 1990 – 2009 tương đối cao và ổn định ở mức tổng sản phẩm quốc nội GDP trung bình năm trên 7% ;
2. từ 2010 đến nay ‘trồi sụt’, chẳng hạn, năm 2012 hơn 5%, năm 2016 là 6,2%, năm 2021 – 2,58%, quý 1 năm 2023 là 3,2%...
Giai đoạn một (1) tăng trưởng tương đối cao và ổn định khi bắt đầu từ điểm xuất phát kinh tế thấp và dư địa cải cách lớn trước sức ép từ nguy cơ sụp đổ chế độ. Chẳng hạn, việc thực thi chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp để giải phóng sức lao động nông dân gắn vơi tiềm năng đất đai đã không đòi hỏi thay đổi lớn về thể chế, nhưng đã tạo ra động lực tăng trưởng mạnh, nhanh chóng biến ngành nông nghiệp thành một trụ cột tăng trưởng không những chỉ là bệ đỡ đảm bảo an ninh lương thực và giảm ‘sốc’ cho nền kinh tế từ bên ngoài mà còn luôn có tỉ lệ tăng ở mức 2,5% đến 3,5% mỗi năm trong suốt thời gian qua, đóng góp 14% cho GDP và 38% việc làm (năm 2020). Ngoài ra, thành tích tăng trưởng trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào qui mô của nguồn lực sẵn có như tài nguyên nước như biển, sông cho ngành thuỷ hải sản, lâm nghiệp cho chế biến gỗ… Ngoài ra, lĩnh vực bất động sản là minh hoạ điển hình cho tăng trưởng dựa vào lợi thế đất đai để "bứt tốc" đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về ở, nghỉ dưỡng, du lịch, tích luỹ tài sản của bộ phận dân số trung lưu, có thu nhập tăng lên. Ở đây, quy mô dân số đông, trẻ hướng tới cơ cấu vàng là nền tảng. Và, sau nữa phải kể đến bối cảnh toàn cầu hóa thuận lợi, như yếu tố tăng trưởng quan trọng nhờ hội nhập, giúp khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tăng nhanh, hiện chiếm tỷ trọng hơn 20% GDP và hơn 70% tổng kim ngạch thương mại.
Tăng trưởng "trồi sụt" suy giảm trong giai đoạn hai (2) đã bộc lộ những bất cập ngày càng nghiêm trọng. Trước hết là dư địa tăng trưởng dựa vào tài nguyên ngày càng thu hẹp, sự khai thác cạn kiệt không chỉ làm suy thoái môi trường không chỉ như đánh bắt thuỷ hải sản, mà các trạm thuỷ điện, nhà máy điện than, các dự án bất động sản… đều chứa đựng sự không bền vững và, hơn thế, yếu tố trục lợi. Hai là, khu vực tư nhân "nội" đã mở rộng, nhưng phần lớn các doanh gia giàu lên nhanh chóng nhờ "ăn đất", "dựa vào quan hệ" với quan chức chính quyền mà thiếu đi sự năng động về năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh và đổi mới ; Ba là, tăng trưởng nhờ trụ cột kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài FDI đã "chạy theo" số lượng, thành tích mà "quên" về tính bền vững mà trước hết là sự phụ thuộc của nền kinh tế ngày càng lớn. Khoảng hơn 25 nghìn doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam so với gần 800 nghìn doanh nghiệp "nội", nhưng họ đang là "người chơi chính" ở hầu hết ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế, chiếm hơn 20% GDP, hơn 70% kim ngạch thương mại… nhưng "chỉ" đóng góp 7,5-8,5% tổng thu ngân sách nội địa… Các doanh nghiệp FDI đã thể hiện ưu thế so sánh áp đảo về vốn và công nghệ trong cạnh tranh trong khi khả năng hấp thụ vốn, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, công nghiệp phù trợ… của các doanh nghiệp "nội" rất hạn chế ; Bốn là, hiệu lực thấp và mang tính đối phó của thực thi chính sách trước các vấn đề phát sinh kéo dài do tăng trưởng cao như quốc nạn tham nhũng, trục lợi, bong bóng bất động sản và cổ phiếu, quá tải đô thị hóa, tắc nghẽn giao thông, suy thoái môi trường, khoảng cách giàu – nghèo… Năm là, các cú sốc từ bên ngoài như cuộc chiến Nga – Ukraine, cạnh tranh căng thẳng mang tính ý thức hệ giữa Trung Quốc và phương Tây… Toàn cầu hóa đã thúc đẩy tăng trưởng, nhưng nay địa chính trị đang quyết định dòng FDI và thương mại trong khi với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, Đảng chưa sẵn sàng thay đổi "đột phá" vì điều này.
Người dân đi qua một siêu thị bán đồ cao cấp ở Hà Nội hôm 23/4/2020. Reuters
Những bất cập chủ yếu được chỉ ra trên đây cũng chính là các nguyên nhân của "bẫy thu nhập trung bình" (tiếng Anh : Middle Income Trap). Đây là tình trạng phát triển kinh tế trong đó một quốc gia đạt được một mức thu nhập nhất định (do được hưởng những lợi thế nhất định) lại bị mắc kẹt ở mức đó. Thuật ngữ bẫy thu nhập trung bình được Ngân hàng Thế giới đưa ra năm 2006 có tiêu chí định lượng gắn với GDP bình quân đầu người, duy trì trong khoảng từ 1.000 đến 12.000 đô la Mỹ theo giá cố định (2011), và dựa vào đó để phân biệt các quốc gia trên thế giới về cơ bản thành bốn nhóm : (1) Tiên tiến, có thu nhập cao, điển hình là các nước G7 ; (2) Đã đạt được trình độ phát triển trung bình từ rất lâu nhưng sau đó trì trệ cho đến ngày hôm nay, chủ yếu là các nước ở khu vực Mỹ La tinh ; (3) Mới phát triển vài chục năm nay và hiện nay đã đạt mức thu nhập trung bình, đặc trưng là Trung Quốc và một số nước ASEAN ; (4) đang mắc vào bẫy nghèo, nhiều nước ở Châu Phi, chẳng hạn Niger hay Chad. Một nhận định quan trọng được thừa nhận, rằng trong tất cả các quốc gia khác nhau về các yếu tố tăng trưởng kinh thế thì yếu tố thể chế có vai trò định vị "mắc kẹt" hay "vượt qua" bẫy thu nhập trung bình. Nhóm nước thứ hai (2) và thứ ba (3), trong đó mô hình Trung Quốc có ý nghĩa đối với cải cách ở Việt Nam.
Lý thuyết và thực tế đã cho thấy tăng trưởng nhanh nhờ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với động lực mạnh mẽ được tạo ra bởi khuyến khích (incentives) không ngừng. Trong suốt hàng nghìn năm tiến hóa của nhân loại tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ đạt "phép màu" trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, theo cấp số nhân từ thế kỷ 17 và, đặc biệt từ cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã "cứu" chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam khỏi sụp đổ và tăng trưởng khá nhanh sau chính sách Đổi mới 1986. Tuy nhiên, sự níu kéo bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa giáo điều đã cản trở cải cách thể chế thích ứng với kinh tế thị trường để đảm bảo tăng trưởng bền vững. Ngoài ra, trục lợi dưới nhiều hình thức vì tha hóa quyền lực công và rủi ro đạo đức như mặt trái của thị trường, mà các nhà kinh tế cổ điển đã "lo lắng", đã không được vận dụng nghiêm túc để giám sát quyền lực. Lời cảnh báo của Lord Acton "quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối" đã ứng nghiệm trong bối cảnh hiện nay và thách thức mô hình chế độ cộng sản lãnh đạo toàn diện ở Việt Nam.
Bất ổn chế độ đang là nguyên nhân kéo dài tăng trưởng "trồi sụt" gần đây, tuy nhiên, chính sách và những nỗ lực ứng phó, thay vì kiểm soát quyền lực hiệu quả để duy trì động lực tăng trưởng nhờ thị trường lại bị thúc đẩy bởi sự tập trung quyền lực cao độ, củng cố Đảng – Nhà nước mạnh để toàn trị. Đảng cộng sản đối diện thế nào với "bẫy thu nhập trung bình" để đảm bảo tính chính danh đang là vấn đề thách thức.
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 22/05/2023
Bẫy thu nhập trung bình vẫn luôn được nhắc đến trong các buổi tọa đàm liên quan đến kinh tế.
Cảnh báo về nguy cơ Việt Nam chưa giàu đã già được các thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng đưa ra tại buổi làm việc hôm 22/12/2018.
Vào tháng 1/2019, trong chương trình Chia sẻ tầm nhìn 2019, Việt Nam vẫn thuộc nhóm nước thu nhập trung bình thấp, bình quân đầu người chỉ ngang mức của Malaysia cách đây 20 năm, Thái Lan 15 năm.
Sau 30 năm đổi mới, theo ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình với quy mô, tiềm lực kinh tế ngày càng mạnh. Tuy nhiên ông Dũng cũng cho hay, để tránh bẫy thu nhập trung bình thì cần cải cách thể chế.
"Khó lắm các đồng chí ạ"
Liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong phát triển kinh tế, gần đây, trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10, ông Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã bày tỏ sự quan ngại về tiến trình và mục tiêu cải thiện đời sống kinh tế quốc gia.
"Từ năm 2001, chúng ta đã xác định đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, giờ đã trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa ?".
Từ "khó" được ông Nguyễn Phú Trọng nhắc 8 lần trong bài phát biểu của mình, và "khó lắm" được ông diễn giải như một cách để đòi hỏi sự "hiểu biết rất sâu sắc cả lý luận và thực tiễn, cả trong nước và quốc tế"trong định hình tương lai của các "đồng chí".
Trở lại với vấn đề thu nhập bình quân đầu người. Nó là gì ?
Đây là khái niệm chỉ trạng thái một nền kinh tế vượt qua mốc thu nhập thấp (1.025 USD/người) để trở thành quốc gia có thu nhập trung bình (từ 1.025 USD đến 12.475 USD/người), nhưng sau đó bị dừng lại ở khoảng thu nhập này. Lý do xuất phát từ các lợi thế vươn lên từ thu nhập thấp sang thu nhập trung bình đã không còn hoặc bị bỏ qua, hoặc không bổ sung thêm, cụ thể là về trình độ nhân công giá rẻ, dân số vàng, ưu thế về cơ sở hạ tầng, trình độ nhân lực cao.
Việt Nam, giai đoạn 2001-2005 đã vượt qua khỏi quốc gia có "thu nhập thấp" để gia nhập thu nhập trung bình, thời điểm đó, cơ chế và lợi thế quốc gia (dân số vàng, nhân công giá rẻ,…) được mở rộng. Đến năm 2018, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.587 USD/người.
Nếu lấy tiến trình từ 2005 – 2018 thì sau 13 năm, tốc độ gia tang thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là quá chậm chạp. Và căn cứ vào phân loại thu nhập bình quân đầu người của Ngân hàng thế giới, thì hiện tại Việt Nam vẫn là quốc gia nằm trong thu nhập trung bình thấp (từ 1.036 USD - 4.085 USD/người).
Trong buổi phát biểu vào đầu năm 2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, với tốc độ tăng trưởng tương tự như mức tang trung bình của 3 thập niên qua, thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 18.000 USD (tức là nằm trong thu nhập cao) vào năm 2045. Nếu đặt yếu tố "tốc độ tang trưởng" trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang tái diễn những gì đã từng diễn ra vào năm 2007 -2008, theo đó là bong bóng bất động sản, lạm phát và hạ tầng giao thông bị tắc nghẽn. Nói cách khác, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là một nền kinh tế liên quan đến tài nguyên cố định (đất đai), và chủ yếu là đầu tư bất động sản hơn là các kỹ nghệ trong sản xuất – kinh doanh. Việt Nam có thể được thúc đẩy bởi nguồn vốn đầu tư FDI, nhưng nó phải gắn liền với nguồn nhân lực, cải thiện chính sách, cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính hiệu quả - và những yếu tố này cho đến nay mới chỉ được sắp xếp lại, chứ chưa đi vào hướng cải thiện. Một ví dụ như năng suất lao động của toàn nền kinh tế dù có cải thiện theo hướng tăng qua các năm (năm 2017 tăng 6% so với 2016), nhưng năng suất lao động lại thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực (mức tương đương năm 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng bằng 17,6% của Malaysia ; 36,5% của Thái Lan ; bằng 42,3% của Indonesia,…). Và về trình độ của lao động, thì cuối năm 2017, mới chỉ có 21,5% lao động cả nước đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ, trong đó khu vực nông thôn rất thấp, chỉ khoảng 13%.
Tất cả những con số nêu trên cho thấy, để đạt mức 18.000 USD/người trong năm 2045 (tức 25 năm nữa), là một thách thức không nhỏ nếu Việt Nam vẫn duy trì mô hình kinh tế - chính trị như hiện nay.
Cải cách thể chế : nhanh và luôn
Trong một bài viết trên brookings [1] liên quan đến câu hỏi, làm thế nào để Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Sebastian Eckardt (Chuyên gia kinh tế hàng đầu tại Việt Nam - Ngân hàng Thế giới) và Vũ Viết Ngoạn (Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc) cũng đã thừa nhận, để trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam sẽ cần duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình ít nhất 7% trong 25 năm tới. Và "dù Việt Nam có tiềm năng đáp ứng nguyện vọng này, nhưng không có cải cách, quốc gia này có thể gặp phải sự tăng trưởng chậm lại và thiếu đi khát vọng của chính mình".
Do đó, để đạt được mục tiêu nêu trên trong bối cảnh dân số đang già hóa cũng như sự chậm chạp trong chính sách đầu tư và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, thì theo hai tác giả, Việt Nam cần phải làm ngay những việc sau :
Đầu tiên là, đẩy nhanh đầu tư sản xuất, qua đó đòi hỏi một hệ thống tài chính hiệu quả hơn, giúp giảm chi phí tài chính và phân bổ các khoản tiết kiệm đáng kể vào khu vực sản xuất tư nhân và đầu tư cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, thúc đẩy một lực lượng lao động sản xuất với các kỹ năng của thế kỷ XXI. Bởi ngày nay, hơn ½ các doanh nghiệp ở Việt Nam cho biết, họ gặp những khó khăn trong việc tìm kiếm công nhân có kỹ năng. Và Việt Nam sẽ cần một cải cách lớn để xây dựng hệ thống đào tạo nghề toàn diện và cạnh tranh ; các trường đại học đẳng cấp thế giới.
Thứ ba, thúc đẩy đổi mới. Sự đổi mới sẽ cần trở thành động lực quan trọng hơn để tăng năng suất, cả thông qua việc nâng cấp các quy trình, công nghệ và sản phẩm của các doanh nghiệp hiện tại, nhằm thoát khỏi các doanh nghiệp năng suất thấp. Kèm theo đó, là bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, cũng như sự cởi mở trong thương mại và đầu tư.
Cuối cùng và quan trọng nhất, theo hai tác giả là thể chế, bao gồm khu vực nhà nước vẫn còn lớn, thể chế thị trường chưa hoàn chỉnh và môi trường đầu tư rườm rà tiếp tục cản trở sự phát triển của khu vực tư nhân Việt Nam. Nếu không được giải quyết, những điểm yếu về quản trị này có thể trở thành lực cản cho sự phát triển trong tương lai.
Nguyễn Hiền
Nguồn : VNTB, 19/05/2019
Chú thích :