Trong một cuộc trò chuyện về chính trị, một người anh có than thở với tôi rằng : "anh biết chế độ này rồi sẽ sụp đổ, nhưng chế độ khác lên thì vẫn vậy thôi, các lãnh đạo hay các tổ chức khác cũng chỉ biết tới quyền lợi và quyền lực của mình thôi, chẳng có thay đổi gì nhiều cả". Anh khá mất niềm tin vào phong trào dân chủ. Suy nghĩ của anh cũng là suy nghĩ của khá nhiều người Việt, nó làm cho nhiều người mất hết ý chí đấu tranh và tạo ra tâm lý rã hàng cho nhiều người khác.
Phải nói là lo lắng này cũng hoàn toàn chính đáng. Lòng tham và ham muốn quyền lực nằm trong bản chất của mỗi con người và trong suốt dòng lịch sử đất nước ta, chưa có chính quyền nào thoát khỏi cám dỗ của nó, cứ chính quyền trước bị đánh đổ thì chính quyền mới dựng lên vẫn độc tài và tham nhũng không khác nhiều chính quyền trước. Thực tế chúng ta chưa bao giờ có một chính quyền trong sạch cả. Trong lịch sử thế giới gần đây, cũng không thiếu những cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài này chỉ để thay thế bằng một chế độ độc tài khác, và tình trạng tham nhũng cũng gần như nhau. Vậy có lý do gì để tin rằng cuộc cách mạng dân chủ của chúng ta sắp tới không đi vào vết xe đổ này ?
Khi nói tới cuộc cách mạng dân chủ sắp tới, nhiều người, kể cả những người được xem là người đấu tranh, đều cho rằng mục đích cuối cùng (cứu cánh) của cuộc cách mạng này là để thay đổi chính quyền và chế độ cộng sản. Quan điểm này sai. Nếu chỉ như thế thì nguy cơ về một chế độ vừa độc tài vừa tham nhũng được dựng lên sau chế độ cộng sản là rất lớn. Cứu cánh thật sự của cuộc cách mạng dân chủ là thay đổi văn hóa chính trị của dân tộc Việt Nam (rất ít người nhấn mạnh điều này). Việc thay đổi chế độ và chính quyền cộng sản chỉ là hệ quả của sự thay đổi về văn hóa chính trị. Chỉ khi chúng ta thay đổi được văn hóa nô lệ đã tồn tại cả ngàn năm trên đất nước ta bằng văn hóa dân chủ thì chúng ta mới có thể vượt lên trên số phận của mình. Nhiều người sẽ xem đó chỉ là lý thuyết, quá trừu tượng để người dân có thể hiểu, nhưng nó không trừu tượng chút nào nếu chúng ta đi sâu vào một vài ví dụ cụ thể.
Chỉ khi chúng ta thay đổi được văn hóa nô lệ đã tồn tại cả ngàn năm trên đất nước ta bằng văn hóa dân chủ thì chúng ta mới có thể vượt lên trên số phận của mình.
Thay đổi quan niệm về hoạt động chính trị
Từ trước tới nay chúng ta vẫn quan niệm mục đích của hoạt động chính trị là để được nổi tiếng, để làm quan, được giữ vai trò hay địa vị nào đó, để tìm kiếm công danh cho mình, hay nhiều người tham vọng hơn, để trở thành "anh hùng dân tộc", tất cả những mục đích này đều có nghĩa là vì bản thân mình. Dưới chế độ quân chủ có những đời vua có tới hàng chục, hàng trăm cuộc nổi dậy của người dân, chắc chắn là người dân có lý do chính đáng mới nổi dậy nhiều vậy, và tất cả những cuộc nổi dậy này đều bị đàn áp, thậm chí là bị tàn sát bởi "những người làm chính trị". Quan lại chỉ biết tới con đường công danh của mình chứ không biết tới cuộc sống của người dân, chỉ biết tới mình chứ không biết tới dân tộc.
Dưới chế độ cộng sản, tình trạng này cũng không khá hơn bao nhiêu. Đảng cộng sản luôn tự đặt mình lên trên đất nước, nhưng có bao nhiêu quan chức dám lấy quyết định khước từ mọi quyền lực và bổng lộc của chế độ và tham gia vào cuộc đấu tranh cho dân chủ, nghĩa là dám đặt đất nước lên trên bản thân mình ? Chẳng có bao nhiêu. Di sản này cũng góp phần tạo nên tình trạng xô bồ như hiện nay trong phong trào dân chủ, khi nhiều người vẫn xem việc tranh giành danh tiếng và địa vị là điều quan trọng nhất. Tất cả đều là hệ quả của quan niệm cho rằng mục đích của hoạt động chính trị là vì bản thân mình, dù nhiều người có thể không nhận ra hoặc không dám thú nhận.
Cuộc cách mạng dân chủ đòi hỏi một bước nhảy vọt về quan niệm này, thay vì xem mục đích của hoạt động chính trị là "vì mình", thì chúng ta phải tiến tới một nền văn hóa mới xem mục đích của hoạt động chính trị là để đóng góp vào thành công chung cho đất nước. Hệ quả tự nhiên khi chúng ta quan niệm như vậy là sự tìm kiếm con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để đóng góp cho thành công của dân chủ, của đất nước, nghĩa là ủng hộ hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị dân chủ.
Bước nhảy vọt này là một bắt buộc để đất nước có thể tiến tới một tương lai mới, vì nếu vẫn quan niệm hoạt động chính trị là để tìm kiếm quyền lực và địa vị cho bản thân mình thì dù chế độ cộng sản sụp đổ, chúng ta sẽ chỉ xây dựng lên được một chế độ độc tài mới chứ không thiết lập được dân chủ, và nếu vẫn xem hoạt động chính trị là tìm kiếm danh lợi cho bản thân mình thì chúng ta cũng chỉ đóng góp xây dựng lên một chính quyền tham nhũng mới mà thôi.
Bước nhảy vọt này cũng là một bắt buộc nếu muốn đánh bại được chế độ cộng sản. Chúng ta đều phải đồng ý với nhau rằng chế độ này chỉ có thể bị đánh bại khi có một lực lượng đối lập mạnh làm đối trọng với nó. Nhưng nếu vẫn quan niệm làm chính trị là để nổi tiếng, để tìm kiếm quyền lực và địa vị cho mình, "vì mình", chúng ta sẽ không có lý do để ủng hộ cho các lực lượng chính trị đứng đắn, giúp các tổ chức đó mạnh lên vì họ có thể làm cho mình mờ nhạt đi và trở thành đối thủ tranh giành quyền lực với mình sau này. Hơn nữa một lực lượng chính trị cũng chỉ có thể mạnh lên khi những người tìm đến với lực lượng đó xem rằng hành động của mình là để đóng góp vào một thành công chung cho đất nước, còn nếu vẫn quan niệm mình làm chính trị để tìm kiếm một chỗ đứng cho bản thân mình thì chỉ làm cho tổ chức suy yếu, thậm chí là tan rã vì tranh giành và đấu đá. Tới khi nào chúng ta chưa đạt được bước nhảy vọt tư tưởng này thì khi đó đất nước chưa thể có dân chủ.
Thay đổi quan niệm về đất nước
Từ trước tới nay với dân tộc ta, đất nước chỉ là tài sản của một người, một dòng họ hay của một tổ chức… Đất nước chưa bao giờ được hiểu như là một thực thể của chung mọi người và cũng là của mỗi người cả. Chính vì thế mà lòng yêu nước của người Việt nói chung rất thấp, đơn giản là vì chúng ta không thể yêu một thứ không phải là của mình. Vì đất nước không phải là của mình nên chúng ta đã không thấy mình cần có trách nhiệm gì với đất nước. Nếu một người Việt Nam bỏ nước ra đi và được nhập tịch một quốc gia phương Tây nào đó, ít ai phiền lòng mà phần lớn đều chúc mừng họ, vì đó cũng là mơ ước của nhiều người khác. Nếu được lựa chọn từ bỏ tổ quốc Việt Nam để trở thành người Mỹ hay người Úc, tuyệt đại đa số người Việt sẽ không lưỡng lự. Đất nước gần như không có một chỗ đứng quan trọng nào trong suy nghĩ của người Việt, tinh thần dân tộc của chúng ta đã xuống rất thấp ; chính xác hơn, nó chưa bao giờ cao. Tình trạng này là một sản phẩm do sự tụt hậu nặng nề về tư tưởng chính trị gây ra và đã kéo dài quá lâu, đó là quốc gia Việt Nam, hiểu như là một thực thể của chung mọi người Việt Nam, vẫn chưa được khai sinh ra.
Chính vì chúng ta chưa có một quốc gia đúng nghĩa, nên tinh thần dân tộc của ta rất thấp, rồi chính nó lại làm cho mọi vấn đề khác đều bế tắc. Muốn xử lý những vấn đề như ô nhiễm môi trường, tham nhũng, tụt hậu hay độc tài, chúng ta cần những con người sẵn sàng tìm giải pháp chung cho cả đất nước thay vì chỉ cho bản thân mình, nghĩa là cần những người yêu nước thực sự. Nhưng tinh thần dân tộc thấp khiến chúng ta thiếu những con người như vậy và vì thế mà cả dân tộc lại tiếp tục phải chịu đựng ô nhiễm, tham nhũng, tụt hậu và độc tài… Càng thế thì người Việt lại càng không có lý do để yêu nước. Một vòng tuần hoàn đáng buồn vẫn lặp đi lặp lại cho tới nay. Làm sao để thoát khỏi nó ?
Tại sao phần lớn người Việt Nam lại muốn chia sẻ một tương lai chung với người Mỹ, người Úc, hay các dân tộc Châu Âu thay vì với những người đồng bào Việt Nam của mình ? Câu trả lời rất đơn giản : đó là vì nước Mỹ, Úc hay các nước Châu Âu có một dự án tương lai chung đáng mơ ước, đó là giấc mơ Mỹ, là những phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống, sức mạnh của quốc tịch Úc hay các nước Châu Âu. Còn chúng ta, chúng ta đã có dự án tương lai chung nào xứng đáng để mọi người Việt Nam đều mơ ước ? Thực tế là chúng ta chẳng có dự án tương lai chung nào cả, mạnh ai nấy sống, dẫm đạp lên nhau để vươn lên nếu cần. Thắng thì làm vua, nghĩa là thỏa sức cai trị và vơ vét ; thua thì làm giặc, nghĩa là phá hoại thật nhiều nếu có thể. Với một tình trạng như vậy thì ai muốn chia sẻ một tương lai chung với chúng ta ? Phần lớn người Việt có lý do để bỏ nước ra đi, để chia sẻ một tương lai chung với các dân tộc tiến bộ, hay ít nhất là gạt bỏ đất nước ra khỏi tâm thức để thực hiện dự án tương lai của riêng mình. Trên thực tế, nhiều người đã gần như sống "lưu vong" dù đang ở ngay trên đất nước Việt Nam.
Muốn chấm dứt được tình trạng này, chúng ta phải sáng tạo ra một dự án tương lai chung mới, một dự án tương lai chung đáng mơ ước để có thể động viên mọi người Việt Nam tham gia cùng xây dựng và chia sẻ thay vì bỏ đi tìm kiếm một dự án tương lai ở nước khác. Chúng ta phải định nghĩa lại (chính xác là định nghĩa đúng) ý niệm quốc gia như là một nguyện ước cùng sống chung, xây dựng và chia sẻ một tương lai chung với những người đồng bào Việt Nam của mình. Như vậy một dự án tương lai chung đáng mơ ước sẽ đặt nền tảng cho việc xây dựng một đất nước mới, cho mọi người Việt Nam một lý do để ở lại thay vì ra đi, để đấu tranh thay vì bỏ cuộc, để yêu quý thay vì ghét bỏ đất nước Việt Nam. Đó chính là thứ không có không được nếu muốn đổi dòng lịch sử, muốn xây dựng nên một tương lai mới cho mọi người Việt Nam. Và trách nhiệm sáng tạo ra dự án tương lai chung Việt Nam đó chắn chắn phải thuộc về các tổ chức chính trị thực sự có tấm lòng với đất nước. Có bao nhiêu tổ chức đã ý thức được trọng trách to lớn của mình ? (1)
Thay đổi về cách thức giải quyết những xung đột, mâu thuẫn trong xã hội
Trong hơn 50 năm đầu triều Nguyễn, trước khi người Pháp tới (1802-1858), chúng ta có tới hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân, tất cả đều thất bại, phần lớn những người lãnh đạo những cuộc nội dậy này đều bị tàn sát, có những cuộc nổi dậy bị tàn sát tới cả ngàn người. Đó là cách mà chúng ta giải quyết những xung đột trong xã hội trong quá khứ. Có thể nói là chúng ta luôn trong một tình trạng nội chiến thường trực. Với tình trạng này thì thất bại của Việt Nam trước người Pháp là điều không thể tránh được. Một trong những nguyên nhân khiến nhà Nguyễn chấp nhận cắt 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Pháp là để dồn quân ra Bắc đàn áp cuộc khởi nghĩa của Tạ Văn Phụng, nghĩa là thỏa hiệp nhượng đất với người ngoài để có sức tàn sát những người Việt Nam chống đối. Tinh thần dân tộc và tình nghĩa đồng bào gần như đã không tồn tại trong thời kỳ nhà Nguyễn, và không chỉ trong thời kỳ này.
Tinh thần nội chiến không phải bắt đầu từ thời nhà Nguyễn mà có lẽ đã bắt đầu ngày từ khi lập quốc của đất nước ta, những cuộc nổi dậy trở thành thường thực, cường độ bạo lực luôn tăng lên thay vì giảm đi, với những cuộc chiến không ngớt giữa Đại Việt và Champa (hai vương quốc cấu thành nên nước Việt Nam ngày nay), rồi Nam - Bắc Triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh, rồi Tây Sơn và cao điểm là nội chiến Quốc - Cộng, người Việt đã cầm vũ khí lên tàn sát nhau trong 30 năm làm chết hơn 5 triệu người. Tinh thần nội chiến này đã làm cho đất nước ta kiệt quệ về mọi mặt, trong nhiều trường hợp còn mất cả chủ quyền. Đáng buồn là tinh thần này vẫn còn rất nặng tới nay, người Việt vẫn chia rẽ, thù hận, vẫn mạt sát, khinh ghét nhau vì những lý do về tôn giáo, quan điểm chính trị, vùng miền, sắc tộc, phe nhóm… thay vì thương yêu nhau. Người Việt biết nhưng không chịu hiểu, tất cả chúng ta, dù có khác biệt, đều là người Việt Nam.
Ngược lại với tinh thần này, cuộc cách mạng dân chủ sắp tới đòi hỏi chúng ta có một tinh thần mới. Dân chủ sẽ khai sinh ra ý niệm quốc gia như là một thực thể của chung mọi người và cũng là của mỗi người, của những người cầm quyền và cả những người đối lập, của người Công giáo và cũng là của người Phật giáo, của người Kinh và cả các sắc tộc khác, người Bắc hay Nam, giàu hay nghèo, một quốc gia của những người dân chủ và cả những người cộng sản… đất nước là của tất cả chúng ta. Nhưng làm sao để xây dựng nên một tinh thần như vậy khi mà hận thù giữa các thành phần dân tộc vẫn chồng chất ? Chắc chắn là chúng ta phải thay đổi tinh thần nội chiến bằng một tinh thần mới, tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Hòa giải là tháo gỡ những mâu thuẫn và thù hận giữa những người Việt Nam với nhau để tiến tới hòa hợp dân tộc, nghĩa là để người Việt Nam quý mến nhau, nâng đỡ nhau để cùng vươn lên, cùng xây dựng một tương lai chung như những người anh em. Dân chủ đa nguyên chắc chắn là điều kiện bắt buộc để thực hiện tinh thần này, vì hòa giải đòi hỏi phải sòng phẳng với quá khứ, sự thật phải được nói lên, phải chấm dứt mọi hình thức phân biệt đối xử, phải bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự cho các nạn nhân… Những thứ đó chỉ có một chính quyền dân chủ mới làm được. Nhưng đó chỉ là một nửa chặng đường, phần còn lại khó khăn hơn nhiều. Cố gắng hòa giải trong lòng người đòi hỏi thủ phạm gây ra những đổ vỡ thành tâm xin lỗi, nhận sai với những nạn nhân và được nạn nhân tha thứ. Đây là cách hành xử chưa từng có trong văn hóa của dân tộc ta. Và nó rất khó khăn để có thể thực hiện vì có những đổ vỡ rất rất khó để có thể hàn gắn, rất khó để có thể tha thứ. Nó là một bước nhảy vọt về văn hóa của dân tộc ta, có thể chúng ta sẽ phải mất hàng thế hệ mới thực hiện được trọn vẹn tinh thần này.
Dù là rất khó nhưng vẫn phải làm, phải nêu cao tinh thần này ngay từ bây giờ, nếu không chúng ta sẽ không có tương lai. Một dân tộc mà mọi người chỉ tìm cách thù ghét nhau, hãm hại nhau, chơi xấu nhau thay vì quý mến nhau, giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau để vươn lên, thì chúng ta sẽ không vươn lên được, sẽ không có tương lai nào cả. Đây cũng có thể di sản lớn nhất mà chúng ta nên để lại cho các thế hệ mai sau, chúng ta đã kế thừa một đất nước đầy đổ vỡ, hận thù chồng chất, vậy thì chúng ta hãy để lại cho các thế hệ sau một đất nước của sự bao dung và hòa giải, của tình anh em tìm lại, của tình nghĩa đồng bào.
Vừa rồi là ba ví dụ cụ thể mà cuộc cách mạng sắp tới phải làm, khi thực hiện được cuộc cách mạng văn hóa này chúng ta không chỉ thay đổi được chế độ và chính quyền cộng sản mà còn có thể xây dựng được một đất nước tốt đẹp hơn nhiều. Còn nếu không thì chúng ta vẫn sẽ "ổn định" với số phận của mình, như anh bạn tôi và nhiều người Việt Nam lo lắng, sau độc tài vẫn là độc tài, sau tham nhũng vẫn là tham nhũng, sau thù hận vẫn là thù hận...
Thay đổi các giá trị văn hóa nền tảng là điều rất đau nhức, đó là một cuộc đấu tranh với chính mình, tự chất vấn mình - điều mà trong hàng ngàn năm ông cha chúng ta đã không làm được. Tuy vậy chúng ta không chỉ thay đổi những giá trị nền tảng như trong ba ví dụ trên, chúng ta còn cần phải thay đổi nhiều giá trị nền tảng khác, như về liên đới xã hội, về cách tổ chức xã hội, những quan niệm về hoạt động kinh tế, thay đổi cả cách chúng ta đối xử với đất nước Việt Nam và với những người Việt Nam khác, và nhất là thay đổi nhận thức về các giá trị đạo đức nền tảng xứng đáng được tôn vinh trong xã hội. Đó là một cuộc cách mạng về văn hóa và tư tưởng chính trị to lớn và toàn diện, sẽ thay đổi số phận của 100 triệu người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, một cuộc cách mạng mà một cá nhân, dù xuất sắc tới đâu cũng không thể nào làm được. Chỉ có những tổ chức đủ mạnh và mang trong mình những giá trị này mới có thể chuyên chở và lan tỏa chúng bằng một dự án tương lai chung, để chúng trở thành những giá trị nền tảng cho dân tộc Việt Nam.
Trần Hùng
(22/10/2019)
(1) Các bạn đọc có thể tham khảo dự án tương lai chung (Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai) mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề xuất cho đất nước ở đây : Bit.ly/KSKNTH
Đa số người Việt không sẵn sàng cho hoạt động để có tự do, dân chủ. Nỗi sợ khiến họ thờ ơ, khống chế việc thể hiện thái độ, bày tỏ quan điểm về chính trị.
Một dân tộc có số đông như thế có đáng để có được tự do dân chủ không ?
Nỗi sợ dẫn dắt người Việt
Trên chuyến xe có hơn 45 người trong nhóm bạn hắn rất yêu quý. Tất cả đều tốt nghiệp đại học, cao đẳng, đã đi làm và cùng một đức tin. Cái vui nhộn ban đầu dần lắng lại cho những tâm tình, câu chuyện riêng tư khi xe khởi hành từ Sài Gòn được khoảng một giờ.
Bạn có thể không quan tâm đến chính trị nhưng vẫn cứ phải hít thở không khí và uống nước…
Hắn, Đạo Nhân và thêm vài đứa bạn nói về chuyện thời sự nước nhà, thái độ chính trị của cá nhân. Một người bạn từ hàng ghế phía trên nghe lỏm được câu chuyện của tụi hắn quay lại đe : "Mấy ông rảnh quá nên đi nói bậy phải không ? Đến lúc công an bắt mới biết sợ".
Số còn lại dửng dưng. Đứa bày tỏ quan điểm, tại sao phải nói về chuyện chính trị. Nói cũng có được gì đâu. Lo kiếm tiền đi.
Có lẽ đám bạn của hắn đã thấm nhuần, hoặc phó thác trách nhiệm : "Mọi chuyện đã có đảng và nhà nước lo".
Thái độ của những người bạn trên hoàn toàn không khác đa số người Việt hiện nay. Rất nhiều người Việt ước muốn sống trong một đất nước tự do, dân chủ, giàu mạnh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Úc, Mỹ, các nước Châu Âu... Tuy nhiên, cũng chính những con người này lại không muốn động chân tay để có được điều này trên chính quê hương mình. Hay ít ra thể hiện sự quan tâm, mở miệng nói lên sự thật, chính kiến của mình. Họ tự biến mình trở thành bầy cừu được dẫn dắt bởi người chăn.
Dưới sự cai trị, giáo dục của đảng cộng sản, đa phần người Việt bị triệt tiêu khả năng phản biện, phản kháng trong một suy nghĩ độc lập. Bất kỳ ai vượt qua ước muốn của đảng cộng sản bị số đông hòa giọng cùng đảng cai trị bị xem "phản động". Bạn hữu, cộng đồng dè chừng, xa lánh.
Người Việt đang truyền thụ cả nỗi sợ hãi của mình cho nhau, sang con cháu. Vô trách nhiệm với tương lai. Trong một xã hội mà người cộng sản đã thành công trong việc cai trị khiến cả nước chỉ là đám đông sợ hãi, dễ bảo.
Cần những con người can đảm
Văn Đức, chủ một doanh nghiệp với khoảng ba chục công nhân. Hắn quý bởi anh dám lên tiếng, không ngại ủng hộ cho tiếng nói tự do, dân chủ. So với những người bạn khác của hắn, vật chất anh chưa bằng. Tuy nhiên, thái độ của anh thì đám bạn giàu có, chủ doanh nghiệp to, làm chức bự, được đi đây đi đó chưa thể có được.
Văn Đức, hay người dám lên tiếng như doanh nhân Lê Hoài Anh trên đất nước Việt Nam tiếc lại không có nhiều.
Tại Việt Nam người có điều kiện vật chất, có ảnh hưởng đến người khác từ trí thức, đến doanh nhân không mấy người quan tâm đến tự do, dân chủ. Đa số họ luôn cùng giọng với chính quyền.
Với nhiều doanh nhân, chính quyền càng độc đoán họ dễ dàng kiếm tiền dễ dàng hơn. Bởi sự tham lam luôn biết kết thân với quan chức, chính quyền để chi phối chính sách, quy hoạch, trong vô số lỗ hổng của hệ thống cầm quyền.
Khi hắn ngỏ ý với người bạn đang nắm vị trí to ở một ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam lên tiếng cho những bất cập của xã hội sẽ có sức ảnh hưởng tốt hơn. Anh bạn phải thật thà : "Biết làm thinh để còn đường sống Ánh ơi !". Người có quyền, có tiền ở Việt Nam đưa lý do chính đáng, bởi khi họ lên tiếng sẽ bị chính quyền gây khó khăn trong công việc.
Và khi có tài sản trong tay, nếu không muốn sống trên quê hương, họ dễ dàng tìm đường định cư ở một quốc gia tự do nào đó. Hay ít ra cũng chọn cách lĩnh hội được sự giáo dục, tiện nghi, văn minh ở đất nước dân chủ.
Giới chủ ở Việt Nam chưa thể như Hồng Kông sẵn sàng đóng cửa doanh nghiệp để nhân viên đi biểu tình. Càng thiếu người như tỷ phú Jimmy Lai, sẵn sàng đồng hành với đa số dân chúng đối đầu với Bắc Kinh.
Việt Nam cần những trí thức dám lên tiếng phản biện như Trần Đức Anh Sơn, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Ngọc Chu... Đất nước cũng không thể thiếu những doanh nhân đầy khát vọng làm giàu một cách công bằng, tạo công ăn việc làm, trao cơ hội phát triển cho nhiều người. Và quốc gia rất cần trách nhiệm công dân của họ đưa dân tộc Việt vào con đường tự do, dân chủ, văn minh.
Võ Ngọc Ánh
(18/10/2019)
Chúng ta có một lịch sử bị "đô hộ" vào loại dài nhất thế giới và lại kém may mắn khi kẻ cai trị vừa mang đến những giá trị văn hóa bệnh hoạn, nô lệ (Nho giáo) vừa áp đặt dã tâm bạo lực sắt máu. Chúng ta lầm lũi suốt cả lịch sử cho đến tận bây giờ, và nỗi đau quá lớn khiến cho chúng ta bi quan, chán nản và thay nhau làm đơn xin "giải thể" đất nước với ước mong lớn nhất của đa số, đặc biệt là giới trẻ hiện nay, là trở thành công dân hạng hai ở bất kỳ quốc gia dân chủ nào.
Sự bi đát lớn tới mức khi không còn không khí sạch để thở, chúng ta cũng chỉ biết bật các ứng dụng Air Visual, Pam Air... lên rồi than thở và mua máy lọc không khí, khẩu trang chống bụi mịn... để "tồn tại" và nuôi tiếp ảo tưởng xuất ngoại định cư. Chúng ta dần mất niềm tin vào truyện thuyết thay đổi số phận của 100 triệu con người cùng màu da và tiếng nói. Đơn giản vì đa số gần như đứng ngoài truyện thuyết này. Chúng ta có thể xác tín mãnh liệt vào những nền dân chủ ở các nước xa xôi như Mỹ, Anh, Đức... Nhưng chúng ta không đặt nổi một cắc vào canh bạc dân chủ hóa đất nước.
Lúc này, muốn làm chúng ta choàng tỉnh, bật dậy và chú tâm, chỉ có thể là nột vụ nổ, một chấn động chao đảo đất trời, một truyện thuyết chưa từng có trong lịch sử.
Chúng ta bi quan đến mức xa rời, hắt hủi hoàn toàn những gì gọi là chính trị, dân chủ hay đa nguyên. Chúng ta không thèm tìm hiểu nữa vì chúng ta đã bị lừa quá nhiều lần, từ quân ngoại xâm cho đến cả tầng lớp cai trị bản địa. Rồi chúng ta như kẻ tuyệt vọng, gục ngã và buông xuôi. Lúc này, muốn làm chúng ta choàng tỉnh, bật dậy và chú tâm, chỉ có thể là nột vụ nổ, một chấn động chao đảo đất trời, một truyện thuyết chưa từng có trong lịch sử.
Vậy lúc này ai có thể thức tỉnh dân tộc, thuyết phục và dẫn dắt họ hiện thực hóa một truyện thuyết đổi đời ? Chắc chắn không phải là một minh quân, vì lịch sử Việt Nam không thiếu trường hợp "đầu minh quân đuôi bạo chúa", cũng không phải là một giai cấp vô sản đã dẫn cả dân tộc vào con đường bạo lực không lối thoát. Đó phải là một đội ngũ, một lực lượng có tầm vóc, cùng thấm nhuần những giá trị tư tưởng nền tảng tiến bộ, chia sẻ và thực hiện một dự án tương lai chung cho cả dân tộc. Chúng ta có thể tạm gọi đó là "giai cấp trí thức chính trị".
Giai cấp này có lý do gì để chấp nhận gánh nặng một sứ mệnh to lớn ?
Họ có một tình cảm đặc biệt với đất nước, điều đó được thể hiện qua việc họ xem đất nước như một tình cảm, một không gian liên đới. Nói một cách dễ hiểu là họ quý mến, yêu thương người Việt một cách vô điều kiện, và họ chấp nhận mọi thiệt thòi, khốn khó để mưu cầu một tương lai chung cho dân tộc. Trong cái tương lai chung đó, mọi người có mức sống không quá cách biệt, những thành phần yếu thế như người già, trẻ em, tật nguyền... sẽ được nâng đỡ bao bọc, để chúng ta thực sự là đồng bào, là anh em sống hòa đồng trong một mái nhà mang tên Việt Nam.
Lý do thứ hai là giai cấp trí thức chính trị có cơ hội thực hiện một truyện thuyết có một không hai trong lịch sử Việt Nam và cực kỳ hiếm hoi trên thế giới. Làm sao không đặc biệt, khi dẫn dắt 100 triệu người có lịch sử hàng ngàn năm nô lệ đến được bến bờ tự do, dân chủ. Nó chắc chắn có tầm vóc hơn hẳn truyện thuyết nổi tiếng : Moses dẫn dắt người Do Thái thoát khỏi sa mạc sau hơn 40 năm lưu lạc.
Những người có kiến thức và nặng lòng với đất nước thì không có gì hạnh phúc hơn việc chứng kiến những nụ cười, những giọt nước mắt vỡ òa vì hạnh phúc trong ngày Việt Nam thực sự thoát ách độc tài, toàn trị. Đó là phần thưởng mà bất cứ ai cũng không thể mua được bằng bất cứ giá nào. Vì vậy, giai cấp trí thức chính trị đã thực sự "khôn ngoan" khi chấp nhận đầu tư, theo đuổi một dự án không thể thất bại, mà ngược lại còn đem lại siêu lợi nhuận và đáng trân quý ở thứ bậc cao nhất.
Đối lập dân chủ Việt Nam đã xây dựng được một truyện thuyết mới cho dân tộc, vấn đề là người dân và trí thức Việt Nam đã nhận ra và ủng hộ nó hay chưa mà thôi.
Việt Nghĩa
(7/10/2019)
Chủ nghĩa thực tiễn và những sai lầm.
Bức tường Berlin sụp đổ được xem như một dấu mốc quan trọng tiễn đưa chủ nghĩa cộng sản. Chỉ hai năm sau đó, ông Gorbachev, sau nhiều nỗ lực cải tổ đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa của Xô Viết không thành đã được thế giới nhìn nhận như một tác nhân quan trọng đưa đến sự giải tán của Liên Xô trong hòa bình. Gorbachev để lại câu nói “chủ nghĩa cộng sản không thể tự sửa đổi, chỉ có giải pháp là thay thế nó”. Thế giới đứng trước một khúc quanh trọng đại, phe dân chủ đã toàn thắng một cách áp đảo. Với sự lạc quan rằng dân chủ sẽ nhanh chóng quét sạch các chế độ độc tài còn sót lại, Fukuyama, một nhà chính trị học nổi tiếng đã cho ra đời quyển sách “The end of history”. Không thể lạc quan hơn! Dân chủ sẽ nhanh chóng lan toả tới tất cả các nước trên thế giới. Happy ending! Một kết cục có hậu để khép lại những cuộc thảo luận hay tranh cãi về chủ nghĩa, về ý thức hệ.
Cùng thời điểm, cuộc cách mạng internet và toàn cầu hoá bắt đầu đi lên cao trào. Các nước dân chủ phương Tây, trong sự hồ hởi và thắng thế của dân chủ đã chuyển dịch dần sang ưu tư phát triển kinh tế. “Economy, stupid!” khẩu hiệu tranh cử của Bill Clinton đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu, trong khi đó tương đối hóa các giá trị dân chủ, nhân quyền trong biên giới quốc gia từng nước. Kể từ đó, một trật tự kinh tế toàn cầu được mở ra dưới sự lãnh đạo của Hoa Kì mà các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, môi trường bị xem nhẹ. Các chính trị gia cầm đầu ngọn cờ “Chủ nghĩa tự do phóng khoáng” đã đặt cược vào việc chỉ cần kinh tế phát triển, hội nhập sâu hơn vào một thị trường toàn cầu thì các chế độ độc tài còn sót lại sẽ chuyển đổi về dân chủ, tự do theo một lẽ tự nhiên. Phương Tây dang tay chào đón những chế độ độc tài như Trung Quốc, Việt Nam…
“Economy, stupid!” khẩu hiệu tranh cử của Bill Clinton đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu, trong khi đó tương đối hóa các giá trị dân chủ, nhân quyền trong biên giới quốc gia từng nước.
Một đặt cược thất bại…
Nhưng sau vài thập niên, các chế độ độc tài như Trung Quốc, Việt Nam đã mạnh lên về kinh tế nhưng không có dấu hiệu nào thể hiện rằng họ sẽ chuyển đổi về dân chủ. Tuyệt đại đa số người dân vẫn sống với mức thu nhập thấp, điều kiện sinh hoạt tồi tàn vì giá nhà đất hay chi phí sinh hoạt bị đẩy lên quá cao. Nghiêm trọng hơn là các chế độ độc tài đã lợi dụng và khai thác sự nghèo khó, môi trường để xuất khẩu hàng hoá giá rẻ ồ ạt. Của cải được tập trung vào một số ít những nhóm người quyền chức và tư bản đỏ thân hữu. Không những vậy, các nước độc tài như Trung Quốc còn có tham vọng bá quyền và ảnh hưởng ngược lại những giá trị dân chủ của phương Tây.
Quay ngược lại các nước khối dân chủ Mỹ và phương Tây, chính họ cũng rơi vào một cuộc khủng hoảng xã hội vì những tiến bộ công nghệ cũng như toàn cầu hoá dẫn đến công việc, máy móc được di dời sang nhưng nước lợi hơn về mặt chi phí, môi trường như Trung Quốc, Việt Nam…Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 càng làm trầm trọng thêm nỗi lo của một nền kinh tế và chính trị đã bị tài chính hoá và đẩy đi quá xa khỏi những giá trị đạo đức.
Những tiếng nói hẹp hòi và chủ nghĩa dân tuý bùng phát lên. Tiêu biểu ở nước Mỹ, đã có rất nhiều bài viết bình luận về những vùng mà người dân vốn quen với những công việc trong các lãnh vực kinh tế truyền thống của Mỹ. Những người đàn ông, mà mới chỉ vài thập niên trước, thế hệ cha anh họ được xem là những công dân gương mẫu đóng góp vào sự phồn vinh cho nước Mỹ thì nay họ chật vật về mặt cảm xúc khi lặng lẽ nhìn những nhà máy đóng cửa dần. Họ phải làm những công việc không muốn làm, hoặc thất nghiệp hay chỉ đơn giản là sa vào những chất kích thích để quên đi một thực tại nhức nhối rằng nước Mỹ này không còn giấc mơ nào cho họ nữa. Và Trump chỉ là biểu hiện cho cơn giận, nỗi uất ức của họ!
Trong bài phỏng vấn về chủ nghĩa tự do phóng khoáng, giáo sư Michael Sandel cho rằng chủ nghĩa tự do phóng khoáng, hay có thể hiểu là chủ nghĩa thực tiễn (lấy các lợi ích ngắn hạn, cụ thể là kinh tế làm cứu cánh và tương đối hóa các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền trong biên giới quốc gia để tránh gây xung đột, dù với giá nào) đã làm suy yếu nền chính trị Mỹ. Tệ hại hơn, các giá trị đạo đức và các thảo luận sâu rộng về quyền công dân, về chính trị đã vắng bóng trong nhiều thập niên qua. Michael Sandel sốc nhưng không bất ngờ với việc Donald Trump lên nắm quyền tổng thống của nước Mỹ. Chính trị mấy thập niên qua đã đánh mất đi các giá trị đạo đức, hậu quả dẫn đến là các giá trị xã hội và bánh xe kinh tế thị trường đi trật đường ray. Trump là biểu hiện của những người cảm thấy bị bỏ lại trong một xã hội thay đổi quá nhanh, từ kinh tế đến các giá trị xã hội, Trump là cơn giận của họ!
Nhưng Trump không phải và không thể là giải pháp cho nước Mỹ. Người ta có thể tức giận trước một thực tại không vừa ý nhưng không thể tìm giải pháp ở trong cơn giận đó. Donald Trump có thể nói rằng Trung Quốc đang không công bằng trong cán cân thương mại với Hoa Kì. Vậy chúng ta phải hiểu cứu cánh của hành động này là ưu tư về lợi ích kinh tế cho nước Mỹ. Nhưng điều này sẽ không thể thành công vì Trung Quốc hiện nay là một nước độc tài toàn trị, khối hơn 100 triệu người dân bóc lột hơn 1 tỷ dân còn lại, cùng với tài nguyên, môi trường để xuất khẩu thật nhiều hàng hoá giá rẻ. Vậy ta phải hiểu việc chống Trung Quốc tức là chống chế độ độc tài cộng sản Trung Quốc và thăng tiến dân chủ, nhân quyền cho người dân Trung Quốc. Thế giới đang có những biến chuyển nhanh chóng. Các vấn đề lớn như việc quản lý những siêu công ty toàn cầu một cách hợp lý, nạn nhân mãn hay biến đổi khí hậu là những vấn đề chung mà chỉ có sự đồng thuận toàn cầu mới có thể giải quyết được, biên giới quốc gia không còn là một giải pháp đủ nữa. Cùng một vấn đề về thảm họa môi trường hay sự bóc lột dã man đối với những công nhân Trung Quốc, Việt Nam sẽ bằng cách này hay cách khác ảnh hưởng lên thế giới trong một chuỗi cung ứng toàn cầu đan xen lẫn nhau. Cũng may là các nước dân chủ đã bừng tỉnh, sau nhiều thập niên theo đuổi chủ nghĩa thực tiễn và chủ nghĩa tự do phóng khoáng.
Trước một khúc quanh…
Có rất nhiều triển vọng Trump sẽ thất cử vào năm 2020 và Trung Quốc đang bộc lộ rất nhiều dấu hiệu khủng hoảng về kinh tế, với một khối nợ quá lớn hơn 300% GDP và sự kiệt quệ về con người, môi trưởng sau nhiều năm chọn sự phát triển một cách hoang dại. Đảng cộng sản Việt Nam đang đứng trước một khúc quanh lớn. Nhưng với quyết định nào thì họ cũng sắp thuộc vào lịch sử sau những tội ác và sai lầm liên tiếp đã gây ra. Tôi viết bài này trong suy nghĩ rằng, chúng ta đang đứng trước một khúc quanh nhưng làm sao để vượt lên trên lịch sử để không bị nó xô đẩy và người Việt có thể làm chủ được vận mệnh của chính mình. Làm sao để có thể chuyển hoá đất nước về dân chủ đa nguyên trong hòa bình, làm lại đất nước trên tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Đây là một câu hỏi lớn mỗi người cần phải thực tâm hỏi chính mình. Chỉ khi nào hiểu được sâu sắc sức mạnh của lẽ phải, lòng tin rằng mình tranh đấu cho đất nước vì trước hết mình yêu đất nước, yêu con người Việt Nam, vì chúng ta muốn một tương lai đáng mơ ước cho người Việt. Nếu yêu người như thế, thì như một lẽ tự nhiên chúng ta sẽ có niềm tin vào việc tranh đấu chính trị nhất thiết phải là tranh đấu có tổ chức, hợp quần sẽ tạo nên sức mạnh. Chúng ta cần phải vượt lên chính những thực tại mình đang thuộc vào và tâm lý mình đã hằn sâu để tạo ra một sinh khí mới, một sự lạc quan mới trong cuộc tranh đấu này.
Việt Dân (2/10/2019)
Đảng cộng sản Việt Nam dù rất bối rối và đang gặp khủng hoảng một cách trầm trọng, thời cơ dân chủ hóa đất nước rất gần, dù vậy phong trào dân chủ Việt Nam vẫn không đạt được tầm vóc và tiếng nói đáng ra phải có. Vì sao lại như vậy ?
Có nhiều lý do. Lý do quan trọng nhất đó là trí thức Việt Nam vẫn chưa ủng hộ cho dân chủ, cụ thể là chưa tham gia hoặc lên tiếng ủng hộ cho các tổ chức đối lập.
Anh em chúng tôi còn một mong muốn nữa đó là cố gắng khơi nguồn cảm hứng cho một "Giấc mơ Việt Nam".
Tất cả vấn đề nghiêm trọng nhất tại Việt Nam hiện nay (ví dụ việc cưỡng chế đất đai của người dân tại Thủ Thiêm, Lộc Hưng, các BOT bẩn…) đều xuất phát từ thể chế chính trị. Muốn thay đổi thì phải có các "giải pháp chính trị" và các giải pháp đó chỉ có thể đến từ các tổ chức chính trị khác ngoài đảng cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam còn độc quyền thì họ sẽ không thay đổi mà muốn họ thay đổi thì phải có sức ép và cạnh tranh từ các tổ chức đối lập.
Phải có cạnh tranh chính trị thì mới có công bằng, minh bạch và lẽ phải. Trí thức Việt Nam chắn chắn hiểu điều đó nhưng tại sao họ không ủng hộ cho các tổ chức chính trị đối lập ?
Lý do đầu tiên mà ai cũng rõ đó là Sợ. Sợ là đương nhiên và đôi lúc cũng phải biết sợ. Vấn đề ở đây là sợ cái gì và sợ khi nào ? Nên sợ cái đúng và lẽ phải, không nên sợ cái sai trái và bất công. Bản thân tôi không bao giờ uống rượi khi lái xe vì tôi sợ vi phạm luật pháp và sợ gây ra tai nạn. Nhưng lên tiếng chống lại sự bảo thủ, lạc hậu và độc tài của cộng sản tôi lại không sợ vì tôi biết việc mình làm là đúng. Trong khi đó với đa số đàn ông Việt Nam thì lái xe nhưng vẫn uống rượu (nhiều ít tùy từng người, từng lúc) nhưng khi đụng đến việc phê phán chính quyền là họ tránh ngay lập tức.
Đáng nói hơn nữa là có những người không sợ. Họ vẫn lên tiếng, thậm chí gay gắt chỉ trích chính quyền và bị chính quyền bỏ tù nhưng sau đó họ vẫn quay lại vuốt ve, tâng bốc chính quyền những điều không hề có và nói những điều không nên nói hoặc năn nỉ những điều mà họ thừa biết là không bao giờ nhận được...
Lý do mà chúng ta thường nghe nhiều trí thức Việt Nam thanh minh cho việc chọn lối hoạt động nhân sĩ là vì họ muốn "độc lập" vì như thế mới là "khách quan". Điều này hoàn toàn ngụy biện. Tôi tin là phần đông trong số họ nếu được vời ra làm quan thì họ sẽ nhận lời ngay lập tức. Từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Hồ Chí Minh… đều đã thế thì giờ cũng sẽ vậy thôi. Thực tế là đa số họ ngồi chờ, đánh bóng tên tuổi, hy vọng một lúc nào đó, hay một chế độ mới sẽ mời họ ra làm quan chứ không hẳn hoàn toàn "khách quan" như họ nói.
Tâm lý chờ thời, giấc mộng "phò chính thống" của đa số trí thức Việt Nam rất nhỏ mọn và tầm thường vì chỉ nghĩ đến bản thân mình mà sẵn sàng hy sinh danh dự, lương tâm lẫn trí tuệ. Đây là thái độ hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm, bất lương cần phải nhận diện và lên án. Nên nhớ rằng trí thức luôn là đại diện cho tiếng nói, tâm hồn và trí tuệ của mỗi dân tộc. Người dân Việt Nam không ngẩng mặt lên được vì trí thức Việt Nam luôn cúi đầu.
Tư duy của trí thức Việt Nam ảnh hưởng rất lớn bởi văn hóa nô lệ của Khổng giáo. Mộng ước của trí thức Việt Nam ngày nay (cũng như tầng lớp sĩ phu ngày xưa) vẫn là có được bằng cấp cao, được chính quyền trọng dụng… Ước mơ này đồng nghĩa với việc được làm công cụ cho chính quyền, cho kẻ cai trị để được "ăn trên ngồi trước" thậm chí là ngồi lên đầu nhân dân. Nhiều người về hưu rồi vẫn giương ra những chức vụ mình từng có, từng giữ như là niềm tự hào vì từng được làm… nô tài cho đảng. Đây là một "di sản" độc hại từ lịch sử, từ văn hóa Nho giáo mà trí thức Việt Nam được thừa hưởng từ Trung Quốc.
Xuất phát từ tâm thế nô lệ đó, trí thức Việt Nam không hề có bất cứ một ước mơ gì cao đẹp ngoài những thứ tầm thường như nói ở trên. Chính vì lẽ đó mà dân tộc Việt Nam cũng không có ước mơ gì lớn lao. Một dân tộc không có ước mơ là một dân tộc không có tương lai và không thể nào vươn lên được. Nếu không mơ về một chân trời tươi sáng và tự do, không tin vào những điều tốt đẹp của tương lai thì làm sao mỗi người, mỗi dân tộc có được động cơ để cống hiến và làm việc ?
Chúng ta đều nghe nói đến "Giấc mơ Mỹ" (American dream). "Giấc mơ Mỹ" đã mang lại một niềm tin mãnh liệt về một tương lai tự do và tươi sáng ở phía trước cho tất cả người Mỹ và những ai muốn tìm đến đây lập nghiệp và sinh sống. Chính nhờ "giấc mơ" này mà nước Mỹ, đất nước của những người di dân, của những người đi tìm "giấc mơ" đã phát triển rực rỡ và bỏ qua tất cả các phần còn lại trên thế giới. Không phải người dân Mỹ nào cũng đạt được giấc mơ của mình nhưng nếu không có giấc mơ đó thì họ không thể nào giàu có và thành công như bây giờ. Tập Cận Bình cũng đang kêu gọi và hứa hẹn về một "giấc mơ Trung Hoa" để động viên và gắn kết người dân Trung Quốc.
"Giấc mơ" của người Việt Nam thật buồn. Gần 100 năm trước, Chế Lan Viên viết :
Chúng con ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con…
100 năm sau, "giấc mơ con" đó vẫn không thay đổi bao nhiêu. Trên trường quốc tế, Việt Nam đứng cuối cùng trong danh sách các quốc gia có đóng góp cho nhân loại. Trong nước, giấc mơ của đa số người Việt chỉ là "mơ về ngôi nhà và những đứa trẻ", tiếp đến là làm giàu, ăn nhậu và du lịch. Tất nhiên đây chỉ là nói về số đông, cần ghi nhận sự chia sẻ và dấn thân của các nhóm và tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam thời gian qua, những việc làm của họ là vết son và điểm sáng thắp lên hy vọng cho xã hội Việt Nam.
Chim bồ câu tung cánh : Biểu tượng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
Sự ra đời và có mặt của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên (Tập Hợp) cho đến giờ, ngoài nhiệm vụ tranh đấu dân chủ hóa đất nước thì anh em chúng tôi còn một mong muốn nữa đó là cố gắng khơi nguồn cảm hứng cho một "giấc mơ Việt Nam". Đó là giấc mơ chung cho tất cả 90 triệu người dân Việt Nam mà chúng tôi gửi gắm trong Dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, chương 8 : "Chung một giấc mơ Việt Nam" (2). Bản thân Dự án chính trị này cũng là một "giấc mơ" và "giấc mơ giữa ban ngày" đó hoàn toàn có thể trở thành sự thật nếu được đa số người Việt Nam chia sẻ và ủng hộ.
Anh em trong Tập Hợp khác với nhiều trí thức Việt Nam vì chúng tôi đã "chọn phe" đứng về phía người dân Việt Nam, xác định cho mình một vị thế rất rõ ràng đó là đối lập với Đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi không chơi trò "đu dây" hay "đi hàng hai" như một số trí thức "bất đồng chính kiến". Nhiều người trong số họ vẫn đang chơi trò "đu dây" như Đảng cộng sản, Đảng đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ (Phương Tây) còn trí thức Việt Nam đu dây giữa chính quyền và người dân. Một mặt tỏ ra đứng về phía người dân, mặt kia vẫn muốn van xin, năn nỉ và vuốt ve chính quyền. Trong khi ngay cả bản thân Đảng cộng sản Việt Nam đang ngày càng kiên quyết "thanh lọc đội ngũ" bằng cách khai trừ những đảng viên khác biệt chính kiến mà vụ khai trừ đảng ông Chu Hảo hay nhà nghiên cứu về Biển Đông Trần Đức Anh Sơn là ví dụ.
Đảng cộng sản Việt Nam buộc các đảng viên phải chọn phe, hoặc là phe đảng hoặc là phe dân. Trong giai đoạn 2011-2017 đã có 50.938 đảng viên bị xóa tên và khai trừ khỏi đảng (1). Mới đây ông Nguyễn Phú Trọng cũng tuyên bố rất rõ rằng "Không cho phép ai làm trái cương lĩnh, quan điểm, chủ trương và đường lối của đảng". Đã đến lúc vạch ra một ranh giới rõ ràng : Họ là họ mà ta là ta. Họ làm việc của họ, ta làm việc của ta. Không nên mất thời giờ và quan tâm đến những việc vô ích như viết kiến nghị, xin xỏ, năn nỉ hay vuốt ve chính quyền.
Trí thức Việt Nam phải ủng hộ hoặc tham gia vào việc xây dựng một lực lượng chính trị cho chính mình. Đúng là việc này không dễ nhưng vẫn có thể làm được nếu có quyết tâm và thiện chí. Một cách dễ nhất là nên tìm hiểu kỹ các tổ chức đối lập đã có sẵn và ủng hộ cho tổ chức đó. Tuy nhiên trí thức Việt Nam với tâm thế "nô lệ" nên một mặt, không dám tự mình đứng ra thành lập các chính đảng mới hoặc cũng có thể vì họ nhận ra rằng xây dựng một tổ chức chính trị dân chủ là không hề dễ dàng. Mặt khác, vì văn hóa nhỏ mọn và ích kỷ thừa hưởng từ Khổng giáo khiến họ không muốn ủng hộ cho các tổ chức chính trị sẵn có vì họ cho rằng nếu tham gia vào một tổ chức như vậy thì họ sẽ mất đi vai trò và tiếng nói của mình. Họ thà làm một "bại tướng" nhưng được nhiều người biết đến còn hơn là làm một "sĩ tốt" trong một tổ chức nào đó. Họ làm ngược lại câu nói "thà làm một người lính trong đoàn quân thắng trận còn hơn làm một viên tướng trong đoàn quân bại trận".
Một lý do nữa khiến trí thức Việt Nam không ủng hộ cho các tổ chức đối lập hiện nay có lẽ là vì các tổ chức đối lập không thể ban phát cho họ quyền lợi và danh vọng chăng ? Có người hỏi chúng tôi tại sao không thấy Tập Hợp đặt ra các ban bệ và chức vụ như các tổ chức chống cộng khác ở hải ngoại ? Đúng là có những tổ chức không chỉ hải ngoại mà cả trong nước, chưa có người, chưa có bất cứ một sự chuẩn bị hay phương tiện gì nhưng việc đầu tiên họ làm là đặt ra các chức danh. Ở Mỹ có những tổ chức "hữu danh vô thực" không làm gì nhưng lãnh tụ tự phong cho mình làm "tổng thống Đệ tam Việt Nam Cộng hòa" như ông Đào Minh Quân…
Sở dĩ Tập Hợp không đặt ra các chức danh là vì chúng tôi quan niệm rằng "tham gia vào một tổ chức chính trị là để cống hiến và hy sinh cho một lý tưởng cao đẹp" chứ không phải để mưu cầu danh lợi như nhiều trí thức Việt Nam nghĩ. Sau này nếu tình hình bắt buộc phải đảm nhận một công việc cụ thể nào đó, khi đó chúng tôi sẽ phân công nhau để làm việc và chúng tôi cũng chỉ xem đó là một bổn phận, một nghĩa vụ thay vì là đặc ân. Hơn nữa, một tổ chức đối lập chỉ là con số không cho đến khi được người dân bầu chọn làm đảng cầm quyền. Là con số không thì có gì để bày ra các chức vụ ảo rồi tranh dành nhau và dẫn đến đỗ vỡ.
Cách đây ba năm một nhóm nhỏ thành viên của Tập Hợp tiến hành một cuộc "đảo chính" nội bộ, họ cũng chất vấn như vậy, đại loại là sao không đặt ra các ban bệ, chức danh hay "hành động" này nọ ?… Có người lầm tưởng họ là quan trọng nhưng thực sự là không phải như vậy. Cũng có người có tham vọng cá nhân quá lớn, họ không ý thức được rằng làm chính trị là để cống hiến cho một lý tưởng quảng đại. Muốn thành công cá nhân thì nên kinh doanh. Sau một thời gian những người còn lương tri chấp nhận bỏ cuộc và rút lui lặng lẽ, một số người thì không chịu chấp nhận sự thật, họ cay cú và đổ lỗi thất bại của họ cho người này người kia và rồi chính họ làm khổ họ. Khi tâm trí bất an thì còn làm gì được nữa.
Điều lo lắng thầm kín của những người cho rằng mình sẽ không được trọng dụng trong một tổ chức đối lập chứng tỏ sự thiếu tự tin của họ vào chính bản thân. Lo lắng lớn nhất của Tập Hợp trong tương lai, khi lịch sử sang trang là không có người để làm việc. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa chỉ có thể hình thành và phát triển trong lúc khó khăn, khi chưa trở thành đảng cầm quyền. Giả sử Tập Hợp trở thành đảng cầm quyền thì sẽ có hàng trăm hàng, ngàn người mong muốn được tham gia nhưng khi đó khó khăn cho chúng tôi là không biết ai thật lòng, ai cơ hội. Ngày xưa ông Ngô Đình Diệm phải dùng những người quen biết để làm việc vì ông được đưa lên cầm quyền, ông không có tổ chức và đội ngũ nên không biết tin ai, dùng ai. Chính phủ của ông Trần Trọng Kim cũng vậy, dù tất cả các thành viên chính phủ đều là những trí thức hàng đầu Việt Nam lúc đó nhưng họ không phải người cùng một tổ chức, họ chưa từng sinh hoạt với nhau nên họ không hiểu nhau, không biết phải làm gì và làm như thế nào, cuối cùng họ bị một tổ chức khủng bố… có tổ chức cướp mất chính quyền.
Thiếu kiến thức về chính trị, vô lễ với chính trị khiến trí thức Việt Nam không nhận thấy rằng lịch sử đang sang trang. Vai trò lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam đang sắp chấm dứt. Đất nước cần được tổ chức và sắp xếp lại một cách hợp lý và đúng đắn để những người có khả năng được đặt vào đúng vị trí của mình. Đất nước rồi sẽ hồi sinh và vươn lên. Trí thức Việt Nam nên tham gia vào tiến trình dân chủ hóa đất nước một cách chủ động và thật lòng thay vì ngồi đợi và mơ về những thứ phù du và nhảm nhí như công danh, quyền lực...
Việt Hoàng
(14/03/2019)
-------------------
2. Chung một giấc mơ Việt Nam
Nước ta có khả năng trở thành một nước lớn và giàu mạnh nếu động viên được mọi trái tim, mọi khối óc, mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng tương lai chung. Tuy vậy thực tế đáng buồn là ngày hôm nay chúng ta vẫn còn đang phải đấu tranh cam go để có được điều mà hầu hết các dân tộc đã có : dân chủ.
Cuộc đấu tranh đã dài hơn chúng ta mong muốn vì ngoài những khó khăn đã được nhận diện còn thêm một lý do khác : đây là cuộc đấu tranh hoàn toàn mới trong lịch sử nước ta. Từ trước đến nay chúng ta đã chỉ có những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực thống trị, hay những cuộc chiến chống ngoại xâm mà mục đích, xét cho cùng, cũng chỉ là để đổi một ách nô lệ ngoại bang lấy một ách nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Lần này chúng ta chiến đấu để mở ra cả một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thứ hai của lịch sử nước ta, kỷ nguyên của những con người Việt Nam tự do và của một nước Việt Nam dân chủ.
Đó là cuộc chiến đấu để đưa người Việt Nam và đất nước Việt Nam từ bóng đêm của nô lệ và nghèo khổ sang ánh sáng của tự do và phồn vinh. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc chiến đấu thực sự xứng đáng để chiến đấu. Như vậy những con người Việt Nam hôm nay cần ý thức rằng họ đang đứng trước cơ hội để tạo ra biến cố lịch sử lớn nhất và vinh quang nhất, cơ hội mà các thế hệ mai sau sẽ không thể có.
Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng.
Chúng ta nhất định thành công. Dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh sau khi đã phải trả giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản dị nhưng mầu nhiệm như tự do, dân chủ, hòa bình, công lý, bao dung, cố gắng. Chúng ta đã nhuần thấm tình dân tộc nghĩa đồng bào trong sự tủi nhục chung vì thua kém. Chúng ta đã nhận ra rằng tất cả mọi người Việt Nam đều ràng buộc với nhau trong một số phận chung. Chúng ta đang có một đồng thuận dân tộc lớn nhất kể từ ngày ông cha mở nước. Đồng thuận ấy sẽ là vũ khí vô địch giúp chúng ta vượt mọi trở ngại.
Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố: một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai.
Lạc quan và hãnh diện vì cuộc đấu tranh của ta trong sáng. Nó không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, nó là cuộc đấu tranh để tôn vinh mọi người, tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc ta rất xứng đáng để có.
Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do, dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của những cố gắng chung và của thành công chung.
Chúng ta hãy nắm tay nhau cùng cất cao một lời nguyền :
Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.
Làm người Việt Nam cho tới nay đã là một điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong một tương lai gần sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh từ điêu tàn và đổ nát.
Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta. Đó là di sản mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ mai sau. Đó là giấc mơ Việt Nam mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và ngày mai !
Trích Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai
(Dự án chính trị của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)
Giới quan sát cho rằng ác cảm với Trung Quốc và sâu xa hơn, nhu cầu có một xã hội dân chủ là nguyên nhân bùng nổ biểu tình tại Việt Nam.
Biểu tình ở Thành phố Hồ Chí Minh 11 tháng 5/2016. Từ mấy năm trước, thái độ chống Trung Quốc đã xuất hiện trong các cuộc xuống đường ở Việt Nam
Ác cảm với Trung Quốc
Carlyle Thayer, giáo sư danh dự tại Học viện Quốc phòng Úc tại Canberra, cho rằng quan điểm chống Trung Quốc "là độc hại" ở Việt Nam, theo hãng tin Bloomberg.
Tờ này nhắc lại mối quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam với quốc gia láng giềng hùng mạnh Trung Quốc từng dẫn tới chiến tranh biên giới năm 1979.
Một sự kiện nữa từng làm bùng nổ biểu tình tại Việt Nam là khi Trung Quốc đem giàn khoan thăm dò dầu khí vào vùng biển tranh chấp năm 2014.
Tờ Asiatimes thì nhắc lại năm 2016 có các cuộc biểu tình hàng loạt khi nhà máy Formosa của Đài Loan thải hàng tấn chất độc hại xuống biển miền Trung Việt Nam.
Một cuộc thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew công bố năm ngoái cho thấy chỉ 10% người Việt Nam có cái nhìn thiện cảm với Trung Quốc, theo Bloomberg.
Trang The Diplomat nói các cuộc biểu tình gần đây tại Việt Nam tập trung vào phản đối Luật Đặc khu kinh tế. Người dân lo ngại chính quyền giao đất Trung Quốc thông qua hợp đồng cho thuê đất 99 năm.
Các thông điệp biểu tình phản đối chủ yếu là "Không cho Trung Quốc thuê đất dù chỉ một ngày".
Ông Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nói với trang The Diplomat :
"Luật Đặc khu được người Việt Nam gọi là luật bán đất nước… Những nhượng bộ như vậy chỉ dành cho các nước nghèo và lạc hậu".
Ông Dũng có thể nghĩ đến hai nước láng giềng nghèo hơn, Lào và Cambodia, đã bị cuốn vào việc chấp nhận cho các nhà đầu tư Trung Quốc thuê đất tới 99 năm, theo tác giả bài báo.
Nguyễn Chí Tuyến, một blogger bất đồng chính kiến tại Hà Nội với 42.500 người theo dõi trên Facebook, không bị ấn tượng bởi lời hứa của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc về việc sửa đổi các điều khoản của dự Luật Đặc khu :
"Chúng tôi có một lịch sử lâu dài với người dân Trung Quốc, họ luôn luôn muốn xâm lược đất nước của chúng tôi, vì vậy sẽ nguy hiểm để cho phép họ sử dụng các đặc khu kinh tế để kiểm soát đất nước của chúng tôi", ông Tuyến nói trên The Diplomat.
Tờ này nhắc lại chỉ vài ngày sau cuộc biểu tình chống Trung Quốc, ngày 14/6, Bộ Ngoại giao Việt Nam tố cáo Trung Quốc tái trang bị tên lửa trên đảo Phú Lâm, một hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao gọi đây là "một sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam".
'Yêu cầu một xã hội dân chủ hơn'
Bên cạnh các biểu ngữ chống Trung Quốc còn có những thông điệp yêu cầu một xã hội dân chủ hơn
Tuy nhiên, tác giả David Hutt của Asia Times cho rằng các cuộc biểu tình vừa qua tại Việt Nam không đơn thuần là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc chống Bắc Kinh.
Ông lập luận là bên cạnh các biểu ngữ chống Trung Quốc được trưng ra tại trong các cuộc biểu tình vừa qua, còn có những thông điệp mong mỏi và yêu cầu một xã hội dân chủ hơn.
Một số người biểu tình mang biểu ngữ "Trả lại quyền tự chủ cho người dân". Một biểu ngữ khác nói rằng cuộc biểu tình nhằm chống lại sự vi phạm Hiến pháp của Quốc hội.
Điều đó có khả năng bao gồm thực tế rằng người Việt Nam không được phép thực sự bầu cử dưới dưới sự lãnh đạo độc đảng, theo bài trên Asia Times.
"Đó không phải chủ yếu do Trung Quốc. Đó là một dấu hiệu của sự thất vọng và bất mãn sâu sắc của [người dân] đối với việc chính quyền kiểm soát của chính quyền đối với mọi thứ ", Nguyễn Phương Linh, một nhà phân tích rủi ro chính trị viết trên Twiter.
Các nhà bất đồng chính kiến nói với tờ Asia Times rằng thỏa thuận về đặc khu kinh tế không phải là ví dụ duy nhất Đảng "bán đất" cho người nước ngoài. Một số người cho rằng cuộc biểu tình cuối tuần này có thể nâng cao nhận thức về các vấn đề về quyền đất đai, đặc biệt là việc chính phủ tịch thu đất đai của dân.
Các blogger chính trị, ngoài ra, lưu ý rằng vấn đề đặc khu kinh tế đã khiến người dân bình thường bắt đàu nói về các vấn đề các vấn đề như vai trò của Quốc hội.
Đảng cộng sản đã cho thấy rõ rằng nó không hoàn toàn vững mạnh, và rằng người dân có thể thực thi các thay đổi chính sách thông qua biểu tình, theo Asia Times.
'Cần có luật biểu tình'
Đã đến lúc cần có luật biểu tình, bởi vì luật biểu tình là cụ thể hóa điều 25 của Hiến pháp 2013 đã quy định công dân có quyền biểu tình, theo Phó Giáo sư Phạm Đức Bảo, chuyên gia về luật từ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta).
Hôm 21/6, PGS. TS. Phạm Đức Bảo tham gia chương trình thảo luận bàn tròn của BBC Việt ngữ, cho rằng cần khẩn trương ban hành luật biểu tình, và luật biểu tình theo ông, là cần thiết cho cả người dân và nhà nước cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nhà nghiên cứu hiện là Phó Viện trưởng Viện Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) giải thích vì sao Quốc hội cần ban hành luật biểu tình, ông nói :
"Quốc hội khóa 13 cũng đã có dự kiến chương trình để thông qua luật biểu tình, nhưng cơ quan soạn thảo luật biểu tình chuẩn bị chưa chu đáo cho nên Quốc hội khóa 13 vẫn nợ dân, cử tri luật biểu tình và cũng chuyển giao việc làm luật biểu tình cho Quốc hội khóa 14.
"Quốc hội khóa 14 đến nay là kỳ họp thứ năm rồi nhưng luật biểu tình vẫn chưa ra được thì đây là một sự chậm trễ.
"Nếu không có luật biểu tình thì công dân thực hiện quyền được hiến định ấy không biết làm thế nào là đúng quy định của pháp luật và khi xảy ra các cuộc biểu tình thì các cơ quan chức năng cũng rất là khó để xử lý những hành vi mà có thể gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội và ảnh hưởng đến pháp luật".
Quyền hiến định trong hiến pháp ?
Cùng ngày, luật sư Lê Công Định trả lời BBC Việt ngữ trước cuộc thảo luận, ông cho rằng việc truyền thông Việt Nam mặc nhiên cáo buộc kích động biểu tình như một hành vi vi phạm pháp luật là hoàn toàn sai.
Ông cũng cho rằng Biểu tình là một quyền hiến định được ghi trong hiến pháp, do đó :
"Việc ai đó tổ chức biểu tình hoặc xuống đường biểu tình đi chăng nữa thì đó cũng là một hành động để người dân thực hiện quyền hiến định của mình, quyền công dân được ghi trong hiến pháp chứ hoàn toàn không có bất kỳ một quy định pháp lý nào trong luật hình sự cũng như về vấn đề luật hành chính để xem xét và cáo buộc cái gọi là kích động biểu tình là một hành vi vi phạm pháp luật".
Nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất tham gia cuộc thảo luận hôm 21/6 từ Đà Nẵng cho rằng không phải vì chưa ban hành luật biểu tình mà người dân không có quyền biểu tình bởi vì quyền biểu tình là quyền hiến định.
"Chuyện ban hành luật biểu tình chậm trễ là do cơ quan lập pháp nhưng không phải vì thế mà tước đoạt đi quyền biểu tình của người dân".
Theo nhà báo Trương Duy Nhất, nguyên nhân sâu xa của các cuộc biểu tình gần đây đó là đụng chạm đến quyền lợi của dân.
"Chính quyền cứ hay vu cho người dân nói là có mục đích, có động cơ chính trị nhưng thực sự người dân người ta không quan tâm lắm đến câu chuyện chính trị đâu.
Ảnh bà Doãn trong lễ khai trương chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc tại Hà Nội tháng 5/2018
"Vấn đề trong tất cả các cuộc biểu tình không phải ở phía dân mà vấn đề ở phía chính quyền", ông Nhất nói.
Theo hãng tin Reuters hôm 20/06, các cuộc phản đối được phía Trung Quốc "xem xem nghiêm túc", theo trang của Đại sứ quán nước này ở Việt Nam.
Cơ quan đại diện ngoại giao Trung Quốc tại Việt Nam cũng "có các cuộc họp tuần trước với các đại diện doanh nghiệp Trung Quốc, với chính quyền và truyền thông Việt Nam".
Đại biện của Đại sứ quán, bà Doãn Hải Hồng đã "yêu cầu phía Việt Nam bảo vệ doanh nghiệp và công dân Trung Quốc", vẫn theo Reuters.
Trong các phát biểu của mình, lãnh đạo chính quyền Việt Nam luôn đề cao tinh thần dân tộc và bảo vệ chủ quyền nhưng họ cũng muốn có quan hệ hữu hảo với Trung Quốc.
"Chủ tịch quốc hội Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân tránh nói đến vấn đề tâm lý chống Trung Quốc tại Việt Nam", Reuters viết.
Nguồn : BBC, 22/06/2018
Vào dịp 30 tháng Tư, tôi muốn hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân chủ ? Tại sao tiến trình dân chủ hóa vẫn dậm chân tại chỗ, nếu không phải thụt lùi, trong những năm vừa qua ?
Vào dịp 30 tháng Tư, tôi muốn hỏi tại sao Việt Nam vẫn chưa có dân chủ ?
Tiến trình dân chủ hóa của bất cứ một quốc gia nào, kể cả Việt Nam, nhất là trong thời đại toàn cầu hiện nay, đều chịu ảnh hưởng chung của nền chính trị quốc tế, quốc nội và các phong trào vận động dân chủ trong và ngoài quốc gia đó.
Trên bình diện quốc tế, trào lưu dân chủ khắp nơi đều gặp khó khăn, và suy thoái. Tạp chí Foreign Affairs số mới nhất tháng Năm/Sáu "Dân chủ đang dẫy chết ? - Bản tổng kết toàn cầu", có những nhận định sâu sắc về chủ đề này [1]. Tập trung quyền lực vào chính quyền (ngành hành pháp), chính trị hóa ngành tư pháp hay các định chế vốn hoạt động độc lập, tấn công vào sự độc lập của truyền thông, lợi dụng công quyền để gia tăng tư quyền/lợi v.v… là những dấu hiệu thoái trào của dân chủ.
Từ Hungary, Ba Lan thuộc Đông Âu cho đến Ý, Anh thuộc Tây Âu, và cả Hoa Kỳ, chủ nghĩa dân tuý và các xu hướng chuyên quyền đang vươn mình trổi dậy giành ảnh hưởng khắp nơi. Ngay cả Đan Mạch, Hòa Lan và Thuỵ Sĩ… cũng không nằm ngoài ảnh hưởng chung trên. Trong khi đó, các chế độ chuyên quyền như Nga, Trung Quốc không những ngày càng hung bạo đối với người dân của mình mà còn trở nên hung hãn, gây hấn qua sự can thiệp vào nội tình chính trị của Hoa Kỳ hay các quốc gia khác, hoặc qua các biện pháp có vẻ như mềm mỏng hơn, như văn hóa, chẳng hạn, điển hình là Viện Khổng Tử của Trung Quốc.
Học giả Ronald Inglehart, trong bài "Thời đại bất an" (The Age of Insecurity) trong tạp chí trên, có đưa ra một nhận định đáng suy ngẫm. Inglehart cho rằng những người nghiên cứu dân chủ thường bất đồng nhau, nhưng điều họ gần như hoàn toàn đồng ý với nhau, là rằng "sự bất bình đẳng cực độ không thích ứng với dân chủ" (extreme inequality is incompatible with democracy). Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ hiện nay, thiểu số mười phần trăm dân số lại có thu nhập gần nửa tổng thu nhập của toàn quốc gia. Còn đối với tất cả ngoại trừ một nước thuộc Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD), sự bất bình đẳng về thu nhập đã gia tăng từ năm 1980 đến năm 2009. Do đó mà xu hướng chuyên quyền đã tranh giành được nhiều ảnh hưởng tại các quốc gia này trong thời gian qua.
Ngoài ra, suy thoái dân chủ cũng do một số nguyên nhân khác. Một, suy thoái kinh tế hay tăng trưởng chậm chạp trong các nền dân chủ dễ làm cho người ta cảm tưởng và kết luận rằng dân chủ chưa chắc đã là giải đáp tốt hơn độc tài. Hai, khoa học kỹ thuật tiên tiến như tự động và trí tuệ nhân tạo dẫn đến mất việc làm của công nhân, cái mà một thời cuộc cách mạng kỹ nghệ đã mang lại, và tiến trình này ngày càng gia tăng chứ không gia giảm. Ba, mạng truyền thông xã hội, như facebook, chẳng hạn, bị các thế lực chuyên quyền và các công ty vì quyền lợi đã khai thác để tuyên tuyền và thổi phồng các tin giả/nhảm (fake news), gia tăng sự tràn lan thông tin nhiễu. Bốn, những người sống và hít thở dân chủ từ lúc lọt lòng chưa chắc đã hiểu được cái giá phải trả để có được dân chủ nếu không chịu tìm hiểu tiến trình lịch sử của nó, mà chỉ coi như được cấp sẵn (take it for granted) ; trong khi những người chưa hề sống trong dân chủ sẽ không nhận ra được các giá trị đích thực nó mang lại ; cho nên dân chủ chưa chắc đã là giá trị hàng đầu để người ta bảo toàn hay đấu tranh để có.
Trên hết, theo tôi, là vì tính cả tin của con người nói chung. Vì dễ tin quá vào một cái gì đó, có thể do văn hóa, tôn giáo, gia đình hay ảnh hưởng của môi trường chung quanh, lại không có thói quen kiểm chứng, không có thời gian hay kiến thức để đối chiếu, không sở hữu suy nghĩ phê phán để truy tìm căn cốt của vấn đề, nên không quen tự suy nghĩ cho mình và không phân biệt được hư thực ra sao. Đây là điểm chung của đa số người dân thuộc mọi quốc gia. Họ đều có điểm yếu, đều dễ bị tổn thương, và các chế độ chuyên quyền đều biết khai thác điểm yếu này cho mục tiêu chính trị của họ. Tất nhiên tỷ lệ của mỗi quốc gia mỗi khác. Ở các nước có nền dân chủ lâu đời, có truyền thông độc lập và đa dạng, có nền tư pháp hoàn toàn độc lập và chuyên nghiệp, thì chất lượng của nền dân chủ cao vì người dân nói chung có sự hiểu biết và suy nghĩ thấu đáo. Tính cách suy nghĩ phê phán/triệt để (critical thinking) chính là nền tảng của các xã hội văn minh.
Tóm lại, yếu tố khác biệt lớn nhất giữa một thể chế dân chủ và độc tài ngày nay không còn là kinh tế/phát triển như suy nghĩ trước đây mà có lẽ nằm ngay ở chất lượng suy nghĩ phê phán của tỷ lệ công dân trong xã hội đó. Trong khi suy nghĩ phê phán được phát huy tối đa, bằng các phương thức chính thức của chính quyền/nhà nước qua giáo dục, chẳng hạn, hay qua không gian của thương mại và của xã hội dân sự trong thể chế dân chủ, thì ngược lại, trong chế độ độc tài, suy nghĩ phê phán bị hạn chế tối đa hoặc không hề hiện hữu trong diễn ngôn/truyền thông chính mạch của xã hội, nhất là chính trị.
Ngoài các yếu tố nói trên, dân chủ bị suy thoái khắp nơi vì nó có lắm kẻ thù, ở trong và ngoài quốc gia đó. Kẻ thù hàng đầu của dân chủ là tư duy chuyên quyền, độc đoán (lại có đủ khả năng, phương tiện và lý do để tấn công, gây hấn cho nền dân chủ) ; là văn hóa chính trị chuyên sử dụng bạo lực như là cứu cánh ; là làm luật và dùng luật để kìm hãm và chế tài phía đối lập và người dân chứ không phải để pháp trị ; là sự bất tài và bất lực để kinh tế và chính trị suy thoái làm mất niềm tin của dân chúng, vân vân…
Trên đây là một số yếu tố quốc tế ảnh hưởng đến trào lưu dân chủ toàn cầu hiện nay, kể cả các nền dân chủ lâu đời và ổn vững như Hoa Kỳ, Anh, Pháp và nhiều quốc gia Tây Âu và Đông Âu. Xu hướng dân chủ tại Việt Nam, do đó, cũng chịu ảnh hưởng nặng nề và tiêu cực của tốc độ và mức độ suy thoái này.
Tuy nhiên ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất đối với xu hướng dân chủ tại Việt Nam vẫn do nền chính trị quốc nội. Nhà nước độc Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn chủ trương cai trị một cách toàn diện và tuyệt đối, và không hề có ý định chia sẻ quyền lực với bất cứ xu hướng chính trị nào khác.
Từ khi Nguyễn Phú Trọng lên nắm vai trò Tổng bí thư, các biện pháp thẳng tay đàn áp các nhà dân chủ hay thanh trừng các xu hướng khác biệt trong Đảng đã gia tăng đáng kể. Sử dụng chiêu bài Điều 79 hay 88 của Bộ Luật Hình Sự, hay luật về an ninh quốc gia như âm mưu lật đổ chế độ, vân vân…, để bỏ tù 21 người trong năm 2017, theo tổ chức Human Rights Watch [2]. Theo tổ chức Amnesty International thì Việt Nam hiện có khoảng 97 tù nhân lương tâm (được định nghĩa như là những người không sử dụng hay cổ võ bạo động nhưng bị tù đầy vì họ là ai và họ tin tưởng gì, chẳng hạn như tôn giáo, chính trị hay các vấn đề lương tri khác).
Nguyễn Phú Trọng cũng sử dụng chiêu bài chống tham nhũng để loại trừ các phe cánh khác, răn đe các mầm móng chống đối khác trong Đảng. Những chiêu bài của Đảng cộng sản Việt Nam gần như lập khuôn chiêu bài của Tập Cận Bình của Trung Quốc từ năm 2012 đến nay. Thật ra nếu quan sát kỹ thì chúng ta có thể thấy rằng từ thời Mao Trạch Đông đến nay, các chính sách lớn, có sức tàn phá khủng khiếp (như Cải Cách Ruộng Đất, Bước Đại Nhảy Vọt, Cách Mạng Văn Hóa), cho đến chính sách sửa chữa như kinh tế thị trường (theo định hướng xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Hoa) của Đặng Tiểu Bình và các chính sách kinh tế, chính trị và văn hóa về sau, Đảng cộng sản Việt Nam nghiên cứu học hỏi và áp dụng một cách tận tình nhưng thận trọng cho Việt Nam. Cho nên tìm hiểu kỹ lưỡng các chính sách của Trung Quốc hiện nay cũng là cách nghiên cứu các nước cờ và bước đi có thể có của Đảng cộng sản Việt Nam vậy.
Còn các phong trào vận động dân chủ trong và ngoài Việt Nam thì sao ?
Ba năm về trước, trong bài "Dân chủ ? Vẫn là mơ thôi" [3], giáo sư Cao Huy Thuần đã công nhận rằng xu hướng dân chủ trên toàn cầu đã trì trệ, khủng hoảng, và ông không khỏi bi quan cho triển vọng dân chủ trong tương lai. Bàn về Việt Nam, ông nhận định 40 năm rồi mà vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân chủ. Suy nghĩ về một giải pháp cho Việt Nam, ông đắc ý với quan niệm "bình thường" và "đồng thuận" của một trí thức uy tín của Singapore, ông Kishore Mahbubani, mà ông cho rằng có khả năng khai sáng con đường dân chủ hóa Việt Nam. Ông biện luận rằng xây dựng một văn hóa chính trị mới, lấy dung hòa làm căn bản thay cho mệnh lệnh, trong đó phát huy quyền tự do ngôn luận, là bước đầu tiên để làm nền tảng.
Ba năm sau bài viết của giáo sư Cao Huy Thuần, tưởng phong trào dân chủ Việt Nam tiến một chút, dù chưa là một bước, về phía trước, thế nhưng tình trạng không mấy sáng sủa chút nào qua bao cuộc bắt bớ tù đầy trong hai năm qua, mà đã nói trên. Trong bài "Cứu nguy phong trào dân chủ Việt Nam" vào tháng hai năm nay, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng ông và các bạn trong và ngoài nước nhận định phong trào dân chủ "đang ở trong tình trạng rất bi đát và cần được cứu nguy" vì một phần bị đàn áp một cách hung bạo, một phần vì "chia rẽ nội bộ ngay cả khi chưa bị đe dọa" [4]. Ông Kiểng trình bày một số trường hợp tiêu biểu qua đó cho thấy suy nghĩ chung của một số người, cho dù đầy thiện chí và lý tưởng cho mục tiêu chung, nhưng dễ dàng trở thành hằn học với người bất đồng quan điểm với mình ; hoặc có những nhận định ngây thơ, thiếu hiểu biết căn bản về chính trị. Ông biện luận những thí dụ trên góp phần giải thích vì sao phong trào dân chủ bế tắc ngay cả nếu không bị đàn áp. Ba tuần sau đó, ông Việt Hoàng, qua bài "Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ Việt Nam", đã chia sẻ những khó khăn chung trong bước đường đấu tranh trong thời gian qua, và những nguyên do chưa xây dựng được một chính đảng dân chủ có tầm vóc [5].
Tóm lại ông Kiểng, ông Hoàng hay Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói chung quan niệm rằng không có nền tảng tư tưởng/triết lý lớn để vạch ra nguyên một lộ trình xây dựng dân chủ thành một dự án chính trị, không kết hợp được những người yêu chuộng dân chủ trong và ngoài Việt Nam thành một mối có tổ chức hẳn hoi, và không có lãnh đạo, thì mọi cuộc xuống đường rầm rộ bao nhiêu đi nữa, và các thách thức lẻ tẻ đối với chế độ hiện nay, sẽ không đi đến đâu cả.
Ngay cả khi chế độ độc tài, vì lý do nào đó mà sụp đổ, thì nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng thì tất nhiên sẽ không có gì bảo đảm là dân chủ sẽ đến.
Nhưng vấn đề chính hiện nay, theo tôi, là sự nhập nhằng hay, nói đúng hơn, là không ý thức phân biệt rõ ràng giữa mục tiêu chống cộng và mục tiêu xây dựng/vận động dân chủ.
Thoạt nhìn tưởng hai là một, nhưng không phải, nên mới có vấn đề lớn.
Rõ ràng chống cộng và vận động dân chủ đều có mục tiêu giống nhau : chống độc đoán chuyên quyền cộng sản. Nhưng có lắm điều khác nhau.
Phe chống cộng chống mọi thứ thuộc về chế độ hiện nay, từ lá cờ, chủ nghĩa, cho đến tất cả những gì trực tiếp thuộc về nó. Như các nhân vật lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hay các ban, ngành, cơ quan chính phủ, nhà nước v.v… Đảng cộng sản Việt Nam, như đã nói trên, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện, cho nên hầu như không có cái gì mà không thuộc về nó trong xã hội Việt Nam, kể cả các tổ chức xã hội, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Không những thế, một cách rất thâm độc, Đảng cộng sản Việt Nam ban hành nghị quyết 36, và sử dụng dư luận viên phản công lại những ảnh hưởng có thể có của Internet và truyền thông xã hội. Xu hướng chống cộng, vì thế, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng cộng sản, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, thấy nghị quyết 36 đàng sau, kể cả sinh viên du học tự túc qua đây. Xu hướng chống cộng cũng chống nhau tơi tả, và chống luôn cả xu hướng dân chủ. Tóm lại, cái gì cũng chống, nhưng không có đủ lực. Và chống, theo các hình thức trước đây, chỉ có thể xảy ra ở hải ngoại, chứ không thể trong nước được. Cách chống như thế trong mấy chục năm qua ngày càng thưa thớt và mất hiệu quả.
Phe vận động dân chủ thì cũng tứ bề thọ địch. Lực của họ quá mỏng và họ quá cô đơn. Chung quanh họ là tư duy và cung cách hành xử, nếu không là kẻ thù, thì cũng là sự cản trở lớn cho tiến trình dân chủ : lười biếng và vô kỹ luật. Đấu tranh vô tổ chức và chỉ muốn thấy kết quả liền là các thái độ này.
Lười biếng suy nghĩ, nên không chịu tìm hiểu vấn đề rốt ráo, cộng với bao nhiêu thành kiến hay định kiến sẵn có, lại thiếu tinh thần bao dung khách quan và khoa học, trong khi đó không chịu mở lòng lắng nghe quan điểm khác biệt để tìm hiểu xem người khác nói có gì đúng và đáng để học hỏi không, cho nên lắm khi đi cãi nhau những chuyện nhỏ nhặt, lặt vặt chứ không hề biết văn hóa tranh luận là gì, do đó gây thù oán vì những lý do con kiến biến thành con voi. Nói chung, có tư duy "làm lớn chuyện", không phải "làm chuyện lớn".
Nên nhớ, dân chủ phải đi đôi với pháp trị. Không có nền dân chủ đích thực nào mà không phải là pháp trị cả, để kiểm soát và cân bằng quyền lực. Các chế độ độc tài cũng có hiến pháp và pháp luật, nhưng họ ngồi chễm chệ trên nó, coi nó thêm một phương tiện để áp chế. Trong nền dân chủ, ngay cả tổng thống hay thủ tướng nếu có vi phạm luật thì cũng bị phạt như thường, và không ai đứng trên hay ngoài pháp luật. Trong nền pháp trị, những người làm trong chính quyền phải đầu tiên và trên hết phải thể hiện sự hiểu biết, sự tôn trọng và sự làm gương cho các công dân khác. Luật pháp tự bản chất rất phức tạp do đó đòi hỏi tính chuyên môn rất cao. Một xã hội có nền văn hóa dân chủ cao, nền kinh tế tri thức tiên tiến, thì càng đòi hỏi tính chuyên môn trong mọi địa hạt. Hiến pháp và pháp luật chi phối mọi hoạt động của xã hội đó, nên nó phải cập nhật thường xuyên để đáp ứng nhu cầu của xã hội tiên tiến đó. Cho nên không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề vốn vô cùng phức tạp và đa chiều, không chịu động não suy nghĩ, mà lại suy nghĩ hời hợt hay cực đoan, thì sẽ không giúp ích gì cho sự phát huy của văn hóa dân chủ.
Người yêu chuộng dân chủ là người có khả năng thể hiện tinh thần kỹ luật cao. Họ biết nguyên tắc hành xử dân chủ và áp dụng nghiêm khắc với chính mình. Họ tôn trọng tối đa giá trị tự do, bình đẳng và công lý. Thay vì loại trừ, họ tìm cách dung hợp. Thay vì chụp mũ, vu khống, mạ lỵ, họ dùng lý luận và tinh thần khách quan khoa học để thuyết phục. Thay vì phản ứng, một cách thiếu tự tin, khi gặp phải chỉ trích hay phê bình, họ ôn tồn lý giải để trình bày quan điểm của mình, dùng nó như cơ hội để "cưỡi sóng", để thuyết phục đối thủ và những người chung quanh. Tóm lại, dân chủ là đa nguyên, lắm khi trái chiều, cho nên người có tinh thần dân chủ thật sự là người phải biết sử dụng trí tuệ và lý luận để thuyết phục người khác quan điểm, chứ không phải đổ thừa hay gán nhãn hiệu cho nó là tin tặc, là phản động, hay tội đồ dân tộc v.v…
Dân chủ, vì thế, nên xây khó mà phá dễ. Một nền dân chủ vững ổn như Hoa Kỳ thì khó thể nào phá đổ bằng một, hay nhiều, cá nhân đặc biệt như Donald Trump, chẳng hạn. Nhưng một nền dân chủ non nớt, nền móng chưa vững, thì rất dễ đổ vỡ. Dân chủ không hoàn hảo, nên nó cần luôn được cải thiện. Thể hiện tính dân chủ không hề dễ, hay tự nhiên, mà là một ý thức tự giác cao độ. Ai cũng muốn quyết định nhanh chóng, hiệu quả để công việc được chạy cho tốt, trong khi đó dân chủ có nghĩa là tham khảo ý kiến, thảo luận rốt ráo và tôn trọng khác biệt và các quyết định chung. Tuy chậm nhưng chắc. Trong chính trị, mọi chính sách hay quyết định lớn đòi hỏi sự suy nghĩ và kế hoạch rốt ráo, sự thách thức thường xuyên giữa những người cùng chung trách nhiệm, giữa các đảng phái, công chúng và truyền thông và, quan trọng không kém, là sự phê bình hay chỉ trích nặng nề của công chúng, truyền thông hay đối lập. Không có một chính sách hay một kế sách nào hoàn hảo cả, dù được thiết kế bởi những đầu óc ưu tú nhất. Không có chính sách nào thoả mãn mọi ước vọng hay nhu cầu của xã hội đa nguyên cả. Nó chỉ mang tính tương đối và lắm khi đầy rủi ro. Phê bình là sự bình thường của xã hội, và chính là sức mạnh của xã hội đó.
Xu hướng vận động dân chủ của Việt Nam, vì các lý do trình bày trên, cũng chỉ là thiểu số so với xu hướng chống cộng trong và ngoài nước. Đồng minh của họ thì ngày càng ít và yếu trong khi đối thủ của họ ngày càng nhiều và mạnh. Nhưng không có gì là bất khả cả. Một khi đã nghĩ bất khả thì chỉ có thất bại, chưa đánh mà đã thất bại, nói chi đến thành công !
Tại sao phải là dân chủ ? Bởi vì thể thế chính trị dân chủ tuy bất toàn nhưng nó đỡ tệ hại nhất trong tất cả các thể chế chính trị đã được thử nghiệm. Trong nền dân chủ, mạng sống con người được coi trọng tối đa, nhân phẩm được tôn trọng tối đa, và mọi người trong xã hội được tự do để phát triển tối đa tiềm năng của mình.
Hơn tám mươi triệu người Việt trong nước nghĩ gì, muốn gì, có ai biết không ? Sức dân là sức nước mà. Họ đưa thuyền và cũng lật thuyền.
Chỉ lo người dân Việt Nam không chịu mơ những giấc mơ lớn thôi. Nếu biết mơ, nếu có niềm tin, thì sẽ có hy vọng. Bởi không có thành công (lớn) nào mà không khởi đầu bằng giấc mơ (lớn).
Úc Châu, 30/04/2018
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 02/05/2018
Tài liệu tham khảo :
1. Foreign Affairs, "Is democracy dying", a global report, May/June 2018, Volumn 97, Number 3.
2. Hunter Marston, "Vietnam’s crackdown on dissent could undermine its stability and growth ", Lowy Institute, 12/04/2018.
3. Cao Huy Thuần, "Dân chủ ? Vẫn là mơ thôi ? ", Thời Đại Mới, số 33, tháng 7 năm 2015.
4. Nguyễn Gia Kiểng, "Cứu nguy phong trào dân chủ ?", đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 04/02/2018.
5. Việt Hoàng, "Tập Hợp đang làm gì và ở đâu trong phong trào dân chủ Việt Nam ?", đăng trên trang mạng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, 24/02/2018.
Vẫn còn có khá nhiều người Việt, trong lẫn ngoài nước, hy vọng một phép màu từ các nước phương Tây, như Mỹ, Úc, Canada, Đức… có thể làm một điều gì đó, mang Dân chủ đến cho Việt Nam. Tuy nhiên, có những mơ ước viển vông, thì khó lòng thành hiện thực. Ngày nay, nhiều nhà lãnh đạo phương Tây đặt ngoại giao thỏa hiệp lên trên cả Nhân quyền và những giá trị tốt đẹp của Dân chủ, để đổi lấy lợi ích thương mại.
Trông cậy vào phương Tây mang lại dân chủ cho Việt Nam là viển vông. Ước mơ đó đang tan thành mây khói, vì chính quyền phương Tây ngày nay đặt ngoại giao thỏa hiệp lên trên cả nhân quyền và những giá trị tốt đẹp của dân chủ để đổi lấy lợi ích thương mại. Có thể gọi đó là một thất bại lương tâm (moral failure)
Từ chối chỉ trích và lên án mạnh mẽ những bắt bớ và đàn áp hung bạo của nhà nước cộng sản, đối với những công dân Việt Nam ôn hòa, phần nào thể hiện sự sa sút đạo đức và lương tâm.
Người viết sẽ dẫn chứng 4 sự kiện gần đây nhất, để chứng minh sự thất bại lương tâm (moral failure) của những nhà lãnh đạo trong các tổ chức tầm cỡ, để người đọc thôi dựa vào phương Tây mang Dân chủ đến cho Việt Nam
1. Viện Di Sản (The Heritage Foundation)
31/5/2017, trong chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Viện Di Sản (Heritage Foundation) có mời ông Phúc đến đọc diễn văn vào buổi chiều cùng ngày. Viện Di Sản là một tổ chức lớn, gồm những chuyên gia cố vấn (think tank) có tầm ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình hoạch định và thực thi chính sách của Hoa Kỳ. Trong buổi nói chuyện của ông Phúc tại Viện Di Sản, bà Nguyễn Thị Ngọc Giao, thành viên của Voice of Vietnamese Americans (Tiếng Nói Người Mỹ gốc Việt), là khách mời, nhưng đã bị đuổi ra khỏi hội trường,trước khi ông Phúc đọc diễn văn,vì sức ép của Hà Nội. Bà Giao kể lại sự việc với người viết trong nỗi thất vọng và tức giận, bởi bà đã rất ôn hòa và không hề có một hành động nguy hiểm, hoặc khiêu khích nào khiến cho nhà cầm quyền phải lo sợ. Phóng viên Hoàng Long của đài tiếng nói Hoa Kì VOA đã tường thuật lại sự việc :
"Bà Giao nói khi bà cố gắng giải thích bà có tên trên danh sách khách mời và được cấp thẻ khách mời, các nhân viên an ninh của phái đoàn Việt Nam khăng khăng đòi bà trả lại thẻ này trong khi nhân viên an ninh của Quỹ Di sản hối thúc bà chấp hành yêu cầu đó.Quỹ Di sản không hồi đáp những email và cuộc gọi điện thoại của đài tiếng nói Hoa Kì VOA hỏi về sự việc. VOA đến tận nơi để tìm gặp nhân viên an ninh áp tải bà Giao ra khỏi tòa nhà. Người này xưng tên là Robert Fisher và từ chối bình luận. Sau đó, cấp trên của ông Fisher cũng bước ra trao đổi với VOA. Ông này cũng từ chối bình luận và đề nghị VOA chuyển những câu hỏi sang bộ phận báo chí của Quỹ Di sản".
Người viết có mặt tại cổng ra vào của Viện Di Sản vào thời điểm chị Giao bị đuổi ra khỏi tòa nhà và chứng kiến nhân viên an ninh, Robert Fisher, một cách gay gắt ép chị Giao ra khỏi đó. Ngay sau khi sự việc xảy ra, người viết cũng đã email trực tiếp cho Phó Giám đốc (Vice President) và bộ phận chí của Viện Di Sản để yêu cầu hồi đáp vì sao họ lại đi ngược lại những giá trị dân chủ và tự do mà họ đang đại diện. Tuy nhiên, cho đến này người viết vẫn không nhận được bất kì hồi đáp nào từ họ.
2. Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS)
11/7/2017, Greg Rushford, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng và trang Rushford Report, có tiết lộ những thông tin tuyệt mật về nhà cầm quyền Hà Nội, đã dùng tiền để chi phối hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), vốn là một trong những trung tâm nghiên cứu hàng đầu, gồm các chuyên gia cố vấn (think tank) uy tín của Hoa Kì hơn 50 năm qua. Vài chi tiết đáng chú ý của bản báo cáo :
"Kể từ năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã tặng CSIS hơn $450.000 để tổ chức các buổi hội thảo hàng năm về biển Đông. Qua nhiều năm, CSIS đã tăng thêm $55.000 từ tài khoản nội bộ của nhóm chuyên gia này, nguồn của nó không được xác định trong tài liệu mà tôi được cho xem".
"Trên hết mọi thứ, chính phủ Việt Nam muốn giới ưu tú trong chính sách đối ngoại ở Washington không để mắt tới các vi phạm thô bạo về nhân quyền của Hà Nội. Đảng Cộng sản xem sự tồn tại của chính họ là phụ thuộc vào khả năng tiếp tục đàn áp ngay cả người bất đồng chính kiến ôn hòa".
("How Hanoi’s Hidden Hand Helps Shape a Think Tank’s Agenda in Washington, Greg Rushford, Rushford Report, 11/7/2017).
Chính quyền Việt Nam đã dùng rất nhiều tiền để mua hợp tác ngoại giao từ những tổ chức có ảnh hưởng lớn ở Washington. Và quan trọng hơn, các tổ chức tầm cỡ đóđã thể hiện rằng, sự im lặng của họ trước những vi phạm nhân quyền, có thể được mua bằng tiền.
3. Tập đoàn vận Động hành lang Podesta (The Podesta Group)
Tập đoàn Podesta, một cơ quan vận động hành lang quyền lực ở D.C., có quan hệ chặt chẽ với Hilary Clinton and các nhà sản xuất quốc phòng, cũng nhận tiền của chính quyền Việt Nam. Nhóm này đã vận động gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, trợ giúp Việt Nam tham gia Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), và chuyến viếng thăm Hà Nội của Tổng thống Obama. Hồ sơ đăng kí của Bộ Tư Pháp Hoa Kì (Foreign Agents Registration Act) cho thấy, chính phủ Việt Nam đã chi cho tập đoàn Podesta mỗi tháng 30.000 USD (khoảng 670 triệu VND), kể từ ngày 2 tháng 12 năm 2013, đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, với tổng số tiền là khoảng 1,08 triệu USD, để vận động lập pháp và hành pháp của Hoa Kì.
Nhiều nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam cũng đã từng hy vọng, Tổng thống Obama trong chuyến thăm Hà Nội, sẽ lên tiếng chỉ trích những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của chính quyền. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra vì Hà Nội đã mua được sự im lặng và thỏa hiệp ngay cả của Obama.
Thứ Hai, 23 tháng 5, trong phát biểu đầu tiên tại Việt Nam, ông đã không chỉ trích những vi phạm nhân quyền của chính phủ, thay vào đó ca ngợi "tiến bộ khiêm tốn ở một số lĩnh vực mà cả hai bên xác định là mối quan tâm" và lưu ý rằng nhân quyền là "một vấn đề mà cả hai chính phủ không đồng thuận".
Vào ngày thứ Ba, Obama dự kiến gặp gỡ các nhà hoạt động nhân quyền, nhưng chính phủ đã bắt giữ và ngăn chặn phần lớn các nhà hoạt động được mời đến gặp ông. Và Obama cũng không thể hiện sự giận dữ bằng cách chấm dứt cuộc gặp gỡ để phản đối hành động đạo tặc của chính phủ Việt Nam. Ông vẫn xem như không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra bởi đã được vận động hành lang từ tập đoàn Podesta.
("From Team Hillary to Vietnam Lobbyist", Besty Woodruf, The Daily Beast, 5/25/2016)
4. Nguyên thủ quốc gia của các nước dân chủ
5/2016, Tổng thống Hoa Kì Obama đã im lặng về nhân quyền, cải cách dân chủ, và gỡ bỏ lệnh cấm vũ khí sát thương cho Việt Nam.
5/2017, Tổng thống Hoa Kì Donald Trump, được mong chờ là sẽ mạnh mẽ hơn người tiền nhiệm, lên tiếng chỉ trích những vi phạm nhân quyền của Hà Nội trong buổi gặp gỡ với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Nhưng, Trump cũng đã im thin thít.
13/3/2107, Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo), người được trao giải Noel Hòa Bình qua đời trong khi đang chịu bản án 11 năm tù vì kêu gọi dân chủ ở Trung Quốc. Chỉ vài tuần trước khi ông Lưu qua đời, các nhà chức trách Trung Quốc đã từ chối yêu cầu điều trị căn bệnh ung thư cho ông ở nước ngoài, trong khi vợ ông vẫn bị quản thúc tại gia.
Việc đối xử tồi tệ và tàn ác đối với các nhà bất đồng chính kiến ở Trung Quốc là chuyện vẫn thường thấy ở những nước độc tài cộng sản : Việt Nam, Cuba, và Bắc Hàn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo phương Tây cũng chỉ đưa ra một vài tuyên bố ngoại giao rất thận trọng và cho có lệ.
Trong lúc những người yêu chuộng dân chủ và nhân quyền đang khóc thương cho sự ra đi đột ngột của ông Lưu, thì tổng thống Trump (Hoa Kì) và tổng thống Macron (Pháp) đã không hề nhắc đến cái chết oan khuất của ông Lưu trong cuộc gặp gỡ giữa hai nhà lãnh đạo cấp cao. Thay vào đó, cả Trump lẫn Macron đồng thanh ca ngợi nhà lãnh đạo Tập Cận Bình của đảng cộng sản Trung Quốc.
Trump hào hứng nói : "Ông Tập là một người tài năng và tốt bụng. Ông ấy rất yêu nước Trung Quốc. Ống ấy luôn muốn dành những gì tốt đẹp nhất cho Trung Quốc".
Macron cũng thể hiện sự tôn trọng và kết luận rằng : "Hiện nay, ông Tập là một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất thế giới".
Chris Patten, hiệu trưởng của trường Đại học Oxford, chia sẽ trên Project Syndicate vào 24/7/2017 :
"Tôi chỉ có thể tự hỏi có bao nhiêu nhà lãnh đạo phương Tây trong những năm gần đây đã nêu trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba với nhà cầm quyền Trung Quốc ? Cơ hội chắc chắn là rất nhiều, bao gồm cuộc họp thượng đỉnh G20 gần đây nhất, khi mà ông Lưu đang nằm trên giường bệnh... Trung Quốc đã tức giận, tìm cách gây hại cho Na Uy khi ông Lưu được đề cử giải Nobel Hòa Bình năm 2010, thì phương Tây đã không biểu lộ sự tức giận hoặc thể hiện tình đoàn kết thực sự đối với một đồng minh của NATO".
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, việc thúc đẩy dân chủ toàn cầu của Hoa Kì dường như được thay thế bằng chính sách ngoại giao của an ninh quốc gia và lợi ích kinh tế.
Trong những năm gần đây, khuyến khích những giá trị tốt đẹp của dân chủ không còn là ưu tiên hàng đầu đối với phần lớn các nhà lãnh đạo và công luận Hoa Kì. Có lẽ vì thế, các nhà nước độc tài đang vui mừng trước thay đổi hết sức đáng ngại về chính sách ngoại giao của Hoa Kì.
Thay lời kết
Greg Rushford đã kết luận : "Từ chối lên tiếng khi những công dân Việt Nam dũng cảm bị bắt giam chỉ đơn giản vì họ thực hiện những quyền phổ quát đến quyền tự do ngôn luận, chắc chắn là một suy sụp về đạo đức".
( "To refuse to speak out when courageous Vietnamese citizens are imprisoned merely for peaceable exercising their universal rights to free speech is surely a moral failure").
Và như bạn đọc đã thấy trong dẫn chứng kể trên, nhiều tổ chức quốc tế tầm vóc nói riêng và các nước phương Tây nói chung, đã chọn thỏa hiệp "đi đêm" với nhà nước cộng sản. Họ phớt lờ những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền của để đổi lấy hợp tác thương mại có lợi. Chính vì thế, những cá nhân và đoàn thểđấu tranh Dân chủ cho Việt Nam nên từ bỏ thái độ ỷ lại và dựa dẫm vào phương Tây. Đừng mong đợi bất kì tổ chức nước ngoài hoặc quốc gia sẽ mang đến dân chủ cho Việt Nam.
Dân chủ và tự do phải đấu tranh mới có. Dân chủ hóa Việt Nam trên hết phải là trách nhiệm của người dân Việt Nam ; trách nhiệm lớn nhất vẫn là giới trẻ và trí thức tinh hoa.
Quan trọng hơn, những anh chị em đấu tranh cần ý thức rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân, mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức để đẩy phong trào dân chủ sang một bước tiến mới hiệu quả hơn, đi đến thắng lợi cuối cùng là mang lại Dân chủ và Đa nguyên cho Việt Nam.
Sự tồn vong và cường thịnh của Tổ Quốc là trách nhiệm của mỗi người dân, không phải là độc quyền của một chế độ, đoàn thể, hay tổ chức nào. Những thử thách và chướng ngại dân chủ hóa đất nước là rất lớn.
Tuy nhiên, chúng ta, những con người của tự do, sẽ giành được thắng lợi khi chúng ta học cách làm việc chung với nhau, dựa trên tư tưởng và đồng thuận chungcủa tổ chức.
Muốn sớm có dân chủ, thì phải liên kết lại với nhau, để trở thành đối trọng của đảng cộng sản, yêu sách dân chủ và bầu cử tự do, thay vì mong chờ và dựa dẫm sự giúp đỡ của quốc tế.
"God helps those who help themselves".
(11/08/2017)
Mai V. Pham
Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
"Đa Nguyên – Bất Bạo Động – Hòa Giải & Hòa Hợp Dân Tộc"
Tham khảo :
https://www.voatiengviet.com/a/khach-moi-dot-ngot-bi-duoi-khoi-su-kien-co-thu-tuong-phuc-vi-moi-nguy-an-ninh/3888532.html
http://rushfordreport.com/ ?page_id=6
http://www.cnbc.com/2017/07/13/trump-praises-xi-soon-after-death-of-chinese-dissident.html
https://www.project-syndicate.org/commentary/western-tolerance-illiberal-democracy-by-chris-patten-2017-07
http://www.thedailybeast.com/from-team-hillary-to-vietnam-lobbyist
http://www.politico.com/story/2016/05/obama-lifts-vietnam-arms-embargo-223463
https://www.nytimes.com/2017/05/31/world/asia/vietnam-nguyen-xuan-phuc-trump.html
http://www.pewresearch.org/fact-tank/2013/12/04/americans-put-low-priority-on-promoting-democracy-abroad/
Một nhận xét khá phổ biến của nhiều người về tiến trình dân chủ của Việt Nam như sau : "Dân trí Việt Nam còn thấp, do đó, dân chủ không thích hợp với Việt Nam". Để phân tích sự đúng, sai của nhận định này, trước hết cần hiểu thế nào là "dân trí" ?
Dân chủ mang lại niềm tin, sức sống và mở ra một chân trời mới
"Trí" chỉ khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy đoán... thuộc trí tuệ gắn liền với mỗi người. Dân trí là khái niệm chỉ về trình độ nhận thức, mặt bằng văn hóa chung của cộng đồng, hoặc là trình độ học vấn trung bình của người dân. Hiểu một cách rộng hơn, dân trí cũng là sự hiểu biết và ý thức về quyền và trách nhiệm của người dân.
Vậy dân trí của Việt Nam cao hay thấp ? Hãy cùng xét qua vài chỉ tiêu quan trọng sau đây :
- Tính đến năm 2016, Việt Nam có 412 trường Đại học và Cao đẳng ; nghĩa là bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường Đại học và Cao đẳng (1).
- Số giảng viên đại học là gần 92.000 người, trong đó có 4.155 giáo sư và phó giáo sư. Mỗi năm, có hơn 400.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số 95 triệu dân, cao hơn cả các quốc gia phát triển (1).
- Chỉ số phát triển con người(Human Development Index - HDI) của Liên Hợp Quốc vào năm 2016, Việt Nam thuộc nhóm "Medium Human Development" (Phát triển trung bình), xếp hạng 115/188, cao hơn cả Ấn Độ, Myanmar và Phillipines (2).
Chỉ số phát triển con người(HDI) được đánh giá qua 3 tiêu chí :
1. Sức khỏe : đo bằng tuổi thọ trung bình ;
2. Tri thức : đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học ở các cấp giáo dục.
Chỉ số tri thức (giáo dục), được biểu hiện qua 2 chỉ số chi tiết : tổng số năm đi học được kỳ vọng và tổng số năm đi học trung bình của mỗi người dân. Cả 2 chỉ số này của Việt Nam đã tăng một cách đáng kể so với nhiều nước trên thế giới.
3. Mức thu nhập : đo bằng GDP bình quân đầu người.
Rõ ràng, nếu đánh giá dân trí của Việt Nam dựa trên trình độ học vấn, giáo dục và chỉ số phát triển con người (Human Development Index), thì dân trí của Việt Nam ở trên mức trung bình. Do đó, nhận định "dân trí Việt Nam còn thấp nên chế độ độc tài toàn trị là thích hợp" là một ngụy biện và nhận định sai lầm.
Cũng có ý kiến cho rằng Việt Nam cần một nhà độc tài kiểu Park Chung-hee hay Lý Quang Diệu, bởi nhờ sự độc tài của họ mà Hàn Quốc và Singapore đã có thịnh vượn. Trong thực tế, "không thể có những chế độ độc tài sáng suốt bởi vì nền tảng của mọi chế độ độc tài là sự kiêu căng bệnh hoạn của một người hay một nhóm người tự nghĩ rằng họ đủ thông minh để suy nghĩ thay cho cả một dân tộc". Vì thế, một lần nữa phải khẳng định rằng, nhận định này là một ngụy biện, hoặc ít nhất cũng là sự ngộ nhận do thiếu hiểu biết.
Trong suốt hơn 5000 năm tồn tại, loài người đã sống và trải nghiệm mặt tốt và xấu của ít nhất 5 thể chế chính trị, hàng chục triệu người đã phải đổ máu… để có kết luận rằng dân chủ không phải là một thể chế chính trị tuyệt hảo, nhưng là một giải pháp chính trị ít tệ hại nhất. Dân chủ không phải là một phép màu kì diệu mang đến sự giàu có ngay lập tức, nhưng "dân chủ là một phong cách sinh hoạt cho phép đặt các vấn đề một cách đúng đắn và chọn lựa những người có trách nhiệm" (3).
"In a democracy, there will be more complaints but less crisis, in a dictatorship more silence but much more suffering".
"Ở một chế độ dân chủ, sẽ có nhiều than phiền, chỉ trích, nhưng ít khủng hoảng ; Ở một chế độ độc tài, sẽ có nhiều sự thinh lặng, nhưng lại rất nhiều đau khổ".
Chính vì thế, cho rằng "dân chủ không thích hợp với Việt Nam vì dân trí thấp" là một sự ngụy biện và nhận định sai lầm, bởi dân chủ không phải là một hệ quả của sự vận động xã hội mà dân chủ là một quyền cơ bản nhất của con người. Một nền dân chủ thực sự sẽ là nền tảng vững chắc mang đến cho người dân những giá trị cơ bản : công lý, tự do và nhân quyền. Nếu nói rằng một đất nước phải có dân trí cao thì dân chủ mới hình thành và phát triển được, như vậy phải giải thích như thế nào khi đế quốc La Mã có một nền dân chủ hơn hẳn Ai Cập, là nước đã phát triển trước họ cả ngàn năm ? Vì thế, không nên ngụy biện hay viện cớ ý thức dân chủ của người Việt Nam còn kém, lòng người còn chia rẻ… để cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với Việt Nam.
"Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn. Chúng ta cần chứng minh rằng dân chủ là điều kiện căn bản để bảo đảm không có hỗn loạn, là phương thức sinh hoạt cho phép xã hội tiến hóa và đổi mới không ngừng trong trật tự".
"Chúng ta phải bẻ gẫy lập luận cho rằng xã hội phương Đông khác với xã hội phương Tây, và do đó không thể chấp nhận những giá trị của phương Tây như tự do cá nhân, dân chủ và nhân quyền. Tự do, dân chủ và nhân quyền là những giá trị phổ cập của cả loài người, không riêng gì của phương Tây. Các giá trị đó có mặt trong mọi nền văn minh, kể cả tại Việt Nam" (3).
Đất nước và dân tộc Việt Nam đang bị đặt dưới ách cai trị độc tài toàn trị của chế độ cộng sản. Để duy trì ách độc tài, đảng cộng sản đã tận dụng chính sách ngu dân, mị dân trong khi nhân dân mới chính là sức mạnh và tiềm năng của một quốc gia. Do đó, sự lụn bại ở mọi góc cạnh của đất nước từ văn hóa, giáo dục, xã hội, môi trường đến dân trí, tình cảm, đạo đức… đều là hệ quả của chế độ độc tài toàn trị.
"Ách độc tài toàn trị và bị từ chối những quyền con người cơ bản, như quyền tự do ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử, kể cả quyền sở hữu đất. Hàng triệu dân oan bị cướp đoạt đất sống lây lất trong uất hận. Đồng thời tài nguyên quý nhất của quốc gia là con người cũng bị xuống cấp một cách thê thảm. Sức khỏe của nhân dân suy nhược vì thiếu dinh dưỡng, thuốc men và chăm sóc. Các chứng bệnh truyền nhiễm nguy hiểm lan tràn một cách báo động mà không có biện pháp ngăn chặn. Thanh thiếu niên bỏ học hàng loạt. Trí tuệ dân tộc suy giảm nặng với sự xuống cấp bi đát của hệ thống giáo dục. Tệ nghiện hút, mại dâm, trộm cướp ngày càng gia tăng. Cuộc sống khó khan trong một xã hội băng hoại làm con người càng ngày càng rời xa các giá trị căn bản phải có của mọi quốc gia : đạo đức, lương thiện, thật thà, cần cù, kỷ luật, v.v. Dối trá, lừa đảo, thô lỗ trở thành thông thường trong quan hệ xã hội" (3).
Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai - Chương 1 : Nhiệm Vụ Lịch Sử
Chế độ độc tài toàn trị đã khiến cho đất Mẹ Việt Nam ngày càng hoang tàn, đổ nát, và phần lớn con dân phải sống trong cơ cực. Bản chất của người Việt vốn cần cù, dễ tiếp thu, và chịu khó. Sự thành công của nhiều người Việt hải ngoại là một minh chứng về khả năng thích nghi và thông minh vốn có của người Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đau buồn là, trong khi 3/4 dân tộc trên thế giới đã có dân chủ, thì chúng ta vẫn phải cam go yêu sách đòi dân chủ. Chính vì thế, ngụy biện đầy bịp bợm rằng "dân trí còn thấp nên dân chủ không thích hợp ở Việt Nam" cần phải bị lên án và loại bỏ.
Dân chủ không phải là một "chiếc đũa thần kì" có thể ngay lập tức biến một nước nghèo khổ thành phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, dân Chủ và cụ thể là dân chủ đa nguyên, là một phương thức tổ chức xã hội hiệu quả nhất. Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia cường thịnh và tôn trọng nhân quyền nếu lấy dân chủ đa nguyên làm nền tảng, để rồi tổng động viên mọi trái tim, mọi khối óc và mọi bàn tay trong sự nghiệp xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, sung túc và thanh bình.
Có thể nói, mức độ dân chủ quyết định sự cường thịnh của một quốc gia. Dân chủ càng cao, người dân càng có nhiều cơ hội sống trong công bằng, bao dung, tự do và nhân quyền, đặc biệt là quyền phát huy ý kiến và sáng kiến.
"Bài học lớn nhất của lịch sử thế giới là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần ba yếu tố : một xã hội tự do, những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc. Chúng ta là một dân tộc cần mẫn đã có đồng thuận dân tộc và sắp có tự do. Chúng ta sẽ vươn lên. Chúng ta có quyền lạc quan trong cuộc hành trình về tương lai" (3).
Sẽ không có một giải pháp nào tốt đẹp hơn cho dân tộc Việt Nam nếu chế độ độc tài cộng sản còn tồn tại. Chỉ có loại bỏ chế độ độc tài cộng sản bất nhân và hung bạo để chào đón dân chủ đa nguyên, dân tộc Việt Nam mới có cơ hội tiếp cận thật sự với tự do, công bằng và nhân quyền.
"Thử thách trước mặt chúng ta tuy rất lớn, nhưng hy vọng thôi thúc chúng ta còn lớn hơn bởi vì cuộc chiến đấu này không chỉ xứng đáng và vinh quang mà còn tất thắng. Chúng ta được chuyên chở và thúc đẩy bởi cả một làn sóng dân chủ toàn cầu và bởi nguyện ước chung của một dân tộc đã dần dần hồi phục sau những thương tích. Chúng ta đang được tiếp viện của cả một thế hệ mới đã tự khai phóng và quyết tâm làm những con người tự do. Đằng sau những trở ngại là cả một tương lai rực sáng" (3).
Mai V. Pham
Thành viên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
(30/06/2017)
Nguồn :
(2) http://hdr.undp.org/en/composite/HDI
(3) https://www.thongluan-rdp.org/thdcdn/item/602-khai-sang-k-nguyen-th-hai
Có một "trào lưu" đã qua đi trong phong trào dân chủ Việt Nam chủ yếu xuất phát từ những cán bộ lão thành cách mạng, hay những người muốn thay đổi từ "bên trong" nội bộ đảng cộng sản đó là viết thư ngỏ và kiến nghị gửi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội 12 vừa qua chúng ta không còn thấy ai "kiến nghị" hay góp ý gì nữa.
Biểu tượng của -Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
Có lẽ lý do chính khiến họ không viết các loại thư ngỏ và kiến nghị nữa là vì chính quyền chẳng ai thèm nghe hoặc trả lời họ chứ không hẳn vì họ mất niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Với những người theo chủ trương này thì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể tạo ra được sự "thay đổi" cho Việt Nam. Ngoài ra họ không thấy ai hoặc tổ chức nào có khả năng đó.
Có thể trong tương lai những người thuộc trường phái "thư ngỏ và kiến nghị" sẽ tiếp tục viết "kiến nghị và thư ngỏ", đối tượng được gửi lần này sẽ là "nhân dân Việt Nam". Vậy "nhân dân Việt Nam" là ai ? Và liệu "nhân dân Việt Nam" có ủng hộ họ không ? Rất dễ dàng thấy rằng khái niệm "Nhân dân Việt Nam" rất mông lung và trừu tượng. Hơn nữa những người theo trường phái này không hiểu gì về "nhân dân". Trong 90 triệu người Việt Nam có mấy phần trăm thực sự quan tâm đến đất nước ? Bao nhiêu phần trăm sẵn sàng dấn thân vì dân chủ ? Họ không biết ba đặc tính cơ bản của người dân đó là "người dân không lãng mạn, không kiên nhẫn và thực dụng (sẵn sàng luồn lách để được việc)".
Tất cả các cuộc cách mạng đổi đời từ trước đến nay, kể cả với Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải do trí thức khởi xướng. Các lãnh đạo tiền bối của đảng như Hà Huy Tập, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh…đều là con nhà gia giáo và được ăn học tử tế. Trí thức cộng sản chỉ hết thời khi cách mạng thành công.
Trong suốt dòng lịch sử, người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng được một tổ chức chính trị đúng nghĩa, tức là một tổ chức có "tư tưởng chính trị" và một "đội ngũ chính trị". Từ Đảng Cộng sản Việt Nam đến Việt Nam Quốc dân Đảng hay những tổ chức sau này đều là những tổ chức chính trị xây dựng thuần túy dựa trên bạo lực và vọng ngoại.
Di sản của lịch sử và văn hóa Khổng giáo đè nặng lên hình hài đất nước và tâm hồn người trí thức Việt Nam. Trí thức Việt Nam vẫn chưa hiểu thế nào là chính trị, hoạt động chính trị và đấu tranh chính trị. Đã bước sang năm thứ 17 của thế kỷ 21 nhưng trí thức Việt Nam vẫn loay hoay không biết làm gì để Việt Nam sớm có dân chủ. Họ vẫn chưa tham gia hay ủng hộ cho bất cứ một tổ chức chính trị nào để góp phần làm cho tổ chức đó trở nên có tầm vóc để có thể làm đối trọng và làm giải pháp thay thế cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trí thức Việt Nam vẫn chưa hiểu rằng đấu tranh chính trị luôn luôn là đấu tranh có tổ chức. Một người ưu tư với đất nước, hoặc phải tham gia vào một tổ chức chính trị đã có sẵn hoặc phải tạo ra một tổ chức mới. Và một tổ chức chính trị thực sự thì phải có "tư tưởng chính trị" và một "đội ngũ chính trị". Đấu tranh chính trị ôn hòa, bất bạo động và dân chủ là đấu tranh trên mặt trận tư tưởng và lý luận chứ không phải đấu tranh bằng những "hành động" phô trương và gây thanh thế khi chưa có thực lực.
Trí thức Việt Nam vẫn chưa cho rằng Viết, Nói, Lý Luận và Thuyết Phục quần chúng cũng là Hành Động và là Hành Động quan trọng nhất trong kỷ nguyên của thông tin và truyền thông.
Trí thức thay vì phải đi trước và dẫn đường cho dân chúng thì lại luôn chạy theo các sự kiện và dư luận.
Trí thức Việt Nam chưa hiểu rằng nếu chúng ta không đoàn kết và đứng cùng nhau trong một tổ chức thì làm sao chúng ta có thể thuyết phục được người dân đoàn kết và đoàn kết với ai ? Thậm chí có những "trí thức" không muốn đứng vào một tổ chức nào vì sợ mất đi "sự ủng hộ" của một số người dân.
Trí thức Việt Nam vẫn chưa hiểu rằng "vận động quần chúng" và kêu gọi quần chúng đứng dậy… luôn luôn là giai đoạn cuối cùng của mọi cuộc cách mạng chứ không phải giai đoạn đầu tiên và duy nhất. Người dân làm sao có thể ủng hộ một tổ chức non trẻ, thiếu thống nhất và đoàn kết, một tổ chức không có cương lĩnh chính trị hay dự án chính trị, một tổ chức không có đội ngũ cán bộ chính trị ?
Xây dựng một cương lĩnh chính trị (tư tưởng chính trị) và một đội ngũ chính trị là hai công việc khó khăn và chiếm nhiều thời gian nhất của bất cứ một tổ chức chính trị nào nhưng đây là những giai đoạn không thể không làm, không thể tiết kiệm và tránh né. Chính vì khó khăn và mất thời gian nên đa số các tổ chức đều bỏ qua giai đoạn này.
Không có một tư tưởng chính trị để làm kim chỉ nam cho các hoạt động của tổ chức thì không sớm thì muốn tổ chức đó cũng mất phương hướng và tan vỡ. Không có một đội ngũ cán bộ chính trị nắm vững tư tưởng và đường lối của tổ chức thì không thể động viên được quần chúng và nếu có thời cơ cũng không có người để làm việc.
Một bài học lịch sử mà trí thức Việt Nam không chịu nhớ đó là trường hợp của Đảng Việt Quốc (Việt Nam Quốc Dân Đảng) và Việt Cách (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội) là hai tổ chức chống Pháp ra đời trước cả Đảng Cộng sản Việt Nam, trong cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên năm 1946 hai đảng này từng được Việt Minh "cho không" 70 ghế đại biểu quốc hội nhưng rồi số phận họ ra sao thì ai cũng rõ. Tất cả đã bị Việt Minh tiêu diệt và truy sát. Lý do chính dẫn đến bi kịch của họ là do họ không có lực lượng, không có tổ chức và không có đội ngũ cán bộ… và vì thế không có được sự hậu thuẫn của quần chúng.
Dân chủ và tự do không thể van xin, năn nỉ chính quyền mà chỉ có thể đòi lấy. Nhưng đòi bằng cách nào ?
Câu trả lời chỉ có một : Phải có lực lượng. Một tổ chức muốn có lực lượng và nhận được ủng hộ của quần chúng thì phải đi quan năm giai đoạn như chúng tôi đã đề nghị trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai :
Có ý kiến cho rằng tại sao Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nói hay vậy mà vẫn chưa thuyết phục được trí thức Việt Nam và vẫn chưa thành công ? Chúng tôi không hề bao biện cho mình nhưng thật sự là đã có tổ chức chính trị nào của người Việt Nam làm được gì đâu ? Tất nhiên nếu trí thức Việt Nam không ủng hộ chúng tôi thì chúng tôi không thể thành công. Chúng tôi chỉ thuyết phục chứ không áp đặt vì lập trường tranh đấu của chúng tôi là bất bạo động. Chúng tôi vẫn cố gắng một cách bền bỉ với tinh thần bao dung trong việc thuyết phục trí thức Việt Nam. Chúng tôi cho rằng phải thuyết phục được trí thức Việt Nam trước và thông qua trí thức Việt Nam thì sẽ thuyết phục được quần chúng Việt Nam.
Một Dự Án Chính Trị (cương lĩnh chính trị) dù đơn giản và rõ ràng đến đâu đi nữa, ví dụ như tài liệu Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên thì cũng không phải người dân nào đọc cũng hiểu. Muốn hay không thì trí thức Việt Nam phải "kiểm định" trước và nếu nó đúng (dù chỉ khoảng 60-70%) thì trí thức Việt Nam cần lên tiếng và ủng hộ nó. Ngay cả Kinh Thánh và Kinh Phật là dành riêng cho quần chúng nhưng cũng cần đến hàng vạn giáo sĩ truyền bá và giải thích suốt hơn 2000 năm qua và vẫn đang tiếp tục.
Phong trào dân chủ Việt Nam không yếu vì chúng ta có lẽ phải và chính nghĩa. Tuy nhiên nếu chúng ta không biết cách tranh đấu thì cũng sẽ không mang lại kết quả.
Một thân hữu trẻ vừa gửi cho chúng tôi một bản Thỉnh nguyện thư (kiểu thư ngỏ) gửi Đảng Cộng sản Việt Nam, quốc hội Việt Nam, "người dân Việt Nam" và "mọi người trên thế giới" ủng hộ để "yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam mở một cuộc trưng cầu dân ý về bầu cử tự do và đa đảng cho Việt Nam". Nhóm bạn trẻ muốn Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên tham gia ký tên vào kiến nghị đó. Dù rất quí mến sự nhiệt tình của các bạn trẻ nhưng chúng tôi cũng phải từ chối. Chúng tôi đã gửi cho các bạn trẻ bài viết "Quyền Con Người" của ông Nguyễn Gia Kiểng với hy vọng các bạn trẻ hiểu vì sao có những cái mà chúng ta phải đòi chứ không thể xin xỏ. Chúng tôi xin trích một đoạn trong bài viết :
"Một cách tóm lược ta có thể phân biệt hai loại quyền : những "quyền không bị" (freedoms from/droits-libertés) và những "quyền được có" (freedoms to/droits-créances).
Những quyền không bị là những quyền căn bản tối thiểu : không bị xâm phạm tới cơ thể, gia đình, tài sản ; không bị cấm đoán phát biểu lập trường, thu nhận và phổ biến thông tin ; không bị cấm cản thành lập và tham gia các tổ chức, ứng cử và bầu cử, v.v. Những quyền này qui định một không gian cá nhân mà nhà nước hay bất cứ ai không thể xâm phạm. Đó là những quyền tự do căn bản.
Những quyền được có là những gì cá nhân có thể đòi hỏi ở cộng đồng, đặc biệt là nhà nước, thí dụ như quyền được có một lợi tức bảo đảm một mức sống xứng đáng về thực phẩm, sức khỏe, nhà ở ; được hưởng giáo dục miễn phí, được trợ cấp sinh đẻ và nuôi con, được có công ăn việc làm và được hưởng một số ngày nghỉ có trả lương, v.v. (những điều 23, 24, 25 và 26 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền).
Quyền thuộc về luật và vì thế nó phải thẳng thắn, nó không thể chấp nhận thỏa hiệp trên những điểm cơ bản, nếu không nó không còn là quyền. Quyền luôn luôn đối nghịch với thực tại ; nhân danh thực tại để hy sinh quyền là một thái độ đầu hàng hèn nhát ; quyền đòi hỏi nhìn thực tại với con mắt của con người chứ không chấp nhận để nhìn con người từ thực tại ; sự phản kháng là cốt lõi của quyền. Quyền cũng không thể chấp nhận sự vô lý ; nó là thành quả của trí tuệ và nó không thể tách ra khỏi sự hợp lý vì trí tuệ là nền tảng chính đáng của nó. Những gì đúng với khái niệm quyền lại càng đúng với quyền con người bởi vì đó là những quyền bắt buộc nhất. Trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền, cũng là tranh đấu cho dân chủ, lập trường đúng nhất là không nhân nhượng, đòi hỏi thực hiện tức khắc và trọn vẹn các quyền tự do cơ bản. Đừng sợ rơi vào bẫy giáo điều, quyền con người chỉ là qui luật tự nhiên của sự sống".
Một chia sẻ chân tình gửi đến các bạn trẻ muốn dấn thân để mang lại sự thay đổi cho Việt Nam là hãy cố gắng tìm hiểu và học hỏi về các khái niệm chính trị (lý thuyết) trước khi bắt tay vào "hành động". Hành động có ý nghĩa nhất là kết hợp lại với nhau thành những nhóm nhỏ và trao đổi thẳng thắn với nhau về mọi vấn đề của đất nước và cố gắng đạt tới một đồng thuận chung.
Khi nào các trí thức chính trị trẻ Việt Nam tạo được đồng thuận và chấp nhận đứng vào một tổ chức chính trị thì khi đó Việt Nam sẽ có dân chủ.
Việt Hoàng (05/02/2017)