Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Published in

Tư liệu

17/01/2017

TQĂN - Phần Bốn - Vài trang bị cho tương lai - 2

Nguyễn Gia Kiểng

Nguyên bản (PDF)

Tổ Quốc Ăn Năn

 

 

Phần Bốn - 2

 

Những lập luận phản bác ?

 

 

4-tqan19

Các chế độ độc tài không phải chỉ đã viện dẫn những "thí dụ cụ thể" để lập luận rằng dân chủ không có lợi cho cố gắng phát triển. Họ cũng đã điều động những học giả, kể cả những học giả có tên tuổi, để xây dựng cả một học thuyết. Trong hầu hết mọi trường hợp uy tín của các học giả này chính là nhờ họ đã được các chế độ độc tài đề cao. Tuy vậy, cũng có những học giả vô tư, thực sự tin rằng dân chủ mâu thuẫn với phát triển. Trong một phần sau tôi sẽ trình bày lý do tại sao những người rất uyên thâm và xuất sắc cũng có thể sai lầm lớn trên những vấn đề thực ra khá giản dị.

Lý thuyết về mâu thuẫn giữa dân chủ và phát triển có lúc đã rất thời thượng, đến nỗi phần đông các học giả bênh vực dân chủ cũng chỉ dám biện hộ rằng dân chủ không có hại gì cho phát triển.

Tôi xin tóm tắt sau đây toàn bộ những lập luận của phe chủ trương dân chủ không có lợi cho phát triển. Công việc này đã làm mất khá nhiều thời giờ, nhưng đó là việc phải làm để giải quyết một lần cho tất cả những lấn cấn về quan hệ giữa dân chủ và phát triển.

Nói một cách tổng quát, phe phản bác dân chủ đưa ra ba lập luận cùng với những nghiên cứu thống kê về các nước đang phát triển.

Lập luận thứ nhất là các chính quyền dân chủ, vì lệ thuộc vào lá phiếu của cử tri, không dám thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để áp đặt tiết kiệm dùng cho đầu tư. Làm như thế họ sẽ bị cử tri trừng phạt trong lần bầu cử tới. Các chính quyền dân chủ vì vậy bắt buộc phải, một mặt, dành một phần lớn ngân sách cho các vấn đề xã hội thay vì tập trung tài nguyên cho phát triển và, mặt khác, nâng đỡ các kỹ nghệ tiêu dùng thay vì đặt ưu tiên vào những kỹ nghệ nền tảng cho phát triển (đây là một điệp khúc của lý thuyết những kỹ nghệ kỹ nghệ hóa).

Lập luận thứ hai là thế giới cạnh tranh gay gắt hiện nay ["hiện nay" ở đây có nghĩa là các thập niên 1960 và 1970 và những năm đầu của thập niên 1980] khác xa bối cảnh của các thế kỷ trước khi những quốc gia Tây Âu đầu tiên đã vươn lên. Phát triển ngày càng trở nên phức tạp. Nhà nước do đó sẽ phải can thiệp một cách thường xuyên và tích cực để chỉ huy cố gắng phát triển. Vì vậy nhà nước cần phải nắm thật nhiều quyền lực, nếu cần phải độc tài. Nhiều học giả còn bổ túc thêm bằng một lập luận khác : giai đoạn độc tài chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp có mục đích tập trung mọi cố gắng xây dựng quốc gia và phát triển kinh tế, sau đó dân chủ sẽ đến một cách tự nhiên. Các vị này không nói rõ giai đoạn quá độ này có thể kéo dài bao lâu, cũng như hình thức dân chủ nào sẽ đến sau đó và đến như thế nào.

Lập luận thứ ba là một lập luận thuần túy chính trị. Nó có thể tóm lược như sau : các nước chưa mở mang cũng là những nước mà các định chế chính trị (luật pháp, chính phủ, quốc hội, các tòa án, v.v...) còn mới và yếu ; một chế độ dân chủ trong bối cảnh này sẽ đặt các định chế chính trị dưới áp lực quá mạnh của các đòi hỏi mâu thuẫn từ xã hội dân sự (tôn giáo, địa phương, nghiệp đoàn, hội đoàn). Do đó các nước chưa mở mang cần một chính quyền thật mạnh, nghĩa là độc tài, để bảo đảm sự ổn vững cần thiết cho phát triển.

Các tác phẩm và bài viết của trường phái chống dân chủ nhân danh phát triển rất dồi dào về số lượng trong suốt ba thập niên 1960, 1970 và 1980. Thuần túy lý thuyết cũng có, phối hợp lý luận với quan sát cụ thể cũng có. Khó có thể thống kê được số tấn giấy đã được dùng cho việc in ấn, nhưng tất cả đều chỉ xoay quanh ba lập luận trên đây.

Song song với cuộc tranh luận lý thuyết, nhiều học giả đã thực hiện những công trình khảo sát rất công phu trên nhiều quốc gia. Robert March công bố năm 1979 một thống kê về phát triển trên 98 nước trong thời gian 15 năm, từ 1955 đến 1970. Dirk Berg Schlosser công bố năm 1984 một công trình khảo cứu về các nước châu Phi ; Dwight King khảo sát sáu nước châu Á trong thập niên 1970 ; Yousseff Cohen khảo sát một số nước châu Mỹ La Tinh trong cùng thời kỳ ; G. William Dick khảo sát các kết quả thống kê của 72 quốc gia trong thời gian từ 1959 đến 1968. Đó là chỉ kể một vài trong số rất nhiều công trình khảo sát qui mô. Các nghiên cứu về từng quốc gia một thì không thể đếm nổi bởi vì các chế độ độc tài tuy chủ trương "thắt lưng buộc bụng" đối với quần chúng dưới quyền cai trị của họ, nhưng lại rất rộng rãi đối với những công trình nghiên cứu có tác dụng đề cao họ. Bên cạnh những nghiên cứu theo đơn đặt hàng, hoặc theo mệnh lệnh, cũng có những nhà nghiên cứu đứng đắn thực sự muốn tìm ra trong kinh nghiệm cụ thể một liên hệ giữa dân chủ và phát triển.

Một trong những khảo sát cụ thể [case study] hay được viện dẫn nhất để chứng minh dân chủ không có lợi cho phát triển, hay nói một cách khác độc tài có lợi cho phát triển, là khảo sát so sánh giữa Ấn Độ và Trung Quốc, hai quốc gia đông dân nhất thế giới và đã chọn hai con đường khác hẳn nhau từ một nửa thế kỷ nay. Ấn Độ đã trở thành một nước dân chủ từ 1947 trong khi, ngược lại, Trung Quốc đã chọn chế độ cộng sản chuyên chính từ 1949. Theo mọi khảo sát, nước Trung Hoa độc tài đã thắng nước Ấn Độ dân chủ trên tất cả mọi địa hạt kinh tế, dù là công nghiệp hay nông nghiệp, chứng minh một cách hùng hồn sự hơn hẳn về mặt kinh tế của một chế độ độc tài so với một chế độ dân chủ.

Tất cả những lý luận và khảo sát cụ thể đó đã cho phép một số người dõng dạc khẳng định : "dân chủ hay phát triển giữa hai cái đó phải chọn một".

Tới đây, chúng ta có thể bắt đầu khảo sát các lý luận phản bác dân chủ. Trước hết là một vài nhận xét tổng quát :

- Các lập luận này đều dựa trên một định đề được coi là một sự thực hiển nhiên không cần chứng minh là sự can thiệp mạnh của các chính quyền vào sinh hoạt kinh tế là một điều phải làm và nên làm. Sự "hiển nhiên" này hiện nay không còn "hiển nhiên" chút nào. Cùng lắm vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế là một đề tài thảo luận ; đối với đa số các nhà nghiên cứu nhà nước càng ít can thiệp càng hay.

- Các lập luận này nhìn phát triển kinh tế như một vấn đề thuần túy kỹ thuật, có thể giải quyết bằng những chương trình và kế hoạch. Các yếu tố tâm lý và văn hóa hoàn toàn vắng mặt. Tệ nạn tham nhũng cũng không được kể đến. Các học giả không coi tham nhũng là yếu tố quan trọng, hoặc coi nó là một tệ nạn nẩy nở và tác hại như nhau trong mọi chế độ chính trị. Ngày nay cách nhìn này đã bị bác bỏ. Kinh nghiệm đã đưa các nhà quan sát đến một đồng thuận : phát triển không phải là một vấn đề kỹ thuật mà chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa. Mặt khác cũng không còn ai phủ nhận quan hệ giữa chế độ chính trị và mức độ tham nhũng.

- Các lập luận này đều coi là phát triển đồng nghĩa với phát triển công nghiệp. Dịch vụ và thương mại hầu như không đóng vai trò nào hay chỉ có vai trò rất thứ yếu. Quan điểm này ngày nay đã trở thành hoàn toàn lạc hậu, sau khi đã bị thực tế phản bác một cách phũ phàng.

Chính vì dựa trên những tiền đề đã bị bác bỏ mà ngày nay các lập luận này không còn được nhắc tới nữa và các lý thuyết gia một thời vang bóng bênh vực chúng cũng đã chìm vào quên lãng. Tuy vậy, một lần cho tất cả, chúng ta hãy phân tích những lý luận này, bởi vì điều đáng tiếc là trí thức Việt Nam chúng ta đầu tư rất ít vào tư tưởng, do đó những điều có thể rất cũ vẫn còn là mới với nhiều người Việt, kể cả một số chuyên gia kinh tế.

Lập luận thứ nhất (các chính quyền dân chủ thường phải đặt quá nặng các vấn đề nhân sinh và hy sinh những đầu tư cơ bản có tác dụng đẩy mạnh phát triển) chắc chắn phải khiến độc giả có cảm giác ngờ ngợ như đã gặp ở đâu rồi. Quả đúng như vậy, đằng sau lập luận này là lý thuyết về "các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa" đã làm phá sản nhiều quốc gia, thí dụ như Algeria. Trong một dịp trước chúng ta đã đề cập đến lý thuyết này. Nếu quả thực các chính quyền dân chủ đầu tư nhiều cho sức khỏe và giáo dục, chú trọng thỏa mãn những đòi hỏi cấp bách của dân chúng và đặt trọng tâm vào các kỹ nghệ tiêu dùng thì hay biết bao. Sau bao nhiêu năm bị lôi cuốn vào những lý luận cao siêu về phát triển, các quốc gia đã khám phá ra rằng đầu tư vào giáo dục và sức khỏe là đầu tư có hiệu năng kinh tế cao nhất. Tiêu thụ, và đặc biệt là tiêu thụ trong thị trường nội địa, cũng đã được nhìn nhận như yếu tố cốt lõi của hoạt động kinh tế. Đầu tư vào kỹ nghệ tiêu dùng, trước hết là những kỹ nghệ sản xuất nhu yếu phẩm, cũng là đầu tư có tác dụng kích thích kinh tế lớn nhất. Ngược lại, đầu tư vào những kỹ nghệ nặng sản xuất hàng trăm ngàn tấn thép mà các kỹ nghệ tiêu dùng chưa đòi hỏi chỉ là phí phạm. Cũng thế, xây dựng những hạ tầng cơ sở chưa thực sự cần thiết cũng là một phí phạm khác, phí phạm trong phí tổn xây dựng, phí phạm liên tục trong phí tổn bảo trì, rồi cuối cùng cũng vẫn hư hỏng vì không được sử dụng. Nền tảng của kinh tế thị trường mà ngày nay không còn nước nào chối cãi vẫn là... thị trường. Phải sản xuất những gì thị trường chờ đợi. Có thể tiên liệu những nhu cầu của thị trường cho năm năm hay mười năm sắp tới, hay xa hơn nữa nếu có thể, nhưng không thể bắt thị trường phải tiêu thụ những sản phẩm mà nó không cần, nếu không muốn bị đánh thức khỏi giấc mơ duy ý chí một cách tàn nhẫn.

Trên thực tế, điều đáng tiếc là các chế độ dân chủ đã không hành động như các lý thuyết gia phê phán. Trong phần lớn các nước dân chủ, giới chủ nhân thường hay dựa vào những kẽ hở của luật pháp và thế yếu của giới công nhân, nhất là tại những nước có tỷ lệ thất nghiệp cao, để giữ lương bổng ở mức độ thấp. Họ chèn ép công nhân trong mục đích đạt tới tỷ lệ lợi nhuận cao nhất với hy vọng tái đầu tư vào việc bành trướng xí nghiệp mà không ý thức được sự cần thiết phải gia tăng sức mua của quần chúng. Đây là một cái nhìn thiển cận mà nhà nước cần điều chỉnh vì lợi ích của giai cấp công nhân và vì chính lợi ích của giai cấp chủ nhân. Trong nhiều trường hợp, như tại Ấn Độ, lớp người giàu có còn sử dụng tài sản tích lũy được cho những xa hoa phi sản xuất.

Tóm lại đầu tư vào y tế, giáo dục và nâng cao mức tiêu thụ của quần chúng không những không tai hại mà còn là điều nên làm và phải làm. Một trong những khám phá quan trọng nhất của hai thập niên cuối của thế kỷ 20 là không những phát triển có thể mà hơn thế nữa còn phải đi song song với cải thiện dân sinh.

Lập luận thứ hai (về sự cần thiết phải gia tăng mức độ can thiệp của nhà nước vì bối cảnh cạnh tranh ngày càng mạnh và hoạt động kinh tế ngày càng phức tạp, và do đó cần một nhà nước mạnh, nghĩa là một nhà nước độc tài) chưa bao giờ là một lập luận nghiêm chỉnh. Nó luôn luôn chỉ là một xác quyết suông dựa trên "dẫn chứng" là sự thành công của các nước cộng sản. Từ khi các chế độ cộng sản sụp đổ, và thế giới nhìn rõ những "thành tựu to lớn" của các chế độ cộng sản đều chỉ là bịp bợm, lập luận này đã mất hết nội dung.

Dĩ nhiên trong một nước chưa phát triển nhà nước bắt buộc phải trọng tài một cách khó khăn giữa những đòi hỏi mâu thuẫn, và chính đáng như nhau, với một ngân sách hạn hẹp, đặc biệt là trong kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng (đường sá, hải cảng, phi trường, hệ thống viễn thông, v.v...) và như thế cần phải mạnh. Nhưng thế nào là một nhà nước mạnh ? Nhà nước mạnh không có nghĩa là nhà nước độc tài, có nhiều công an và nhà tù. Ngược lại. Sức mạnh của nhà nước, hiểu theo nghĩa sức mạnh để phát triển đất nước, chủ yếu dựa trên hậu thuẫn của dân chúng. Sức mạnh này các nhà nước độc tài không có, chúng dùng bạo lực để thống trị dân chúng và gặp sự chống đối của dân chúng. Sự chống đối có thể thụ động, không có tổ chức nhưng tổng kết lại cũng vẫn đủ sức để làm hỏng mọi kế hoạch của nhà nước. Trong thực tế, trong những quốc gia có tầm vóc lớn, các kế hoạch của những tập đoàn thống trị mù quáng tự coi mình đủ thông minh để suy nghĩ thay cho hàng chục triệu người, và xấc xược áp đặt sự suy nghĩ đó lên mọi người, chỉ có thể là ngớ ngẩn. Các chính quyền độc tài có thể thừa sức để bỏ tù những người đòi dân chủ, họ cũng có thể thừa sức để ngăn chặn sự hình thành của những tổ chức đối lập, nhưng không bao giờ đủ phương tiện để kiểm soát mọi hành động của mọi người và cuối cùng không bao giờ quản trị được xã hội một cách đúng nghĩa, ngay cả về trật tự an ninh.

(Tới đây tôi xin phép độc giả mở một ngoặc đơn về sự chống đối thụ động của dân chúng. Vợ tôi làm việc cho một hội từ thiện, hội Măng Non. Hội này mở những lớp dạy tiếng Việt tại Paris và dùng học phí thu được, cùng với sự đóng góp của các hội viên, để xây trường học tại những vùng nghèo khổ ở Việt Nam. Hội cũng cấp nhiều học bổng mỗi năm và khuyến khích thân hữu nhận làm con nuôi một số học sinh mồ côi. Trong các hồ sơ xin học bổng hay xin được nhận làm con nuôi, có rất nhiều học sinh có cha mẹ bị điện giật chết. Tôi tìm hiểu và được biết nguyên nhân : đó là công trình đường dẫn điện cao thế 500 KVA Bắc-Nam mà ông thủ tướng Võ Văn Kiệt chủ trương và đôn đốc. Công trình này là một trong những kế hoạch lớn nhất của nhà nước Việt Nam trong thập niên 1990 và là cả một kỳ quan của sự ngu dốt mà chỉ có một chế độ rất độc đoán mới áp đặt được. Tại sao lại dẫn điện từ Bắc vào Nam ? Miền Bắc không thực sự thừa điện mà chỉ tạm thời thừa điện vì chưa phát triển. Tải điện đi cả ngàn cây số cũng phải chịu những mất mát to lớn trên đường dẫn. Đây là một kế hoạch duy ý chí nhằm đặt miền Nam trong thế lệ thuộc miền Bắc về năng lượng để dễ kiểm soát. Công trình này mới đầu dự trù tốn kém 500 triệu đô la, sau điều chỉnh lại ở mức độ 800 triệu đô la, nhưng vẫn không đủ. Sau cùng không điều chỉnh nữa mà cứ làm tới, theo tâm lý lỡ phóng lao thì phải theo lao. Nó đã là một phí phạm lớn nhưng nó còn tạo ra vô số thảm kịch về nhân mạng. Dân chúng ùa nhau cắt dây điện để bán làm đồng vụn. Tôi đọc trên báo trong nước có lần trong vòng một tuần lễ đường dây bị cắt trên hai ngàn đoạn. Số người đi cắt dây bị điện giật chết không biết bao nhiêu mà kể. Một số khác, có lẽ cũng đông đảo không kém, bị điện giật chết vì đụng phải dây điện rớt xuống đường).

Về lập luận thứ hai này cũng nên lưu ý một lý do mà các lý thuyết gia bênh vực nó đưa ra : cần một nhà nước độc tài bởi vì tình thế mới đòi hỏi như thế, bối cảnh thế giới hiện nay khác với bối cảnh thế giới trong các thế kỷ 17, 18 và 19 khi các quốc gia phát triển đầu tiên xuất hiện. Một cách gián tiếp họ nhìn nhận Hoa Kỳ và các nước Tây Âu đã phát triển nhờ có tự do và dân chủ, một điều mà họ không nhìn nhận khi tranh cãi về chính các nước này. Rõ ràng là một cách tranh cãi không lương thiện.

Lập luận thứ ba (về nhu cầu cần có ổn định xã hội để phát triển và do đó cần một chế độ độc tài) thì đúng là ăn ngang nói ngược, đổi trắng thay đen. Đồng ý, và đồng ý một trăm phần trăm, là phải có ổn định xã hội để phát triển, nhưng các chế độ độc tài có đảm bảo ổn định xã hội không ? Hoàn toàn không ! Chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật pháp và lấy các quyết định một cách rất tùy tiện. Nay cho phép, mai cấm đoán. Đó là chưa kể người cầm quyền không cần tôn trọng những luật pháp mà mình ban hành, khi không giải thích chúng một cách tùy tiện. Trong một bối cảnh bấp bênh không tiên liệu được như vậy, ai có thể yên trí để làm những dự án đầu tư ? (Phương châm của người kinh doanh tại Việt Nam hiện nay là ba không : không làm lớn, không làm lộ và không làm lâu). Ngược lại, trong một nước dân chủ, hiến pháp và luật pháp là kết quả của những tranh cãi sâu rộng trong đó mọi ý kiến đều được trình bày trước khi được biểu quyết một cách lương thiện cho nên phản ánh mọi nguyện vọng và do đó khó thay đổi. Luật chơi vì vậy rõ ràng và mọi người có thể tiên liệu được tương lai.

Sự gian trá của lập luận thứ ba này là đồng hóa ổn định xã hội với sự kéo dài của các chính quyền, hai điều không những khác nhau mà còn mâu thuẫn với nhau. Ổn định thực sự là luật pháp được tôn trọng và không thay đổi một cách bất ngờ, điều mà chỉ có những chế độ dân chủ pháp trị mới bảo đảm được.

Một điều rất cũ, quá cũ, nhưng cũng cần được nhắc lại vì quá quan trọng : các chế độ độc tài đẻ ra tham nhũng. Độc quyền đưa đến lạm quyền và lạm quyền đưa đến tham nhũng, đó là một qui luật bắt buộc. Tham nhũng là gì nếu không phải là lợi dụng công quyền cho lợi ích cá nhân ? Càng nhiều quyền thì càng dễ tham nhũng. Cho nên các chế độ độc tài dù quyết tâm chống tham nhũng đến đâu đi nữa cũng bất lực, tham nhũng chỉ tăng lên chứ không giảm đi như ta đã thấy trong trường hợp Việt Nam. Muốn giảm tham nhũng thì trước hết phải giảm quyền lực nhà nước, muốn chống tham nhũng thì trước hết phải tôn trọng quyền tự do tố giác và phải tách bộ máy tư pháp khỏi sự kiểm soát của chính quyền, tóm lại phải có dân chủ. Có thể nói tham nhũng là 90% trở ngại của phát triển. Bất cứ một lý thuyết phát triển nào không kể đến sự tác hại của tham nhũng đều chỉ là lý thuyết suông.

Còn những khảo sát cụ thể ?

Một cách vắn tắt, chúng đều vô giá trị.

Nguyên nhân đầu tiên là chính sự mơ hồ của việc phân loại các nước dân chủ và độc tài. Phần lớn các khảo sát này đều được thực hiện trước thập niên 1980. Cho tới thập niên 1980, các nước kém mở mang thay đổi chế độ thường xuyên, một chế độ quân phiệt bế tắc phải nhường chỗ cho một chế độ dân cử, rồi sau đó một đại tá lại đảo chính tái lập chế độ độc tài. Có thể thành tích của một nước được coi là dân chủ thực ra chỉ là di sản của một chế độ độc tài, và ngược lại.

Sau đó là sự ngắn ngủi của thời gian khảo sát. Thời gian này thường chỉ là năm hay mười năm, trong khi mức độ phát triển là thành quả của cả một quá trình dài.

Cuối cùng là sự thiếu chính xác của chính những số liệu. Nếu các chế độ dân chủ thường khá lương thiện trong những số liệu thì ngược lại trong các chế độ độc tài các số liệu rất đáng ngờ vực. Độc giả muốn ý thức được điều này hãy thử tìm đọc các tài liệu của Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt Nam, hay các chế độ độc tài châu Phi để có một khái niệm. Cái gì cũng đẹp, cũng tốt, cũng vượt chỉ tiêu. Khổ một nỗi là các nhà nghiên cứu, ngay cả các chuyên viên của những định chế rất nghiêm chỉnh như Ngân Hàng Thế Giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, cũng bắt buộc phải sử dụng những thống kê chính thức vì không có dữ kiện nào khác.

Nhưng điều lý thú nhất là nếu những "khảo sát" đầu tiên đưa tới những kết luận có lợi cho các chế độ độc tài thì càng về sau các nhà nghiên cứu, sau khi đã vật lộn với những số liệu mà chính họ cũng phải nhìn nhận là không chính xác, càng kết luận là dân chủ không có hại gì cho phát triển, trong nhiều trường hợp họ còn thấy dân chủ có tác dụng tốt cho phát triển. Chấm, và chấm hết.

Sau cùng, nên nghĩ thế nào về sự so sánh giữa Trung Quốc và Ấn Độ ?

Mới thoạt nhìn sự so sánh này có giá trị : cả hai nước đều là những quốc gia lớn, tầm vóc của chúng cho phép đại cương hóa các quan sát ; hai quốc gia đã chọn lựa một cách quả quyết hai hướng đi khác nhau, Ấn Độ chọn dân chủ trong khi Trung Quốc đi theo chế độ độc tài cộng sản ; thời gian quan sát cũng khá dài, gần một nửa thế kỷ. Tuy nhiên giá trị của sự so sánh chỉ dừng lại ở đó. Chúng ta cũng gặp phải sự sai lệch của những dữ kiện. Nếu các số liệu của Ấn Độ có thể coi là tương đối khả tín thì ngược lại những số liệu của Trung Quốc rất khó tin. Chẳng hạn như nông nghiệp của Trung Quốc được ghi nhận là đã tăng trưởng trung bình 3,1% mỗi năm từ 1950 đến 1980 trong khi nông nghiệp của Ấn Độ chỉ tăng trưởng 2,3% mỗi năm. Sự thực mà mọi người đều nhìn nhận là trong thời gian này, qua các giai đoạn "bước nhảy vọt" rồi "cách mạng văn hóa", nông nghiệp của Trung Quốc suy sụp hoàn toàn, làm gần 50 triệu người chết đói. Cũng trong thời gian đó không ai phủ nhận rằng Ấn Độ đã tiến từ địa vị một nước thiếu đói quanh năm tới tình trạng tự túc về lương thực và thực phẩm. Những số liệu như vậy khiến sự so sánh không đứng đắn chút nào. Nhưng đó không phải là lý do chính khiến ta phản bác sự so sánh. Lý do chính là một người quan sát đứng đắn không thể nghĩ đến việc so sánh Ấn Độ và Trung Quốc. Lịch sử và văn hóa của hai nước quá khác nhau. Nếu căn cứ vào việc Trung Quốc theo chế độ độc tài đã phát triển nhanh hơn Ấn Độ theo chế độ dân chủ để rồi kết luận dân chủ không có lợi cho phát triển bằng độc tài thì cũng ngây ngô như thấy con bò lớn hơn con chó rồi kết luận là những con vật có sừng lớn hơn những con vật không có sừng. Ấn Độ cho tới khi người phương Tây đến không phải là một quốc gia mà là cả một thế giới hỗn tạp với những tập quán và triết lý hủ lậu ; xã hội phân hóa thành vô số đẳng cấp kỳ thị lẫn nhau ; các triết lý không tìm cách cải thiện cuộc sống mà coi cuộc đời như một bể khổ vô phương cứu chữa ; con người tìm hạnh phúc trong những suy tư siêu hình, tìm khoái lạc trong việc nằm trên bàn đinh nhọn hoặc thổi sáo cho rắn hổ múa. Trái lại Trung Quốc là một xã hội thực tiễn, đề cao cố gắng để giải quyết những nhu cầu vật chất. Trước đây không ai nghĩ tới việc so sánh Ấn Độ với Trung Quốc, nếu ngày nay người ta so sánh hai nước thì cũng vì Ấn Độ đã tiến lên, và tiến lên nhờ dân chủ.

Tôi không phản bác những khảo cứu so sánh, với điều kiện là phải so sánh những cái có thể so sánh. Muốn so sánh hiệu năng kinh tế của dân chủ và độc tài thì phải so sánh tình trạng của cùng một nước trước và sau khi thay đổi từ một chế độc độc tài sang một chế độ dân chủ, hay sang một chế độ tuy chưa phải là dân chủ nhưng với một mức độ tự do lớn hơn. Hoặc ngược lại từ một chế độ dân chủ, hay tương đối cởi mở, sang một chế độ độc tài. Như thế phải so sánh Đại Hàn Dân Quốc trước và sau Lý Thừa Vãn, Phi-líp-pin trước và sau khi chế độ Marcos bị lật đổ, Thái Lan trước và sau năm 1992, từng nước châu Mỹ La Tinh hay từng nước Đông Âu trước và sau cuộc chuyển hóa về dân chủ. Hoặc cũng có thể so sánh các chế độ khác nhau của cùng một dân tộc như hai miền Nam và Bắc Việt Nam trước năm 1975, Nam và Bắc Cao Ly, Đài Loan và Hoa Lục. Những so sánh này không cho phép bất cứ ngờ vực nào : dân chủ hơn hẳn độc tài về mặt kinh tế.

Nhưng cuộc thảo luận này có thể khiến cây che khuất rừng. Kinh tế không phải là tất cả. Hạnh phúc của một dân tộc không phải chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn những điều cao hơn, và cao hơn nhiều. Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều mình muốn, là quyền được sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho cộng đồng. Những điều này chỉ có một chế độ dân chủ có thể đem lại. Các tập đoàn độc tài viện lý cớ phát triển kinh tế để hy sinh tự do. Lập trường này tự nó đã khó chấp nhận, điều còn khó chấp nhận hơn là vì chà đạp tự do và làm thui chột óc sáng tạo họ cũng ngăn chặn luôn cả phát triển kinh tế. Họ biện luận là cần hy sinh hôm nay cho ngày mai nhưng thực ra họ hy sinh hôm nay chỉ để hủy hoại ngày mai.

*******************

 

Những định luật cho một xã hội phát triển ?

 

 

4-tqan20

Cái đầu quả nhiên nhanh hơn đôi chân và hơn cả máy bay phản lực. Qua một vài chục trang giấy, chúng ta đã du hành ngược thời gian, lên đến thời tiền sử rồi lại xuôi dòng về đến hiện tại, sau khi đã thăm viếng những cái nôi đầu tiên của phát triển tại châu Âu và Hoa Kỳ, rồi các nước vừa phát triển tại châu Á và châu Mỹ La Tinh.

Chúng ta đã nhận định và cũng đã khảo sát cả những lập luận trái ngược. Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận. Nếu chúng ta tự so sánh với một nhà khoa học rút ra những định luật sau khi đã quan sát các thí nghiệm, chúng ta cũng có thể rút ra một số định luật cho một xã hội muốn phát triển hay muốn tiếp tục phát triển. Dĩ nhiên, với thái độ khiêm tốn phải có, bởi vì các định luật trong khoa học nhân văn không chính xác như những định luật trong khoa học vật lý, chúng luôn luôn đòi hỏi một ứng dụng sáng tạo phù hợp với môi trường.

Định luật 1 : Tất cả mọi thành tố cơ bản của phát triển đều vô hình, nằm trong con người và xã hội. Phát triển chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Định luật 2 : Dân chủ là nguyên nhân tạo ra phát triển và cũng là môi trường của phát triển. Mức độ dân chủ quyết định giới hạn tối đa của phát triển. Dân chủ càng cao khả năng phát triển càng cao. Không có dân chủ quá đáng.

Định luật 3 : Phát triển đòi hỏi một đồng thuận dân tộc trong một dự án tương lai chung, phù hợp với quyền lợi của mỗi cá nhân. Hiến pháp và luật pháp thể hiện đồng thuận xây dựng một tương lai chung đó và vì thế được ổn vững và được coi như nền tảng duy nhất của tổ chức xã hội.

Định luật 4 : Phát triển đòi hỏi kinh tế phải được tự do vận hành theo qui luật tự nhiên của thị trường thay vì bị gò bó trong một kế hoạch. Chính quyền phải tránh can thiệp và đặt ra những cưỡng chế mâu thuẫn với qui luật của thị trường.

Định luật 5 : Các thủ tục hành chánh phải được giảm tới mức tối thiểu cần thiết. Chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất, nhường không gian tối đa cho xã hội dân sự, cá nhân, ý kiến và sáng kiến.

Định luật 6 : Phát triển lành mạnh đòi hỏi hủy bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, mọi thế lực ngoài qui định luật pháp, mọi thành kiến và giáo điều, mọi phân biệt và ngăn cách.

Định luật 7 : Tự do là tâm hồn, động cơ và sức mạnh của xã hội. Trong một xã hội muốn phát triển mạnh không thể có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không thể có những đề tài cấm bàn đến.

Định luật 8 : Bạo lực phải bị tuyệt đối lên án và hoàn toàn xóa bỏ như một phương thức ứng xử. Mọi mâu thuẫn trong xã hội phải được giải quyết qua đối thoại và thỏa hiệp.

Định luật 9 : Vận tốc phát triển tỷ lệ thuận với chỗ đứng dành cho thương mại. Thương mại càng được ưa thích và quí trọng, xã hội phát triển càng nhanh chóng. Thương mại phải được coi là động cơ của mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, văn hóa, đạo đức.

Định luật 10 : Mọi luật và qui định phải phù hợp với trình độ hiểu biết của dân chúng và liên tục thích nghi với bối cảnh xã hội, nhưng luôn luôn phải giản dị, dễ hiểu, dễ tuân thủ cho mọi người và được áp dụng triệt để.

Mười định luật trên đây thực ra là những định luật căn bản. Chúng ta đã bỏ qua những yếu tố khác tuy rất quan trọng nhưng tự nhiên sẽ được khám phá ra khi những định luật căn bản đã được thỏa mãn, như sức khỏe, giáo dục, truyền thông, hạn chế dân số, bảo vệ môi trường, v.v...

 -----------------------

Sự liệt kê giản lược này dĩ nhiên cần một số ghi chú bổ túc :

Định luật 1 là một khám phá mới. Cho tới một ngày khá gần đây các nhà nghiên cứu, khi giải thích hiện tượng phát triển, đều đề cao vai trò của những yếu tố vật chất như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý. Max Weber là một trong những nhà tư tưởng hiếm hoi đề cao vai trò của tâm lý và văn hóa, nhưng ông lại tập trung lý luận vào châu Âu và dành cho đạo Tin Lành một vai trò chủ yếu. Tư tưởng của ông vì vậy khó có tiếng vọng nơi các xã hội không theo Thiên Chúa Giáo. Chỉ cho tới một ngày rất gần đây, nhờ sự quan sát của các nhà ngoại giao, các chuyên viên trong các chương trình hợp tác phát triển và các phái viên của các tổ chức thiện nguyện, người ta mới ý thức được rằng sự tụt hậu và trì trệ là do một cấu trúc tâm lý không thích hợp. Một quốc gia không thể phát triển nếu quyền lực thay vì được coi là một trách nhiệm lại được nhìn như một phần thưởng, nếu danh giá trong xã hội là làm quan thay vì kinh doanh, nếu tâm lý quần chúng là hễ một người làm quan cả họ phải được nhờ, nếu sự giàu có bị thù ghét, nếu hoạt động kinh tế được nhìn như một cuộc chơi với tổng số là số không, người này giàu tất nhiên kẻ khác phải nghèo, vì thế kinh doanh đồng nghĩa với bóc lột. Muốn phát triển một xã hội, phải từ bỏ tâm lý cũ đã tạo ra sự lạc hậu và đề cao những giá trị tiến bộ : hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác và lợi nhuận. Cần nhấn mạnh giá trị lợi nhuận.

Định luật 2 là kết luận căn bản nhất rút ra từ sự quan sát các nước đã phát triển đầu tiên và các nước mới phát triển gần đây sau cuộc du lịch tham quan của chúng ta trong những bài trước. Điều đặc biệt cần ghi nhận là định luật này không có một ngoại lệ nào nếu ta nhìn trong chiều sâu thay vì một cách phiến diện.

Định luật 3 gần như là một hệ luận của định luật 2, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng động viên quần chúng. Đồng thuận là điều kiện để lòng yêu nước có thể đóng được vai trò kết hợp và thôi thúc của nó. Định luật này giải thích tại sao các chế độ phát-xít quân phiệt tại Đức, Ý và Nhật trước thế chiến II đã đạt được những tiến bộ đáng kể trước khi sụp đổ trong máu lửa. Đó là vì, do hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc này đã có một đồng thuận lớn và đã được động viên trong một cố gắng chung, dù chỉ là đồng thuận mê muội trên một ý đồ bá quyền nước lớn. Sau đó chính vì không có dân chủ mà các nước này tích lũy mâu thuẫn và bị đẩy vào chiến tranh tự hủy. Ở đây, vì chúng ta đề cập đến hiến pháp và luật pháp ổn vững nên cũng cần hiểu rõ những định nghĩa khác nhau của ổn định. Ổn định có lợi và cần thiết cho phát triển là ổn định trong sinh hoạt xã hội, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không bị thay đổi tùy tiện theo ý muốn của người cầm quyền. Đó hoàn toàn không phải là sự "ổn định" được hiểu như là sự không thay đổi người cầm quyền. Từ sau thế chiến II, Nhật và Ý là hai quốc gia thay đổi chính phủ rất thường xuyên, trung bình một chính phủ chỉ kéo dài xấp xỉ một năm, mà vẫn phát triển mạnh bởi vì luật chơi, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không thay đổi. Trái lại, các nước độc tài, với những chính quyền kéo dài nhiều thập niên, lại rất tụt hậu. Tại sao ? Bởi vì, như đã được trình bày trong chương trước nhưng nhắc lại một lần nữa tưởng không phải là vô ích, chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật chơi một cách tùy tiện, tạo ra xáo trộn và bất ổn thường trực cho sinh hoạt của xã hội.

Định luật 4 cũng hiển nhiên như định luật 2, nhưng có lúc đã bị che khuất bởi những trình bày dối trá. Các chế độ phát-xít Đức, Ý và Nhật trước thế chiến II và nhất là các chế độ cộng sản, bằng những giấu giếm và thống kê bịp bợm, đã làm cho nhiều người tưởng là có thể phát triển bằng những kế hoạch duy ý chí, bất chấp các qui luật của thị trường. Sự sụp đổ của phong trào cộng sản đã chỉ là sự tái lập lại một chân lý vốn đã có từ lâu.

Định luật 5 tập hợp hai nhận thức cơ bản : một là chính ý kiến và sáng kiến, chứ không phải nguyên nhân nào khác, làm cho kinh tế tăng trưởng, mà muốn ý kiến và sáng kiến nảy nở thì xã hội dân sự và các cá nhân phải được giải phóng khỏi mọi gò bó ; hai là các thủ tục rườm rà vừa ngăn cản sáng kiến vừa đẻ ra tham nhũng, bệnh ung thư của hoạt động kinh tế. Tham nhũng là gì nếu không phải là sự lạm dụng công quyền cho lợi ích cá nhân ? Muốn tránh tham nhũng thì trước hết phải giới hạn vai trò của chính quyền. Cũng phải nhận xét rằng thủ tục đẻ ra thủ tục bởi vì nó tạo ra những công chức sống nhờ thủ tục và cố gắng tạo ra thêm càng nhiều thủ tục càng tốt để củng cố địa vị. Mặt khác, chính quyền ôm đồm quá nhiều sẽ không làm tròn được những nhiệm vụ tối cần thiết của một chính quyền, nghĩa là bảo vệ trật tự an ninh, trọng tài đúng đắn những mâu thuẫn và tranh tụng trong xã hội, thi hành đúng đắn luật pháp, gìn giữ liên đới xã hội, quản lý đúng đắn tiền tệ. Một xã hội được cai trị quá nhiều cũng là một xã hội không được cai trị đầy đủ.

Định luật 6 nói lên sự cần thiết của một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý. Mỗi quốc gia có những lý do khác nhau để bị trì trệ. Lý do có thể là những đặc quyền dành cho một giai cấp, một tập đoàn hay một số gia đình, thành phần được ưu đãi này dựa vào địa vị áp đảo của mình để kềm giữ những thành phần còn lại của xã hội trong sự nghèo khổ ngõ hầu giữ nguyên vai trò thống trị của mình. Hay là một số người và nghề được tôn vinh quá đáng, ngược lại một loại người và nghề bị khinh bỉ và loại trừ, xã hội bị chia cắt thành những tập thể mâu thuẫn với nhau, phá hoại lẫn nhau và triệt tiêu lẫn nhau ; sự lưu thông bị tắc nghẽn, xã hội ở trong một tình trạng nội chiến thường trực. Một thí dụ trong các xã hội theo văn hóa Khổng Giáo là tâm lý trọng văn khinh nghề, một tâm lý từ chối sự giàu mạnh. Một thí dụ khác, cũng trong các xã hội này, là tâm lý trọng nam khinh nữ, chà đạp và loại trừ khỏi hoạt động xã hội một nửa tài nguyên nhân lực.

Đoạn tuyệt văn hóa rất khó, như chúng ta đã nhận xét trong nhiều trang trước, nhưng đó là điều kiện tiên quyết để có thể phát triển. Nhiều người chất vấn : xã hội ta đặt nền tảng trên những giá trị Khổng Giáo, nếu bỏ đi chúng ta còn lại gì ? Phải trả lời dứt khoát : chẳng thà không có gì còn hơn là có thuốc độc. Người phá rừng hoang làm đất canh tác không thể tự hỏi : khu đất này chỉ có cây hoang nếu phá hết thì còn lại gì ? Trước hết phải đốn hết cây dại trước khi làm đất và trồng cây ăn trái.

Định luật 7 nói lên một niềm tin rất nền tảng : tự do có khả năng sửa chữa những khuyết tật của chính nó. Nếu trong nhất thời "tự do quá trớn" có thể đẻ ra những hậu quả xấu thì sau đó chính cái "tự do quá trớn" đó sẽ xóa bỏ những hậu quả xấu này. Đây là niềm tin vào trí tuệ của con người. Định luật này cũng là một đồng minh của định luật 6. Tự do phát biểu tuyệt đối là vũ khí tiêu diệt mọi thành kiến lệch lạc, mọi ngăn cách, mọi đặc quyền đặc lợi. Đó cũng là vũ khí hiệu lực nhất để chống tham nhũng. Tại sao nước Mỹ đã vươn lên từ một vùng đất hoang thành siêu cường số một của thế giới ? Một trong những lý do là hiến pháp Mỹ không những khẳng định tự do phát biểu mà còn cấm quốc hội biểu quyết bất cứ một đạo luật nào giới hạn tự do phát biểu, dù với đa số nào. Để có thể có một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lý như định luật 6 đòi hỏi chúng ta không thể chỉ chấp nhận tự do, mà còn phải coi tự do như một quốc giáo và khuyến khích tự do dưới mọi hình thức như tự do suy nghĩ, phát biểu, chọn lựa, thụ hưởng, kể cả tự do cơ thể. Tự do cơ thể đặc biệt quan trọng bởi vì khi cơ thể đã được giải phóng thì rất nhiều thành kiến cũng tiêu tan và cách suy nghĩ sẽ thay đổi. Các trí thức canh tân của ta đầu thế kỷ 20 đã rất đúng khi họ kêu gọi cắt tóc ngắn, động tác giản dị này đã có ảnh hưởng tâm lý quyết định.

Định luật 8 là tuyên cáo của một xã hội nhân bản và một nền văn minh mới. Bạo lực phải bị lên án ngay trong ý niệm chứ không phải chỉ trong thực tế. Dù không dùng bạo lực thực sự đi nữa thì khả năng sử dụng bạo lực hay ý nghĩ bạo lực cũng làm cho con người có thể thù ghét nhau vì bất đồng ý kiến hay mâu thuẫn quyền lợi. Loại trừ hẳn bạo lực ngay trong ý niệm sẽ khiến mọi người không còn chọn lựa nào khác ngoài đối thoại tương kính để đi đến thỏa hiệp và như thế không những bảo đảm hòa bình trong xã hội mà còn đem lại hòa bình trong tâm hồn mọi người.

Định luật 9 cần được đặc biệt chú ý vì nó là sự thực đã bị các quyền lực chính trị cố tình xuyên tạc và che đậy. Thương mại luôn là động cơ của mọi tiến bộ. Xã hội Hy Lạp nguyên thủy coi thương mại là hoạt động cao quí nhất, họ đặt giai cấp kỹ sư và thợ thủ công dưới giai cấp thương nhân. Dù là một phân biệt giai cấp không chính đáng, quan niệm này cũng bày tỏ một sự đánh giá có căn bản : thương nhân là những con người có bản lãnh nhất, giao thiệp nhiều, hiểu biết rộng, nhiều sáng kiến và dám chấp nhận rủi ro. Người Á Đông từ lâu cũng đã nhận định "phi thương bất phú" [không làm thương mại thì không thể giàu có]. Từ chối thương mại như vậy chính là từ chối sự giàu mạnh. Các chế độ độc tài toàn trị đều sợ thương nhân, vì thế chà đạp thương nhân để triệt tiêu một mối đe dọa cho quyền lực của chúng. Một mặt chúng dùng bạo lực đàn áp, mặt khác chúng dùng độc quyền ngôn luận để phỉ báng thương nhân như là hạng người gian trá tham lam. Với thời gian chúng đã thành công tạo ra một thành kiến thù ghét đối với hoạt động kinh doanh làm giàu. Nho Giáo từ đời nhà Hán đã bắt đầu bài xích và cấm đoán thương mại. Các chế độ cộng sản trong thế kỷ 20 cũng có cùng một chọn lựa. Các xã hội Khổng Giáo ngày xưa và cộng sản gần đây trì trệ là vì thế. Nguyên nhân sâu xa của chính sách bài bác thương mại là một triết lý chính trị : ưu tư gìn giữ chính quyền được đặt trên sự giàu mạnh của xã hội. Các chế độ độc tài toàn trị không cần quốc gia giàu mạnh, trái lại chúng cần dân chúng nghèo khổ và ngu dốt để có thể tiếp tục thống trị.

Thương mại đòi hỏi và làm phát triển nhiều đức tính tốt. Người làm thương mại phải hiểu nhu cầu của xã hội và vì thế phải cố gắng tìm hiểu xã hội. Người làm thương mại sống bằng chữ tín nên phải thực thà, nếu không muốn bị tẩy chay và phá sản. Người làm thương mại cần khách hàng nên phải thực sự quí trọng người khác vì không có sự giả dối nào có thể kéo dài. Người làm thương mại phải tỏ ra dễ mến để tranh thủ khách hàng cho nên ngôn ngữ và thái độ phải trang nhã. Ở một chương trước chúng ta đã nói rằng chính vì thương mại không phát triển mà con người trong các xã hội Khổng Giáo thường rất thô lỗ.

Thực tế cho thấy các tiến bộ đầu tiên, kể cả dân chủ, đã xuất hiện tại các trung tâm thương mại. Các thí dụ phát triển đầu tiên tại Hòa Lan, Anh và Mỹ cũng đã chứng tỏ vai trò quyết định của thương mại.

Định luật 10 là một nhận định thực tiễn. Xã hội phát triển chỉ có thể là xã hội dân chủ pháp trị. Nhưng muốn luật pháp được tôn trọng, trước hết luật pháp phải được mọi người thấu hiểu. Không thể lấy một đạo luật, dù hay tới đâu, của một nước đã phát triển và có hoạt động kinh tế phức tạp để áp đặt vào m_ột nước mà đa số dân chúng chưa đọc thông viết thạo và hoạt động kinh tế chủ yếu là trao đổi trực tiếp, hay buôn bán lặt vặt, hay sản xuất trên qui mô gia đình. Luật pháp phải phù hợp với trình độ hiểu biết trung bình của xã hội. Luật pháp không hoàn chỉnh nhưng áp dụng được còn hơn luật pháp hoàn chỉnh nhưng người dân không hiểu nổi và do đó không thể tuân thủ. Luật pháp phải được xây dựng một cách liên tục và trưởng thành cùng với sự phát triển của quốc gia.

Nhưng ở đây phải đặc biệt cảnh giác trước một sự gian trá khác. Đó là giới hạn tự do và dân chủ viện cớ dân trí chưa cao. Ngược lại, và ngược hẳn lại, chính trong hoàn cảnh dân trí chưa cao và hoạt động kinh tế chưa phức tạp, luật pháp phải ít gò bó hơn, ít giới hạn hơn. Sự gian trá của các chế độ độc tài đập vào mắt mọi người : chúng nhắm đàn áp trước hết những người có trình độ cao, chúng dồn những cố gắng rất tốn kém để kiểm soát tư tưởng, trong khi để mặc cho các tệ đoan xã hội hoành hành. Các xã hội độc tài khắc nghiệt thường rất hỗn loạn và vô kỷ luật : trộm cướp, mãi dâm, buôn lậu, phóng uế, phá hủy môi trường, đánh cá bằng chất nổ v.v. hầu như không bị kiểm soát vì lý do dễ hiểu là các tệ nạn này không đe dọa tập đoàn cầm quyền.

Mười định luật về phát triển trên đây có thể tóm gọn trong bốn chữ : dân chủ đa nguyên. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi người phải được tôn trọng, được tự do kết hợp, bầu cử và ứng cử. Chính quyền như thế sẽ xuất phát từ dân chúng và được dân chúng ủng hộ. Trong một xã hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi ý kiến, dù mới mẻ và có vẻ ngược đời đến đâu cũng vẫn được quyền phát biểu. Tinh thần đa nguyên, nghĩa là tinh thần tôn trọng mọi khác biệt, có hệ luận tự nhiên là người ta không được dùng bạo lực để tiêu diệt người khác ý kiến và quyền lợi với mình, mà phải tìm cách sống chung qua đối thoại và thỏa hiệp. Đã không tiêu diệt và đàn áp lẫn nhau thì cố gắng tự nhiên là tìm đồng thuận. Đã tôn trọng mọi người, dù thuộc thành phần xã hội nào và khuynh hướng nào, thì tất nhiên không thể có những đặc quyền đặc lợi, thành kiến và ngăn cách ; hay nếu có cũng sẽ bị xóa bỏ với thời gian. Sau cùng, một xã hội dân chủ đa nguyên, sau khi các thành kiến và đặc quyền đã được hủy bỏ, chắc chắn sẽ khám phá ra vai trò chủ đạo của thương mại vì đó là một sự thực hiển nhiên, mọi người đều có thể thấy một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Tới đây có lẽ cũng nên có một nhận định tổng hợp và đúc kết về hiện tượng phát triển kinh tế : tăng trưởng kinh tế, nguyên nhân của phát triển, xảy ra khi xã hội hội đủ ba yếu tố : (1) nhiều người lạc quan và muốn kinh doanh, (2) họ có thể kinh doanh và (3) họ có phương tiện để kinh doanh.

Để lạc quan và muốn kinh doanh, họ cần một bối cảnh tâm lý thuận lợi : hoạt động kinh doanh được xã hội quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được đề cao và dĩ nhiên lòng tin rằng kinh doanh sẽ thành công.

Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần trật tự an ninh, cần được tự do hoạt động và được luật pháp bảo vệ và luật pháp không thay đổi một cách tùy tiện. Họ cũng không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng chắc, và nhất là không bị sách nhiễu bởi tệ tham nhũng, một căn bệnh trầm kha của mọi chế độ độc tài.

Phương tiện kinh doanh không phải chỉ là vốn. Trước hết là một nguồn nhân lực có phẩm chất, hạ tầng cơ sở và các phương tiện giao thông và truyền thông tốt, một hệ thống ngân hàng đắc lực khi cần vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những phương tiện và cũng không phải là phương tiện quan trọng nhất. Tư bản có trí khôn và lô-gích riêng của nó, ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tự nó tìm đến. Yếu tố quan trọng nhất vẫn là những con người cần mẫn và có kỹ năng.

Cả ba yếu tố nền tảng trên đây cho tăng trưởng kinh tế, và phát triển kinh tế sau đó, một lần nữa nhắc nhở chúng ta một chân lý : phát triển hay trì trệ chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn hóa.

Chúng ta cần thay đổi văn hóa, nghĩa là thay đổi xã hội và con người, để có thể phát triển.

Một lời trước khi chấm dứt. Những qui luật phát triển trên đây có thể làm cho một số độc giả phân vân : phải chăng chúng ta tiến tới một xã hội do đồng tiền ngự trị ? Sự phân vân càng day dứt đối với tâm hồn Á Đông, và nhất là Việt Nam, từ ngàn xưa đã coi sự thanh bần như một giá trị cao quí. Nhưng thực ra một xã hội phát triển và tự do không phải chỉ đem lại sự giàu có ; nó còn đem lại phẩm giá cho con người, đem lại sự sáng tạo trong mọi địa hạt. Tôi không biết triết gia phương Tây nào đã nói : "Đồng tiền là một đầy tớ tốt nhưng là một chủ nhân xấu". Câu nói này được rất nhiều người coi là cao siêu nhưng thực ra nó chỉ là một nhận xét của một người thiếu hiểu biết. Đồng tiền chắc chắn không phải là ông chủ tốt bởi vì nó không có lương tâm và tình cảm, nhưng nó cũng không thể là một đầy tớ. Nó quá mạnh và kiêu hãnh. Nếu bị coi là một đầy tớ, nó sẽ phản ứng thẳng tay và làm chúng ta đau đớn. Đồng tiền, hay đúng hơn tài sản, khi đã đạt tới một tầm vóc nào đó, có cuộc sống riêng của nó và cũng có lô-gích riêng của nó ; chúng ta phải thảo luận và thỏa hiệp với nó chứ không thể coi nó như một vật dụng. Nó cần được đối xử như một người bạn và một người đồng đội chứ không phải một chủ nhân hay một đầy tớ. Nó không thống trị mà cũng không khuất phục. Vả lại, ngay cả sự thống trị của đồng tiền, dù không phải là lý tưởng, cũng vẫn dễ chịu hơn là sự chuyên chế của đức hạnh. Đồng tiền là tiện nghi, là tự do và là điều ai cũng có thể hiểu và chấp nhận, trong khi đức hạnh thường chủ quan và thay đổi theo người, hay lớp người, có quyền quyết định cái gì là đức hạnh, cái gì là trái với đức hạnh. Đức hạnh có thể là một nhà tù vô hình nhưng rất nghiệt ngã.

**************************

 

Kinh bang tế thế

 

 

4-tqan21bí

 

Ngày nay, khi bàn về tình hình đất nước, người ta sẽ rất may mắn nếu được coi là một chuyên viên kinh tế. Tâm lý quần chúng, kể cả đa số trí thức, dành cho các nhà kinh tế một sự nể trọng đặc biệt, như thể là chỉ có họ mới thực sự có thẩm quyền để nói về tương lai đất nước. Thái độ này xuất phát từ ý thức càng ngày càng mạnh rằng vấn đề cơ bản của chúng ta là phát triển kinh tế. Ý thức này rất đúng, chỉ có kết luận rút ra từ đó, nghĩa là đề cao những người được coi là kinh tế gia, mới sai. Hỏi các nhà kinh tế làm thế nào để phát triển đất nước cũng giống như hỏi một ông hàng thịt cách nuôi heo. Họ không biết.

Cái gì làm cho kinh tế phát triển ? Đó là nhờ một kỹ sư phát minh ra một cái máy mới nào đó hay một phương thức sản xuất nào đó làm cho số lư_ợng sản phẩm tăng lên với cùng một vốn đầu tư và cùng một số công nhân. Đó là nhờ một nhà kinh doanh sau nhiều quan sát và suy nghĩ đã nhìn ra một yêu cầu mới của thị trường rồi tạo ra một cơ sở kinh doanh, tuyển dụng một số nhân công mới, vừa kiếm được một tài sản cho mình, vừa giải quyết sinh kế cho nhiều gia đình, vừa kích thích một số hoạt động kinh tế khác. Đó là nhờ một nhà kinh doanh ký được một hợp đồng xuất cảng với nước ngoài. Đó là nhờ một doanh nhân hợp tác với một nhà sáng chế lập ra một số cơ sở sản xuất một sản phẩm mới, thỏa mãn một cách tốt đẹp hơn nhu cầu của người tiêu thụ, v.v... Tất cả những yếu tố đó thường chẳng có mấy liên hệ với môn kinh tế học. Độc giả có thể phản bác rằng những thí dụ trên chỉ là những trường hợp cá nhân, lẻ tẻ trong khi chúng ta đang nói về kinh tế trên qui mô quốc gia. Xin thưa rằng kinh tế quốc gia không gì khác hơn là tổng số những trường hợp cụ thể đó. Sáng kiến, sản phẩm mới, kỹ thuật mới, phương pháp mới, thị trường mới, và tính mạo hiểm kinh doanh làm cho kinh tế phát triển.

Tuyệt đại đa số những chuyên viên kinh tế làm việc trên những vấn đề rất giới hạn : những biến thiên trong số lượng tiêu thụ của loại sản phẩm ; những biến thiên về giá và số lượng sản xuất của một nguyên liệu ; những chuyển biến của một ngành đặc biệt và những nguyên nhân tạo ra các chuyển biến đó ; những thay đổi trong cách tiêu xài của quần chúng ; trọng lượng tương đối của dầu khí trong giá thành của một loại mặt hàng ; trọng lượng tương đối của các thành phần xã hội trong tổng sản lượng quốc gia ; biến thiên của mức lương trung bình trong một thời gian nào đó của một khu vực nào đó ; sự phân phối lợi tức giữa các thành phần xã hội, v.v... Tất cả những công việc này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận về đối tượng nghiên cứu, những quan sát rất chi tiết và đôi khi những dụng cụ toán học khá phức tạp, đặc biệt là về môn thống kê. Tuy vậy chúng ta thường chỉ coi là kinh tế gia những người hiểu biết, hoặc tỏ ra hiểu biết, về hoạt động kinh tế tổng hợp của cả quốc gia như tổng sản lượng quốc gia, khối lượng tiền tệ lưu hành, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, tương quan giữa các khu vực cấp một, cấp hai, cấp ba, giữa các ngành hoạt động v.v..., nói một cách khác về môn kinh tế chính trị [economics hay économie politique], trong khi những hiểu biết này vừa ít lại vừa dễ.

Kinh nghiệm của tôi tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đủ để cho phép tôi khẳng định là môn kinh tế chính trị rất dễ. Một người bình thường với trình độ tú tài, hơn một chút nữa càng hay, nếu tự tin và quyết tâm có thể nắm vững những kiến thức cơ bản của môn kinh tế chính trị trong vòng một năm, dĩ nhiên với điều kiện là có được sách tốt hoặc thầy tốt.

Một số độc giả đọc đến đây có thể giẫy nẩy lên : "Tên này xấc xược, dốt nát nên nói bậy". Lời phê phán này lại càng có cơ sở bởi vì kinh nghiệm đã cho thấy không thiếu những người rất thông minh, có học vị rất cao, đã từng bỏ ra nhiều năm nghiên cứu và đã giữ những chức vụ rất quan trọng vẫn có thể tuyên bố những điều rất sai về kinh tế. Nếu môn kinh tế chính trị chỉ giản dị và dễ dàng như vậy thì tại sao những người rất giỏi lại có thể có những nhận định rất sai ?

Quả thực chính tôi cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Một thí dụ, tôi đã hai lần được nghe hai vị tiến sĩ kinh tế, một tại Pháp và một tại Mỹ, nói rằng tham nhũng cũng là một yếu tố kích thích cần thiết cho phát triển kinh tế. Vị tiến sĩ tại Mỹ thì tôi không rõ lắm nhưng vị ở Paris thì tôi biết khá rõ, có học vị thực sự và đang giữ một chức vụ quan trọng trong một cơ quan nghiên cứu rất lớn và đầy uy tín. Về phía các nhân vật quốc tế tôi cũng đã từng được nghe những vị có uy tín và chức quyền rất cao phát biểu những điều rất sai, sai một cách lố lăng. Mà không phải do tôi, một cách chủ quan, coi những phát biểu này là sai, nhiều chuyên gia rất có thẩm quyền khác đã chứng tỏ sự sai lạc của chúng một cách rõ rệt như hai cộng với hai là bốn.

Tại sao những người rất giỏi lại có thể nghĩ và nói những điều rất sai như vậy ? Theo tôi có ba nguyên nhân chính.

Một là những kiến thức cơ bản thường rất tẻ nhạt hay ít quyến rũ, bởi thế nhiều người thông minh coi chúng là hiển nhiên, rồi không chịu đầu tư thời giờ nắm cho thật vững, mà có nắm thật vững thì những kiến thức đó mới nhập tâm và trở thành phản xạ trong lý luận. Không phải ai học thuộc các định lý cũng đều có thể giải được những bài toán, chỉ có những người đã nhập tâm những định lý đó mới sử dụng chúng một cách tự nhiên. Nhiều người học kinh tế vội vã tiến ngay vào những chủ đề sôi động, có thể gây được sự chú ý và thán phục. Đó là thói thường của những người nghĩ mình giỏi, khiến họ đôi khi hụt hẫng. Điều tai hại là do địa vị của họ, những điều họ nói dễ được tin, gây ra thành kiến sai cho nhiều người khác. Cuối cùng một vấn đề đáng lẽ giản dị trở thành phức tạp. Không thiếu gì những người học võ không đủ kiên nhẫn chịu mất thì giờ để tập đứng tấn, luyện hô hấp và di chuyển, mà muốn học ngay những bài quyền, những thế đánh ngoạn mục. Không thiếu những nhà văn, nhà thơ không chịu mất thì giờ tìm hiểu ngữ pháp và ngữ vựng mà đã vội vã sáng tác và xuất bản tác phẩm.

Hai là mọi lý luận kinh tế đều phải dựa trên những sự kiện thực tế, mà những sự kiện này thường đòi hỏi rất nhiều thì giờ để tìm kiếm và còn đòi hỏi một thì giờ lớn hơn nữa để thấu hiểu, cho nên những người thông minh nhất cũng rất dễ tưởng rằng mình đã thấu hiểu, rồi đưa ra những kết luận vội vã và sai lạc.

Ba là bản tính con người, dù thuộc chủng tộc hay văn hóa nào, thường rất ít khi mất thì giờ để kiểm điểm những kiến thức và niềm tin của mình để tìm xem có gì mâu thuẫn không, cho nên một con người rất thông thái vẫn có thể cùng một lúc tin ở những sự kiện hoàn toàn trái ngược nhau. Thái độ "ba phải" này hình như đặc biệt trầm trọng nơi người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Một thí dụ là quan điểm "tam giáo đồng nguyên" của chúng ta, vẫn thường được viện dẫn để chứng minh và tự hào, rằng người Việt Nam rất bao dung và đã tổng hợp được một cách đep đẽ ba dòng tư tưởng Khổng, Phật, Lão. Thế nào là đồng nguyên ? Nếu hiểu là cùng nguồn gốc địa lý thì chắc chắn sai vì Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ trong khi Lão Giáo và Khổng Giáo xuất phát từ Trung Hoa. Nếu hiểu là cùng một thái độ thì cũng sai vì chọn lựa cơ bản của Khổng Giáo chỉ thực tiễn là làm quan lại, chọn lựa của Lão Giáo là không tìm kiếm bất cứ gì, trong khi chọn lựa Phật Giáo là tìm giải thoát cá nhân cho những đau khổ của cuộc sống. Người ta có thể kính trọng cả ba nhưng không thể nghĩ rằng có thể theo cả ba cùng một lúc và càng không thể coi chúng là "đồng nguyên" được. Một thí dụ động trời khác là chủ trương "kinh tế thị trường theo định hướng Mác-Lênin". Làm sao có thể mâu thuẫn đến như thế được, chủ nghĩa Mác Lênin là gì nếu không phải là sự phủ nhận một cách thù ghét thị trường ? Nếu mỗi người chúng ta thỉnh thoảng bỏ thời giờ kiểm điểm những hiểu biết của mình và cố gắng tìm ra nhưng mâu thuẫn giữa những hiểu biết đó thì hay biết bao.

Đến đây, tôi đã nói mông lung lắm rồi, xin đi vào một số vấn đề cụ thể.

Huyền thoại kế hoạch

Vấn đề đầu tiên là kế hoạch kinh tế. Tôi vẫn thường được hỏi : "Các anh có kế hoạch gì để phát triển kinh tế ?". Người Việt Nam chúng ta, miền Nam cũng như miền Bắc, cộng sản cũng như chống cộng, rất coi trọng kế hoạch. Chính quyền miền Nam ngày trước có cả một Bộ Kế Hoạch. Chính quyền miền Bắc ngày trước (và Việt Nam ngày nay) có một phó thủ tướng đặc trách kế hoạch đứng đầu ngành kinh tế, chỉ gần đây kế hoạch mới hơi xuống giá, chỉ còn lại một Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư mà thôi. Phải nói thẳng tôi rất dị ứng với kế hoạch. Lý do là vì tôi tin tưởng vào kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường là gì nếu không phải là để cho thị trường quyết định giá cả cũng như số lượng của từng sản phẩm ? Làm sao có thể vừa tin ở kinh tế thị trường - nghĩa là để cho tư nhân theo quan sát thị trường tự quyết định làm gì, làm tới đâu, và với giá nào - lại vừa quyết định là trong năm năm tới phải sản xuất bao nhiêu quần áo, bao nhiêu xe gắn máy ? Cùng lắm chúng ta chỉ có thể tiên liệu để biết sẽ phải thích nghi như thế nào. Cùng lắm nhà nước chỉ có thể có những kế hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở. Giữa hai điều, kế hoạch và kinh tế thị trường, phải chọn một. Các nước tư bản phát triển không có bộ kế hoạch. Nước Pháp cho tới đầu thập niên 1980 vẫn còn Cao UŒy Kế Hoạch, giờ đây không thấy ai nói đến nữa, Cao UŒy Kế Hoạch vẫn còn, nhưng vai trò chủ yếu của nó là phân phối những cơ sở vật chất mà nó đứng tên làm chủ quản, trước khi biến mất.

Người cộng sản, trước đây, có lẽ ít mâu thuẫn hơn người không cộng sản ở điểm này vì họ phủ nhận tự do kinh doanh và tin, hay ít nhất tuyên bố là tin, ở kế hoạch. Nhưng giờ đây khi họ cũng đã tin, và có lẽ là tin thực, ở kinh tế thị trường thì họ cũng phải chọn lựa. Một mâu thuẫn khổng lồ khác của chính quyền cộng sản là, một mặt tin rằng kế hoạch là cốt lõi của kinh tế và kinh tế rất phức tạp, một mặt lại chỉ đặt vào địa vị lãnh đạo kế hoạch và kinh tế những người hoàn toàn không có một khả năng chuyên môn nào về kinh tế và cũng chưa hề quen biết với những vấn đề kinh tế. Chẳng hạn như nhà thơ Tố Hữu được đưa lên làm phó thủ tướng đặc trách kế hoạch kinh tế, rồi đến ông Võ Văn Kiệt, một vị tướng công an suốt cuộc đời hoạt động chỉ lo tổ chức tuyên truyền, bắt cóc, ám sát. Sau ông Kiệt là ông Phan Văn Khải, một người, theo những người từng học và làm việc với ông, tuy có được gởi sang du học Liên Xô vài năm nhưng vì vốn liếng văn hóa và ngoại ngữ quá yếu nên chẳng học được gì và phần lớn sự nghiệp là làm phụ tá ngoan ngoãn cho ông Kiệt.

Những nhà kinh tế thực sự phải có can đảm nói thẳng, mỗi khi được hỏi, là chúng ta không thể có kế hoạch kinh tế nếu chúng ta thực sự chọn kinh tế thị trường, nghĩa là nếu chúng ta thông minh.

***********************

 

Laissez-faire ?

 

4-tqan22

Nhưng chúng ta có cần một chính sách kinh tế không ?

Tôi lại có thể bị coi là khiêu khích nếu trả lời thực ra cũng không cần lắm. Nhưng quả thực là như thế. Những biện pháp mà chúng ta thường gọi là kinh tế như đào tạo chuyên môn, gởi sinh viên ra nước ngoài thực tập, khuyến khích hay hạn chế tín dụng, mở mang đường giao thông, xây dựng thương cảng, nhà kho, v.v... thực ra phải xuất phát từ nhu cầu thị trường và một phần lớn cũng phải do tư nhân làm chứ không do nhà nước tự ý quyết định và thực hiện một mình. Trong một sinh hoạt kinh tế thị trường, thông thường nhà nước chỉ có thể nghiên cứu, tiên liệu và thông tin cho doanh nhân để họ có thể quyết định đúng. Nhưng những điều này các công ty tư cũng có thể làm được, và thường nên để họ làm vì họ làm đúng hơn.

Một khi đã chấp nhận kinh tế thị trường, nhà nước chỉ còn rất ít việc phải làm vì mọi chọn lựa đều giản dị và rõ rệt, hầu như bắt buộc : phải khuyến khích sản xuất, nội thương, ngoại thương ; phải giản dị hóa công việc của doanh nhân, phải có thông tin kinh tế chính xác và kịp thời ; phải cố gắng trải đều hoạt động kinh tế trên khắp lãnh thổ thay vì tập trung vào một số địa phương, v.v... Chẳng cần gì một chính sách kinh tế, tất cả những việc đó đều hiển nhiên phải làm và phải làm tối đa. Làm thế nào là một chuyện khác, nhưng không còn là những vấn đề kinh tế nữa. Nếu có một bí quyết thì đó chỉ là bí quyết mà ai cũng biết, đó là phải đối thoại thường xuyên và đầy đủ với doanh nhân, để biết những yêu cầu và khó khăn của họ. Và nhà nước càng làm ít chừng nào càng tốt chừng ấy. Adam Smith từng được coi, có lẽ hơi oan, là sáng tổ của trường phái "cứ để họ làm" [laissez-faire], nghĩa là cứ để các tác nhân kinh tế tự tìm lấy cách làm việc rồi đâu sẽ có đó, sẽ có một bàn tay vô hình an bài tất cả một cách tốt đẹp. Không nên hiểu Smith một cách quá khích, "cứ để họ làm" không có nghĩa là "cứ để nó chết" hay "cứ để mặc chúng nó tàn sát nhau". Đó chỉ là một cách để nói rằng các tác viên kinh tế qua cọ sát và trao đổi thường ngày, mỗi người theo đuổi mục đích lợi nhuận riêng của mình, dần dần sẽ đi đến một thăng bằng trong đó mọi người đều có phần và đều đóng góp cho phát triển của xã hội ; nhà nước nên giới hạn ở mức tối thiểu những can thiệp của mình, nhất là không nên áp đặt những kế hoạch và mục tiêu. Như thế không có nghĩa là vai trò của nhà nước không quan trọng. Trái lại, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định thăng bằng đó sẽ như thế nào. Sẽ là một thăng bằng rừng rú trong đó kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu hay là một thăng bằng văn minh và nhân bản. Sẽ là một thăng bằng ở mức độ thấp hay cao. Nhưng đây không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, mà là một vấn đề văn hóa và chính trị.

Vai trò chính của nhà nước là vai trò của một trọng tài, bảo đảm pháp luật, trật tự và an ninh, diệt trừ tham nhũng và tạo những quan hệ ngoại giao tốt đẹp đồng thời thông tin chính xác về sinh hoạt kinh tế thế giới để giúp doanh nhân tìm thị trường và tránh những sai lầm tai hại. Muốn giúp doanh nhân tìm thị trường xuất cảng thì phải bổ nhiệm ở các tòa đại sứ những tùy viên thương mại có khả năng nhất, nhưng đó không phải là một vấn đề kinh tế mà chỉ là vấn đề làm việc đứng đắn, không tham nhũng, không phe đảng.

Kinh tế phát triển là do những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật làm gia tăng năng suất, nhưng gia tăng năng suất là một vấn đề của các chuyên viên trong các xí nghiệp.

Kinh tế cũng phát triển nhờ tìm được các thị trường mới hoặc cải thiện các thị trường có sẵn, trong cũng như ngoài nước. Nhưng trong một nền kinh tế thị trường cố gắng này là của các công ty chứ không phải của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế là tạo điều kiện để doanh nhân hoạt động dễ dàng và bảo đảm cạnh tranh công bằng. Chỉ có thế. Chấm, và chấm hết.

Những điều mà chúng ta thường coi là nằm trong một chính sách kinh tế thường thường là những việc chớ nên làm, thí dụ như nâng đỡ một ngành này, hạn chế một ngành khác, cho nhập cảng một loại hàng này, cấm nhập cảng một mặt hàng khác hay đánh thuế nặng một số mặt hàng. Những can thiệp đó làm lệch lạc đi qui luật thị trường và tạo ra những hậu quả tai hại gấp nhiều lần lợi ích trước mắt mà thường người ta chỉ khám phá ra sau khi đã quá trễ. Tại sao ? Bởi vì không ai có thể nắm vững được hết những liên hệ đan xen chằng chịt của một thị trường với hàng chục triệu đối tác, mọi tính toán đều chỉ có thể là giản đơn và do đó đều sai.

Việc khuyến khích phát triển các vùng nghèo khó thực ra cũng không nằm trong một chính sách kinh tế. Giải pháp cũng rất hiển nhiên : mở mang đường giao thông và viễn thông và tản quyền tối đa để doanh nhân có thể giải quyết mọi vấn đề thủ tục và hành chánh ngay tại chỗ. Lúc đó không cần khuyến khích doanh nhân cũng sẽ tìm đến những vùng nhà đất rẻ, nhân lực rẻ và dồi dào, thị trường chưa được cung ứng đúng mức.

Nhưng nếu kế hoạch không nên có, chính sách cũng không cần thiết thì vẫn còn lại vấn đề quản lý kinh tế. Ở đây vấn đề cũng khá giản dị và trong lô gích thị trường các giải pháp cũng khá hiển nhiên. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước thực ra không có gì phức tạp.

Trước hết cần có luật lệ kinh doanh đúng đắn và giản dị. Đây có lẽ là điều khó nhất về mặt chuyên môn. Cần đối thoại thường trực với doanh nhân và các nghiệp đoàn để hiểu biết các vấn đề đặt ra cho các xí nghiệp và các ngành nghề ; cần hiểu biết luật lệ và thông tục thương mại quốc tế. Luật pháp một mặt phải thích nghi thường trực với thực tế nhưng mặt khác cũng không được thay đổi quá đột ngột, đặt doanh nhân trước những bất ngờ bối rối. Luật cũng phải được mọi người thấu hiểu và hiểu như nhau. Xét cho cùng thì cách để làm luật hay nhất vẫn là thảo luận tự do. Đó cũng là cách để mọi người biết đến luật và hiểu luật.

Vấn đề sau đó là áp dụng luật pháp một cách công minh, điều này cần những luật sư và những thẩm phán có khả năng và một bộ máy tư pháp không tham nhũng, nhưng đây không phải là một vấn đề kinh tế, mà là một vấn đề chính trị và đào tạo.

Vấn đề quan trọng thực sự là quản lý tiền tệ, nhưng ở đây kinh nghiệm đã chứng tỏ rằng giải pháp cũng khá hiển nhiên, chỉ cần áp dụng đúng đắn :

- Không nên áp đặt một hối suất cố định cho đồng tiền, trái lại nên thả nổi hối suất để nó thích nghi hàng ngày với thực tế, và như thế tránh được những đầu cơ trên hối suất ;

- Kiểm soát lãi suất căn bản (lãi suất chiết khấu) để giữ cho lạm phát đừng quá cao và cũng đừng quá thấp, đâu đó ở mức từ 3 tới 5% đối với một nước như Việt Nam. Tìm ra một tỷ lệ lạm phát thích hợp là một điều rất khó, chỉ có thể làm được sau một thời gian dò dẫm, một khi đã tìm được rồi canh chừng nó, nếu mức lạm phát lên cao hơn mức thích hợp thì tăng lãi suất chiết khấu, nếu mức lạm phát xuống dưới mức thích hợp thì giảm lãi suất chiết khấu.

Quản lý tiền tệ không phức tạp nhưng phải dò dẫm một cách thận trọng. Trên thực tế khuynh hướng chung của thế giới là không trao quyền phát hành tiền và quản lý lãi suất cho nhà nước mà trao cho một ngân hàng trung ương với một thống đốc và một hội đồng quản trị do chính phủ bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, hay gần như độc lập, với chính quyền. Như vậy trách nhiệm quản lý kinh tế của nhà nước thực ra càng ngày càng nhẹ đi.

Vấn đề khó khăn nhất, và cũng hoàn toàn thuộc quyền của chính quyền, là quyết định mức thuế cho từng khoản lợi tức (lương bổng, lãi xí nghiệp, lời chứng khoán, v.v...) và cho từng ngành, từng mặt hàng. Ở đây cũng có một trường phái đòi giản dị hóa thuế bằng cách đánh một thuế suất gộp cho tất cả [flat tax]. Có thể đây chỉ là một sự giản dị hóa quá đáng và không thực tiễn nhưng ít nhất nó cũng chứng tỏ có một chiều hướng giảm thiểu vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. Chính sách thuế tùy thuộc trước hết ở triết lý chính trị. Thuế là phương tiện để nhà nước thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của mình : bảo vệ lãnh thổ, an ninh quốc gia, công lý, giáo dục, y tế, và nhất là liên đới xã hội. Mức thuế cao thì doanh nhân sẽ chán nản, không phấn khởi đầu tư nữa và hoạt động kinh tế sẽ suy giảm kéo theo sự suy giảm của tổng sản lượng quốc gia và mức sống. Ngược lại, thuế không đủ (thế nào là đủ là một vấn đề khác) thì nhà nước sẽ không làm tròn được nhiệm vụ của mình, nhất là nhiệm vụ cứu trợ và liên đới, xã hội sẽ căng thẳng và hỗn loạn, trật tự trị an không được bảo đảm, giáo dục và đào tạo sẽ xuống cấp với hậu quả sau cùng là chính hoạt động kinh tế cũng sẽ suy sụp. Ở đây cũng thế, không có một lý thuyết nào cả, phải dò dẫm và rút kinh nghiệm mà thôi và chỉ có thể thay đổi một cách rất chậm chạp và thận trọng. Vấn đề xem ra có vẻ phức tạp, nhưng thực ra không phức tạp vì việc tăng hay giảm thuế thường thường chỉ ở mức độ một hay một nửa phần trăm.

Tóm lại, quản lý kinh tế là trách nhiệm thực sự và cần thiết của nhà nước, nhưng không phải là khó. Có thể nói một nhà nước chỉ bảo đảm được luật pháp, trật tự an ninh và nhất là không tham nhũng cũng đã rất tốt rồi.

Tuy nhiên có một vấn đề quan trọng liên quan đến triết lý chính trị là có nên tách rời trách nhiệm liên đới xã hội và hoạt động của các xí nghiệp hay không. Nói một cách khác, có nên buộc các xí nghiệp phải trực tiếp đảm nhiệm một phần công tác liên đới xã hội như qui định một số ngày huấn luyện nhất định trong năm, tôn trọng một số ngày nghỉ lớn (như năm hay sáu tuần lễ tại châu Âu), trả lương những ngày nghỉ bệnh, chịu một số ràng buộc trong việc sa thải v.v... hay không ?

Mọi xã hội văn minh đều phải đặc biệt quan tâm đến liên đới xã hội. Xã hội văn minh không thể từ chối cho người què một cặp nạng. Không một ưu tư phát triển nào có thể biện minh cho sự bỏ rơi những người nghèo khó, thương tật. Giúp đỡ những người yếu đuối hoặc thiếu may mắn để họ vươn lên đóng góp cho sự phồn vinh chung, không những chỉ là một phản xạ nhân bản mà còn là một hành động thông minh của cộng đồng quốc gia.

Dĩ nhiên là các xí nghiệp phải tham gia vào công tác liên đới xã hội, nhưng tham gia như thế nào và đến một mức độ nào tùy thuộc ở triết lý chính trị. Quan niệm của tôi là phải tách rời hai nhiệm vụ. Liên đới xã hội là trách nhiệm của nhà nước, bổn phận của các công ty là sản xuất thực nhiều và tìm lợi nhuận tối đa ; không nên bắt các xí nghiệp phải đảm nhận một nhiệm vụ không nằm trong chức năng tự nhiên của nó. Điều này có nghĩa là các qui định về trách nhiệm của các công ty phải thực sự là tối thiểu, phần còn lại là thỏa thuận giữa xí nghiệp và công nhân theo từng trường hợp. Nhà nước chỉ bảo đảm sự thực hiện đứng đắn của hợp đồng. Liên đới xã hội sẽ do nhà nước thực hiện với sự hợp tác của các tổ chức thiện nguyện thuộc xã hội dân sự. Và nhà nước đảm nhiệm chức năng liên đới xã hội của mình qua thuế. Nếu thấy cần tăng thêm các trợ cấp xã hội, nhà nước sẽ tăng thuế ; ngược lại, nếu thấy nhu cầu bớt căng thẳng nhà nước có thể giảm thuế. Và nhà nước sẽ phải có những sáng kiến để động viên xã hội dân sự đóng góp và tham gia vào các công tác liên đới xã hội.

Tới đây, để chấm dứt với huyền thoại về sự phức tạp và cao siêu của kinh tế, xin thêm vài ghi chú về lạm phát và thất nghiệp :

Các vấn đề quản lý kinh tế có thể rất nhức nhối nhưng đều giản dị về mặt lý thuyết. Riêng hai vấn đề lạm phát và thất nghiệp thường hay gây một số ngộ nhận, các ngộ nhận này lại thường được các nhà kinh tế khuếch đại ra trong mục đích làm cho mình có vẻ thông thái hơn. Hậu quả là quần chúng hoang mang và nghĩ rằng đó là những vấn đề rất phức tạp.

Khẩu hiệu thông thường là chống lạm phát, nhưng chống lạm phát không có nghĩa là đem tỷ lệ lạm phát xuống số không. Ở một mức độ thấp, lạm phát không những có lợi mà còn cần thiết. Thí dụ, một mặt, nhiều khi cần giảm lương công nhân trong một số ngành nghề đang suy thoái không còn khả năng sử dụng số lượng nhân công mà chúng đang sử dụng nữa để thúc đẩy các công nhân tự cố gắng di chuyển sang những hoạt động khác đang phát triển, có như thế sinh hoạt kinh tế mới năng động và không ngừng thích nghi với tiến hóa, có như thế kinh tế mới lành mạnh. Nhưng, mặt khác, các xí nghiệp không thể cắt giảm lương mà không gây bất mãn và xáo trộn. Giải pháp, cần thiết vì lý do tâm lý, là vẫn tăng lương mà thực sự là giảm. Ở một mức lạm phát 5%, xí nghiệp (và cả nhà nước) có thể tăng lương cho công nhân (hay công chức) 2%. Thực tế là lương đã giảm 3% và công nhân thấy rõ điều đó, nhưng sẽ không phản ứng giận dữ.

Khẩu hiệu thông thường cũng là toàn dụng, nghĩa là mọi người đều có công ăn việc làm, nhưng một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp, không cần phải ở số không, cũng làm cho các hoạt động kinh tế mất đi sự co giãn, và đưa tới bế tắc vì một mặt cản trở sự phát triển của các ngành cần công nhân, một mặt đưa tới tăng lương và lạm phát, chưa kể là còn không kích thích sự học hỏi và cầu tiến. Vả lại một tỷ lệ thất nghiệp thấp, ở mức 4% hay 5%, hoàn toàn có thể quản lý được trong một quốc gia đã dự trù các biện pháp liên đới xã hội.

Vậy phải nói một cách bộc trực là quốc gia nào cũng cần duy trì một mức lạm phát vừa đúng và một tỷ lệ thất nghiệp "thích nghi". Vấn đề khó là làm thế nào để định ra tỷ lệ lạm phát vừa đúng và tỷ lệ thất nghiệp thích nghi. Đây cũng không phải là một vấn đề lý thuyết mà chỉ là kết quả của một sự quan sát trong một thời gian dài. Hai tỷ lệ này thay đổi theo từng quốc gia, và trong mỗi quốc gia theo từng thời kỳ. Sau khi đã tìm ra các tỷ lệ này, dụng cụ chính để giữ lạm phát và thất nghiệp ở đó là lãi suất cơ bản. Một cách giản dị, trừ khi có những biến cố đặc biệt, khi lãi suất cơ bản được hạ thấp thì tín dụng và đầu tư sẽ gia tăng, kéo theo sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia và số công ăn việc làm, nghĩa là sẽ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, khi lãi suất cơ bản tăng lên thì tín dụng và đầu tư sẽ giảm, lạm phát sẽ giảm nhưng hoạt động kinh tế cũng giảm và thất nghiệp sẽ tăng. Nhà nước, hoặc ngân hàng trung ương, phải hết sức thận trọng trong việc giảm lãi suất mặc dầu nó có tác dụng kích thích các hoạt động kinh tế vì kinh nghiệm ở mọi nước cho thấy chống lạm phát là một việc rất tốn kém, tốn kém gấp bội lợi ích có được vào lúc hạ lãi suất để kích thích tăng trưởng.

Cần lưu ý một sự kiện mà mọi chính quyền tại các nước phát triển đều biết nhưng không nhìn nhận : tỷ lệ lạm phát thay đổi chậm hơn so với tỷ lệ thất nghiệp. Do đó các ngân hàng trung ương thường quan sát tỷ lệ thất nghiệp để có thể hành động nhanh chóng. Khi cảm thấy tỷ lệ thất nghiệp xuống quá thấp so với "tỷ lệ thất nghiệp tối ưu", họ gia tăng lãi suất để nâng số người thất nghiệp lên. Dĩ nhiên mục đích tốt là để trả lại cho kinh tế mức độ co giãn cần thiết và tránh lạm phát, nhưng thực tế là họ đã căn cứ vào tỷ lệ thất nghiệp để canh chừng lạm phát và cố tình gia tăng mức độ thất nghiệp khi thấy nó xuống quá thấp. Điều này họ làm và phải làm nhưng không bao giờ dám công khai nhìn nhận vì đối với công chúng nó quá phũ phàng. Họ biện bạch loanh quanh. Hậu qua là cuộc thảo luận về kinh tế càng trở thành khó hiểu.

Những cuộc tranh cãi về kinh tế trong các nước dân chủ thường hay rất sôi nổi vì chúng đụng chạm tới túi tiền của mọi người, và do đó được chăm chú theo dõi, chúng cũng rắc rối vì phải dung hòa những quyền lợi mâu thuẫn, nhưng không phải vì chúng thực sự cao siêu và phức tạp.

*********************

 

Quốc gia, dân tộc

 

4-tqan23

Trên những khái niệm rất cơ bản về chính trị hầu như chúng ta không có cùng một ngôn ngữ. Thảo luận chính trị là điều khá mới đối với người Việt, nếu thêm vào đó chúng ta lại không đồng ý trên những khái niệm như quốc gia, dân tộc, nhà nước, v.v... thì cuộc thảo luận lại càng khó khăn.

Điều này thực ra không đáng ngạc nhiên lắm vì ít nhất hai lý do.

Lý do đầu tiên là do chính sự phức tạp của những khái niệm chính trị cơ bản, đó là những phát minh rất phức tạp của trí tuệ mà cho tới nay vẫn chưa có đồng thuận dứt khoát.

Lý do thứ hai là do cách tiếp cận của người Việt Nam (đúng ra là của người Trung Hoa mà người Việt bắt chước) đối với các khái niệm chính trị đến từ phương Tây. Cách tiếp cận này là lấy một từ ngữ được coi là tương đương của ngôn ngữ Trung Hoa để dịch một từ ngữ của phương Tây, trong khi những từ ngữ "tương đương" đó có thể chẳng tương đương chút nào vì chứa đựng hai khái niệm khác nhau, có khi còn ngược hẳn với nhau. Cách tiếp cận này đưa đến ngộ nhận cả trong các cuộc thảo luận lẫn trong cách suy nghĩ.

Một vài thí dụ :

Càng ngày tôi càng được đọc nhiều bài của các vị rất uyên thâm, trong đó từ ngữ "dân tộc" được kèm theo trong ngoặc đơn chữ nation. Các vị này muốn nhấn mạnh dân tộc có nghĩa là nation trong tiếng Pháp và tiếng Anh. Khi viết "dân tộc [nation]" chắc chắn tác giả rất tin tưởng về sự hiểu biết của mình và sợ người đọc không hiểu. Tuy nhiên cũng những vị này, có khi trong cùng một bài, lại dịch peuple, hay people, cũng là dân tộc, trong khi trong tiếng Pháp peuple và nation là hai khái niệm khác nhau.

Tôi cũng đã từng gặp nhiều vị dịch từ kép nation-state (hay État-nation) là "quốc gia dân tộc". Tôi tưởng tượng ra sự bối rối của những độc giả có đôi chút kiến thức chính trị. Cụm từ "quốc gia dân tộc" trong tiếng Việt từ trước đến nay vẫn chỉ là cách viết tắt của "quốc gia và dân tộc". Tranh đấu vì "quốc gia dân tộc" có nghĩa là tranh đấu cho quốc gia và dân tộc. Mỗi ngôn ngữ có những đặc tính riêng, một trong những đặc tính của tiếng Việt là hay tiết kiệm chữ "và" ; chúng ta hay nói "anh em họ hàng" thay vì "anh em và họ hàng". Tinh thần "quốc gia dân tộc" có nghĩa là tinh thần quốc gia và dân tộc. Từ kép nation-state (hay État-nation) có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ còn trở lại trong đoạn sau.

Ngộ nghĩnh hơn nữa, nhiều vị còn chiết tự những danh từ chính trị theo chữ Hán. Chẳng hạn như nhiều vị giải thích danh từ "pháp luật" bằng cách giải nghĩa "pháp" là gì, "luật" là gì, v.v... trong khi khái niệm pháp luật của phương Tây và của Trung Hoa rất khác nhau, và tác giả đang nói về luật pháp theo nghĩa thông dụng đối với mọi người hôm nay, nghĩa là theo quan niệm phương Tây, do đó không thể chiết tự theo chữ Hán.

Chúng ta đã không quen với lý luận chính trị mà lại hiểu khác nhau những khái niệm cơ bản thì làm sao hiểu được nhau ? Như vậy chúng ta cần đồng ý với nhau trên ý nghĩa của một số từ ngữ trước khi muốn đồng ý với nhau về lập trường. Có thể sau khi đã đồng ý với nhau về từ ngữ, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta không có gì khác biệt.

Tôi sắp liều lĩnh đề nghị một số định nghĩa cho một số từ ngữ cần thiết cho các cuộc thảo luận chính trị. Liều lĩnh, bởi vì quốc gia, dân tộc, nhà nước, chủ quyền, v.v... là những ý niệm tuy thường gặp nhưng lại rất phức tạp. Đã có hàng trăm cuốn sách trong đó có những cuốn dầy cả ngàn trang đề cập tới những khái niệm này mà vẫn chưa sáng tỏ. Những đề nghị sau đây chỉ có thể là sơ sài. Tôi cũng tự giới hạn trong cái nhìn của một người dân chủ, nhưng điều này có lẽ cũng không thực sự là một giới hạn nếu ta hiểu rằng cái nhìn dân chủ là cái nhìn chung của cả thế giới hiện nay. Độc giả sẽ lưu ý là tôi dùng nhiều qui chiếu bằng tiếng Pháp hơn là tiếng Anh. Lý do là các dân tộc Anh và Mỹ nặng đầu óc thực nghiệm, không mất thì giờ để định nghĩa những ý niệm phức tạp về mặt lý thuyết. Họ cũng không có yêu cầu, bởi vì gần như họ không có tranh luận chính trị thực sự. Họ đã chấp nhận ngay từ đầu chủ nghĩa cá nhân tự do, với cái hệ luận tất yếu của nó là dân chủ thị trường, và không bao giờ phải đặt lại những vấn đề triết lý chính trị và chủ nghĩa. Đó là những dân tộc may mắn, nhưng cũng vì thế mà tư tưởng chính trị của họ không phong phú bằng Pháp, đất nước của các cuộc cách mạng và xung đột ý thức hệ.

Quốc gia

Trước hết là quốc gia, danh từ Việt Nam để dịch chữ nation, cả trong tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Quốc gia là một khái niệm rất trừu tượng được phát minh ra trong cuộc cách mạng Pháp để bao gồm một lãnh thổ, một chính quyền, một di sản văn hóa trong đó thông thường ngôn ngữ là chính, một lịch sử và một tập thể những con người chấp nhận lịch sử đó và di sản văn hóa đó, chịu sự chi phối của chính quyền đó và cùng xây dựng với nhau một tương lai chung.

Điều khó hiểu trong định nghĩa này là phần lớn các thành tố của quốc gia lại không chắc chắn. Quốc gia Hoa Kỳ chẳng hạn đã ra đời vào lúc hầu như chưa có lịch sử với nhiều di sản văn hóa khác nhau. Lãnh thổ có thể bị chiếm đóng, chính quyền có thể bị lưu vong hoặc tạm thời tan rã, ngôn ngữ có thể không phải chỉ có một, v.v... mà quốc gia vẫn có hoặc vẫn còn. Ngoại trừ dân tộc và ý định chia sẻ một tương lai chung hình như không có thành tố nào tuyệt đối phải có, mặc dầu nếu có cũng có thể làm rõ hơn sự hiện hữu của quốc gia. Một thành tố mạnh, thí dụ như di sản văn hóa, có thể bù lại cho sự yếu kém, hoặc ngay cả vắng mặt, của một hay nhiều thành tố khác.

Người ta có thể định nghĩa một quốc gia bình thường nhưng lại gặp bối rối lớn trong những trường hợp đặc biệt. Quốc gia trước hết là một khái niệm tinh thần và tình cảm, trong đó nguyện ước chia sẻ một tương lai chung có tầm quan trọng quyết định. Một quốc gia trong đó mọi người không theo đuổi một dự án tương lai chung, vì có nội chiến hay vì quốc gia bị đặt dưới quyền định đoạt tùy tiện của một số người trong khi đa số dân chúng không có tiếng nói trong những quyết định lớn, không còn là một quốc gia đúng nghĩa.

Đồng nghĩa với quốc gia là nước, đất nước, non sông hay tổ quốc được dùng tùy trường hợp.

"Nước" được dùng khi ta muốn nhấn mạnh đến yếu tố địa lý. "Về nước" có nghĩa là về lãnh thổ Việt Nam. Nước cũng được dùng khi muốn đề cập đến quốc gia một cách giản dị. Tương đương với nước trong tiếng Pháp là pays, trong tiếng Anh là country.

"Đất nước" được dùng để chỉ quốc gia một cách tình cảm. "Non sông" càng tình cảm hơn vì bé nhỏ và gần gũi hơn, cũng như "sơn hà", "sông núi".

"Tổ quốc" cũng tình cảm như đất nước, non sông, nhưng nhấn mạnh hơn về lịch sử và di sản văn hóa. Chính vì nó gợi lại lịch sử và tổ tiên, mà tổ quốc có tính thiêng liêng hơn, và do đó cũng xa cách hơn "đất nước". Tổ quốc, do đó, chỉ nên dùng trong những trường hợp đặc biệt trang trọng. (Dùng "tổ quốc" để đặt tên cho một tổ chức chính trị, nhất là một tổ chức bù nhìn như "Mặt Trận Tổ Quốc", là một sự thô bỉ).

Nhà nước

Đi kèm với quốc gia là nhà nước, danh từ của tiếng Việt tương đương với từ État của tiếng Pháp hay state của tiếng Anh. Chắc không khỏi có những độc giả xua tay phản bác : "Tầm bậy, quốc là nước, gia là nhà, quốc gia là nhà nước". Xin chớ nóng nảy, chúng ta đang nói tiếng Việt, và không phải tiếng Việt nào cũng phải rập khuôn theo chữ Hán. Máy bay trực thăng không đồng nghĩa với "máy bay lên thẳng" vì có những máy bay lên thẳng không phải là trực thăng. Trực thăng là loại máy bay lên thẳng và có quạt trên nóc. Người Việt Nam ta hiểu khá rõ thế nào là nhà nước. Đó là toàn bộ guồng máy chính quyền : lập pháp, tư pháp và hành pháp. Nói một cách giản dị đó là quốc hội, các tòa án, chính phủ và các cơ quan thuộc quyền điều khiển của chính phủ.

Nếu định nghĩa vật chất của nhà nước khá giản dị thì ý nghĩa và vai trò của nó lại rất phức tạp. Georges Burdeau, một trong những học giả nổi tiếng của nước Pháp về các định chế chính trị, từng nói rằng nhà nước là phát minh phức tạp nhất của loài người từ ngày khai thiên lập địa. Nhận định này không phải là quá đáng.

Đặc tính nổi bật của nhà nước là nhà nước là thực thể duy nhất trong quốc gia có quyền áp đặt một cưỡng chế thân xác trên con người. Nhưng đây là một đặc tính chứ không phải là một định nghĩa.

Nhà nước [État, State] đảm nhiệm vai trò đại diện toàn quyền và duy nhất cho quốc gia. Thế giới chỉ biết đến quốc gia qua nhà nước. Đối với quốc tế, nhà nước là quốc gia. Chính vì thế mà một số nước đã tự giới thiệu mình là État hay state. Trước đây chúng ta đã có Quốc Gia Việt Nam, được dịch ra là État du Vietnam, hay State of Viet Nam. Hiện nay có État d'Israel hay State of Israel, sắp tới có État Palestinien hay Palestinian State, có thể dịch là Quốc Gia Do Thái, Quốc Gia Palestine, nhưng thực ra là Nhà Nước Do Thái, Nhà Nước Palestine. Lý do khiến các quốc gia này hay xưng mình là État hay State thay vì nation là vì ý niệm nation vừa phức tạp vừa tình cảm mà lại thiếu sự xác nhận rõ rệt và mạnh mẽ là có một guồng máy chính quyền tự chủ.

Nếu sau hiệp ước Hạ Long năm 1948, ông Bảo Đại thay vì dùng cụm từ Quốc Gia Việt Nam đã dùng cụm từ Nhà Nước Việt Nam để dịch cụm từ "État du Vietnam" mà ông đã thỏa thuận với nước Pháp thì chúng ta đã tránh được sự lấn cấn này.

Một chức năng khác của nhà nước là có toàn quyền, theo luật định, trên khắp lãnh thổ. Một quốc gia chỉ có thể có một nhà nước. Trong trường hợp của các nước theo thể chế liên bang phải hiểu rằng quyền hành của các chính quyền tiểu bang là quyền được chính quyền liên bang chuyển nhượng. Nhà nước Hoa Kỳ là chính quyền liên bang. Trong trường hợp nước Mỹ, chúng ta lại gặp một sự lẫn lộn do lịch sử để lại là các bang cũng được gọi là state, nhưng đó không phải là những nhà nước cũng không phải là những quốc gia. Người Đức chỉ gọi các bang là các länder [vùng].

Một danh từ khác đáng lẽ đã có thể dùng để thay thế cho nhà nước là chính quyền. Trong tiếng Việt, thói quen cho đến nay là "chính quyền" thường được dùng để chỉ bộ máy hành pháp, đôi khi bao gồm cả các tòa án. Thực ra chính quyền và nhà nước chỉ là một.

Nhà nước - quốc gia

Sự lẫn lộn giữa nhà nước và quốc gia, do cách chuyển ngữ État, hay state, thành êquốc giaê đã khiến nhiều tác giả bối rối trước cụm từ État-nation (hay nation-state). Bối rối là vì État đã dịch là"quốc gia", nếu nation cũng là quốc gia thì không lẽ cụm từ nation-state là quốc gia-quốc gia hay sao ? Để tháo gỡ bối rối này, các vị dịch nation là dân tộc, như vậy cụm từ nation-state sẽ là "quốc gia dân tộc". Thế là xong ! Nhưng thực ra đây chỉ là tránh ngã xe đạp để rồi bị rớt máy bay vì cụm từ "quốc gia dân tộc" hoàn toàn chẳng có một liên hệ nào với nation-state. Nếu nhìn vào nội dung và tìm cách diễn tả nội dung thay vì chỉ tìm cách giải quyết vấn đề thuật ngữ chúng ta sẽ thoải mái hơn nhiều.

Nation-state (État-nation) có nghĩa gì ? Đây là một cụm từ chỉ mới xuất hiện trong ngôn ngữ chính trị gần đây mà thôi, từ khi khuynh hướng toàn cầu hóa xuất hiện đòi xét lại quyền hạn của các nhà nước để đi đến một thế giới đồng điệu hơn, với một luật pháp quốc tế và trong đó một số quyền hành của các nhà nước được chuyển giao cho các định chế cao hơn, hoặc quốc tế như Liên Hiệp Quốc, hoặc khu vực kiểu Liên Hiệp Châu Âu. Trong chiều sâu đây là một sự xét lại khái niệm quốc gia với nhận định rằng quốc gia không phải là đơn vị cao nhất đối với một con người, mà phải được đặt dưới một số định chế quốc tế. Khuynh hướng này gặp phản ứng của một số quốc gia muốn giữ tối đa bản thể và quyền tự quyết. Cụm từ nation-state, hay État-nation, trong đó state, hay État, là danh từ và nation đóng vai trò tính từ, xuất hiện để chỉ các nhà nước muốn giữ nguyên ý nghĩa quốc gia của mình. Nói một cách khác, đó là những nhà nước độc lập, những nhà nước giữ tối đa chủ quyền. Như vậy dịch cụm từ nation-state, hay État-nation, không có gì khó. Ta có thể dịch là nhà nước độc lập, nhà nước tự chủ, nhà nước toàn quyền, hoặc nhà nước - quốc gia, ba cụm từ này hoàn toàn đồng nghĩa. Nhưng dứt khoát không phải là "quốc gia dân tộc".

Những nhà nước đầu tiên ra đời đã là những nhà nước-quốc gia. Nhưng từ nửa sau thế kỷ 19 trở đi đã bùng ra một cuộc tranh cãi sôi nổi về các ý niệm quốc gia và nhà nước. Karl Marx tỏ ra đặc biệt tích cực trong cuộc tranh luận này. Một trong những sai lầm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản là đã không đánh giá đúng vai trò của các nhà nước-quốc gia. Sự tập trung quyền lực trên toàn thế giới không những là điều không thể thực hiện được mà còn là điều không nên thực hiện vì nặng nề và trói buộc. Ngay cả những nước lớn cũng còn phải tản quyền thành những địa phương tự quản với một chính quyền trung ương làm công tác điều hợp. Thế giới đại đồng trong tương lai sẽ là thế giới của sự phối hợp giữa những quốc gia chung sống và hợp tác với nhau, cùng chia sẻ với nhau một số giá trị phổ cập và cùng chấp nhận một số qui ước chung chứ không phải thế giới trong đó các quốc gia bị xóa bỏ. Sự ra đời của những nhà nước-quốc gia thay thế cho những nhà nước quân chủ đã là là một biến cố trọng đại thúc đẩy tiến bộ. Các nhà nước-quốc gia đầu tiên đã hình thành tại phương Tây và đã đem lại cho các dân tộc phương Tây một sức mạnh hơn hẳn.

Ý niệm quốc gia, như một thực thể của chung thay vì của một người hay một nhóm người, đã động viên được sinh lực và sáng kiến của mọi người và đã khai sinh ra tổ chức nhà nước hiện đại. Khi đi chinh phục thế giới vào thế kỷ 18 và 19, sức mạnh chính của người phương Tây không phải là vũ khí và kỹ thuật hiện đại mà là tổ chức nhà nước hiện đại phục vụ cho một quốc gia được quan niệm như là không gian liên đới của một tập thể người có nhiều điểm chung và cùng xây dựng một tương lai chung. Quan niệm này khiến quốc gia vừa có ích vừa cần thiết, nó cũng đem lại cho nhà nước sự chính đáng và, do đó, sức mạnh.

Một chú thích. Cũng như tất cả mọi ý niệm mới, ý niệm quốc gia đã không tránh khỏi những tật bệnh trong quá trình hình thành và trưởng thành ; mà tật bệnh độc hại nhất là chủ nghĩa quốc gia [nationalisme] coi quốc gia như là cứu cánh duy nhất và không gian trách nhiệm duy nhất. Chủ nghĩa quốc gia đồng hóa sự thù ghét các dân tộc khác với sự quí mến dân tộc mình. Nó lẫn lộn tinh thần bài ngoại với lòng yêu nước, nó là một quan niệm hẹp hòi về dân tộc. Nhưng tật bệnh này ngày càng được nhận diện và điều trị, và một khi đã được điều trị xong, ý niệm quốc gia sẽ lấy lại được ý nghĩa thực sự của nó, sẽ đẹp hơn, mạnh hơn chứ không yếu đi.

Dân tộc

Còn dân tộc ? Cho đến nay mọi người Việt Nam có kiến thức Tây học đều đã đồng ý "dân tộc" tương đương với từ peuple của tiếng Pháp và people của tiếng Anh. "Dân" luôn luôn phải là người và chỉ có thể là người. Chưa thấy ai đặt lại cách dịch này. Vấn đề là một số học giả cũng dùng tiếng "dân tộc" để dịch chữ nation. Cách dịch này chắc chắn là sai vì trong tiếng Pháp nation và peuple là hai ý niệm rất khác nhau về mặt lý thuyết (trong tiếng Anh, sự khác biệt giữa "people" và "nation" không rõ rệt bằng). Chúng ta đều hiểu dân tộc là tiếng dùng để chỉ toàn bộ những con người của một quốc gia, nghĩa là những người chấp nhận đảm nhiệm cùng nhau một di sản và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Mặc dầu sự hiện diện của chữ "tộc", dân tộc không mang một nội dung huyết thống chủng tộc nào. Trong những yếu tố cấu tạo của quốc gia (lãnh thổ, nhà nước, lịch sử, di sản văn hóa, dân tộc và dự án tương lai chung) chắc chắn dân tộc là yếu tố hữu hình quan trọng nhất (cũng như dự án tương lai là yếu tố vô hình quan trọng nhất), nhưng không phải là tất cả. Đồng hóa dân tộc với quốc gia có thể là gần đúng về mặt sinh hoạt thường ngày nhưng rất sai về mặt lý thuyết như ta sẽ trở lại trong phần sau, khi đề cập đến chủ quyền.

Cần lưu ý là dân tộc, cũng như peuple, không phải chỉ là những công dân hiện có, mà còn có ý nghĩa vượt thời gian, ngược về quá khứ và nối dài về tương lai, để chỉ chung những con người đã, đang và sẽ thuộc về quốc gia. Khi ta nói đến "cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam" thì dân tộc là để chỉ chung một khối người từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18.

Một danh từ tương đương với dân tộc là nhân dân. Cho đến nay "nhân dân" vẫn được dùng để chỉ dân tộc trong trường hợp ta muốn nhấn mạnh tới những người đang sống. Đôi khi nhân dân cũng được dùng kèm với một địa danh để chỉ tập thể những người dân trong một vùng. Chẳng hạn như "nhân dân Thái Bình". Đây có thể coi là một sự phong phú của tiếng Việt, nhưng về nội dung dân tộc và nhân dân không khác nhau.

"Dân" và "dân chúng" dùng để chỉ mọi người hay toàn bộ những con người sống dưới sự quản lý của một nhà nước. "Quần chúng" chỉ có nghĩa giản dị là khối đông người, thường được dùng để đối lại với một thiểu số chọn lọc.

Cần lưu ý một sự cẩu thả của chế độ cộng sản Việt Nam là họ dùng cả danh từ "dân tộc"â để chỉ các sắc tộc, như "dân tộc Kinh", "dân tộc Tày", "dân tộc Dao", v.v... để rồi đi đến nhận xét lúng túng "dân tộc Việt Nam gồm nhiều dân tộc", trong khi trong nhiều trường hợp họ lại quả quyết "dân tộc Việt Nam là một !". Sự cẩu thả còn đẻ ra một quái thai về ngôn ngữ : "người dân tộc", được dùng để chỉ những người thuộc một trong những sắc tộc ít người.

Chủ quyền

Còn chủ quyền [souveraineté] ? Như đã nói, khái niệm quốc gia [nation], dù đã hiện hữu bàng bạc từ lâu do sự sống chung của những con người trên cùng một lãnh thổ và chia sẻ cùng một số phận, chỉ được chính thức phát minh ra trong cách mạng Pháp 1789 vì nhu cầu trả lời câu hỏi chủ quyền, tức quyền cao nhất và bao trùm, thuộc về ai một khi chế độ quân chủ đã bị lật đổ ?

Trước đó Jean-Jacques Rousseau, thủy tổ đích thực của chủ nghĩa cộng sản, chủ trương rằng chủ quyền thuộc về dân tộc, hay nhân dân. Mới thoạt nghe, lập trường này có vẻ hợp lý nhưng đem ra thực hiện người ta nhận ra là nó đưa đến những hậu quả nguy hiểm.

Nếu nhân dân làm chủ thì hệ luận tất nhiên là phải làm thế nào để nhân dân trực tiếp cầm quyền. Nếu khối nhân dân quá đông thì nhân dân sẽ chỉ định ra, bằng cách này hay cách khác, những đại biểu thay mặt cho mình, nhưng theo triết lý "nhân dân làm chủ" mỗi đại biểu này phải hoàn toàn làm việc theo mệnh lệnh của người dân trong đơn vị đã chỉ định mình và có thể bị thay đổi bất cứ lúc nào. Nhiều nhà tư tưởng trong cách mạng Pháp đã nhìn thấy mối nguy của triết lý chính trị này. Trước hết là quần chúng không đủ trình độ để quyết định những vấn đề khó khăn và phức tạp, kế đó là cơ quan quyền lực sẽ xung đột và tê liệt vì những đòi hỏi ích kỷ của địa phương, sau cùng và nguy hiểm nhất là nếu có một đảng mị dân hay khủng bố, hay vừa mị dân vừa khủng bố, nào đó khống chế được quần chúng thì họ sẽ nhân danh nhân dân nắm tất cả quyền hành, biến các đại biểu thành những con tin, và đưa đến độc tài toàn trị ; người dân sẽ mất tất cả mọi quyền, có thể kể cả quyền sống.

Từ đó nảy ra một cuộc tranh cãi, và tranh đấu, sôi nổi giữa một phe quá khích chủ trương chủ quyền dân tộc [souveraineté populaire] và một phe ôn hòa chủ trương chủ quyền quốc gia [souveraineté nationale]. Hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền nhân dân không ai khác hơn là các đảng cộng sản và phát-xít, trong khi hậu duệ của phe chủ trương chủ quyền quốc gia là các chế độ dân chủ.

Theo quan điểm của trường phái dân chủ thì nhân dân không làm chủ, chủ quyền thuộc về một cái gì đó cao hơn cả nhân dân, bao gồm cả lãnh thổ, lịch sử, di sản văn hóa, chính quyền, dân tộc và dự án tương lai chung. Điều này có nghĩa là ngay cả nếu tất cả mọi người đồng ý, họ vẫn không có toàn quyền trên đất nước. Khối toàn dân này vẫn phải tôn trọng một số nguyên tắc. Các cử tri ở mỗi đơn vị không bầu ra đại biểu của đơn vị mình, mà chỉ được trao trách nhiệm chọn lựa một trong những đại biểu cho quốc gia. Một khi đã được bầu, người đại biểu là của quốc gia, không nhận mệnh lệnh của cử tri trong đơn vị mà được hoàn toàn hành động theo sự suy nghĩ của mình, các cử tri trong đơn vị không có quyền bãi nhiệm đại biểu trong suốt nhiệm kỳ. Những nhà tư tưởng dân chủ cho rằng phương thức này, một mặt, bảo đảm cho công việc chung được quản lý một cách thông minh và, mặt khác, tránh được nguy cơ chủ quyền bị một đảng chiếm đoạt. Trên thực tế, người đại biểu muốn được đơn vị mình tiếp tục tín nhiệm cũng phải lắng nghe và thỏa mãn nguyện vọng của các cử tri, người dân vẫn làm chủ, nhưng một cách tương đối và gián tiếp. Triết lý chủ quyền quốc gia còn một hệ luận khác, tuy lý thuyết nhưng rất quan trọng, là nhà nước (chính phủ và quốc hội) tuy xuất phát từ một đa số vẫn không thể tự coi là có thể hoàn toàn định đoạt một cách tùy tiện. Do đó các thiểu số vẫn phải được tôn trọng.

Ngược lại, đối với phe cộng sản, quốc gia chỉ là một phát minh của giai cấp tư sản nhằm chiếm đoạt quyền làm chủ của quần chúng vô sản cho liên minh tư sản-trí thức.

Một lần nữa, cần nhắc lại quốc gia là một ý niệm trừu tượng được phe dân chủ phát minh để giải quyết bài toán dân chủ.

Đến đây, xin lưu ý bốn điều :

Một là khái niệm quốc gia đã nảy sinh cùng với khái niệm dân chủ, hơi sau một chút thì đúng hơn. Trong một bài báo tôi đã viết như vậy và đã bị nhiều phản bác, nhưng quả thực là như thế. Các vương quốc trước đây, kể cả Việt Nam, không phải là những quốc gia thực sự, lãnh thổ không rõ rệt, người dân không chia sẻ một dự án tương lai chung nào cả mà chỉ chịu đựng ách thống trị được áp đặt bằng bạo lực. Các vương quốc đó có thể là bước đầu để xây dựng một quốc gia chứ chưa phải là những quốc gia.

Hai là cần lưu ý sự hụt hẫng của thói quen chiết tự. Cho đến nay chúng ta vẫn hiểu dân chủ một cách giản dị là dân làm chủ. Cũng đúng thôi, nhưng không đúng hẳn. Về lý thuyết, các chế độ dân chủ đã ra đời do sự phủ nhận "chủ quyền dân tộc" để thay thế bằng "chủ quyền quốc gia", nói một cách khác, theo triết lý dân chủ thì dân không làm chủ, quốc gia mới là chủ ; dân là thành phần chủ yếu của quốc gia, thay mặt quốc gia để chọn lựa phương thức tổ chức xã hội và chỉ định những người cầm quyền, nhưng không phải là quốc gia. Quốc gia là một sáng tạo của trí tuệ cao hơn dân tộc. Quốc gia là một khái niệm tinh thần và tình cảm.

Ba là cuộc tranh luận giữa hai trường phái chủ quyền dân tộc (cộng sản và phát-xít) và chủ quyền quốc gia (dân chủ) hiện nay tuy đã ngã ngũ trên thế giới (với sự toàn thắng của phe dân chủ) mà vẫn còn dai dẳng ở Việt Nam. Chúng ta có thể lưu ý sự phủ nhận khái niệm quốc gia của mọi chế độ cộng sản, kể cả chế độ cộng sản Việt Nam. Họ chỉ sử dụng từ ngữ dân tộc, hay nhân dân, hay quốc dân, trong ngôn ngữ chính trị : Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, kinh tế quốc dân, quân đội nhân dân, công an nhân dân, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Từ "quốc gia" mới chỉ được dùng gần đây và chỉ có nghĩa địa lý, tương đương với "toàn lãnh thổ", như "giải bóng đá quốc gia". Những người dân chủ cần lưu ý điểm này trong cuộc vận động tư tưởng hiện nay. Lấn cấn từ ngữ có thể đưa đến bối rối trong lý luận. Đảng cộng sản đã thống trị trong một nửa thế kỷ tại miền Bắc và một phần tư thế kỷ trên cả nước, di sản ngôn ngữ của họ chắc chắn là đáng kể, điều quan trọng là phải biết mình đang nói về cái gì.

Bốn là chế độ cộng sản Việt Nam còn đóng góp thêm cho sự hỗn loạn ngôn ngữ bằng khẩu hiệu "dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý". Thực ra, trong các chế độ cộng sản, nhà nước thực sự chính là bộ máy đảng. Nhà nước này đứng trên quốc gia và đứng ngoài pháp luật mà nó ban hành, trong khi nhà nước chính thức chỉ là công cụ của bộ máy đảng. Tách rời đảng và nhà nước là thay đổi hẳn bản chất của chế độ. Chính vì thế mà chủ trương tách rời đảng và nhà nước có lúc được nêu ra đã mau chóng bị bóp nghẹt.

Quốc gia, nhà nước và dân chủ

Như định nghĩa trên đây thì quốc gia là trên hết. Nhà nước tuy là đại diện toàn quyền nhưng cũng chỉ là công cụ của quốc gia với sứ mệnh phục vụ quốc gia. Như vậy dứt khoát nhà nước phải ở trong và ở dưới quốc gia. Nhưng đây chỉ là lý luận trong tinh thần dân chủ. Trên thực tế tùy ở bản chất của nhà nước mà nó cao hơn hay thấp hơn quốc gia.

Trong các chế độ quân chủ chuyên chính trước đây, chỉ có chính quyền của vua và những thần dân sống trên đất của vua chứ không có quốc gia đúng nghĩa. Nhà nước là tất cả và tất cả nhà nước qui vào vua.

Trong các chế độ độc tài, nhà nước định đoạt một cách tùy tiện. Nhà nước ban hành luật lệ nhưng lại không bị ràng buộc bởi chính các luật lệ đó. Vai trò của người dân hoặc bị phủ nhận (như trong các chế độ độc tài quân phiệt), hoặc bị thoán đoạt (như trong các chế độ cộng sản). Không làm gì có sự chia sẻ tự nguyện một tương lai chung, chỉ có một ước vọng chung là tự do và dân chủ, nhưng đó là một dự án tương lai chung bị cấm đoán. Nhà nước khống chế và ở trên quốc gia. Quốc gia, nếu có, cũng chỉ ở tình trạng thoi thóp.

Điều cần lưu ý là ngay trong các chế độ được coi là dân chủ chân chính như nước Pháp, tương quan giữa nhà nước và quốc gia cũng chưa rõ rệt. Các nhà tư tưởng chính trị Pháp vẫn còn đang đồng ý trên một điểm quan trọng, và trầm trọng, là vấn đề của nước Pháp vẫn còn là giảm nhẹ nhà nước xuống cho ngang hàng với quốc gia [réduction de l'État à la Nation]. Nhà nước Pháp vẫn chưa thực sự dân chủ, bởi vì nó vẫn còn quá nặng, quá lớn, quá tập trung và bởi vì quyền hành của tổng thống Pháp vẫn còn quá áp đảo. Chế độ tổng thống cộng với nhà nước tập trung đưa đến một chế độ có thể gọi là quân chủ cộng hòa, trong đó nhà nước ở trên quốc gia và áp đảo quốc gia. Kết luận này của các nhà tư tưởng Pháp thực đáng suy ngẫm.

Dân chủ thực sự chỉ đến khi nhà nước ở trong và ở dưới quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia, có vai trò tạo điều kiện lý tưởng nhất để mọi người chia sẻ, hưởng ứng và cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Nó phải nhẹ, phải tản quyền, phải kính trọng mọi người và liên tục mưu tìm đồng thuận của mọi người. Nói một cách khác, nó phải đa nguyên. Dân chủ thực sự là dân chủ đa nguyên. Đó là chế độ tương lai của loài người tiến bộ.

Đất nước ta

Tất cả phần trên chỉ là một sự ghi chép với đôi chút chủ quan, chẳng hạn như sự nhấn mạnh trên tầm quan trọng của một dự án tương lai chung trong định nghĩa quốc gia. Mong các vị học giả châm chước cho về một sự tóm lược quá đáng trên những khái niệm tự chúng vốn đã rất tế nhị mà lại còn bị ngôn ngữ chính trị thông thường làm mờ tối thêm.

Sau lời cáo lỗi thành thực đó, tôi cũng xin được có một ý kiến cá nhân về đất nước mình.

Sự phát minh ra khái niệm quốc gia (và nhà nước hiện đại dựa trên đồng thuận dân tộc mà nó đi kèm) đã là phát minh trọng đại nhất từ xưa đến nay của loài người. Nó đã được quan niệm như là một không gian liên đới của một cố gắng chung. Nó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Nhưng ngày nay các quốc gia tiên tiến đã đạt đến một mức độ phát triển ở đó sự cần thiết của quốc gia không còn là tuyệt đối nữa. Họ đang xét lại ý niệm quốc gia trong ý định đi một bước tiến xa hơn nữa.

Nhưng khái niệm quốc gia đã rất cần thiết và có ích cho một giai đoạn phát triển. Thảm kịch của chúng ta là chúng ta còn đang ở một giai đoạn phát triển rất cần quốc gia, nhưng chúng ta chưa hình thành nổi một quốc gia vào lúc ý niệm này đã sắp sửa bị vượt qua. Như vậy chúng ta vừa phải xây dựng một quốc gia vừa phải đúng hẹn với trào lưu tiến bộ của thế giới.

Công việc đã khó lại càng khó hơn vì phải nói người Việt chúng ta có rất ít suy tư về quốc gia và dân tộc. Chúng ta có lẽ là dân tộc duy nhất trên thế giới này gọi quốc gia là "nước". Đối với chúng ta, quốc gia vẫn chỉ giản dị là nước, là đất nước, là sông núi, quanh quẩn vẫn là đất và nước, những yếu tố hoàn toàn vật chất và địa lý. Điều này tố giác rõ rệt sự thiếu vắng của một tư tưởng chính trị và môt suy tư về quốc gia. Do đó tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của chúng ta dĩ nhiên là rất yếu. Chính vì lòng yêu nước của chúng ta quá yếu mà chúng ta vẫn chưa hình thành được một lực lượng dân tộc dân chủ có tầm vóc để chấp nhận thách đố của một đảng cầm quyền đã đưa đất nước từ đổ vỡ này đến thảm kịch khác. Đừng chạy trốn sự thực, có hiểu được bệnh của mình mới có hy vọng lành bệnh.

Người Việt Nam chúng ta rất cần một quốc gia, như là một không gian liên đới của một cố gắng chung, để nhờ đó cùng nhau vươn lên tới một cuộc sống phồn vinh và đáng tự hào. Và trong thế kỷ 21, với nhân quyền và dân chủ được coi như những giá trị cơ bản và phổ cập, sẽ chỉ tồn tại được những quốc gia không những được định nghĩa như một không gian liên đới, một tình cảm và một tương lai chung, mà còn phải thành công trong việc đem lại phúc lợi và niềm tự hào cho người dân. Nói một cách khác, những quốc gia thực sự dân chủ, đa nguyên và được quản lý một cách thông minh. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ.

Hiện nay chúng ta chỉ có một chế độ độc tài, quản lý đất nước một cách tồi dở, với một dự án tương lai mà nhà nước áp đặt nhưng bị toàn dân khước từ là "xây dựng chủ nghĩa xã hội". Sự tồn vong của đất nước ta đang bị đe dọa nặng nề, không phải vì một ngoại bang nào dòm ngó xâm chiếm mà vì bị tụt hậu nhục nhã giữa trào lưu tiến bộ mãnh liệt của thế giới và vì, hơn thế nữa, dưới mắt người dân, quốc gia là một gánh nặng chứ không phải một chỗ dựa.

Chúng ta phải có dân chủ và phải có dân chủ thật mau chóng ; đấu tranh cho dân chủ là tên gọi mới của cuộc đấu tranh giữ nước. Chúng ta phải tiến và phải tiến nhanh, nghĩa là phải vượt lên trên mọi hận thù, chia rẽ và ngờ vực để động viên được mọi khối óc, mọi trái tim và mọi bàn tay Việt Nam trong một cố gắng chung ; hòa giải và hòa hợp dân tộc là tiếng kêu cứu khẩn cấp của tổ quốc lâm nguy.

***********************

 

Vài vấn đề về dân chủ

 

4-tqan24bis

Trong những trang trước, khi bàn về phát triển cũng như về những khái niệm quốc gia, dân tộc, chúng ta đã đề cập tới dân chủ.

Dân tộc ta đã là nạn nhân của sự thiếu vắng dân chủ nhưng lại chưa thực sự ý thức được sự cần thiết của nó. Điều đáng ngạc nhiên là ít ai ngạc nhiên về sự nghịch lý này, kể cả đa số trí thức. Cần nhấn mạnh trạng từ "thực sự" vì quả nhiên đại đa số người Việt, nếu không muốn nói là tất cả, muốn có dân chủ, nhưng đó chỉ là một ý muốn bàng bạc thôi. Nếu đem dân chủ cho không thì chúng ta vui vẻ chấp nhận, nhưng nếu phải trả một giá nào đó thì rất ít người sẵn sàng, dù cái giá đó vào thời điểm này chỉ rất vừa phải. Chúng ta chưa có dân chủ vì chúng ta chưa thực sự tin tưởng vào sự cần thiết của nó. Chúng ta chưa thấy nó quan trọng cho đời sống của chính chúng ta. Nếu chúng ta thực sự muốn dân chủ chúng ta sẽ có dân chủ.

Khi ngồi viết những dòng này, vào cuối năm 2000, tôi phải nhìn nhận một điều : chế độ cộng sản hiện nay dưới con mắt của một quan sát viên quốc tế khách quan không phải là một chế độ hung bạo. Độc tài, ngoan cố, lì lợm, gian trá thì đúng, nhưng đàn áp đối lập dân chủ một cách hung bạo thì không. Từ tháng Giêng 1996 đến nay, họ đã chỉ bắt giam một trí thức đối lập, Nguyễn Thanh Giang, trong vòng hai tháng, quản chế và sách nhiễu bốn người, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự và Mai Thái Lĩnh, và cắt điện thoại của khoảng hai mươi người. Theo tiêu chuẩn quốc tế đó không phải là một chính sách đàn áp dã man. Sự dã man đã có trước đây : chỉ vì phát biểu lập trường của mình mà Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Đình Huy, Lê Công Minh, Đinh Thế Vinh, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát và hàng trăm người khác đã bị xử những bản án rất nặng nề, chung thân, hai mươi năm tù, v.v... Nhiều người dân chủ khác như Phạm Quang Cảnh, Trần Thanh Đình, v.v. đã bị xử tử. Nhưng ngày nay sự hung bạo đã giảm rất nhiều. Chế độ cộng sản đã nhượng bộ trước dư luận thế giới hay họ đã chỉ nhận ra là phong trào dân chủ không nguy hiểm ? Đó còn là một câu hỏi, nhưng thực tế là hiện nay phong trào dân chủ yếu vì nó thực sự yếu chứ không phải vì bị đàn áp thẳng tay, và nó yếu vì ý thức dân chủ của chúng ta không mạnh.

Ý thức về dân chủ của người Việt Nam yếu kém là một điều không thể chối cãi. Tôi rủ một trí thức rất có trình độ và thiện chí tham gia vận động dân chủ và được trả lời là anh không thích chính trị, anh chỉ dồn hết cố gắng để tranh đấu cho nhân quyền. Trong cách suy nghĩ của anh, tranh đấu cho nhân quyền là điều trong sạch, gần như một công tác từ thiện, trong khi đấu tranh cho dân chủ là "làm chính trị" với tất cả những phức tạp và xấu xa như thủ đoạn, lòng tham, v.v... Một trí thức từ trong nước ra nói với tôi rằng người trong nước (ý anh ta muốn nói trí thức trong nước) chỉ quan tâm tới những vấn đề cụ thể như công ăn việc làm thôi, còn dân chủ thì ít ai nghĩ tới vì không thực tiễn.

Vậy vấn đề đầu tiên cần được đặt ra là dân chủ là gì ?

Tôi xin đưa một định nghĩa ngắn gọn, hiểu được cho mọi người và cũng được mọi người chấp nhận, dù các học giả uyên thâm có thể nghĩ là chưa đầy đủ : dân chủ là một cách tổ chức xã hội, nói khác đi một chế độ chính trị, trong đó các quyền tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử được tôn trọng.

Tất cả những quyền tự do này, và nhiều quyền tự do khác nữa, được qui định rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 (và được Liên Hiệp Quốc đưa vào hiến chương). Như vậy bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng là bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Dân Chủ. Phân biệt nhân quyền và dân chủ là sai. Nhân quyền và dân chủ chỉ là hai cách nhìn của cùng một vấn đề. Nhân quyền là dân chủ dưới góc nhìn cá nhân, dân chủ là nhân quyền dưới góc nhìn quốc gia.

Đã là một cách tổ chức thì về phương diện triết lý dân chủ chỉ là một phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là làm thế nào để con người ngày một tự do hơn và sung túc hơn. Nói một cách huyïch toẹt thì cứu cánh là vừa có tự do vừa có tiền. Nếu có một phương thức nào khác cho phép đạt tới một mức độ tự do lớn hơn và một mức sống sung mãn cao hơn thì ta không bắt buộc phải chọn dân chủ. Nhưng dân chủ là kết quả của kinh nghiệm nhiều ngàn năm dò dẫm của loài người. Churchill đã nói một câu châm biếm bất hủ rằng dân chủ là chế độ chính trị dở nhất, trừ khi ta so sánh nó với mọi chế độ chính trị đã được biết tới. Cho tới nay dân chủ đã là chế độ chính trị duy nhất đem lại tự do và hạnh phúc, vậy thì cũng là một chọn lựa bắt buộc giữa những chế độ chính trị đã được thử nghiệm. Một điều bắt buộc phải có mà ta chưa có cũng phải được coi như một mục đích giai đoạn trước khi nhìn xa hơn. Ở thời điểm này chúng ta có quyền tiếp tục suy nghĩ về những phương thức khác hay hơn dân chủ để làm cho thế giới giàu đẹp và tự do hơn nhưng chúng ta không thể chấp nhận thái độ từ khước dân chủ, nhất là để ngoan cố duy trì một chế độ đã được thử nghiệm và đã thất bại.

Nhận định dân chủ chỉ là một phương tiện, hay một mục tiêu giai đoạn, là cần thiết cho chính cố gắng xây dựng dân chủ. Nếu ta coi tự do (và cái hệ quả đã được chứng minh của nó là phồn vinh) mới là cứu cánh thì chính quyền trước hết phải là một chính quyền tối thiểu đã. Chính quyền dân chủ, nghĩa là chính quyền tốt, cũng không bằng không có chính quyền nếu không thực sự cần thiết. Một chính quyền dù xuất phát từ những cuộc bầu cử tự do và lương thiện nhưng nếu can thiệp vào tất cả mọi địa hạt, qui định quá nhiều và đảm nhiệm quá nhiều sinh hoạt cũng là một chính quyền kềnh càng gây trở ngại cho người dân. Ý thức rõ ràng rằng tự do mới là cứu cánh chúng ta sẽ hiểu rằng chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất và nguyên tắc tiên quyết của một nhà nước là những gì người dân có thể làm được nhà nước sẽ không làm.

Cũng cần ý thức rằng nền tảng của tự do là sự hiểu biết, quyền tự do căn bản nhất là quyền được thông tin đầy đủ. Tự do thực sự là tự do trong sự hiểu biết chứ không phải tự do trong sự u mê. Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo, thượng đế đã tạo ra Adam và Eva, hai người nhởn nhơ trong vườn địa đàng trong sự ngu dốt, họ chỉ thành những con người tự do sau khi Eva rủ chồng ăn trái cây hiểu biết. Thượng đế đã chỉ tạo ra hai động vật, Eva đã tạo ra loài người.

Chúng ta đã nói, nhưng cần nhắc lại vì tầm quan trọng của nó, đặc tính đầu tiên của dân chủ là cho tới nay nó đã là thể chế duy nhất đem lại tự do và sung túc. Sự thực hiển nhiên này thực ra mới chỉ hoàn toàn sáng tỏ trước mắt mọi người từ hơn một thập niên nay sau khi phong trào cộng sản thế giới sụp đổ. Trước đó những thành quả ngoạn mục của các chế độ phát-xít Nhật, Đức, Ý, rồi các chế độ cộng sản, nhất là Liên Xô, có lúc đã làm một số khá đông người tin rằng một chế độ độc tài thông minh có thể đem lại một nhịp độ phát triển nhanh hơn. Thực ra những "thành tích ngoạn mục" của các chế độ độc tài, phát-xít và cộng sản, ngay cả khi có thực, cũng chỉ là những bịp bợm nếu được đồng hóa với phát triển kinh tế. Về bản chất đó là sự gia tăng của đầu ra [output] hậu quả của sự gia tăng của đầu vào [input]. Cố gắng lớn hơn đã đưa tới kết quả lớn hơn chứ không phải bộ máy đã hiệu lực hơn. Trong hầu như mọi trường hợp, cố gắng quá lớn về nhân lực và tài nguyên còn đưa tới sự kiệt quệ sau đó. Tần Thủy Hoàng đã xây được Vạn lý Trường Thành, các vua Ai Cập đã xây được những kim tự tháp chỉ nhờ áp đặt những hy sinh tàn bạo ; chế độ Liên Xô sau này đã bắn được nhiều vệ tinh vào không gian và chế ra hàng ngàn đầu đạn nguyên tử nhờ những đầu tư quá sức chịu đựng của Liên Xô. Tất cả những "thành quả" ấy đã được xây dựng trên máu và nước mắt và đã làm kiệt quệ tiềm năng quốc gia. Các chế độ bạo ngược chà đạp lên tự do đã đành nhưng cũng không đem lại phát triển. Phát triển là gia tăng đầu ra ở một tỷ lệ lớn hơn so với gia tăng của đầu vào, nghĩa là không những gia tăng đầu tư mà còn gia tăng năng suất nhờ một cách làm việc hay hơn.

Đặc tính quan trọng thứ hai của dân chủ là hầu như mọi suy tư lớn về dân chủ đã xuất hiện như một sự phản bác đối với chế độ đương hành. Platon, nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên, thực ra đã lý luận về dân chủ để phản bác chế độ dân chủ sơ khai được hình thành một cách ngẫu nhiên tại Hy Lạp. Ông định nghĩa dân chủ như sau : "Dân chủ đến sau khi những người nghèo lật đổ những người giàu, tàn sát một số, lưu đày một số và giữ lại một số khác. Đó là chính quyền của người nghèo". Với một nhận định khinh bỉ như vậy dĩ nhiên Platon đề nghị một chế độ khác mà ông cho là lý tưởng hơn, đó là chế độ cộng hòa đặt dưới sự lãnh đạo của những hiền triết. Tuy phản bác dân chủ như nó xuất hiện vào thời điểm của ông, nhưng thực ra Platon đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu cho dân chủ sau này. Các nhà tư tưởng dân chủ tại La Mã và tại châu Âu sau này cũng đã lên tiếng để phản bác các chế độ đương thời của họ. Những người đấu tranh cho dân chủ ở mọi nước hiện nay cũng không khác. Như vậy một nét đặc thù cần được ghi nhận của dân chủ là nó có sự năng động riêng của nó. Do bản chất phản bác của nó, dân chủ luôn luôn nhận ra và sửa đổi những sai lầm của chính nó. Nhờ khả năng tự phê phán và điều chỉnh đó, một mặt ta không lo các xã hội dân chủ sẽ thỏa mãn và dừng lại ở một lúc nào đó, nghĩa là sẽ không có sự chấm dứt của lịch sử như Francis Fukuyama tiên đoán, và mặt khác cũng không cần lo sợ sẽ có "dân chủ quá độ".

Đặc tính quan trọng thứ ba của dân chủ là những cuộc tranh luận về dân chủ tự chúng đã rất có lợi cho xã hội. Thảo luận về dân chủ là thảo luận về công việc quốc gia, nhờ đó, một mặt, người dân hiểu được việc nước và cảm thấy gắn bó với đất nước, mặt khác, họ cũng qua đó mà hấp thụ được nhiều kiến thức mà họ khó có thể có một cách khác. Tôi xin dẫn chứng một kinh nghiệm mà cá nhân mình đã sống. Nhóm Thông Luận chúng tôi mặc dầu đại bộ phận là thành phần được gọi (hay bị gọi) là trí thức khoa bảng nhưng phần lớn là kỹ sư. Chúng tôi chỉ có rất ít chuyên viên về luật. Về luật hiến pháp chúng tôi lại càng thiếu. Năm 1995, để chuẩn bị cho việc tu chỉnh Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996, chúng tôi quyết định thảo luận và biểu quyết một cách dân chủ việc đề nghị một định chế chính trị cho Việt Nam trước các đại hội thành viên. Nhiều người cho đây là một quyết định liều lĩnh và phiêu lưu vì anh em phần đông có rất ít kiến thức về các định chế chính trị và có thể biểu quyết không đúng. Chúng tôi đã có rất nhiều cuộc thảo luận sôi nổi và chính nhờ những cuộc thảo luận này mà kiến thức chính trị trung bình của tổ chức cao hẳn lên. Phải hơn một năm sau chúng tôi mới đi đến đồng thuận nhưng sau đó tôi nhận xét là sự hiểu biết của nhiều bạn tôi về các định chế chính trị còn hơn cả một số vị mà trước đó chúng tôi coi là chuyên viên về hiến pháp. Tôi khám phá một cách thích thú một điều không ngờ là phúc lợi của dân chủ càng lớn khi quần chúng thiếu hiểu biết về chính trị. Chính khía cạnh mà nhiều người coi là tiêu cực của dân chủ, nghĩa là những cuộc thảo luận triền miên do sự thiếu hiểu biết, lại là khía cạnh tích cực nhất, bởi vì sau đó là một bước nhảy vọt của sự hiểu biết, và sự hiểu biết là nền tảng của tiến bộ.

Đặc tính thứ tư của dân chủ, đã được đề cập tới trong một chương trước nhưng vẫn cần nhắc lại, là nó là điều kiện không có không được để có thể nói tới quốc gia hay lòng yêu nước một cách đúng đắn. Khi đất nước đã bị chiếm đoạt làm của riêng dưới quyền định đoạt tùy tiện của một người hay một nhóm người thì dân chúng không còn lý do gì để phải lo âu cho đất nước cả. Lý do thật giản dị : "đất nước đã là của riêng anh thì anh cứ lo liệu lấy một mình, tôi đã không có quyền thì cũng chẳng có bổn phận. Chưa kể là nếu anh chà đạp tôi thì tôi còn phá cho bõ ghét, không phá công khai được thì tôi cũng phá ngầm".

Các chế độ độc tài như vậy hủy diệt ý thức quốc gia và lòng yêu nước. Di sản độc hại nhất của các chế độ cộng sản chính là sự phá hoại này. Một thí dụ : ai cũng biết nước Nga ngày nay đang bị khủng hoảng tài chính rất nặng và hầu như không có lối thoát. Tuy nhiên rất ít người biết rằng đó là một cuộc khủng hoảng tài chính rất kỳ cục : nước Nga thiếu tiền trong khi vẫn xuất siêu (xuất cảng nhiều hơn nhập cảng) một cách liên tục và ở một mức độ rất cao. Trên nguyên tắc tình trạng đó phải đưa tới một sự dồi dào ngoại tệ, nhưng ngược lại ngân quỹ nhà nước Nga lại thiếu ngoại tệ một cách cực kỳ bi đát, ngân sách trống rỗng đến nỗi không trả được cả lương công chức. Đó là vì người Nga hoàn toàn không còn tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, họ coi trốn thuế và gian lận thuế như một môn thể thao lành mạnh. Những người có tiền thì cất giấu trong nhà hoặc tại các ngân hàng ngoại quốc. Nước Nga rộng lớn mênh mông như vậy nhưng cũng là một trong những nước mà môi trường bị hủy hoại trầm trọng nhất bởi vì người Nga thiếu tinh thần quốc gia và do đó hành xử một cách vô trách nhiệm.

Các chế độ độc tài còn tạo ra một mối nguy khác là, để động viên dân chúng trong sự thiếu vắng của lòng yêu nước, chúng thường khơi dậy tinh thần dân tộc hẹp hòi, nghĩa là sự thù ghét người khác, để thay thế cho lòng yêu nước, nghĩa là sự yêu mến và gắn bó với dân tộc và đất nước mình. Tinh thần dân tộc hẹp hòi này ngăn cản những hợp tác lành mạnh giữa các quốc gia và là một đe dọa cho hòa bình.

Sau cùng, cần lưu ý đặc biệt là các chế độ cộng sản đã phản bội chính lý tưởng cộng sản. Trong cuộc thảo luận sôi nổi về dân chủ ở thế kỷ 19, vấn đề trọng tâm là làm thế nào để thực hiện dân chủ. Những lý thuyết gia cộng sản tiên khởi, kể cả Karl Marx khi ông chưa bị lão hóa, không hề đặt lại nguyên tắc cơ bản của dân chủ (tự do ngôn luận, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử). Họ chỉ cố gắng tìm một phương thức để bảo đảm dân chủ thực sự, nghĩa là dân chủ cho những người nghèo khổ, chiếm đại đa số lúc đó. Lý luận của họ là những người nghèo và thiếu kiến thức sẽ không có khả năng, cả tinh thần lẫn vật chất, để sử dụng các quyền tự do mà họ được hưởng trên lý thuyết và như thế chính quyền cuối cùng vẫn ở trong tay một thiểu số giàu có. Từ đó họ chủ trương tập thể hóa các phương tiện sản xuất và phủ nhận quyền tư hữu để bảo đảm sự bình đẳng thực sự về chính trị. Về cơ bản những ý kiến của họ nhằm cải tiến chứ không phủ nhận dân chủ. Trong hai hướng để tăng cường dân chủ, một hướng là nâng cao các quyền tự do chính trị và một hướng thứ hai là mở rộng dân chủ cho thật nhiều người, họ đã đặt trọng tâm vào hướng thứ hai và coi nhẹ hướng thứ nhất. Họ vấp vào hai sai lầm cơ bản, một về chính trị và một về kinh tế. Về chính trị, họ không nhận thức được rằng dân chủ là một chế độ mới và sẽ còn thay đổi không những về hình thức mà còn cả về nội dung quyền lực chính trị, họ đã quá nóng vội. Về kinh tế, họ nhìn hoạt động kinh tế như một trò chơi với tổng số cố định người này được người kia phải thua ; họ không nghĩ là mọi người đều có thể cùng tiến lên sự sung túc ; họ không thể tưởng tượng một xã hội trong đó những người thất nghiệp cũng sẽ có xe hơi. Họ lầm, nhưng dứt khoát họ không phủ nhận dân chủ. Trong đầu óc họ không có độc quyền báo chí của nhà nước, không có những cuộc bầu cử bịp bợm với kết quả định sẵn, không có những nhà tù chính trị, không có việc cấm đoán các hội đoàn. Các chế độ cộng sản sau này thực ra chỉ là một sự thoán đoạt, sau khi đã phản bội, những tư tưởng của các nhà lý thuyết cộng sản đầu tiên.

Bây giờ hãy bàn về một số lấn cấn của người Việt Nam chung quanh vấn đề dân chủ.

Dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn ! Lập luận này được đảng cộng sản đưa ra như một sự thực hiển nhiên không cần chứng minh và được một số người chấp nhận một cách thụ động. Nhưng nó chỉ là một lập luận lỗ mãng, bất chấp cả lý luận lẫn thực tại đất nước.

Hiện nay nước ta đang hỗn loạn và - hơn thế nữa - đang rất hỗn loạn. Trộm cướp hoành hành như chỗ không người. Buôn lậu có kho nhà nước, tàu chiến, xe tăng. Móc ngoặc, tham nhũng, hối mại quyền thế trở thành một nếp sống. Cây rừng, bờ biển, danh lam thắng cảnh, ngay cả di tích lịch sử bị phá hủy một cách vô tội vạ. Chưa kể loạn sứ quân, bắt người tùy hứng, giam giữ, tra tấn. Ngoại trừ chính sách khủng bố chính trị, Việt Nam đang ở trong một tình trạng gần như vô chính phủ.

Kinh nghiệm sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam và những trao đổi với những người đã trưởng thành và làm việc trong các chế độ độc tài khác cho tôi một kết luận rất rõ rệt : không cứ gì Việt Nam mà mọi chế độ cộng sản, nói chung mọi chế độ độc tài, đều rất hỗn loạn. Một người có thể vượt đèn đỏ, đánh vợ con, đả thương trầm trọng đồng nghiệp, gây mất mát nặng nề cho cơ quan mình, phóng uế bừa bãi, v.v... mà chỉ bị cảnh cáo, hay phạt qua loa. Các chế độ độc tài dung túng sự vô kỷ luật và vô trách nhiệm để bù lại sự thiếu tự do, họ chỉ thù ghét những phát biểu đứng đắn của trí tuệ, chứ không thù ghét những tệ đoan xã hội.

Dân chủ không đưa tới hỗn loạn, trái lại nó đem lại luật chơi rõ ràng minh bạch, nó bảo đảm công lý và luật pháp, nó đem lại tinh thần trách nhiệm vì nó cho phép mọi người có chỗ đứng và tiếng nói trong việc nước. Nó đem lại trật tự trong đầu óc con người và trong xã hội.

Dân chủ không có lợi cho phát triển kinh tế ! Một xác quyết nông cạn phát xuất từ ngộ nhận về bản chất của dân chủ do sự nhận diện hời hợt hoặc gian trá về những lúng túng của một số quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ. Dân chủ không phải là chiếc đũa thần giải quyết mọi vấn đề và đem lại phồn vinh. Dân chủ không thay thế cho những chính sách và những con người. Dân chủ là một phương thức sinh hoạt cho phép đặt vấn đề một cách đứng đắn, tìm giải pháp một cách đứng đắn và chọn lựa một cách đúng đắn những người trách nhiệm. Tự nó, dân chủ không giải quyết một vấn đề nào cả, nhưng không có dân chủ thì không có vấn đề nào có thể giải quyết được một cách đứng đắn. Chính vì thế mà mức độ dân chủ quyết định giới hạn cho phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Chính vì thế mà các nước giàu mạnh đều là các nước dân chủ trong khi các nước độc tài đều chậm tiến.

Khuyết tật của thái độ "thực tiễn" cho rằng nên gác lại những đòi hỏi chính trị để tập trung cố gắng vào vấn đề phát triển kinh tế rồi chính phát triển kinh tế sẽ đem lại dân chủ chính là ở chỗ nó không thực tiễn : chấp nhận độc tài để hy vọng phát triển kinh tế người ta sẽ chỉ có độc tài mà không có phát triển.

Dân chủ không đem cơm áo và hạnh phúc để phát không. Dân chủ không bố thí. Nó tạo ra những con người tự do và trách nhiệm, làm chủ đời mình, phát huy được khả năng và sáng kiến của mình để xây dựng đời mình và đất nước mình. Chính vì thế mà dân chủ đã giải tỏa được sinh lực quốc gia và đem đến sự phồn vinh. Chính vì thế mà dân chủ mới đẹp.

Dân chủ là một xa xỉ phẩm đối với các nước thiếu mở mang ! Quả là một thái độ miệt thị và kỳ thị chủng tộc. Ở miệng những người thuộc các quốc gia thiếu mở mang, nó còn là một sự mạ lị chính mình một cách ngu ngốc. Dân chủ không phải là một xa xỉ phẩm đối với bất cứ một dân tộc nào. Khi các dân tộc phương Tây bắt đầu dân chủ hóa, họ ở một mức độ kinh tế, xã hội và dân trí còn kém xa chúng ta ngày hôm nay. Riêng người Mỹ chưa hề biết một chế độ nào khác hơn là dân chủ, họ bắt đầu dân chủ từ những con người đến từ nhiều nguồn gốc và phong tục, thiếu thốn tất cả, kể cả văn hóa và đồng thuận. Nhờ có dân chủ họ đã tạo ra quốc gia hùng mạnh nhất trái đất.

Nhưng dân chủ có thể là một xa xỉ phẩm, và trên thực tế, dân chủ đã từng là xa xỉ phẩm trong nhiều trường hợp. Dân chủ bịp bợm quả nhiên là một trò chơi vô cùng tốn kém và là một gánh nặng. Trái lại dân chủ thành thực là một dụng cụ quí giá. Những người cầm quyền cho rằng dân chủ là một xa xỉ phẩm thực ra chỉ có ý định dàn dựng một thứ dân chủ bịp bợm.

Dân chủ thành thực không nhất thiết là dân chủ hoàn chỉnh, mức độ hoàn chỉnh của một nền dân chủ tăng lên với thời gian, cùng với mức độ phát triển và dân trí ; nhưng một nền dân chủ thành thực vẫn có những thành tố tối thiểu của nó : tự do ngôn luận, đa đảng và bầu cử tự do. Kinh nghiệm cá nhân qua những trao đổi đã cho tôi một nhận định là tất cả những người lo âu một cách lương thiện rằng dân chủ có thể là một xa xỉ phẩm khi dân trí còn thấp đều làm một sai lầm chung : họ trừu tượng hóa dân chủ. Nếu thay vì đặt câu hỏi : "Việt Nam có thể có dân chủ không ?", họ đặt những câu hỏi cụ thể như "có nên có tự do ngôn luận không, có nên có bầu cử, tự do lập hội không, v.v...", họ sẽ không còn băn khoăn.

Cũng không nên cuồng tín và quá khích. Phải thực tế mà nhìn nhận dân chủ sẽ không thể đem lại tất cả mọi phúc lợi của nó trong một tình trạng dân trí chưa mở mang. Nhưng điều cần phải ý thức một cách rất rõ rệt là dù trong hoàn cảnh nào dân chủ cũng hơn xa độc tài.

Dân chủ tự nhiên sẽ tới ! Nếu dễ dàng như vậy thì tại sao mặc dầu mọi nước dân chủ đều giàu mạnh nhưng chỉ có một số ít dân tộc có được dân chủ ? Dân chủ là một điều quí giá cho nên nó không tự nhiên mà mọc lên như cỏ dại mà phải tranh đấu để có. Các nước dân chủ phương Tây, mà đa số người Việt Nam mơ ước, đã phải tranh đấu cam go lắm mới có được dân chủ như ngày nay và họ vẫn còn rất cảnh giác bảo vệ nền dân chủ đã tranh thủ được. Ở đâu và bao giờ cũng thế, khuynh hướng chuyên quyền độc đoán luôn luôn là một cám dỗ mạnh. Nếu chúng ta không phấn đấu mà chỉ ngồi chờ để có dân chủ thì chắc chắn chúng ta sẽ chỉ có cái ngược lại của dân chủ.

Cũng chớ nên lạc quan mà nghĩ rằng dân chủ sẽ tới nhờ áp lực của đà tiến chung của thế giới. Nhưng áp lực này có thể đem đến dân chủ nhưng cũng có thể làm sụp đổ chính quốc gia. Vấn đề là chúng ta có đủ thì giờ không, đất nước ta có thể tồn tại được cho đến khi có dân chủ hay không ? Như đã nói ở một phần trước của cuốn sách này, ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá một cách gay gắt. Sẽ chỉ còn lại trong thế kỷ 21 những quốc gia được xây dựng trên một đồng thuận, nghĩa là những quốc gia có dân chủ. Các quốc gia khác sẽ tan vỡ trong hỗn loạn. Với đà tiến hóa dồn dập hiện nay sự tan vỡ có thể là rất nhanh chóng. Chần chừ mãi trong cố gắng xây dựng dân chủ chúng ta có thể sẽ không còn quốc gia trước khi đạt tới dân chủ. Không cần phải là một nhà thông thái mới thấy được nguy cơ này, chỉ cần một chút quan sát và suy nghĩ lương thiện.

Có cần một kết luận cho cuộc mạn đàm chung quanh vấn đề dân chủ này không ? Có lẽ không, nhưng thay vào đó là một nhận định về sự khó khăn của cuộc thảo luận về dân chủ, và về chính trị nói chung. Khó ở chỗ người Việt Nam hình như có một bản năng tự tin ghê gớm về lý luận chính trị. Nhiều người, kể cả những trí thức có tầm vóc, có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường không được xây dựng trên một cơ sở hiểu biết đúng đắn nào, và ở mỗi giai đoạn lại có thể tin chắc như đinh đóng cột vào những lập trường khác nhau. Những xác quyết cứ tự nhiên mọc ra, lúc nào cũng tuyệt đối, và không cần được xây dựng trên một vốn hiểu biết nào. Người Việt Nam chúng ta, kể cả trí thức, thật rất vô lễ đối với kiến thức

Một vị đàn anh của tôi, tốt nghiệp cùng trường nhưng trước nhiều năm, cách đây ba mươi năm thuyết phục tôi tham gia phong trào trung lập của anh. Anh quả quyết chỉ có con đường đó là cứu vãn được đất nước, anh cũng quả quyết phải đấu tranh rất cam go chứ không thể khoanh tay chờ đợi. Lập trường của anh không dựa trên một hiểu biết đặc sắc nào. Có lẽ anh chỉ tình cờ đọc được một cuốn sách hay một vài bài báo và nghĩ rằng đó là những kiến thức không ai có. Nhưng tôi không thảo luận được với anh vì anh quá quả quyết trong những ý kiến của mình. Sau đó tôi về Việt Nam, còn anh, người đã thuyết phục tôi phải dấn thân tranh đấu cam go, vẫn ở lại Pháp. Hơn ba mươi năm sau tôi gặp lại anh và lần này cũng không thảo luận được với anh vì anh lại tin tưởng chắc nịch vào một chân lý mới là cách làm chính trị hay nhất là đừng làm chính trị ! Anh nói bằng tiếng Pháp : "La meilleure politique, c'est pas de politique du tout !". Anh coi những hoạt động của tôi chỉ có hại vì "các anh càng đòi dân chủ đảng cộng sản càng chống dân chủ, cứ để mặc họ, họ sẽ tự động dân chủ hóa".

Cái nghiệp hoạt động chính trị nhiều khi cũng éo le. Biết tôi có chút ít hoạt động, nhiều người thường hay muốn gặp tôi để trình bày những con đường cứu nước mà họ đã khám phá ra. Có người vẽ ra những vòng tròn, có người vẽ ra những hình tam giác, có người giảng giải cho tôi về lẽ tuần hoàn của trời đất, có người nói chỉ có triết lý đạo Phật mới là nền tảng vững chắc xây dựng đất nước, cũng có người quả quyết rằng đạo Cao Đài là con đường bắt buộc của Việt Nam. Những người này đều giống nhau ở một điểm là họ cho những điều họ nghĩ là hoàn toàn đúng và do đó không thể nghe một lập luận nào khác.

Một người mệt mỏi chỉ có thể nói chứ không thể nghe, vì nghe đòi hỏi sức khỏe và sự tỉnh táo. Có lẽ chúng ta là một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều đổ vỡ và mất mát. Và chính sự mệt mỏi này đã là lý do đầu tiên khiến chúng ta khó thảo luận với nhau về các vấn đề chính trị mà đặc điểm chung là bề mặt có vẻ như rất đơn giản trong khi trong chiều sâu chúng rất phức tạp.

Lý do thứ hai gây khó khăn, và đôi khi hỗn loạn, cho các cuộc thảo luận chính trị là chúng ta không ý thức được rằng muốn lý luận chính trị một cách đúng đắn cần qua một giai đoạn "nhập môn" nghiêm túc. Đó là giai đoạn nhập tâm những khái niệm căn bản của chính trị : quốc gia, dân tộc, nhà nước, chủ quyền, nhân quyền, tự do, dân chủ, văn hóa, phát triển, v.v... và nhất là tìm ra mối liên hệ giữa các khái niệm đó. Cố gắng nhập môn này rất khó và đòi hỏi rất nhiều thì giờ, nhưng là một sự bắt buộc nếu không người ta sẽ rất dễ quên mình đang nói về cái gì, rồi sẽ nhảy loạn xạ từ khái niệm này sang khái niệm khác, từ đầu Ngô sang mình Sở, sẽ mâu thuẫn với những gì mình mới nghĩ tuần trước và những gì mình có thể nói ngày mai. Tôi đã từng được nghe nhiều bài thuyết trình và đọc nhiều bài tham luận trong đo tác giả mâu thuẫn với chính mình trong vòng vài phút phát biểu hay trong một trang giấy. Những khái niệm chính trị có vẻ giản đơn nhưng thực ra chúng rất phức tạp.

Những người muốn tham gia vào cuộc thảo luận chính trị, và nhất là vào cuộc vận động dân chủ, có lẽ nên quan sát các tu sĩ. Không phải các vị đại đức, thượng tọa, linh mục, mục sư đều có trình độ hiểu biết cao, nhiều vị chỉ có những kiến thức rất sơ sài. Nhưng tại sao nói chung họ vẫn sống và phát biểu được đúng tín ngưỡng của tôn giáo họ ? Đó là vì họ đã trải qua cố gắng nhập môn. Mười điều giáo lệnh, tứ diệu đế, v.v... có gì là phức tạp đâu, thế mà họ vẫn tụng kinh, gõ mõ, lần tràng hạt hàng ngày. Nhờ đó họ nhập tâm. Các khái niệm chính trị còn phức tạp hơn nhiều, nhưng nếu mọi người phát biểu về chính trị dành được một phần thời giờ mà các nhà tu dành cho việc tụng niệm để nhập tâm chúng thì cuộc thảo luận về dân chủ chắc chắn sẽ được nâng cấp. Và tương lai đất nước cũng sẽ khá hơn.

***********************

 

Đi xa hơn dân chủ

 

4-tqan25

Vì chỉ là một phương tiện để xây dựng tự do và hạnh phúc, dân chủ cần được thích nghi với tiến hóa của xã hội. Cuộc thảo luận để cải thiện dân chủ và đi xa hơn mức độ dân chủ tối thiểu (tự do ngôn luận và báo chí, tự do thành lập và gia nhập các tổ chức, tự do bầu cử và ứng cử) luôn luôn phải tiếp tục.

Một hướng tìm kiếm là giới hạn ở mức thực sự cần thiết tầm vóc và vai trò của nhà nước để nhường không gian tối đa cho cá nhân và xã hội dân sự. Thế nào là mức thực sự cần thiết đang là trọng tâm của cuộc tranh luận chính trị tại hầu hết các quốc gia. Hướng thứ hai là mở rộng sự thụ hưởng tự do và dân chủ cho thật đông người, nói cách khác là đem các quyền tự do có trên nguyên tắc vào thực tại. Đàng sau những cuộc thảo luận quanh khái niệm dân chủ, đang hình thành một khái niệm dân chủ mới, một thứ "hậu dân chủ", là dân chủ đa nguyên.

Khái niệm dân chủ đa nguyên sau một thời gian ngắn bị phản bác đã mau chóng được người Việt Nam chấp nhận. Đó là điều đáng mừng, nhưng hình như sự chấp nhận này chưa đi đôi với nhận thức rằng dân chủ đa nguyên không phải chỉ là một thuật ngữ mới mà là một ý niệm mới, một bước tiến mới của dân chủ. Phần đông vẫn chỉ hiểu đa nguyên là đa đảng, do đó "dân chủ đa nguyên" chủ yếu là một khẩu hiệu để chống độc tài, để phản bác "dân chủ tập trung" của đảng cộng sản. Về điểm này tôi phải nhìn nhận là đảng cộng sản tỏ ra hiểu biết hơn nhiều người chống cộng. Họ phân biệt đa nguyên và đa đảng khi họ đưa ra cương lĩnh "chống đa nguyên, đa đảng".

Mặc dầu thảo luận về tương lai của dân chủ là một khuynh hướng thời thượng, cho tới nay trong các tác phẩm chính trị nổi tiếng trên thế giới chưa có một định nghĩa rõ rệt cho dân chủ đa nguyên. Nhóm Thông Luận đã đưa ra một định nghĩa rõ rệt với năm đặc tính của dân chủ đa nguyên. Từ khi định nghĩa này được đưa ra năm 1992, qua các thảo luận trực tiếp với các nhà nghiên cứu chính trị cũng như qua những tác phẩm mới, chúng tôi đã chỉ nhận được những bổ túc chứ chưa gặp một phản bác nào.

Định nghĩa đó như sau :

"[...] Dân chủ đa nguyên là dân chủ nhưng không phải dân chủ nào cũng là dân chủ đa nguyên.

Dân chủ đa nguyên là một hệ thống chính trị mới với những đặc tính bắt buộc của nó. Ta có thể nhấn mạnh năm đặc tính :

Một là, dân chủ đa nguyên nhìn nhận và tôn trọng chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người thuộc mọi thành phần xã hội, mọi tín ngưỡng và mọi khuynh hướng chính trị. Dân chủ đa nguyên lên án mọi phân biệt đối xử, nó chống đối quyết liệt chế độ độc đảng. Một cách cụ thể bản hiến pháp của một thể chế dân chủ đa nguyên không thể chứa đựng bất cứ một qui chiếu nào về một chính đảng, một chủ nghĩa hay một tôn giáo.

Hai là, ngoài nguyên tắc phân quyền phải có trong mọi nền dân chủ xứng đáng với tên gọi của nó, dân chủ đa nguyên đòi hỏi tản quyền để tôn trọng sự khác biệt giữa các địa phương. Một chính quyền dù xuất phát từ bầu cử tự do đi nữa cũng không phải là dân chủ đa nguyên nếu phần lớn quyền hành tập trung trong tay chính quyền trung ương. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên các chính quyền địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, phải có những quyền luật định rộng rãi để tổ chức cuộc sống phù hợp với bối cảnh riêng của mỗi vùng. Mỗi vùng phải có diện tích và dân số ở mức độ thỏa đáng để có thể là những thực thể đủ tầm vóc để tự quản được và phát triển được. Như thế một số nguyên nhân xung đột sẽ tự nhiên được giải tỏa. Các sắc tộc ít người sẽ có được tiếng nói đáng kể tại các địa phương mà họ tập trung đông đảo. Các chính đảng không có được đa số trong các cuộc bầu cử toàn quốc vẫn có thể nắm được chính quyền tại những địa phương nơi họ được tín nhiệm. Dân chủ đa nguyên làm nhẹ đi mối căng thẳng chính quyền - đối lập và bẻ gãy mối xung khắc "được làm vua thua làm giặc". Tản quyền đưa tới hệ luận là chính quyền trung ương không cai trị trực tiếp mà chỉ đảm nhiệm các sứ mạng quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ và phối hợp giữa các địa phương. Một vai trò khác của chính quyền trung ương là thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng trên qui mô cả nước và trợ giúp các chương trình địa phương đáng khuyến khích.

Ba là, dân chủ đa nguyên đặt nền tảng trên xã hội dân sự. Bên cạnh các chính đảng, các cộng đồng sắc tộc, địa phương và tôn giáo, các hiệp hội công dân tổ chức theo ngành nghề, quyền lợi, nhân sinh quan, sở nguyện, ưu tư, v.v... được hoạt động độc lập với chính quyền, được nhìn nhận một chỗ đứng trọng yếu, được có tiếng nói và ảnh hưởng trong sinh hoạt cũng như trong sự tiến hóa của xã hội. Nhà nước tự coi mình là có sứ mạng phục vụ xã hội dân sự chứ không khống chế xã hội dân sự, không định đoạt sinh hoạt thường ngày thay cho xã hội dân sự. Về mặt kinh tế, điều này có nghĩa là nền kinh tế quốc gia phải đặt nền tảng trên các xí nghiệp tư, khu vực quốc doanh phải được giới hạn ở mức tối thiểu và nếu không có thì càng hay. Vai trò nền tảng của các hiệp hội công dân đa dạng là một bảo đảm chắc chắn cho sự chuyển hóa thường trực, tự nhiên và liên tục của xã hội, tránh những xáo trộn đột ngột và đầy đổ vỡ của các cuộc cách mạng.

Bốn là, dân chủ đa nguyên kính trọng các thiểu số và luôn luôn mưu tìm thỏa hiệp. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số không được sử dụng một cách tự động và máy móc mà chỉ được dùng tới sau khi đã tận dụng mọi cố gắng để tìm đồng thuận. Dân chủ đa nguyên chống lại mọi hình thức chuyên chính, kể cả chuyên chính của đa số. Bình thường trong một thể chế dân chủ sự chính đáng của một chính quyền dựa trên kết quả của cuộc bầu cử cuối cùng, nhưng trong dân chủ đa nguyên sự chính đáng của một chính quyền còn nằm cả trong sự thành khẩn tìm đồng thuận trong mọi quyết định quan trọng.

Năm là, dân chủ đa nguyên trong bản chất của nó tôn trọng mọi thành phần dân tộc và không thể để một thành phần này bóc lột và chà đạp một thành phần khác. Vì thế dân chủ đa nguyên coi rất trọng công bằng xã hội và không thể đi đôi với cái thường được gọi là "tư bản rừng rú".

Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nhà nước không còn là người chỉ huy tuyệt đối. Vai trò của nhà nước là đảm nhiệm ba chức năng : trọng tài trong các quan hệ giữa các thành tố của xã hội, chế tài những vi phạm, và hòa giải những đòi hỏi mâu thuẫn của các thành phần dân tộc. Nhà nước hòa giải thay vì nhà nước chỉ huy là nét đậm của dân chủ đa nguyên. Nó phân biệt hẳn dân chủ đa nguyên với các chế độ chuyên chính, nhưng nó cũng khiến dân chủ đa nguyên khác với nhiều chế độ dân chủ trong đó chính quyền vẫn còn tham vọng định đoạt thay cho xã hội dân sự". [...]

[Trích Thử Thách và Hy Vọng - Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996, Thông Luận, Paris 1996, trang 17-19].

Tầm quan trọng của xã hội dân sự đã được Alexis de Tocqueville nhấn mạnh rất sớm ngay từ đầu thế kỷ 19, mặc dù ông chưa đạt tới khái niệm đa nguyên. Ông đã cảnh giác rằng đặc tính cốt lõi của các chế độ độc tài là đè bẹp xã hội dân sự. Ông nhận định rằng các chế độ độc tài không cần người dân thương yêu họ mà chỉ cần người dân đừng thương yêu nhau và đừng kết hợp với nhau để cho chúng dễ khống chế một xã hội phân rã. Nâng cao tầm quan trọng của xã hội dân sự lên hàng một thành tố nền tảng của sinh hoạt quốc gia có hệ luận tự nhiên là chính quyền phải triệt thoái về mức độ tối thiểu cần thiết để nhường không gian tự do tối đa cho các công dân. Đó cũng là điều mà các nhà tư tưởng thuộc trường phái tự do đã đề nghị từ lâu. Nhiều nhà tư tưởng khác cũng đã báo động về nguy cơ của một sự chuyên chính của đa số. Dĩ nhiên cũng không thể quên ưu tư của các nhà tư tưởng thuộc khuynh hướng xã hội là ngăn cản sự khống chế của người giàu trên người nghèo. Phong trào cộng sản thế giới đã sụp đổ nhưng vấn đề mà nó đặt ra vẫn còn rất thời sự trước sự bành trướng của các công ty lớn ảnh hưởng một cách quan trọng trên cuộc sống của rất nhiều người, đôi khi trên cả một số quốc gia. Các công ty đa quốc gia đã có từ lâu và cũng đã ảnh hưởng trên chính sách của các nước nhược tiểu từ lâu, nhưng sự kiện rất mới và cần được cảnh giác là gần đây ngày càng xuất hiện những công ty quá lớn. Một số công ty có trị giá tích sản tương đương với tổng sản lượng của cả khối ASEAN. Các công ty đa quốc gia lớn là những trung tâm quyền lực khổng lồ mới trong đó lãnh đạo hoàn toàn không bị chi phối bởi những nguyên tắc dân chủ. Một giải pháp kỹ thuật vẫn cần được tìm ra cho vấn nạn này trừ khi, như niềm tin của nhiều người, một mặt chính phát triển kinh tế sẽ khiến các công ty cần công nhân hơn là công nhân cần xí nghiệp, mặt khác các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, thể thao sẽ tiến lên, giảm bớt trọng lượng của sinh hoạt kinh tế. Một trường phái tư tưởng mới cũng đang xuất hiện với niềm tin vào một chủ nghĩa "dân chủ chứng khoán", theo đó các công ty, vì nhận vốn từ quần chúng qua thị trường chứng khoán và lệ thuộc quần chúng trong việc bán hàng và dịch vụ sản xuất ra, sẽ dần dần bị kiểm soát bởi quần chúng, nghĩa là cũng sẽ dân chủ hóa. Tuy giải pháp chưa tìm ra nhưng nguyên tắc đã rõ rệt : mọi người phải có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau độc lập với trọng lượng kinh tế.

Dân chủ đa nguyên là tổng hợp chính trị ở giai đoạn này của nhiều đột phá trong kho tàng suy tư của nhân loại.

Chúng ta chưa có dân chủ mà đã nghĩ đến dân chủ đa nguyên có phải là quá sớm và quá không tưởng không ? Đúng, nếu ta nghĩ rằng một học sinh trung học chỉ nên nghĩ tới bằng tú tài chứ không cần nghĩ tới đại học. Có nhiều triển vọng cô hay cậu học sinh thực tiễn này sẽ không đi xa trên đường học vấn.

************************

 

Các giá trị châu Á ?

 

4-tqan26

Có một lần tôi được coi một hoạt cảnh tức cười trong một phim hài hước. Một nhà mô phạm đang thao thao bất tuyệt giảng giải giá trị thiêng liêng của gia đình trước một cử tọa trẻ. Ông đang hùng hồn thuyết phục đám thanh niên về những tệ hại của quan hệ tình dục ngoài khuôn khổ vợ chồng thì một bất ngờ xảy đến. Một chàng trai, với tất cả bộ dạng của một người đồng tính luyến ái, từ ngoài xông vô nắm lấy ông đánh ghen. Thì ra ông không những ngoại tình mà còn ngoại tình với người cùng phái. Bài giảng dĩ nhiên chấm dứt ở đây.

Cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á bắt đầu từ mùa hè 1997 cũng đã cắt ngang cuộc tranh luận đang sôi nổi về các giá trị châu Á một cách tương tự. Nó lố bịch hóa những người đang rêu rao là các quốc gia Đông Á đã phát triển mạnh nhờ các "giá trị châu Á", và như thế người châu Á không cần những "giá trị phương Tây" như dân chủ và nhân quyền. Nhưng kết thúc một cuộc tranh cãi vì một bên tranh luận bị quê là một kết thúc không ổn. Người tranh luận bị cụt hứng nhưng chắc gì những điều họ nói đã sai ? Như thế cuộc tranh luận về các giá trị châu Á có thể sẽ còn được phát động lại trong tương lai, trong một hoàn cảnh khác và với mục mục đích khác. Do đó chúng ta cũng cần xem thực chất của cuộc tranh cãi này là cái gì.

Điểm thứ nhất là cuộc tranh cãi về các giá trị châu Á đã được tung ra hồi đầu thập niên 1990, hầu như cùng một lúc tại Singapore và Malaysia. Đây là một điều nghịch lý bởi vì Singapore và Malaysia chính là hai nước có ít tư cách nhất để phát biểu nhân danh văn hóa và truyền thống châu Á.

Singapore là một thương cảng hơn là một quốc gia, do người phương Tây thành lập cách đây hai thế kỷ, bắt đầu từ một làng đánh cá nhỏ với vài chục ngư dân. Nó đã được tạo ra và cai trị hoàn toàn theo khuôn mẫu phương Tây. Dân chúng Singapore, ba triệu người hiện nay, chủ yếu là những người Hoa đã chạy trốn hệ thống chính trị và văn hóa châu Á tại quê hương cũ.

Malaysia cho tới cuối thế kỷ 14 chỉ là một bán đảo hoang vu và là trạm dừng chân cho các thuyền buôn qua lại giữa Ấn Độ và Sumatra. Dữ kiện lịch sử đầu tiên là cuộc thăm viếng của một sứ giả Trung Quốc dưới triều Minh năm 1405. Lúc đó Malaysia chỉ có vài vương quốc nhỏ hoàn toàn cô lập với phần còn lại của châu Á. Cho tới khi được tuyên bố là thuộc địa của Anh, đặt dưới quyền quản trị của công ty British North Borneo Company, vào năm 1881, Malaysia không có gì giống với một quốc gia cả. Malaysia không có lịch sử vàcũng không có một văn hóa riêng, chưa nói tới văn hóa châu Á. Như Singapore, Malaysia được thành lập và cai trị hoàn toàn theo khuôn mẫu phương Tây. Cũng giống như Singapore, người Malaysia rất hài lòng với chính quyền thuộc địa Anh và không đòi độc lập, họ đã chỉ được độc lập sau một quyết định của nước Anh. Hệ thống chính trị của họ không khác bao nhiêu di sản mà người Anh để lại.

Tóm lại, các "giá trị châu Á" đã được đề cao bởi hai nước không hề thể hiện chúng.

Điểm nghịch lý thứ hai là cả Lee Kwan Yew [Lý Quang Diệu] của Singapore lẫn Mahathir Muhamad của Malaysia, hai người hô hào tích cực nhất cho những "giá trị châu Á", đều là những người đã rất Tây phương hóa. Cả hai đều đã đóng vai trò then chốt trong việc Tây phương hóa sinh hoạt của đất nước họ.

Lý Quang Diệu chỉ bắt đầu nói tới các giá trị Khổng Giáo sau khi ông từ chức thủ tướng. Việc ông nhấn mạnh tới truyền thống tôn trọng các bậc trưởng thượng của người châu Á có thể được nhìn như một phản ứng tự vệ để cố kéo dài ảnh hưởng trên chính trường. Lý Quang Diệu tỏ ra khó chịu trong qui chế "has been" của ông. Ông đi khắp nơi, ban phát những lời khuyên cho mọi người trên mọi vấn đề. Các lập luận về các giá trị châu Á của ông có vẻ đã thành công cho cá nhân ông vì ít ra chúng đã làm ông nổi bật.

Mahathir thuộc một thiểu số trong sắc tộc Mã Lai được giáo dục theo văn hóa Anh. Nếp sống của ông hoàn toàn là nếp sống của người Anh. Các con ông cũng thế, con gái út ông có chồng người Pháp. Mahathir rất sợ bị coi như là một người Mã Lai mất gốc. Vì thế những lời tuyên bố của ông về các giá trị châu Á cũng chỉ nhắm một mục đích sửa đổi hình ảnh của ông, để ông có vẻ Mã Lai và Hồi Giáo hơn là sự thực. Từ một năm nay vụ án Anwar Ibrahim đã gây rất nhiều tiếng vang. Dư luận thế giới coi Anwar như một chính khách tiến bộ và hiện đại, nạn nhân của Mahathir, một người cầm quyền thủ cựu. Thực ra Anwar từng là một người Hồi Giáo toàn nguyên và quá khích trong giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị. Ông ngưỡng mộ Khomeini và phấn khởi vì cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran đến nỗi ông từng hành hương sang Teheran để bày tỏ sự cảm phục đối với Khomeini. Mahathir đã chỉ chọn Anwar làm người thừa kế chính thức của mình để tranh thủ cử tri Hồi Giáo Mã Lai cho ông. Chính vì thế mà ông đã rất giận dữ và thù ghét Anwar khi Anwar muốn tỏ ra hiện đại hơn ông.

Tóm lại, hai nhân vật đề cao các "giá trị châu Á" nhất cũng là những người không chấp nhận chúng cho chính mình. Cuộc tranh cãi đã thiếu thực thà ngay từ đầu.

Điểm thứ ba mà tôi muốn lưu ý độc giả là "các giá trị châu Á" chỉ là một diễn văn chứ hoàn toàn không phải là một chủ thuyết. Không hề có một luận cương hay một cẩm nang nào cả. Tất cả chỉ là những bài viết ngắn và những cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh được đăng trên nhật báo The International Herald Tribune và tập san Foreign Affairs. Trong số những người chủ xướng và hô hào cho các giá trị châu Á, người ta không thấy một triết gia, một nhà tư tưởng hay một nhà văn lớn nào, người ta chỉ thấy những công chức thuộc hai chính quyền Singapore và Malaysia. Cuộc vận động cho các giá trị châu Á giống như một chiến dịch tuyên truyền hơn là một cuộc thảo luận trí tuệ.

Một đặc điểm khác là những ồn ào về các giá trị châu Á đã chỉ giới hạn trong khuôn khổ ASEAN. Các quốc gia châu Á khác đã không tham gia cuộc hòa tấu này. Không có khuôn mặt chính trị hoặc trí thức lớn nào của Nhật tỏ ra quan tâm. Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh hoàn toàn không biết tới. Nam Cao Ly và Đài Loan gạt bỏ thẳng thừng các luận điệu về các giá trị châu Á và quả quyết chọn lựa con đường dân chủ hóa. Ngay trong khối ASEAN, Indonesia, Thái Lan và Phi-líp-pin tỏ ra dửng dưng. Chỉ có Hà Nội, Bắc Kinh và Rangoon tỏ ra hưởng ứng. Báo chí và quan chức Việt Nam thỉnh thoảng ca tụng những "quan điểm đứng đắn" của Lý Quang Diệu và Mahathir, dù không đề cập đến cụm từ "giá trị châu Á". Cũng nên lưu ý rằng trong mọi phát biểu về các giá trị châu Á của họ, cả Lý Quang Diệu lẫn Mahathir cùng những cộng sự viên của hai ông đều không bao giờ đề cập đến Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh. Đối với họ, hình như châu Á chỉ là Đông Á.

Nhưng "những giá trị châu Á" được nêu ra là gì ?

Lý Quang Diệu và Mahathir lại xung khắc một cách trầm trọng về nội dung của chúng. Đối với họ Lý, các giá trị châu Á chỉ có thể là các giá trị Khổng Giáo trong khi đối với Mahathir chúng lại chủ yếu là các giá trị Hồi Giáo. Hai nhân vật này tuy ghét nhau nhưng hình như cũng đồng ý với nhau rằng người châu Á quan tâm đến xã hội, cố gắng, giáo dục, tiết kiệm, phát triển và ổn định hơn là tới cá nhân, tiện nghi, tiêu thụ, nhân quyền và dân chủ ; ngoài ra người châu Á kính trọng tổ tiên, người lớn tuổi và chính quyền. Dân chủ và nhân quyền có vẻ như là hai đối tượng đánh phá quan trọng nhất của những diễn văn về các giá trị châu Á. Nhưng ở đây các quan chức Singapore và Malaysia lại tỏ ra bối rối. Thông thường họ phản bác dân chủ và nhân quyền như những giá trị của phương Tây, nhưng cũng có khi họ lại nói đó là những giá trị phổ cập chỉ cần thích nghi với hoàn cảnh châu Á.

Lý Quang Diệu hô hào một cách rất hăng say cho kinh tế thị trường và sự minh bạch [transparency], hai cột trụ của dân chủ. Có những lúc ông nói rằng dân chủ và nhân quyền cũng quan trọng đấy nhưng không quan trọng bằng kỷ luật và sản xuất. Người kế vị ông, đương kim thủ tướng Singapore Goh Chok Tong còn đi xa hơn, đối với ông : "Các quyền kinh tế và xã hội cũng quan trọng không kém các quyền dân sự và chính trị". Không kém nhưng cũng không hơn. Ở một dịp khác ông Goh Chok Tong còn tuyên bố mạnh dạn hơn : "Chúng tôi tin tưởng ở dân chủ, nhưng dưới một hình thức đảm bảo được kỷ luật và đồng thuận". Bà Chan Heng Chee, cựu giám đốc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á và đại sứ Singapore tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn trên The International Herald Tribune : "Dân chủ và nhân quyền là những giá trị phổ cập nhưng những điều kiện để thể hiện chúng tại châu Á có phần khác".

Còn Mahathir ? Trong một dịp, ông đã chỉ xin thêm thời gian : "Đừng đòi hỏi chúng tôi phải thay đổi ngay tức khắc. Chúng tôi sẽ thay đổi, nhưng chúng tôi sẽ không thay đổi nhanh như người ta đòi chúng tôi". Có lẽ ít ai đòi Mahathir phải thay đổi ngay tức khắc vì thực ra Malaysia, hơn cả Singapore, đã là nước dân chủ hóa sớm nhất trong khối ASEAN. Chính những lời tuyên bố mâu thuẫn này đã khiến Bắc Kinh, Hà Nội và Rangoon, những chế độ thực sự chống dân chủ và nhân quyền, không ủng hộ nhiệt tình những phát biểu về các giá trị châu Á của Singapore và Malaysia.

Hiển nhiên là cộng đồng, kỷ luật, cố gắng, giáo dục, và ngay cả gia đình, không phải là những giá trị đặc biệt của châu Á. Người phương Tây cũng quí trọng những giá trị này, có khi còn hơn. Lấy một thí dụ : liên đới xã hội là yếu tố cốt lõi của xã hội, như thế tinh thần liên đới trên nguyên tắc phải rất cao trong các xã hội châu Á vì tại đó cộng đồng được coi là một giá trị nền tảng, nhưng sự thực là liên đới mạnh hơn hẳn ở phương Tây so với châu Á. Trong những nước châu Á, khi một người bị sa thải hay gặp tai nạn đó chỉ là chuyện cá nhân của người đó, không có an sinh xã hội, không có trợ giúp của nhà nước, hoàn cảnh bi đát của người đó không là quan tâm của bất cứ ai.

Hiển nhiên, về cơ bản, những cái gọi là giá trị châu Á không có nội dung nào đặc biệt. Nhưng sự gay gắt đã thay thế cho lý luận. Phương Tây được mô tả là đang suy thoái vì dựa trên những giá trị bệnh hoạn, châu Á sẽ qua mặt phương Tây vì xã hội châu Á được xây dựng trên những giá trị lành mạnh. Kế đó là cáo trạng. Người phương Tây đã tỏ ra xấc xược và bá quyền khi mưu toan áp đặt những giá trị của họ lên toàn thế giới, nhưng sự ngạo mạn này không thể tiếp tục được nữa vì tình thế đã thay đổi và tương lai sẽ thuộc về châu Á, v.v...

Trong tất cả những người hô hào các giá trị châu Á, Kishore Mahbubani, đại sứ Singapore tại Liên Hiệp Quốc, là người quá khích nhất. Ông hô hào : "Bạn trẻ ơi, hãy quay về phương Đông !", ông quả quyết : "Địa Trung Hải là biển của quá khứ, Đại Tây Dương là đại dương của hiện tại, Thái Bình Dương là đại dương của tương lai". Những người khác tỏ ra ôn hòa hơn nhưng tất cả đều cùng một luận điệu chống phương Tây và cũng đều cùng một giọng điệu đắc thắng.

Thái độ đắc thắng này dĩ nhiên là lố lăng vì, trừ trường hợp của Nhật và hai thành phố Singapore và Hồng Kông, tất cả các quốc gia châu Á vẫn còn thua xa các nước dân chủ phương Tây. Malaysia chẳng hạn, chỉ có một sản lượng trên mỗi đầu người tương đương với 20% mức độ của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu.

Nhưng tại sao cuộc tranh luận về các giá trị châu Á đã ồn ào như vậy ? Chúng ta sẽ sai lầm nếu gạt phăng đi với thái độ khinh thường. Có ít nhất hai lý do đã khiến cuộc tranh luận về các giá trị châu Á gây sôi nổi trên báo chí.

Lý do thứ nhất là châu Á đang đòi hỏi một chỗ đứng xứng đáng hơn. Hơn hai thập niên tập trung đều đặn ở một tỷ lệ cao đã gia tăng rất nhiều trọng lượng của châu Á. Từ 4% năm 1960, tổng sản lượng của các nước châu Á đã lên mức 25% tổng sản lượng của thế giới vào năm 1992 khi cuộc tranh cãi về các giá trị châu Á vừa bắt đầu. Châu Á cũng đạt tới 25% trọng lượng của ngoại thương trên thế giới vào năm 1994 và cũng giữ trong tay một phần ba trữ kim của thế giới. Năm 1990, châu Á đã mua của các nước phương Tây một số lượng hàng hóa và dịch vụ trị giá 650 tỷ USD, gấp đôi con số của con số năm 1980, nhưng chỉ xấp xỉ bằng một nửa con số hiện nay. Châu Á đã trở thành một thị trường hấp dẫn cho các nước phương Tây và trọng lượng của nó sẽ càng ngày càng tăng lên. Rõ ràng là châu Á xứng đáng được trọng nể hơn. Quan hệ giữa châu Á và phương Tây phải thay đổi để phù hợp với tương quan lực lượng mới. Các nước phương Tây đều hiểu như vậy. Đó là lý do khiến họ đã chú ý đặc biệt đến những diễn văn về giá trị châu Á. Mặt khác cũng vì sức mạnh thực sự của diễn văn về các giá trị châu Á là sự thành công về mặt kinh tế của các nước châu Á mà nó đã yếu hẳn đi sau cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu hồi tháng 7-1997.

Lý do thứ hai là những phát biểu về các giá trị châu Á thực ra chỉ là một phần của một cuộc tranh luận quan trọng và to lớn hơn nhiều đang diễn ra tại châu Á và sẽ có ảnh hưởng lớn trên tương lai của thế giới. Các quốc gia châu Á đang ở trong một khúc quanh lịch sử đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện một cách đáng kể đời sống con người nhưng đồng thời cũng mang đến những đòi hỏi thay đổi chính trị mạnh mẽ theo chiều hướng gia tăng tự do, dân chủ và nhân quyền. Cuộc chuyển hóa đe dọa nền tảng chính đáng của nhiều người cầm quyền và buộc họ đi tìm một biện minh văn hóa và tư tưởng cho quyền lực của họ. Trong bối cảnh ấy, so với ảo tưởng đẫm máu của ý thức hệ cộng sản trước đây, các giá trị châu Á là một phản ứng khá hiền lành, một "chủ thuyết" ít độc hại hơn hẳn.

Thực sự có những giá trị châu Á không và những giá trị nào ?

Các nước châu Á được thành lập một cách riêng biệt và chỉ có một sự hiểu biết lẫn nhau rất sơ sài. Nhiều quốc gia châu Á đã do người phương Tây lập ra và phần lớn các biên giới quốc gia đều hoặc do người phương Tây quyết định hoặc chịu ảnh hưởng của họ. Nếu chỉ muốn nói một cách sơ sài thì ta có thể nói Đông Á chịu ảnh hưởng Trung Hoa và, ở những mức độ khác nhau, mang những đặc tính của văn hóa Khổng Giáo ; Tây Á là một sự đan xen giữa văn hóa Ấn Độ Giáo và văn hóa Hồi Giáo, trong khi ở phía Nam, Indonesia và Malaysia là những quốc gia Hồi Giáo. Nhưng ngay cả cách mô tả sơ sài đó cũng không đúng, Thái Lan và Miến Điện là hai nước Phật Giáo, trong khi Phi-líp-pin lại là một nước đa số Công Giáo. Và cũng không nên quên từ thế kỷ 20 văn hóa và các phương pháp làm việc của phương Tây cũng đã mọc rễ khắp nơi.

Mặt khác cũng không hề có một tình cảm liên đới nào giữa các quốc gia châu Á. Người Nhật cho rằng họ là một dân tộc riêng biệt, thông minh và hùng mạnh hơn mọi dân tộc khác. Người Thái cũng nghĩ rằng họ là một dân tộc tinh nhuệ hơn hẳn, đã giữ được độc lập trước cuộc chinh phục của phương Tây. Quan hệ đáng kể nhất của Miến Điện với thế giới bên ngoài nói chung và châu Á nói riêng trong lịch sử dài hơn một ngàn năm của họ là những cuộc chiến tranh với Thái Lan, mà những thù hận vẫn chưa chấm dứt hẳn. Còn người Trung Hoa thì dù đã trải qua nhiều thăng trầm và tủi hổ họ vẫn chưa bỏ hẳn được mặc cảm tự tôn của thời xa xưa khi họ tự coi là trung tâm của thế giới trong khi các dân tộc láng giềng chỉ là những thiểu số man rợ. Coi châu Á như một thực thể tự nó đã là điều vô lý. Chỉ có những người thiếu hiểu biết mới có thể nói tới một văn hóa hay một triết lý phương Đông.

Tuy nhiên, nếu chúng ta cố hết sức để nhận ra những nét giống nhau trong nếp sống và suy nghĩ của các dân tộc châu Á thì chúng ta cũng có thể tìm thấy một số điểm. Những điểm này, phải nói ngay, không phải chỉ có ở châu Á mà hiện diện ở mọi xã hội ngoài phương Tây và ở cả phương Tây trước đây vài thế kỷ, dù có lẽ ở một mức độ thấp hơn. Đó là :

      - Cơ cấu đại gia đình liên hệ cá nhân trước hết với người cùng một dòng máu. Tâm lý này có thể nhận thấy trong hầu hết các nước châu Á với những hậu quả quan trọng về cả kinh tế lẫn chính trị. Các công ty lớn ở Nhật, Hồng Kông, Nam Cao Ly được điều hành như những vương quốc gia đình. Các nhà độc tài trước hết dựa trên gia đình, dành cho con cái, họ hàng những đặc quyền lớn. Các bà nội trợ thay chồng, con trai và con gái kế vị cha mẹ làm lãnh tụ các chính đảng hay làm tổng thống tại Phi-líp-pin, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Ấn Độ, Miến Điện và Bắc Cao Ly.

      - Quan niệm quyền lực chính trị như là sự tưởng thưởng cho địa vị và thành tích trong quá khứ hơn là một trách nhiệm đòi hỏi khả năng và tầm nhìn. Chức quyền thay vì chức trách. Do đó người lãnh đạo quốc gia không cần phải thành công mà chỉ cần sống xứng đáng với địa vị của mình. Sự chống đối lại chính quyền bị xem như chống lại trật tự xã hội và như một thái độ không phải đạo. Chừng nào người cầm đầu quốc gia chưa mắc phải những tội ác tày trời thì không có lý do gì chính đáng để đòi thay thế ông ta hay bà ta. Tâm lý này giải thích sự kiện một đảng hay một lãnh tụ có thể cầm quyền liên tục trong nhiều thập niên. Dĩ nhiên tâm lý người châu Á đã thay đổi nhiều, nhưng một thắng lợi như của Bill Clinton trước George Bush năm 1992 vẫn còn là điều không thể có tại châu Á.

      - Sự lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị. Về điểm này phải nói rằng sự phân biệt giữa tôn giáo và chính trị, giữa Thiên Chúa và Ceasar, quả là một đặc tính của tư tưởng phương Tây. Tại các nước châu Á, Thượng Đế và Vua liên hệ rất mật thiết với nhau, khi không phải là một. Tại Trung Quốc, dưới ảnh hưởng Khổng Giáo, vua là thượng đế ; tại các nước Hồi Giáo như Pakistan và Bangladesh, thượng đế là vua, còn tại Ấn Độ và hai nước theo Phật Giáo là Thái Lan và Miến Điện, thượng đế chỉ là phụ tá ngoan ngoãn của vua. Người ta có thể nghĩ rằng sở dĩ chủ nghĩa cộng sản đã thành công và đứng vững tại Đông Á hơn là tại Tây Âu, nơi nó được phát minh ra, là vì chính nó cũng là một hệ thống nửa tôn giáo nửa chính trị như Khổng Giáo trước đây. Về điểm này cũng thế, đã có nhiều thay đổi, nhưng chưa thay đổi hẳn.

Cả ba yếu tố trên đây xét cho cùng đều là những trở ngại cho phát triển và tiến bộ. Cần nhận xét là những quốc gia từ bỏ chúng sớm nhất cũng là những quốc gia phát triển nhất.

Khối ASEAN trước cuộc khủng hoảng kinh tế được các ông Lý Quang Diệu và Mahathir coi, đúng hơn là lạm coi, như là thành trì của cái mà các ông ấy gọi là "các giá trị châu Á". Nhưng tình thế đã thay đổi.

Ngày nay cả năm nước sáng lập và có trọng lượng nhất trong khối đều đã là những nước dân chủ. Khi Việt Nam xin gia nhập ASEAN, ban lãnh đạo cộng sản hy vọng tìm được ở ASEAN một chỗ dựa cho chế độ độc tài ; từ nay và sắp tới, trong những cuộc gặp gỡ thường xuyên của khối, họ sẽ chỉ gặp những nhà lãnh đạo dân chủ thôi thúc họ cải tổ nhanh hơn. Từ nay, trong không khí mới của ASEAN, độc tài không còn gì là oai hùng nữa mà chỉ là lố bịch, thiếu văn minh, mất vệ sinh.

Ngày nay, nếu có một "giá trị châu Á", mới nhưng đích thực, thì đó là khát vọng của mọi người châu Á muốn được sung túc hơn và được kính trọng hơn. Khát vọng này đang thôi thúc mọi dân tộc châu Á. Họ đã ý thức được tiềm năng chưa được khai thác của họ, họ cảm thấy hổ nhục vì nghèo khổ và thiếu tự do, họ tin rằng họ có thể, và phải, rút ngắn khoảng cách với các dân tộc phương Tây. Họ không quan tâm gì đến những cái gọi là giá trị châu Á, họ chỉ quan tâm đến những giá trị làm cho cuộc sống của họ đáng sống và đáng tự hào hơn. Ngay cả một cô hầu bàn tại Sài Gòn hay một anh tài xế xe tuk-tuk tại Bangkok cũng đã hiểu rằng phát triển và phồn vinh phải đi đôi với dân chủ và nhân quyền.

******************

 

Thập nhị sứ quân

 

4-tqan27

Đinh Bộ Lĩnh, tức vua Đinh Tiên Hoàng, được coi là một trong những đại anh hùng của nước ta vì đã có công dẹp mười hai sứ quân và qui đất nước về một mối. Sự nghiệp của ông gây ấn tượng mạnh đến độ ngày nay khi tiếng Việt đã phát triển nhiều rồi chúng ta vẫn còn nhắc tới giai đoạn trước nhà Đinh bằng cụm từ "thập nhị sứ quân" thay vì "mười hai sứ quân". Hơn thế nữa, "thập nhị sứ quân" đã trở thành một thành ngữ để chỉ nguy cơ đất nước bị tan rã thành nhiều mảnh. Nó như một tai họa ám ảnh chúng ta.

Mỗi dân tộc thường có những nhân vật có sức thu hút đặc biệt, ngôn ngữ phương Tây ngày nay nói là họ có charisma. Sức thu hút đó có tác dụng làm cho nhân vật được đề cao hơn công lao thực sự của mình, và đem lại cho những hành động của vị ấy một dấu ấn tâm lý sâu đậm.

Huyền thoại của Đinh Bộ Lĩnh là đã tỏ ra anh hùng và độc đáo ngay từ thời thơ ấu. Ông mồ côi cha từ nhỏ, ở với chú và chăn trâu cho chú, ông bắt những đứa trẻ chăn trâu khác tôn mình làm minh chủ, bắt chúng làm kiệu rước mình như vua, tổ chức chúng thành quân đội lấy lau làm cờ rồi đi đánh nhau với trẻ con các làng khác. Có lần thắng trận, ông giết trâu của chú khao quân. Nếu chỉ có thế thì Đinh Bộ Lĩnh chỉ là một đứa trẻ ngỗ nghịch và vô giáo dục, nhưng sau này Đinh Bộ Lĩnh diệt các sứ quân, gồm thâu đất nước và lên làm vua nên những hành động ngang ngược của ông thời thơ ấu được coi là biểu hiệu của chí lớn. Đinh Bộ Lĩnh trở thành thần tượng của thiếu nhi Việt Nam. Tội nghiệp cho thiếu nhi Việt Nam, một mặt người ta dạy chúng ngưỡng mộ Đinh Bộ Lĩnh nhưng, mặt khác, nếu chúng thực sự làm những gì Đinh Bộ Lĩnh đã làm (ăn hiếp bè bạn, lập đảng đánh nhau, phá tài sản) thì chắc chắn chúng sẽ bị ăn đòn, mà ăn đòn không oan chút nào vì thực ra đó chỉ là hành động của một đứa trẻ hư hỏng.

Một lần nữa chúng ta thấy rõ sự nghèo nàn về tư tưởng của người Việt. Chúng ta không suy luận và phê phán mà chỉ biết tâng bốc kẻ thắng. Hễ kẻ nào đã thành công và trở thành chúa tể thì những hành động của kẻ đó, dù xằng bậy đến đâu cũng được bào chữa và đánh bóng để đưa lên làm mẫu mực cho thời đại và cho đời sau. Chúng ta viết sử một cách không đứng đắn và chúng ta cũng đọc sử một cách không đứng đắn.

Bài hát Hoa Lư mà các thầy cô tôi dạy tôi ở trường tiểu học bắt đầu bằng câu : "Ta cùng nhau đi thăm nơi hùng xưa..." và kết thúc bằng câu ca tụng Đinh Bộ Lĩnh là "đấng anh hùng vì nước quên mình". Thực ra Đinh Bộ Lĩnh chẳng bao giờ quên mình cả. Trái lại ông luôn luôn chỉ biết có mình thôi. Ông bất chấp tất cả, ông chỉ biết tham vọng quyền lực và thú vui của riêng mình. Lúc nhỏ ông ở với chú, lập băng đảng đánh lộn và phá tài sản của chú. Lớn lên ông đi làm giặc rất sớm vì theo sử chép ông theo sứ quân Trần Lãm, được Trần Lãm tin dùng và gả con gái cho, rồi lên thay Trần Lãm làm sứ quân khi Trần Lãm chết, sau đó rời bản doanh từ Thái Bình về Hoa Lư. Vậy mà năm 951, mới 26 tuổi, ông đã lừng lẫy ở Hoa Lư đến nỗi hai ông vua nhà Ngô (Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn, con Ngô Quyền) phải thân chinh đi đánh mà không được. Đúng là một tay anh chị, lúc bé thì du côn, lớn lên đi làm giặc. Và việc làm giặc chống nhà Ngô này là hoàn toàn vô đạo vì anh em nhà Ngô rất chính đáng, cha họ là Ngô Quyền có công đánh bại quân xâm lược Nam Hán, chính thức xác nhận nền độc lập dân tộc, hai anh em Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn đều là những người nhân nghĩa. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh táo bạo và đánh trận giỏi. Nhờ vậy ông đã diệt được mọi sứ quân và cả nhà Ngô, gồm thâu lãnh thổ nước ta rồi lên ngôi hoàng đế. Sử sách ca tụng Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp loạn sứ quân mà quên rằng chính ông cũng gây ra loạn sứ quân.

Nhiều người cho rằng việc xưng đế của Đinh Bộ Lĩnh, tức vua Đinh Tiên Hoàng, tương đương với một tuyên ngôn độc lập. Trên thực tế nước ta đã dần dần hình thành trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc. Nhờ những đóng góp về dân số và văn hóa từ phương Bắc và những cố gắng khai mở của các quan cai trị nặng tình với quê hương mới như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp, một xã hội văn minh mới đã dần dần hình thành tại đồng bằng sông Hồng. Vách núi hiểm trở ngăn cách đã khiến sự đi lại giữa Giao Châu và Trung Quốc còn khó khăn hơn đường biển. Xã hội Giao Châu ngày càng phát triển và ngày càng khác với xã hội Trung Quốc. Giao Châu là một xã hội Phật Giáo trong khi Trung Quốc là một xã hội Khổng Giáo. Sự thống trị của Trung Quốc yếu dần đi, để rồi tới một lúc không còn duy trì được nữa. Năm 906, guồng máy cai trị của Trung Quốc tại Giao Châu tự nó sụp đổ. Trung Quốc loạn lạc, quan cai trị bỏ về nước, người Giao Châu tôn một hào kiệt bản xứ là Khúc Thừa Dụ lên thay, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc và mở đầu kỷ nguyên tự chủ.

Cần lưu ý là nền độc lập của nước ta đã đến một cách tự nhiên như là sự chín muồi của tiến trình hình thành của một xã hội mới chứ không phải do ý chí muốn độc lập và chống lại Trung Quốc. Ba đời họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ) và cả Dương Đình Nghệ sau đó, dù tự lập nên và chống với quân xâm lăng phương Bắc vẫn chỉ xưng là tiết đô sứ, một chức quan do Trung Quốc lập ra để cai trị Giao Châu. Ý thức quốc gia của chúng ta tiến chậm hơn thực tại xã hội, địa lý và nhân văn.

Ngô Quyền sau khi thắng được quân Nam Hán đã xưng vương, chính thức xác nhận nền độc lập. Hành động có ý nghĩa lịch sử trọng đại này hình như đã không được ghi nhận một cách phấn khởi, nên ngay sau khi Ngô Quyền qua đời hào kiệt khắp nơi đã thi nhau xưng hùng xưng bá. Sự triệt thoái của Trung Quốc đã tạo ra một khoảng trống quyền lực tại Giao Châu cho các thủ lãnh địa phương. Đinh Bộ Lĩnh là một trong những thủ lãnh này. Việc ông nổi loạn chỉ là do tham vọng cá nhân chứ không phải là để chống lại một chính quyền bất chính. Đinh Bộ Lĩnh đã thắng được không phải vì có chính nghĩa, trái lại ông đã chống lại một chính quyền rất có chính nghĩa, mà chỉ vì ông đánh trận giỏi. Việc ông xưng đế cũng chỉ nằm trong một tiến trình độc lập tự nhiên sau họ Khúc, họ Dương và họ Ngô mà thôi.

Nhưng nếu Đinh Bộ Lĩnh là một tướng giỏi thì Đinh Tiên Hoàng lại chỉ là một ông vua tồi và bạo ngược. Ông không làm được điều gì ích quốc lợi dân trong mười bốn năm cầm quyền (967-980). Ông bày ra những trò gớm ghiếc : lập vạc dầu để luộc người, dựng cột đồng nung đỏ để nướng người, nuôi hổ báo để xé xác phạm nhân, chặt chân tay, cắt tai mũi, v.v... Ông cũng hoang dâm vô độ, bỏ con trưởng lập con thứ một cách bất công để đến nỗi các con ông giết nhau. Cuối cùng ông bị phản thần giết chết giữa lúc đang say rượu nằm ngủ.

Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đem sự hung bạo vào chính trị nước ta, trước đó xã hội ta là một xã hội Phật Giáo lấy sự hiền hòa làm nền tảng. Ông cũng là người khởi xướng ra một cách ứng xử chính trị mới, đó là dùng nội chiến để tiêu diệt lẫn nhau thay vì giải quyết những quan hệ quyền lực qua thỏa hiệp và hợp tác. Nước Việt Nam vừa tự chủ, như một đưa trẻ sơ sinh, đã bị tiêm những độc tố kinh khủng.

Đinh Tiên Hoàng, một cách vô tình, cũng còn khai sinh ra một chủ trương chính trị khác tại Việt Nam, đó là quan điểm nhà nước tập trung và toàn quyền. Việc ông gồm thâu các sứ quân khác đã được tôn vinh triệt để, đã khiến sự tập trung mọi quyền lực quốc gia về một mối trở thành một lẽ dĩ nhiên trong tâm lý tập thể của chúng ta, và đã khai sinh ra cả một phản xạ tập trung mà các diễn biến lịch sử sau này tăng cường thêm. Họ Trịnh đã coi việc cất quân đánh họ Nguyễn ở phương Nam là giải pháp duy nhất. Nguyễn Huệ cất quân diệt họ Trịnh và đánh cả ông anh là Nguyễn Nhạc. Hồ Chí Minh và đảng cộng sản quyết tâm đánh gục chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam cho dù "sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhiều thành phố có thể bị tiêu diệt". Gần đây khi nhóm Thông Luận đưa ra chủ trương tản quyền và địa phương tự quản (không nên sợ những từ ngữ, đó quả thực là một chủ trương gần giống với một chế độ liên bang) thì ngay trong nội bộ đã có những tiếng nói rất thành thực bày tỏ mối lo đất nươc bị đưa vào tình trạng "thập nhị sứ quân", nghĩa là tan rã.

Nhưng có những "hiển nhiên" không đúng chút nào nếu ta quan sát và suy luận một cách bình tĩnh.

Trung Quốc từ lúc hình thành đã tiến những bước vĩ đại cả về kỹ thuật lẫn tư tưởng cho đến thời Đông Chu Liệt Quốc dưới chế độ phong kiến tản quyền, và đã dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm sau, từ nhà Tần trở đi, dưới chế độ quân chủ tập trung. Hoa Kỳ đã chỉ biết có chế độ liên bang và đã trở thành cường quốc hùng mạnh nhất thế giới chỉ sau một trăm năm lập quốc. Cộng Hòa Liên Bang Đức đã hơn hẳn các nước châu Âu khác. Liên Bang Xô Viết đã thất bại nhưng nó chỉ là một liên bang giả hiệu, mọi quyền hành, kể cả quyền sinh sát tùy tiện, tập trung vào một điện Kremlin. Nước Pháp tập trung đang vùng vẫy từ nhiều thập niên để tản quyền.

Chế độ tản quyền hơn hẳn chế độ tập quyền. Không phải là một ngẫu nhiên mà nó đang là phương thức mọi quốc gia hướng tới. Điều cần được đặc biệt lưu ý là nó cũng là giải pháp cho những quốc gia tụt hậu và thiếu dân chủ.

Trước hết nó là một đảm bảo cho dân chủ. Các vùng tự quản dĩ nhiên không thể có chế độ độc tài vì thẩm quyền của chính quyền địa phương chỉ là điều hành các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội trong khuôn khổ của luật pháp quốc gia. Ngược lại, chính quyền trung ương cũng không thể độc tài vì phần lớn sinh hoạt quốc gia nằm trong tay các chính quyền vùng hay tiểu bang. Trung ương và địa phương kiểm soát lẫn nhau với kết quả sau cùng là mọi bên đều phải khiêm tốn và chừng mực. Một chính quyền địa phương tồi dở không thể cấm đoán bầu cử tự do và cũng không thể gian lận bầu cử mà không bị chính quyền trung ương chế tài tức khắc. Ngược lại, một chính quyền trung ương không được nhân dân tín nhiệm cũng chắc chắn bị thay thế vì không thể khống chế được dân chúng, dân chúng tùy thuộc các chính quyền vùng nhiều hơn chính quyền trung ương. Sinh hoạt chính trị chỉ có thể là dân chủ. Hơn nữa mọi âm mưu đảo chính đều vô vọng. Một viên tướng nếu điên rồ đảo chính và lật đổ được chính quyền trung ương sẽ bị bó tay sau đó trước các chính quyền địa phương tự trị và sẽ may mắn lắm nếu tìm được máy bay để kịp thời tẩu thoát.

Tản quyền đem dân chủ tới mọi nơi và mọi người qua các cuộc tranh luận và tranh cử địa phương. Trong một nước chưa có truyền thống dân chủ, một chính quyền tập trung ngay cả có thiện chí cũng có thể chỉ thực hiện được dân chủ đối với một thiểu số trí thức ở thủ đô.

Tản quyền có lợi cho mọi sinh hoạt, đặc biệt là những sinh hoạt kinh tế. Nó tránh được những đường dây hành chánh dài và phức tạp, tiết kiệm được thì giờ và phí tổn ; nó kích thích văn hóa và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn lựa phương thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính và điều kiện của mình, đồng thời lấy những quyết định nhanh chóng. Các vùng nghèo khó sẽ có được một chính quyền riêng dành tất cả ưu tư cho vùng thay vì phải chờ đợi, và thường thường bị quên lãng, ở một chính quyền trung ương bận rộn với những vấn đề dồn dập của những vùng đã phát triển và hoạt động mạnh, như chúng ta đã thấy hiện nay chính quyền Việt Nam dành hết thì giờ giải quyết những vấn đề của Sài Gòn và Hà Nội. Không ai báo động một cách thành tâm và chính xác những khó khăn của một vùng bằng chính quyền vùng. Một chính quyền địa phương tự quản vừa có khả năng tự giải quyết một số khó khăn, vừa có khả năng động viên cử tri vùng làm áp lực buộc chính quyền trung ương phải quan tâm đến những khó khăn ngoài tầm tay của chính quyền vùng.

Tản quyền đóng góp một cách quyết định vào sự ổn vững của quốc gia. Nó khoanh vùng nhiều vấn đề và tránh cho quốc gia nhiều khủng hoảng đáng lẽ chỉ xảy ra trong một vùng, đối với chính quyền vùng. Hơn nữa, nó còn giúp cho quốc gia có thể thực hiện những cải tổ lớn mà không rơi vào hỗn loạn.

Tôi sinh sống nhiều năm tại Pháp để nhận xét điều đó. Nước Pháp có một tổ chức giáo dục mà mọi người đều nhận định là lỗi thời và cần cải tổ, nhưng hễ chính phủ nào cải tổ giáo dục là sẽ bị đánh đổ nhanh chóng, lý do là vì cải tổ nào cũng đụng chạm tới quyền lợi của một loại người và bị chống đối. Người ta có thể đồng ý trên 90% những biện pháp cải tùổ nhưng bất mãn với 10% còn lại và như thế là đủ để xuống đường phản đối. Điều nhức nhối là số 10% các biện pháp không được chấp nhận lại thay đổi tùy thành phần ; sửa đổi để vừa ý thành phần này thì lại gây phẫn nộ thêm cho nhiều thành phần khác. Nguyên nhân là chính quyền Pháp tập trung, hệ thống giáo dục áp dụng cho cả nước, cho nên mọi kế hoạch cải tổ đều bị phải được cả nước chấp nhận trong khi các vùng và các thành phần xã hội có những quyền lợi khác nhau. Vấn đề cải tổ giáo dục vẫn còn nguyên vẹn dù đã làm gãy đổ sự nghiệp của nhiều vị thủ tướng (kể cả đương kim tổng thống Jacques Chirac lúc ông còn là thủ tướng, may mà sau một thời gian ông gượng dậy được). Chúng ta hãy tưởng tượng tình hình sẽ ra sao nếu nước Pháp là một nước tản quyền thay vì tập trung ? Vấn đề cải tổ giáo dục sẽ thuộc quyền của các chính quyền địa phương thay vì thuộc chính quyền trung ương và sẽ thực hiện tại từng địa phương, ở những thời điểm khác nhau, thay vì cùng một lúc trên cả nước. Các phản đối cải tổ nếu có, cũng sẽ chỉ ở mức độ địa phương và chính quyền địa phương sẽ được sự hỗ trợ của đại đa số dư luận trong nước (vì 90% những biện pháp cải tổ là đúng và những người ngoài vùng sẽ chỉ nhìn thấy sự đúng đắn của kế hoạch cải tổ chứ không bị đụng chạm về quyền lợi), các phản đối sẽ giảm hẳn đi cường độ. Tóm lại, cùng lắm sẽ chỉ có xung đột nhỏ ở cấp địa phương mà thôi, cuộc cải tổ sẽ thực hiện được, sẽ được lấy làm mẫu mực cho các vùng khác. Nhưng thực ra có tất cả mọi triển vọng là sẽ không có xung đột nào cả, bởi vì nguyên nhân đưa tới nhu cầu cải tổ lớn chính là vì hệ thống giáo dục tập trung quá kềnh càng (Pháp có tới hơn một triệu công chức riêng trong ngành giáo dục) nên khó cải tổ, do đó nhiều điều đáng lẽ phải sửa đổi đã không được sửa đổi, dần dần tích lũy lại thành quá lớn và đòi hỏi một cải tổ sâu rộng. Tương tự như vấn đề giáo dục, nước Pháp còn ba cuộc cải tổ lớn nữa cần phải làm là nông nghiệp, hệ thống an sinh xã hội và hệ thống vận chuyển công cộng. Ba vấn đề cùng một lý do hiện hữu : tập trung, và cùng một lý do bế tắc : tập trung.

Trong một nước tản quyền, phần lớn những vấn đề kinh tế, xã hội đặt ra ở từng địa phương và ở những thời điểm khác nhau. Mỗi địa phương là một thí điểm cho một sáng kiến giải quyết và là một kinh nghiệm cho các địa phương khác. Tổ chức tản quyền như vậy giúp quốc gia tiến tới trong sự ổn vững.

Một ưu điểm vô cùng quan trọng khác của tản quyền là nó làm giảm bớt xung đột đảng phái, bảo đảm hòa hợp dân tộc và văn minh hóa sinh hoạt chính trị. Một chính đảng có thể cầm quyền ở cấp trung ương nhưng lại là đối lập trong nhiều vùng. Ngược lại các đảng đối lập có thể cầm quyền ở một số địa phương. Xung khắc chính quyền - đối lập sẽ bớt hẳn sự gay gắt. Trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam, tản quyền giúp chúng ta chấm dứt tâm lý tồi tệ "được làm vua (và lộng hành), thua làm giặc (và phá hoại)". Đó là một giải đáp cho yêu cầu hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Tản quyền còn môt đóng góp quan trọng khác, đó là bảo đảm một chính quyền trung ương tài giỏi, vì tất nhiên đa số những người cầm quyền ở cấp trung ương đều đã trải qua giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị trong các chính quyền vùng và khả năng đã được kiểm chứng.

Tản quyền cũng là một trong những thành tố căn bản của dân chủ đa nguyên, nó cho phép các khuynh hướng chính trị, các sắc tộc và tôn giáo thiểu số có được một trọng lượng đáng kể tại những vùng mà họ hiện diện đông đảo, do đó nó làm dịu bớt những tâm trạng bất mãn và những ý đồ ly khai.

Tóm lại, tản quyền có tất cả mọi phúc lợi. Nhưng muốn tản quyền có nội dung và tác dụng mong muốn của nó, tản quyền phải hội đủ hai điều kiện : một là mỗi vùng phải có khả năng tồn tại và phát triển được, hai là tản quyền không khuyến khích những ý đồ ly khai.

Điều kiện thứ nhất đòi hỏi mỗi vùng phải có diện tích, dân số, tài nguyên hay điều kiện địa lý tương đối đủ. Nước ta hiện có gần 80 triệu dân (hy vọng là dân số rồi sẽ ổn định ở mức 100 triệu), chúng ta có thể chia làm từ mười đến mười lăm vùng (và tại sao không mười hai ?), mỗi vùng với dân số từ năm tới mười triệu người. Để tránh những phiền toái về hộ tịch, mỗi vùng sẽ là sự kết hợp của một số tỉnh hiện nay. Các vùng sẽ có một nghị viện, một chính quyền dân cử và một guồng máy hành chánh riêng. Ở đơn vị tỉnh, ta có thể hình dung một hội đồng tỉnh do dân bầu ra và một tỉnh trưởng xuất phát từ hội đồng tỉnh, trong khi guồng máy hành chánh vẫn là một bộ phận của guồng máy hành chánh vùng.

Điều kiện thứ hai đòi hỏi giới hạn rõ ràng thẩm quyền của chính quyền vùng. Các vùng dĩ nhiên không được quyền có quân đội, số cảnh sát vùng cũng phải nằm trong một tỷ lệ nào đó so với số cảnh sát trung ương có mặt trong vùng, thí dụ 1-1 ; luật pháp của vùng không được mâu thuẫn với luật pháp trung ương. Các vùng không có tiền tệ riêng, không được có đại diện ngoại giao, không được quyền ký hiệp ước với nước ngoài, không được làm chủ các công ty có mục đích kinh doanh, không được tổ chức những cuộc trưng cầu dân ý có nội dung chính trị. Các vùng cũng không được ký kết các hiệp ước với nhau. Với tất cả những giới hạn trên đây chúng ta không cần lo ngại một âm mưu ly khai nào ; ngược lại, những giới hạn này không hề làm suy giảm thẩm quyền văn hóa, kinh tế và xã hội nào của vùng.

Hiện nay đất nước ta tuy thống nhất về mặt hành chánh nhưng vẫn còn rất chia rẽ trong lòng người, chia rẽ vì quá khứ chính trị, chia rẽ về tôn giáo, sắc tộc, v.v... nhưng nặng nề nhất là chia rẽ Bắc-Nam. Với sự phân vùng và tản quyền như trên, mối chia rẽ Bắc-Nam sẽ không còn nữa, bởi vì sẽ không còn miền Bắc, miền Nam mà sẽ chỉ còn vùng này và vùng nọ. Các sắc tộc ít người sẽ có trọng lượng lớn tại các vùng thượng du miền Bắc và cao nguyên miền Trung, đồng bào gốc Khmer sẽ có tiếng nói đáng kể ở miền Tây Nam phần. Các tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo sẽ có một chỗ đứng quan trọng ở các tỉnh Tây Ninh và Long Xuyên. Tinh thần địa phương là bước đầu của tinh thần quốc gia dân tộc nếu được phép phát huy một cách tự nhiên. Khi các địa phương được phát triển tự nhiên, họ sẽ không còn cảm thấy muốn ly khai nữa. Vả lại, đà tiến hóa của thế giới hiện nay là kết hợp chứ không phải ly khai. Các nước châu Âu đang kết hợp thành Liên Hiệp Châu Âu, các nước Bắc Mỹ và Nam Mỹ cũng đang cố gắng kết hợp thành khối. Cộng đồng nào, địa phương nào cũng muốn được hội nhập trong một thực thể lớn hơn. Trừ khi nhà nước là xiềng xích, bạo ngược, khống chế và bóc lột, không ai muốn ly khai. Chúng ta nên sợ độc tài, bạo ngược chứ không nên sợ tản quyền. Ám ảnh "thập nhị sứ quân" không còn lý do tồn tại.

Trong một cuộc thảo luận có người bạn đã chất vấn tôi : "Lòng người đã phân hóa như thế này, anh còn đòi tản quyền để chia cắt lãnh thổ, anh muốn đổ dầu vào lửa hay sao ?". Tôi đã trả lời : "Không. Tản quyền không làm đất nước tan vỡ, trái lại nó khiến cho đất nước được quản trị một cách hợp lý hơn và thông minh hơn, nó cũng góp phần hòa giải người Việt với đất nước mình vì nó xoa dịu những bực bội. Tản quyền không phải là đổ dầu vào lửa mà là đem nước chữa cháy".

******************

Phản xạ tổng thống

 

4-tqan28

Trong một cuộc nói chuyện cách đây không lâu, một nhân vật từ trong nứớc ra có lúc đã nổi sùng cự lại tôi : "Thế anh muốn gì ? Anh đòi làm tổng thống hay sao ?". Ý vị này là trách tôi đòi thay đổi quá nhiều. Dầu sao ở miệng của một người cộng sản hai tiếng tổng thống cũng là lạ vì chức vụ tổng thống không hề có trong các chế độ cộng sản. Tôi cũng nhớ vào giai đoạn "mở cửa" của ông Nguyễn Văn Linh trong đó trí thức trong nước được phép thi đua phê phán chế độ, Dương Thu Hương đã có một bài tham luận đặc sắc ; theo một bài tường thuật, một vị cao niên nào đó đã tán thành đến độ nói với Dương Thu Hương : "Sau này tôi sẽ bầu cho cô làm tổng thống".

Đối với nhiều người Việt Nam, kể cả người cộng sản, có lẽ tương lai của Việt Nam sau này đương nhiên là chế độ tổng thống. Tuy nhiên chế độ tổng thống là một chế độ rất dở. Cho đến nay trong lịch sử thế giới đã chỉ có một trường hợp chế độ tổng thống tương đối thành công là Hoa Kỳ. Tất cả các quốc gia theo chế độ tổng thống đã thất bại. Trong đại đa số, nó đưa đến độc tài, trong những trường hợp còn lại, nó đưa đến một xung đột bế tắc giữa tổng thống và quốc hội, đặt quốc gia trong tình trạng căng thẳng thường trực.

Những khuyết tật của chế độ tổng thống không khó nhận diện. Nhưng trước hết phải hiểu thế nào là chế độ tổng thống.

Nước Đức cũng có tổng thống, nhiều quốc gia theo chế độ đại nghị cũng có tổng thống, nhưng các nước này không áp dụng chế độ tổng thống vì tổng thống chỉ có vai trò nghi lễ ; quyền hành ở trong tay một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Vì thủ tướng đồng thời cũng là lãnh tụ của đảng cầm quyền, hay liên hiệp các đảng cầm quyền, nên cũng có thể bị thay thế bất cứ lúc nào do quyết định của đảng mình hay của liên hiệp đã đưa mình lên làm thủ tướng. Trong các chế độ này tổng thống không cầm quyền nên cũng không bị thay thế trong một nhiệm kỳ nhất định. Chế độ tổng thống là chế độ trong đó tổng thống do dân chúng trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu, đứng đầu chính phủ và cầm quyền thực sự.

Có một số chế độ tổng thống không bình thường trong đó tổng thống nắm quyền nhưng lại không được quốc dân trực tiếp bầu ra theo phổ thông đầu phiếu mà do một định chế đặc biệt. Đó là trường hợp của Nam Cao Ly dưới thời Toàn Đầu Hoán, đó cũng là trường hợp của Indonesia từ thời Suharto. Những chế độ này thường là sản phẩm của một tình trạng bất bình thường, nhằm che giấu thực chất của một chế độ độc tài cá nhân nên không thể được coi là những chế độ dân chủ. Nam Cao Ly đã bãi bỏ chế độ này và Indonesia chẳng bao lâu nữa cũng sẽ chuyển hướng về một chế độ hợp lý hơn.

Trước khi thảo luận về chế độ tổng thống có lẽ chúng ta cần khảo sát một loại chế độ xuất hiện từ vài thập niên nay, được gọi là chế độ "bán tổng thống". Khởi đầu từ Pháp, mô hình này sau đó lan ra một số quốc gia Đông Âu, Nga và Nam Cao Ly. Một số quốc gia châu Phi có lẽ do ảnh hưởng của Pháp cũng theo chế độ này. Trong các chế độ này tổng thống cũng do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhưng lại phải chia sẻ quyền hành pháp với một thủ tướng.

Nếu chúng ta có thể hiểu khá dễ dàng một chế độ tổng thống hay một chế độ đại nghị thì lại rất khó nhận diện các quan hệ quyền lực trong một chế độ bán tổng thống. Tất cả tùy thuộc ở sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và thủ tướng. Nếu thủ tướng không chịu trách nhiệm trước quốc hội mà chỉ do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống thì trên thực tế ông (hay bà) chỉ là một phụ tá của tổng thống, một thứ bộ trưởng thứ nhất, và lúc đó chế độ bán tổng thống chẳng khác gì một chế độ tổng thống thuần túy bao nhiêu. Đó là trường hợp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam trước đây. Ngược lại, nếu thủ tướng xuất phát từ quốc hội và chịu trách nhiệm trước quốc hội thì vai trò của thủ tướng lại có thể quan trọng hơn cả vai trò tổng thống, ít nhất trong chính sách đối nội. Giữa hai thái cực đó là vô số công thức trung gian. Chế độ hiện nay tại Nga có thể coi là chế độ ba phần tư tổng thống, chế độ tại Nam Cao Ly là hai phần ba tổng thống. Điều cần lưu ý là trong bất cứ trường hợp nào trọng lượng của tổng thống cũng rất lớn, vì lý do là ông có sự chính đáng của phổ thông đầu phiếu trực tiếp. Ông là người duy nhất trong quốc gia được toàn dân bầu ra.

Lý do ra đời của các chế độ bán tổng thống (hãy tạm gọi như thế) là một sự quân bình giữa hai ưu tư bảo đảm dân chủ và ngăn ngừa bất ổn chính trị. Người ta muốn một tổng thống vững chắc do dân chúng bầu ra với một nhiệm kỳ rõ rệt, nhưng lại sợ nếu để ông (hay bà) nắm trọn hành pháp thì sẽ dẫn tới độc tài hoặc xung đột bế tắc với quốc hội. Đây là thái độ mà ta có thể gọi là bắt cá hai tay.

Kinh nghiệm của các chế độ bán tổng thống đã có thể cho phép chúng ta hai nhận định.

Một là, về mặt thực tế, hậu quả đã khác với những gì những người khởi xướng ra nó tưởng tượng. Các chế độ "ba phần tư tổng thống" như tại Nga vẫn giữ hầu như nguyên vẹn những bất lợi của một chế độ tổng thống, trong khi các chế độ thực sự bán tổng thống như tại Pháp đưa đến tình trạng ngược đời là nhân vật nhiều quy)ền lực nhất, nghĩa là tổng thống, lại có thể thuộc phe đối lập với tất cả những bất tiện của nó : hai vị nguyên thủ hành pháp cùng đi dự một hội nghị, những lời qua tiếng lại không ngừng trên đỉnh cao của quốc gia làm người dân mất đi sự nể trọng và tin tưởng vào nhà nước, đe dọa khủng hoảng thường trực, v.v... Cũng nên nhấn mạnh một tính toán sai lầm của những người khai sinh ra chế độ bán tổng thống là việc tổng thống và thủ tướng thuộc hai đảng chống đối nhau không phải là một ngoại lệ mà đã mau chóng trở thành một thông lệ trong các chế độ bán tổng thống thực sự, như đã thấy tại Ba Lan và Pháp. Cử tri hay có thái độ "công bình", đã bầu cho tổng thống thuộc phe này thì bầu cho một đa số trong quốc hội, và do đó thủ tướng, thuộc phe kia. Các nhà làm hiến pháp đã bắt cá hai tay thì có gì ngạc nhiên nếu dân chúng cũng bắt cá hai tay ? Điều đáng ngạc nhiên chính là người ta đã ngạc nhiên khi tình trạng này xảy ra. Chính trị quả thực chỉ là một khoa học thực nghiệm.

Hai là các chế độ bán tổng thống đã là hậu quả của một sai lầm về nhận thức chính trị. Lý do để bầu ra một tổng thống theo phổ thông đầu phiếu là để bảo đảm một mức độ ổn vững chính trị nào đó, tránh tình trạng chính phủ bị thay đổi liên tục bởi một quốc hội trong đó không có một đa số rõ rệt, mỗi lần các đảng phái thay đổi đồng minh là một thủ tướng và một chính phủ mới. Nhưng thực ra sự kiện một quốc hội gồm hai đảng lớn hay bị phân chia thành nhiều đảng nhỏ không phải là một hậu quả của chế độ đại nghị mà chỉ là hậu quả của thể thức đầu phiếu.

Nói chung, có hai thể thức đầu phiếu chính :

Thể thức thứ nhất là bầu đơn danh và một vòng, trong đó cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử bầu một dân biểu và chỉ bầu một lần, người nào được số phiếu cao nhất thì đắc cử. Với lối bầu "dã man" này, một đảng có thể chỉ được 20% số phiếu của cử tri toàn quốc mà vẫn nắm được hai phần ba số dân biểu trong quốc hội nếu các ứng cử viên của họ về hạng nhất, thí dụ như với 20%, trong hai phần ba số đơn vị bầu cử trong khi các ứng cử viên khác chỉ được 12% hay 15%. Lối bầu cử này loại bỏ các đảng nhỏ và nâng đỡ các đảng lớn. Nó đặt các đảng nhỏ trước một chọn lựa : hoặc kết hợp lại với nhau thành một đảng lớn, hoặc bị gạt ra ngoài lề ; nó dần dần đưa tới chế độ lưỡng đảng.

Thể thức thứ hai là bầu theo tỷ lệ. Theo lối đầu phiếu này, cử tri toàn quốc, hay trong mỗi vùng lớn, sẽ bầu cho các liên danh do các chính đảng đưa ra. Sau cuộc bầu cử, mỗi liên danh sẽ được một số dân biểu theo tỷ lệ, thí dụ một liên danh được 25% số phiếu thì được 25% tổng số dân biểu, hay hơn một chút bởi vì thường thường người ta hay qui định một tỷ lệ tối thiểu của số phiếu đạt được, thí dụ 5%, để được chia ghế ; các chính đảng không được 5% tổng số phiếu của cử tri không được chia phần, số ghế dân biểu đáng lẽ về phần họ được đem chia cho các đảng vượt được tỷ lệ 5%. Lối bầu phiếu này rất dân chủ vì nó cho phép mọi khuynh hướng chính trị có chút tầm vóc được hiện diện trong quốc hội, và do đó được tham dự thảo luận về các chọn lựa lớn của nhà nước. Ngược lại, nó thường đưa đến tình trạng khó khăn là quốc hội bị chia vụn thành nhiều đảng nhỏ, không đảng nào nắm được đa số và do đó thủ tướng có thể bị thay đổi thường xuyên nếu do quốc hội chỉ định và chịu trách nhiệm trước quốc hội, như trong các chế độ đại nghị.

Như vậy nếu muốn tránh tình trạng bất ổn do một quốc hội bị chia vụn thì người ta chỉ cần chấp nhận lối đầu phiếu đơn danh và một vòng là xong, không cần phải phát minh ra một chế độ bán tổng thống, hai phần ba tổng thống hay ba phần tư tổng thống.

Tóm lại, cả lý do khiến các chế độ gọi là bán tổng thống được phát minh ra lẫn những hậu quả mà người ta dự đoán chúng sẽ đem lại đều là những sai lầm. Sai lầm về phân tích chính trị hoặc sai lầm về tiên liệu phản ứng của cử tri. Nói như thế không có nghĩa là tôi đề nghị gạt bỏ chế độ bán tổng thống một cách không thương tiếc. Ít nhất nó cũng sửa chữa được phần nào những xơ cứng của chế độ tổng thống. Nó có thể là một giải pháp trấn an cho chúng ta sau này nếu do lo âu và lưỡng lự - không đúng nhưng khó trút bỏ - chúng ta chưa dám chọn lựa dứt khoát chế độ đại nghị.

Bây giờ trở về với chế độ tổng thống. Những bất lợi và nguy cơ của chế độ tổng thống không khó nhìn thấy.

Trước hết, nó dành quá nhiều quyền cho một người không thể bị thay đổi trong một thời gian dài, ít nhất cũng bốn năm. Tổng thống có thể dùng quyền lực này mà bất chấp cả quốc hội. Nếu trong thời gian này tổng thống làm toàn sai lầm, hoặc vi phạm luật pháp thì sao ? Hậu quả là đất nước bị lâm vào tình trạng bệnh hoạn vô phương cứu chữa trong suốt nhiệm kỳ, hoặc sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng lớn trước khi hạ bệ được tổng thống. Điều mà người ta nghĩ là một ưu điểm của chế độ tổng thống - sự kiện nguyên thủ hành pháp không thể bị thay đổi trong một nhiệm kỳ - thực ra là một mối nguy. Chế độ tổng thống cũng chờ đợi quá nhiều đức tính và khả năng ở một người trong khi không ai có thể hoàn hảo, hơn nữa ai cũng có thể bị sút giảm sức khỏe và khả năng một cách bất ngờ.

Nhưng còn một hậu quả nghiêm trọng hơn là chế độ có thể trở thành độc tài. Tâm lý tại các nước thiếu mở mang là hay bầu lại cho người cầm quyền trừ khi ông ta quá tồi dở. Một tổng thống mị dân có thể mê hoặc cử tri để trở thành một thứ thần tượng rồi không những tái đắc cử mà còn đem cả tay chân và thủ hạ vào quốc hội, sửa đổi hiến pháp, ban hành tình trạng khẩn cấp, v.v... để kéo dài thời gian cầm quyền. Đó là tình trạng đã xảy ra ở hầu hết các nước mới được độc lập. Đó đã là trường hợp của mọi nước châu Mỹ La Tinh, trừ Chile, trong một thế kỷ rưỡi từ giữa thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20.

Và nếu tổng thống xung đột với quốc hội ? Nhà nước sẽ chỉ được quản lý theo lối xử lý thường vụ ; luật quốc hội biểu quyết tổng thống không ban hành, các đề nghị của tổng thống quốc hội không chấp nhận. Đất nước sẽ dẫm chân tại chỗ trong khi bối cảnh quốc gia và quốc tế thay đổi. Guồng máy nhà nước cũng có thể bị ngừng trệ vì ngân sách không được biểu quyết hoặc tháo khoán.

Cách bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu tự nó đã không đứng đắn.

Cuộc bầu cử một người trên một nước lớn đòi hỏi những chi phí rất quan trọng cho ứng cử viên, do đó chỉ có những người rất giàu hoặc được sự hỗ trợ của những thế lực tài phiệt lớn mới có thể tranh cử. Như vậy bằng cách này hay cách khác quyền lãnh đạo chính trị sẽ luôn luôn thuộc về người giàu có chứ không phải thuộc về người thực sự có trí tuệ và khả năng.

Lối bầu cử tổng thống là bầu cho một người trước khi bầu cho một dự án chính trị. Tổng thống có thể được bầu vì những lý do không liên hệ gì với khả năng chính trị : con cháu một vĩ nhân, đẹp trai, ăn ảnh, vợ đẹp, nói chuyện duyên dáng, v.v... làm mất sự nghiêm trang của sinh hoạt quốc gia. Cử tri có thể bầu cho một ứng cử viên như thế, nhưng sau đó lại nhàm chán với sinh hoạt chính trị.

Lô-gích của một cuộc bầu cử tổng thống là được ăn cả ngã về không cho nên các cuộc bầu cử tổng thống thường rất gay gắt và gây chia rẽ trầm trọng, nhất là trong một quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa khó khăn. Mỗi cuộc thay đổi tổng thống đều tương tự như một cuộc cách mạng với những người rất vui mừng và những người rất tức giận.

Hậu quả của chế độ tổng thống cũng là làm tan vỡ các đảng phái chính trị. Tình trạng này có hai lý do. Một là vì sự được hay thua dựa trên một người nên nhu cầu là có được một ê-kíp quảng cáo chính trị tốt chứ không phải một bộ tham mưu chính trị giỏi, vấn đề là làm thế nào để đánh bóng được ứng cử viên của mình để giành được chức tổng thống trước khi cần những nhà chiến lược lớn. Hai là vì chức vụ tổng thống là tất cả cho nên những nhân vật lớn trong cùng một đảng không thể thỏa hiệp với nhau. Hai nhân vật ngang tầm cỡ với nhau không thể thỏa hiệp để người có hy vọng hơn ra ứng cử, bởi vì không có sự qua lại, phải nhượng bộ tất cả hoặc không nhượng bộ gì hết. Các quốc gia theo chế độ tổng thống vì vậy thường không thể có các chính đảng lớn như tại các quốc gia theo chế độ đại nghị. Sự kiện thiếu vắng các chính đảng lớn là một bất lợi trầm trọng cho quốc gia. Các chính đảng lớn vừa là lò đào tạo ra các nhà lãnh đạo vừa là nơi mổ xẻ và trao đổi những ý kiến về những chọn lựa quan trọng đặt ra cho đất nước.

Hơn nữa, các nước theo chế độ tổng thống không phải chỉ thiếu chính đảng lớn mà còn thiếu chính đảng đúng nghĩa. Vì tất cả quyền hành tập trung vào tổng thống nên vị tổng thống nào cũng lôi kéo được sự hùa theo của một số đông đảo những phần tử cơ hội chủ nghĩa và vụ lợi. Tổng thống luôn luôn có một đảng rất lớn nhưng thường không có phẩm chất, bởi vì phần lớn là những phần tử xu nịnh.

Tôi sống tại Pháp và đã theo dõi năm cuộc bầu cử tổng thống. Mỗi cuộc bầu cử là mỗi lần dân Pháp bị chia làm hai phe. Kết quả vừa được công bố thì lập tức hàng trăm nghìn người xuống đường đốt pháo bông, bóp kèn, nhảy múa và gào hét "On a gagné !" [Ta đã thắng !] trong khi những người thuộc phe thua thì lòng đau như cắt. Mỗi lần bầu cử tổng thống là mỗi lần nội bộ các đảng lớn khủng hoảng trầm trọng. Trong đảng xã hội, tổng thống Mitterrand và nhân vật uy tín thứ hai là Michel Rocard trở thành những kẻ thù, không phải chỉ suốt đời mà cả sau khi ông Mitterrand đã chết. Đảng Xã Hội hầu như tan rã sau lần bầu cử tổng thống thứ hai. Bên cánh hữu thì Tập Hợp Cộng Hòa, đảng lớn nhất, cũng tan rã dần sau cuộc bầu cử tổng thống. Đôi bạn ba mươi năm Chirac và Balladur đã trở thành những đối thủ không thể nhìn mặt nhau, sau khi cả hai đều ra ứng cử tổng thống dù thuộc cùng một đảng. Nguyên nhân lúc nào cũng giống nhau : người ta không thể thỏa hiệp, bởi vì chức vụ tổng thống là tất cả. Hậu quả tai hại như vậy dù Pháp mới chỉ là một nước theo chế độ bán tổng thống, trong đó hiến pháp dành cho thủ tướng toàn quyền trong các vấn đề kinh tế xã hội.

Bây giờ, hãy nhìn ngay vào trường hợp Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất mà chế độ tổng thống có thể coi là thành công. Sự thành công này có một giải thích : Hoa Kỳ không giống bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới.

Quốc gia này đã được thành lập sau khi xã hội dân sự đã trở thành mạnh mẽ, từ đó xã hội dân sự luôn luôn nắm vai trò chủ động, nhà nước Hoa Kỳ luôn luôn là một nhà nước nhẹ tới mức tối thiểu. Trong tác phẩm để đời của ông Về Nền Dân Chủ Mỹ [De la Démocratie en Amérique] viết năm 1830, Alexis de Tocqueville kể lại rằng ông tìm gặp một thị trưởng một thành phố khá lớn tại Mỹ và thấy một người rất tầm thường đang loay hoay sửa mái nhà, qua câu chuyện ông thấy vị thị trưởng chỉ có một trình độ hiểu biết rất giới hạn. Tocqueville nhận ra là tại Mỹ những người thông minh và tài giỏi đều lao vào kinh doanh làm giàu, chỉ những người trung bình mới tham gia vào chính quyền. Chính quyền vì vậy luôn luôn trọng nể xã hội dân sự và tự cho mình sứ mạng là phục vụ xã hội dân sự và tạo điều kiện để xã hội dân sự có thể hoạt động lành mạnh. Nền tảng của nước Mỹ là xã hội dân sự. Không những thế Hoa Kỳ lại theo chế độ liên bang, tản quyền tối đa, vai trò của nhà nước trung ương lại càng bị giảm thiểu. Trong phần thảo luận về dân chủ, chúng ta đã nói tự do mới là cứu cánh của chính trị, vì thế ưu tư đầu tiên phải là giảm thiểu vai trò của chính quyền để nhường chỗ tối đa cho cá nhân và xã hội dân sự. Hoa Kỳ là bằng chứng rằng một chính quyền dở mà nhẹ vẫn hơn một chính quyền tốt nhưng kềnh càng. Một nét đặc thù khác của nước Mỹ là ngay từ ngày lập quốc nó đã có một đồng thuận rất mạnh trên một triết lý chính trị, triết lý chính trị đó là chủ nghĩa cá nhân tự do. Vì vậy mà Hoa Kỳ không có những cuộc tranh luận chính trị lớn. Các issues của những cuộc bầu cử chỉ là những vấn đề nhỏ : có nên hạn chế quyền phá thai không, có cho phép cầu nguyện trong trường học không, ủng hộ hay không ủng hộ án tử hình, hay cùng lắm là tăng hay giảm 0,5% thuế, v.v... Trường hợp Hoa Kỳ vì vậy không thể nới rộng cho các quốc gia đang bị đặt trước những chọn lựa quan trọng. Các nước khác bắt chước chế độ tổng thống của Hoa Kỳ đã chỉ tiến dần về độc tài và bế tắc.

Tuy vậy, chế độ tổng thống cũng đã gây những khó khăn đáng kể cho Hoa Kỳ, một tổng thống kém cỏi như Harding đã có thể tiếp tục trong sự sai lầm, góp phần quyết định đưa cả Hoa Kỳ và thế giới vào cuộc khủng hoảng bi đát 1929. Chính cuộc khủng hoảng này đã giúp cho các đảng phát-xít lên cầm quyền tại Ý và Đức, đưa đến thế chiến ; nó cũng đã cung cấp lập luận cho chế độ cộng sản Liên Xô và nhiều chế độ độc tài khác để bài bác dân chủ. Một thí dụ gần đây hơn là vụ tai tiếng của Bill Clinton và Monica Lewinski, gây chia rẽ và bối rối vô ích cho nước Mỹ trong hơn một năm trời. Nếu Clinton chỉ là một thủ tướng, ông đã có thể từ chức một cách êm thấm. Hoa Kỳ đã thành công với chế độ tổng thống nhờ một xã hội dân sự mạnh, tổ chức liên bang, chính quyền nhẹ và đồng thuận cao, nhưng chắc chắn Hoa Kỳ sẽ thành công hơn nhiều nếu theo chế độ đại nghị.

Cần lưu ý là vào lúc lập quốc, chính quyền liên bang Hoa Kỳ chỉ có một nhiệm vụ chính là đảm bảo quốc phòng. Dần dần với vai trò ngày càng lớn trên thế giới và với các vấn đề ngày càng phức tạp, chính quyền liên bang đã trở thành một chính quyền thực sự, nhưng đồng thời chế độ Hoa Kỳ cũng chuyển biến từ từ tới gần một chế độ đại nghị.

Tại Pháp, do sự phá sản của lối đầu phiếu theo tỷ lệ được đổ lỗi oan cho chế độ đại nghị và do uy tín áp đảo của tướng De Gaulle, chế độ bán tổng thống đã được thành lập, nhưng càng ngày càng có những tiếng nói có thẩm quyền cất lên đòi chuyển hóa về chế độ đại nghị. Maurice Druon, cựu bộ trưởng của De Gaulle và viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp, đánh giá chế độ tổng thống là một sai lầm vĩ đại của De Gaulle.

Thực ra chế độ tổng thống là gì ? Nó là một cải tiến của chế độ quân chủ tuyệt đối theo hai hướng : một là vua được bầu ra do phổ thông đầu phiếu thay vì lên ngôi theo cha truyền con nối và được gọi là tổng thống ; hai là quyền hạn của tổng thống được qui định theo hiến pháp. Tóm lại, chế độ tổng thống là một bước tiến do dự từ chế độ quân chủ sang dân chủ. Nói khác đi, nó phản ánh một lấn cấn tiếc nuối đối với những chế độ mệnh danh là "độc tài sáng suốt". Nguyễn Ngọc Huy đã bày tỏ tâm lý này trong cuốn Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Ông giải thích rằng trước đây đảng Đại Việt chọn chế độ độc tài và theo lãnh tụ chế vì vào lúc đảng Đại Việt được thành lập các chế độ độc tài đang thịnh hành ; sau đó vì các chế độ độc tài không còn được nhìn nhận, đảng Đại Việt đã chuyển sang chế độ tổng thống vì nghĩ rằng chế độ này giữ được những ưu điểm của chế độ độc tài dù vẫn dân chủ. Ngày nay thực tế đã chứng minh rõ ràng rằng không làm gì có những "ưu điểm" của chế độ độc tài cả, các "chế độ độc tài sáng suốt" chỉ là một huyền thoại, mọi chế độ độc tài đều tồi tệ. Chỉ còn một chọn lựa dứt khoát là dân chủ. Chế độ dân chủ nhất là chế độ đại nghị, trong đó quyền hành thuộc về một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội.

Trong chế độ đại nghị, người dân bầu một cách đúng đắn hơn hẳn, họ bầu cho một dự án chính trị thay vì cho một người, và họ cũng bầu cho hàng trăm dân biểu cùng một lúc. Cử tri mỗi đơn vị có phương tiện để tiếp xúc và tìm hiểu các ứng cử viên để có thể bầu với sự hiểu biết. Rủi ro sai lầm giảm đi, và sai lầm nếu có cũng không trầm trọng vì họ chỉ bầu một trong số bốn, năm trăm dân biểu.

Vị thủ tướng có thể bị quốc hội thay đổi bất cứ lúc nào và phải luôn luôn chứng tỏ khả năng của mình trước một "hội đồng giám khảo" có bản lãnh. Do đó thủ tướng vừa phải có thực tài vừa phải hết sức thận trọng. Sự thay đổi thủ tướng, nếu cần, cũng không gây ra khủng hoảng lớn. Các chính đảng cũng hoạt động nghiêm túc và hài hòa hơn, hai nhân vật ngang tầm cỡ trong cùng một đảng cũng có thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau hơn, để một người làm lãnh tụ và trở thành thủ tướng nếu đảng thắng cử, bởi vì chức thủ tướng không phải là tất cả, thủ tướng chỉ là người thứ nhất trong số những người ngang nhau trong một chính phủ.

Chế độ thủ tướng chắc chắn hơn hẳn chế độ tổng thống, với điều kiện là nó vừa bảo đảm được một mức độ ổn vững tương đối vừa bảo đảm được tiếng nói của mọi khuynh hướng trong các cuộc tranh luận trên những vấn đề lớn của đất nước. Đó là một bài toán có lời giải.

Chúng ta đã biết là lối đầu phiếu đơn danh và một vòng đưa tới một quốc hội với hai đảng lớn. Mặt khác chúng ta cũng biết rằng lối đầu phiếu theo tỷ lệ đảm bảo tiếng nói trong quốc hội cho mọi khuynh hướng.

Như vậy giải pháp tối ưu là một thể chế đại nghị tản quyền với một quốc hội trong đó 90% dân biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, và 10% còn lại được bầu theo tỷ lệ. Số 90% bầu theo thể thức đơn danh bảo đảm sự hiện diện của một đa số trong quốc hội và do đó sự ổn vững của chính quyền, trong khi số 10% bầu theo tỷ lệ có hai mục đích, một là bảo đảm cho mọi khuynh hướng được có tiếng nói, hai là cho phép những người lãnh đạo các chính đảng khỏi phải lo tranh cử tại các địa phương và tập trung cố gắng vào những vấn đề quốc gia. Giải pháp này đã được đưa ra trong Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên 1996 của nhóm Thông Luận. Gần đây, Guy Carcassonne, chuyên gia có uy tín về các định chế chính trị tại Pháp, phản ánh những trao đổi của các chuyên gia lớn trên thế giới về hiến pháp, cũng đi tới cùng một đề nghị.

Người Việt Nam chúng ta sở dĩ coi chế độ tổng thống là tự nhiên vì đó là chế độ không cộng sản duy nhất mà đại đa số chúng ta biết tới. Ở miền Nam Việt Nam trước đây đã chỉ có chế độ tổng thống. Sau này hai cộng đồng người Việt hải ngoại lớn nhất là tại Mỹ và Pháp, cả hai nước này đều theo chế độ tổng thống. Từ đó chúng ta tiêm nhiễm một thứ phản xạ tổng thống. Nhưng có những phản xạ rất có hại, cũng như có những thành kiến cần phải từ bỏ.

******************

 

Chuyện của các luật sư ?

 

4-tqan29

Nước ta chỉ mới tạm gọi là giành được độc lập từ sau thế chiến II, mà đã có khá nhiều hiến pháp. Phe cộng sản có bốn hiến pháp : hiến pháp 1946, hiến pháp 1959, hiến pháp 1980 và hiến pháp 1992. Phe quốc gia dù chỉ tồn tại chưa đầy 30 năm cũng đã có hai bản hiến pháp 1956 và 1967. Đó là chưa kể những bản tuyên ngôn, hiến ước, hiến chương được dùng như những hiến pháp tạm thời. Nếu so với nhiều quốc gia khác như Mỹ chỉ có một hiến pháp từ thời lập quốc, Đức và Nhật chỉ có một hiến pháp từ 1945, hoặc Anh chẳng có một hiến pháp thành văn nào thì chúng ta quả là giữ một kỷ lục về số lượng hiến pháp. Thú thực, tôi không biết có một dân tộc nào trên thế giới có một lượng hiến pháp bằng nước ta trong cùng một giai đoạn không. Tôi chắc là không.

Tuy vậy số lượng hiến pháp không hề chứng tỏ người Việt Nam chúng ta trăn trở về hiến pháp, luôn luôn dằn vặt suy nghĩ tìm cách thay đổi cho phù hợp hơn, trái lại nó còn chứng tỏ người Việt Nam không có một quan điểm đúng đắn về hiến pháp. Đặc tính chung của tất cả mọi bản hiến pháp đã có là chúng đều đã được soạn thảo một cách vội vã và kín đáo, được thông qua hầu như không tranh cãi và được ban hành trước sự dửng dưng của dân chúng.

Đảng cộng sản hiển nhiên là coi hiến pháp là của người cầm quyền. Hiến pháp là văn kiện tổ chức nhà nước, mà nhà nước theo triết học Mác-Lênin chỉ giản dị là công cụ đàn áp của kẻ thống trị. Lời nói đầu của hiến pháp 1992 gồm 530 chữ trong đó có 53 chữ, nghĩa là đúng 10%, được dành cho "hơn bốn ngàn năm lịch sử" của Việt Nam, phần còn lại chỉ nói về đảng cộng sản. Chưa đủ, lời nói đầu, phần long trọng nhất của hiến pháp, còn qui chiếu về cương lĩnh chính trị của đại hội lần thứ sáu của đảng cộng sản, một văn kiện chỉ có giá trị giai đoạn ngay cả với đảng cộng sản. Bản chất của hiến pháp như là một công cụ đàn áp được thể hiện rõ ràng qua những điều đầy tính hăm dọa, thí dụ như điều 13.

Thế còn những người Việt Nam nói chung ? Phần đông chúng ta cũng có một quan niệm rất sai lầm về hiến pháp. Hình như đối với chúng ta hiến pháp chỉ là một văn kiện tổ chức chính quyền có tính chuyên môn và thuộc thẩm quyền của các luật sư. Ngược lại, phần lớn các luật sư cũng tự coi là có thẩm quyền để nói về hiến pháp hơn người khác, mà không hiểu tại sao.

Trí thức trung niên và cao niên của ta thừa hưởng văn hóa Pháp, từ đó, một cách phiến diện, coi hiến pháp nằm trong phạm vi luật học, một lẫn lộn mà chính các học giả Pháp cũng đã nhìn nhận. Thực ra hiến pháp tuy là luật căn bản của quốc gia và là cội nguồn của luật pháp nhưng không nằm trong phạm vi luật học mà thuộc phạm vi văn hóa, chính trị và xã hội. Một luật sư dù có khả năng biện hộ tài tình những vụ kiện cáo nhà đất và ly dị vẫn có thể không có tư cách gì để bàn về hiến pháp. Luật phải qui chiếu vào hiến pháp nhưng hiến pháp không thuộc phạm vi của luật học. Các chuyên gia về hiến pháp của Pháp cũng đã nhận ra sự mập mờ của cụm từ "droit constitutionnel" được dịch sang tiếng Việt là "luật hiến pháp" và càng ngày càng dùng cụm từ "định chế chính trị" [institutions politiques] nhiều hơn. Cụm từ này tuy đúng nghĩa hơn nhiều, nhưng cũng chưa đúng hẳn.

Vậy thì hiến pháp là gì ?

Nó đúng là văn kiện qui định những định chế chính trị, nhưng đồng thời nó cũng đặt nguyên tắc, nếu không qui định một cách rõ rệt, cho tương quan giữa các thành tố của xã hội, cũng như cho nhiều định chế văn hóa, xã hội khác cần thiết cho sự sống và tiến hóa của cộng đồng quốc gia. Như vậy, muốn nói tới hiến pháp, trước hết phải có một quan niệm về quốc gia đã. Trong một chương trước chúng ta nhận định quốc gia như không gian liên đới của một dân tộc để cho phép họ sống chung và xây dựng với nhau một tương lai chung. Như vậy hiến pháp phải là một thỏa ước về một hiện tại và một tương lai. Trong hiện tại chúng ta đang th^ừa hưởng di sản nào, đang có những vấn đề nào và phải tổ chức cộng đồng quốc gia như thế nào cho phù hợp ? Chúng ta đang đứng trước những nguy cơ nào và phải tổ chức như thế nào để ngăn ngừa ? Và với tất cả khả năng và tiềm năng của chúng ta, chúng ta muốn một tương lai như thế nào và phải tổ chức cố gắng chung như thế nào để đạt tới ?

Tất cả những câu hỏi đó hiến pháp phải trả lời và những người có thẩm quyền để đề nghị những câu trả lời là những người đã trải qua nhiều trăn trở và suy tư về đất nước và có đủ sự hiểu biết để có thể đưa ra những kết luận. Đó là những nhà chính trị, những nhà xã hội học, những nhà tư tưởng với những đóng góp của các chuyên gia mọi ngành, trong đó luật học chỉ là một.

Vì là một qui ước sống chung và làm việc chung, hiến pháp phải có sức thuyết phục, nghĩa là vừa phải hợp lý vừa phải hợp tình để được mọi người, ngay cả những người không đồng ý, nhìn nhận tính chính đáng, lương thiện và thành khẩn. Nó cũng phải có khả năng động viên và thôi thúc, nghĩa là cũng phải có giá trị của một lời kêu gọi.

Hiến pháp có thực sự cần thiết không ?

Câu hỏi có vẻ khiêu khích nhưng câu trả lời là không. Vai trò của nó là phát biểu một đồng thuận sống chung và theo đuổi những mục đích chung, nếu đồng thuận đã rõ ràng thì hiến pháp không cần thiết, quốc gia có thể sinh hoạt chỉ bằng những đạo luật đặc biệt. Nước Anh không có hiến pháp mà vẫn là một quốc gia rất phồn vinh. Không cần thiết trên nguyên tắc nhưng hiến pháp có lợi về mặt thực tiễn bởi vì nó vạch ra một tinh thần chỉ đạo cho các đạo luật. Trong trường hợp Việt Nam, giữa lúc lòng người hoang mang và phân tán, chúng ta cần một hiến pháp để làm một căn bản đồng thuận, nhưng với điều kiện là hiến pháp đó thực sự là kết quả của một cố gắng tìm đồng thuận dân tộc.

Hiến pháp có cần ổn vững không ?

Câu trả lời là chắc chắn cần. Thay đổi hiến pháp là thay đổi luật chơi cơ bản nhất của xã hội, có thể gây xáo trộn trong sinh hoạt quốc gia và làm đổ vỡ nhiều dự án. Kinh nghiệm đã cho thấy một hiến pháp dân chủ ổn vững là điều kiện không có không được cho phát triển, bởi vì có như thế người dân mới yên tâm làm những dự định cho tương lai. Cần nhấn mạnh cụm từ êhiến pháp dân chủ ổn vữngê bởi vì nếu hiến pháp chỉ là sự áp đặt của kẻ thắng, nhất là lại chứa đựng những qui định khiêu khích thì, ngược lại, càng kéo dài bao lâu nó càng gây tác hại và làm rạn nứt dân tộc bấy nhiêu.

Sự ổn vững của hiến pháp rất cần thiết, cho nên ưu tư lớn nhất của người soạn thảo hiến pháp phải là làm thế nào để nếu một lực lượng khác lên cầm quyền họ cũng không có lý do để đổi hiến pháp. Việc một lực lượng chính trị cầm quyền áp đặt hiến pháp theo ý mình vừa là một thái độ xấc xược vừa chứng tỏ sự thấp kém của những người không có tham vọng để lại dấu ấn lâu dài. Quan sát các quốc gia trên thế giới, chúng ta có thể thấy là hầu như có một định luật là các nước càng ít thay đổi hiến pháp thì càng phát triển, càng nhiều hiến pháp bao nhiêu thì càng trì trệ bấy nhiêu. Sự phồn vinh tỷ lệ nghịch với số lượng hiến pháp được ban hành.

Nhưng ổn vững không có nghĩa là bất động. Hiến pháp phải đáp ứng những yêu cầu lớn của giai đoạn và do đó cũng phải có khả năng thích nghi với thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng ngược lại cũng không nên khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết, và càng không nên đưa vào hiến pháp những gì chỉ có giá trị nhất thời và vì thế có thể qui định bằng một đạo luật thường. Một trường hợp điển hình là hiến pháp Bồ Đào Nha [Portugal] ban hành năm 1976. Vào lúc đó Portugal vừa trải qua ba mươi năm dưới chế đô độc tài Salazar, quan tâm chính của các nhà lập pháp Portugal là làm thế nào ngăn chặn mọi khả năng trở lại của một chế độ độc tài. Họ đã chọn chế độ đại nghị, đó là một chọn lựa đúng. Họ cũng chọn cách bầu cử quốc hội theo lối bầu tỷ lệ. Quả nhiên lối bầu theo tỷ lệ là thể thức bầu cử dân chủ và đa nguyên nhất. Nhưng họ đã làm một sai lầm lớn do nhiệt tình quá đáng là ghi ngay vào hiến pháp một điều khoản cấm thay đổi cách đầu phiếu này (và dĩ nhiên cả điều khoản cấm thay đổi). Ngày nay chính giới Portugal nhận ra sự bất lợi của lối bầu cử theo tỷ lệ nhưng không thay đổi được. Nước Portugal vì vậy luôn luôn bị đặt trước nguy cơ là không có nổi một đa số gắn bó trong quốc hội, và do đó một chính phủ đủ vững mạnh, để lấy những quyết định quan trọng.

Hiến pháp có phải là đặc biệt cho một quốc gia không ?

Câu trả lời là vừa có vừa không.

Có, bởi vì mỗi dân tộc có một di sản văn hóa riêng với những cái hay và những cái dở và một lịch sử riêng với những yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực. Do đó mỗi dân tộc có những vấn đề trọng đại riêng phải giải quyết. Hiến pháp phản ánh đặc thù dân tộc.

Không, bởi vì quốc gia nào cũng phải hội nhập vào đà tiến chung của thế giới và vì thế không thể phủ nhận luật pháp quốc tế và các giá trị phổ cập của loài người. Nhiều quốc gia đã long trọng xác nhận Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước đính kèm như là thành phần của hiến pháp của mình. Đó là một chọn lựa rất đúng đắn.

Chúng ta có cần một hiến pháp mới cho Việt Nam không ?

Câu trả lời không hiển nhiên như nhiều người có thể nghĩ. Cho tới nay có một sự kiện khá ngộ nghĩnh. Phần lớn các thành phần đối lập, kể cả các tổ chức chống cộng hải ngoại từng chủ trương kháng chiến võ trang, đều lên tiếng đòi bỏ điều 4 (điều qui định đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà nước). Chỉ có thế thôi sao ? Thế còn điều 9, điều 13, điều 30, điều 45, v.v... ? Và còn danh xưng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ? Và lời nói đầu dành 90% để nói về công đức của đảng cộng sản ? Chỉ đòi bỏ điều 4 là một thái độ quá khiêm tốn, ngay cả cho một giai đoạn chuyển tiếp về dân chủ vì còn rất nhiều điều khoản khác cũng quá khích không kém và nếu được duy trì sẽ có thể bẻ gãy tiến trình dân chủ hóa. Thí dụ như điều 45 qui định quân đội phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Quí vị trong một chính phủ chuyển tiếp (giả thử như sẽ có) phải coi chừng, quí vị có thể bị quân đội đảo chính một cách rất hợp hiến ! Sự kiện điệp khúc "bỏ điều 4" được lặp đi lặp lại trong các nghị quyết, kháng thư, tuyên ngôn... chứng tỏ phần lớn các tổ chức không quan tâm đến hiến pháp và không đọc hiến pháp, như đại đa số người Việt Nam từ trước đến nay.

Để chuyển hóa về dân chủ thì ngay giai đoạn chuyển tiếp, không phải chỉ một điều 4, mà còn nhiều điều khác cần được vô hiệu hóa. Công việc sẽ quá phức tạp vì phải rà soát lại toàn bộ hiến pháp ? Không hẳn như vậy, chúng ta có thể chỉ cần một nghị quyết, do quốc hội đương hành biểu quyết hoặc do một trưng cầu dân ý, tuyên bố vô hiệu hóa mọi qui chiếu của hiến pháp về bất cứ một tổ chức, một chủ nghĩa hay một nhân vật nào. Tất cả vấn đề là thiện chí, nếu thực sự có ý chí dân chủ hóa thì không có vấn đề nào không giải quyết được.

Rồi sau đó ? Chúng ta có thể đồng ý soạn thảo lại một bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi hiến pháp hiện thời. Nhưng dù chọn giải pháp tu chính đi nữa thì cũng phải thay lời nói đầu, sửa đổi các điều khoản nói về đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, Mặt Trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, và nhiều điều khoản về tổ chức nhà nước, v.v... Nói khác đi, dù là tu chính đi nữa, trên thực tế vẫn là một hiến pháp hoàn toàn mới về nội dung.

Chúng ta sẽ cho hiến pháp này nội dung nào ?

Như đã nói, hiến pháp phải đáp ứng những đòi hỏi trọng đại của hiện tại và cũng phải phù hợp với xã hội tương lai mà chúng ta muốn đạt tới. Trong hiện tại ["hiện tại" có nghĩa là khi chế độ dân chủ chính thức được thành lập], ba ưu tư chính của chúng ta là bảo đảm một bối cảnh chính trị ổn vững, ngăn chặn sự trở lại của một chế độ độc tài dưới bất cứ hình thức nào và thực hiện hòa giải dân tộc. Trong tương lai, chúng ta muốn một nước Việt Nam hội nhập vào đà tiến chung của thế giới, một nước Việt Nam phát triển nhanh để bắt kịp sự chậm trễ so với các nước khác, một nước Việt Nam ngày càng thống nhất trong lòng người, một nước Việt Nam tản quyền để cho phép mỗi vùng được quản lý một cách phù hợp với điều kiện riêng của mình và phát huy được tối đa các ưu điểm của mình. Chúng ta cũng muốn một xã hội đa nguyên trong đó mọi sắc tộc và mọi tín ngưỡng được thỏa mãn những khát vọng chính đáng.

Nếu những mục tiêu trên được chấp nhận thì một cách thực tế hiến pháp tương lai có thể gồm :

1. Một lời nói đầu, được coi là có giá trị pháp lý cao nhất, trong đó các mục tiêu trên được nêu ra, với ít nhất những khẳng định sau đây :

      - Việt Nam coi bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và mọi công ước liên hệ, cùng với những tu chính sau này của chúng, là thành phần tạo thành và khắng khít của hiến pháp Việt Nam (khẳng định này nhắm mục đích cho phép Việt Nam đi cùng nhịp với tiến bộ của thế giới).

      - Trong nước Việt Nam không có những ý kiến cấm nêu ra và cũng không có những đề tài cấm bàn đến (khẳng định này lấy tự do và sáng kiến làm sức mạnh dựng nước).

      - Xã hội Việt Nam được xây dựng trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc (hòa giải và hòa hợp không những là nhu cầu cấp bách của đất nước hiện nay mà còn là một triết lý chính trị mới trên thế giới).

2. Các điều khoản về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Các điều khoản này không cần đi vào chi tiết vì những quyền công dân phần lớn đã nằm trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các công ước liên hệ, mặt khác nên theo tinh thần thực nghiệm, nghĩa là bổ túc dần dần hiến pháp, biến hiến pháp thành một suy tư thường trực trong quốc gia.

3. Các điều khoản về tổ chức nhà nước, trong đó qui định :

      - Lãnh thổ Việt Nam thống nhất trong sự kết hợp các vùng. Chính quyền trung ương giữ độc quyền về quốc phòng, ngoại giao và tiền tệ. Mỗi vùng được có chính quyền riêng do dân chúng bầu ra. Các chính quyền vùng không được có quân đội và tiền tệ riêng, không được ký kết những hiệp ước với nước ngoài và với các vùng khác, không được làm chủ các cơ sở có mục đích kinh doanh. Chi tiết về biên giới các vùng và cách tổ chức chính quyền vùng sẽ do một đạo luật riêng do quốc hội biểu quyết.

      - Chính quyền trung ương gồm một quốc hội trong đó không dưới 80% đại biểu được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng, phần còn lại bầu theo tỷ lệ, một thượng viện mà vai trò chính là đại diện cho các vùng, trong đó mỗi vùng có một số thượng nghị sĩ bằng nhau ; một tổng thống, hay chủ tịch nước, do quốc hội và thượng viện bầu ra với vai trò chủ trì những nghi lễ và bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết quốc gia ; một chính phủ gồm một thủ tướng do quốc hội bầu ra và những bộ trưởng do thủ tướng chỉ định ; và một tòa án tối cao có quyền phán quyết tính hợp hiến của các đạo luật do quốc hội biểu quyết và các nghị định của chính phủ, trọng tài các tranh tụng giữa những cơ quan quyền lực, xét xử các cấp lãnh đạo cấp cao, và xét lại các phán quyết của các tòa án trung ương cũng như địa phương.

      - Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng và một chính quyền vùng do nghị viẹân vùng bầu ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.

      - Các chính đảng được nhìn nhận là có vai trò quan trọng trong sinh hoạt quốc gia và được tài trợ theo luật pháp.

4. Một số điều khoản đặc biệt có mục đích nhấn mạnh mục tiêu dài hạn của quốc gia để thu hút sự chú ý của dân chúng, thí dụ như qui định chức năng của Việt Nam là một nước thương mại, công nghiệp và du lịch ; Việt Nam vận động mọi cố gắng để chung sống trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác, đóng góp củng cố hòa bình trong vùng và trên thế giới ; trách nhiệm đặc biệt trọng đại của mọi công dân Việt Nam là gìn giữ và không ngừng cải thiện môi trường sinh sống, không khí, cây rừng, bờ biển, lãnh hải và thềm lục địa.

Hiến pháp chỉ dừng lại ở những nguyên tắc và tinh thần chỉ đạo ; những chi tiết cụ thể, có thể rất quan trọng, như việc qui định các đơn vị bầu cử, tổ chức chính quyền địa phương, số lượng và thể thức chỉ định các thẩm phán tòa án tối cao, số lượng và thể thức bầu cử các thượng nghị sĩ, v.v... do các đạo luật đặc biệt.

Về mặt kỹ thuật, hiến pháp chỉ có một bó buộc chính là đừng có mâu thuẫn giữa các điều khoản. Điều này các luật gia có thể đóng góp, nhưng thực ra chỉ đòi hỏi ở người soạn thảo một khả năng lô-gích vừa phải.

Một lời sau cùng về hiến pháp : hiến pháp là hợp đồng về một dự án sống chung và xây dựng một tương lai chung ; dự án ấy có thể đòi hỏi nhiều suy tư trong nhiều năm của rất nhiều người, nhưng một khi chúng ta đã biết mình muốn gì, cho mình và cho con cháu, việc soạn thảo thành văn bản có thể chỉ đòi hỏi vài ngày.

Quay lại trang chủ

Additional Info

  • Author: Nguyễn Gia Kiểng
Read 3929 times

Viết bình luận

Phải xác tín nội dung bài viết đáp ứng tất cả những yêu cầu của thông tin được đánh dấu bằng ký hiệu (*)