Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tập Cận Bình, từ Cách mạng Văn hóa đến độc tài kỹ thuật số

Trong bài "Một sự thịnh vượng dưới giám sát tại Trung Quốc" đăng trênLe Monde, tác giả Stéphane Lauer nhấn mạnh đến hơi hướm Cách mạng Văn hóa hiện nay tại Hoa lục.

CHINA GOVERNMENT PANDEMIC CORONAVIRUS COVID19

Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp tục củng cố quyền lực tuyệt đối của mình với Đảng, Nhà nước, Quân đội, nói tóm lại là toàn bộ Trung Quốc và cuộc sống hàng ngày của người dân. (Ảnh EPA)

"Đại tự báo" trên mạng, "bác Tập" đi vào sách giáo khoa

"Không chỉ tẩy rửa chất độc hại, mà phải nạo đến tận xương" - một blogger nổi tiếng dân tộc chủ nghĩa hôm 29/08, kêu gọi chấm dứt với "bè lũ tư bản" làm giàu trên xương máu nhân dân, đồng thời đả kích các ngôi sao đang dẫn dắt lớp trẻ vào ảnh hưởng văn hóa phương Tây.

Lời lẽ không khác thời thanh trừng mao-ít, nhưng điều quan trọng không chỉ ở nội dung, mà còn là quy mô phổ biến. Được truyền thông nhà nước đưa lại, bài viết này 15 ngày sau vẫn còn trên mạng. Đương nhiên kiểu đại tự báo kỹ thuật số này không thể lan truyền nếu không có lệnh của chính Tập Cận Bình.

Từ nhiều tháng qua, các tên tuổi hàng đầu của high-tech Trung Quốc bị chính quyền quy cho nhiều tội : chạy theo lợi nhuận quá đáng, làm hại đến an ninh quốc gia, lạm dụng vị trí độc quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng và doanh nghiệp nhỏ. Một số bị trừng phạt, những người sáng lập lui vào bóng tối, và lãnh vực này được yêu cầu tỏ ra hào hiệp trong việc làm từ thiện.

Tuy các mục tiêu có vẻ tương tự như Hoa Kỳ và Châu Âu đối với GAFAM, nhưng không nên nhầm lẫn : Bắc Kinh muốn tăng cường kiểm soát dữ liệu để bảo đảm sự thống trị của đảng cộng sản. Lâu nay là tủ kính bày hàng cho sức mạnh đang lên của Trung Quốc, các tập đoàn internet giờ đây phải lùi lại phía sau. Song song đó là những lời kêu gọi đưa giới trẻ vào khuôn khổ. Mỗi tuần chỉ được chơi game không quá ba tiếng đồng hồ, và học sinh tiểu học được phát sách giáo khoa mới trong đó giải thích những gì "bác Tập" đang chờ đợi nơi các em.

Từ chủ trương đến thực tế

Khái niệm "thịnh vượng chung",nguyên văn trong tiếng Hoa là"cộng đồng phú dụ", được Mao đưa ra lần đầu vào năm 1953 khi gom đất đai của nông dân vào hợp tác xã. Làm giàu nhanh giờ đây bị nghi ngờ, đầu cơ địa ốc bị giám sát, thị trường dạy thêm béo bở được lệnh phải chuyển sang phi lợi nhuận.

Nhưng đó là ý định, còn thực hiện thì phức tạp hơn. Chẳng hạn việc hạn chế chơi game gợi nhớ vụ cấm chơi mạt chược thời Cách mạng Văn hóa, chỉ có tác động hạn chế. Chuyên gia François Godement của Viện Montaigne nhấn mạnh, nhiều cải cách được loan báo trước đây vẫn chưa được áp dụng ở địa phương. Theo ông, Tập Cận Bình "gần với Stalin hay Lưu Thiếu Kỳ hơn là Mao",ông ta"ghét sự hỗn loạn và các kiểu kiểm soát liên quan đến thời Cách mạng Văn hóa".

Chận trước những tiếng nói phản biện

Nếu hồi năm 1957, chiến dịch "Trăm hoa đua nở" nhằm thúc đẩy người khác lên tiếng để rồi đàn áp, thì đương kim chủ tịch Trung Quốc lại muốn phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thế nên Mã Vân (Jack Ma), người sáng lập Alibaba đã bị khóa miệng ngay sau khi dám chỉ trích hệ thống ngân hàng cho vay kiểu tiệm cầm đồ, không đợi đến lúc các tập đoàn high-tech khác có những đề nghị để cải thiện hoạt động.

Về mặt chính trị, trước đại hội đảng 2022, Tập Cận Bình vạch ra những lằn ranh không được phép vượt qua, đồng thời bảo đảm được sự ủng hộ của đa số dân chúng chống lại tầng lớp thượng lưu và siêu giàu. Về kinh tế, ông ta chuẩn bị tinh thần cho tình trạng tăng trưởng chậm lại. Những phấn khởi hậu Covid đang lắng xuống.

Alain Wang, giảng viên CentraleSupélec giải thích : "Đại dịch đã làm trầm trọng thêm những bất cập và cho thấy một số mục tiêu vẫn chưa đạt được". Đầu tư công không đủ, bất bình đẳng trong y tế, giáo dục, nhà ở là khủng khiếp. Trung Quốc cũng không thúc đẩy được tiêu dùng nội địa để bù đắp lại xuất khẩu giảm, vì người dân không có khả năng.

Không chắc chính quyền giải được phương trình kinh tế nhờ chủ trương mới. Ngược lại, có một điều chắc chắn là Tập Cận Bình tự trang bị cho mình phương tiện để dự báo trước những chống đối trong trường hợp thất bại. Về điểm này, việc siết lại internet rõ ràng là một bước dấn lên theo hướng một sự giám sát đại trà. Nếu việc quay lại với Cách mạng Văn hóa vẫn chưa rõ ràng, thì bước tiến về "độc tài kỹ thuật số" chưa bao giờ hiện thực như thế.

Taliban quay lại : Chiến thắng của Pakistan, nhưng với cái giá không rẻ

Liên quan đến Afghanistan, thông tín viên Le Monde ở New Delhi nhận định, Pakistan là người hưởng lợi trước nhất với sự quay lại của Taliban. Le Monde nêu bật một hình ảnh : Faiz Hameed, giám đốc cơ quan tình báo Pakistan (ISI) mặc thường phục, tách cà phê trên tay, đứng giữa một phái đoàn cao cấp, là quan chức ngoại quốc đầu tiên quay lại Kabul kể từ khi phương Tây ra đi. Việc Taliban lên nắm quyền đã mang lại vai trò chiến lược mà quân đội Pakistan luôn tìm kiếm trong sự đối địch với kẻ thù muôn thuở là Ấn Độ.

Từ 40 năm qua, ISI coi Afghanistan là trung tâm của chiến lược khu vực, chứa chấp và đào tạo các nhóm nổi dậy. Mục tiêu nhằm tránh hai mối đe dọa : bị bao vây trong trường hợp có chiến tranh với Ấn Độ, và không bị ảnh hưởng đến toàn vẹn lãnh thổ. Đó là vì biên giới dài 2.670 kilomet với Afghanistan do người Anh vẽ và đặt tên là đường Durand bị Kabul không công nhận, còn người Pashtun đòi thống nhất khu vực đang được Afghanistan và Pakistan chia sẻ. Pakistan muốn dập tắt ý đồ độc lập của người Pashtun bằng cách Hồi giáo hóa họ.

Với việc Mỹ rút quân, mục tiêu thứ nhất của ISI đã đạt được : không còn liên minh giữa Ấn Độ và Kabul. Ấn Độ vốn đã đầu tư nhiều vào Afghanistan, buộc lòng phải hướng về phương Tây, và giờ đây chính Ấn Độ bị bao vây bởi trục Pakistan-Afghanistan-Trung Quốc.

Mục tiêu thứ hai thì khó hơn : không có gì cho thấy Taliban sẽ công nhận đường ranh Durand, và phong trào Pashtun có thể nổi dậy. Cựu đại sứ Pakistan tại Mỹ, Husain Haqqani dự báo chiến thắng của Pakistan là một chiến thắng phải trả giá đắt, với vô số nguy cơ về an ninh, như các nhóm cực đoan chống lại Islamabad, luồng người tị nạn không thể kiểm soát (tại Pakistan đã có 4 triệu người Afghanistan), buôn lậu vũ khí và ma túy.

Vị trí Qatar được nâng lên nhờ cuộc khủng hoảng Afghanistan

Còn theo Libération, Qatar đang gặt hái thành quả những gì đã đầu tư ở Afghanistan. Nhật báo thiên tả nhìn thấy một hình ảnh khác : một chiếc Airbus A350 mang dòng chữ Qatar Airways cất cánh từ phi trường Kabul hôm thứ Năm tuần trước, chở theo khoảng 100 hành khách. Đó là chuyến bay dân sự đầu tiên từ thủ đô Afghanistan sau khi lực lượng Mỹ đã ra đi hôm 30/08. Không hề là một sự tình cờ.

Là trung gian giữa Taliban trong việc di tản thường dân Afghanistan và công dân các nước phương Tây, Qatar đã có được tầm ảnh hưởng mới. Từ 15 ngày qua, các vị bộ trưởng, viên chức cao cấp phương Tây tấp nập đến Doha.

Ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian có mặt ở Doha Chủ nhật và thứ Hai 13/09 để gặp gỡ và cảm ơn chính quyền Qatar. Trước ông là các ngoại trưởng Mỹ, Đức, Hà Lan, Anh, Ý, tất cả đều ca ngợi vai trò của Qatar trong việc đưa mấy chục ngàn người ra khỏi Afghanistan – trong số đó có 49 công dân Pháp cùng với gia đình vừa về được Paris chiều hôm qua. Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm 07/09 tại Doha nói rằng không nước nào có thể làm được nhiều hơn Qatar trong việc di tản. Doha cung cấp 10.000 suất ăn ba bữa một ngày cho người di tản, mở các bệnh viện, phối hợp hoạt động của các tổ chức nhân đạo. Việc mở lại phi trường Kabul cho các chuyến bay dân sự là kết quả các cuộc thương lượng ráo riết của ngoại giao Qatar.

Nằm cách Kabul đến 4.000 kilomet, nhưng Doha đã trở thành trung tâm các hoạt động ngoại giao và hậu cần quốc tế. Nhiều nước đã chuyển đại sứ quán từ Kabul sang, kể cả Hoa Kỳ, Anh, Hà Lan, Nhật Bản. Là quốc gia duy nhất quan hệ với Taliban trong những năm gần đây, Qatar trở thành người đối thoại không thể thiếu vắng đối với các nước có liên quan đến cuộc khủng hoảng Afghanistan. Đây là thành công rất lớn sau nhiều năm muốn đóng vai trò trung gian hòa giải trong khu vực nhưng không kết quả, lại bị Saudi Arabia, Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, Bahrein và Ai Cập cấm vận trong suốt ba năm.

Nguyên tử : Iran có nhượng bộ phương Tây nhưng cố tình câu giờ

Cũng liên quan đến Trung Đông, La Croix cho rằng Tehran tỏ ra cứng rắn hơn trong hồ sơ nguyên tử, Les Echos ghi nhận Iran và phương Tây tránh được đổ vỡ vào giờ chót. Còn theo Le Figaro, "Tehran đã có nhượng bộ nhưng lại thách thức sự kiên nhẫn của phương Tây",khi bị dồn đến chân tường mới chịu hạ giọng.

La Croix giải thích, các thanh tra của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (AIEA) sẽ có thể bảo trì thiết bị và thay thế các đĩa cứng của các camera đặt tại những địa điểm nguyên tử của Iran. Thỏa thuận lần trước đã hết hạn từ tháng Sáu, AIEA lo bị mất dữ liệu nếu đĩa cứng bị đầy. Tổ chức quốc tế này vẫn chưa tham khảo được dữ liệu, nhưng các camera được niêm phong cho đến khi nào đàm phán Vienna đạt kết quả. Iran có được nhượng bộ này sau khi Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế công bố một báo cáo rất nghiêm khắc về những thủ đoạn của Tehran để tránh né giám sát.

Liệu ban lãnh đạo mới của Iran có quay lại với hiệp ước năm 2015 ? Nhà nghiên cứu Clément Therme dự báo tân chính phủ sẽ câu giờ, đồng thời tìm cách đạt được một thỏa thuận có lợi hơn trước. "Việc dỡ bỏ trừng phạt dù chỉ một phần là mục tiêu ưu tiên của tổng thống Raissi, để phát triển thương mại với các nước láng giềng, củng cố quan hệ với Trung Quốc và Nga". Về lâu về dài, ông ta muốn xây dựng một mô hình kinh tế tránh được ảnh hưởng của Mỹ.

Về phía phương Tây, cần ngăn cản Iran chế tạo bom nguyên tử. Hoa Kỳ và Châu Âu đều muốn tiếp tục đàm phán. Còn nếu chương trình hạt nhân của Iran đã tiến bộ đến mức hiệp ước không thể ngăn chặn được, Mỹ và đồng minh có thể quay lại với chính sách cây gậy và củ cà rốt : trừng phạt thêm, nhưng vẫn cố gắng đạt được một thỏa thuận vững chắc hơn với Iran. Le Figaro cho biết Paris và Washington muốn đưa thêm điều khoản vấn đề hỏa tiễn đạn đạo của Iran - đang đe dọa các đồng minh ở Trung Đông. Les Echos nhắc nhở, lệnh cấm vận của Donald Trump đã làm cho thu nhập từ dầu lửa của Iran chỉ còn 1/5.

Thụy My

Published in Châu Á
mardi, 11 février 2020 23:34

Độc tài kỹ thuật số

Kỹ thuật số đã góp phần củng cố chuyên chế

Cơ quan an ninh quốc gia Stasi của Đông Đức có thể là một trong những cơ quan cảnh sát chìm nổi tiếng nhất từng tồn tại. Stasi nổi tiếng với khả năng giám sát các cá nhân và kiểm soát các luồng thông tin. Đến năm 1989, Stasi có gần 100.000 nhân viên thường xuyên và theo một số nguồn tin thì có thêm từ 500.000 đến hai triệu người cung cấp thông tin tại một quốc gia có dân số khoảng 16 triệu người. Nhân lực và tài nguyên tuyệt đối cho phép Stasi len lỏi vào xã hội và theo dõi hầu như mọi khía cạnh trong cuộc sống của công dân Đông Đức. Hàng ngàn đặc vụ đã làm việc để khai thác điện thoại, thâm nhập vào các phong trào chính trị ngầm và báo cáo các mối quan hệ cá nhân và gia đình. Các sĩ quan thậm chí đã được bố trí tại các bưu điện để mở thư và các bưu kiện nhận hoặc gửi đến các quốc gia không cộng sản. Trong nhiều thập kỷ, Stasi là một mô hình cho các chế độ độc đoán có thể sử dụng sự đàn áp để duy trì sự kiểm soát.

doctai0

Trước sự chiến thắng rõ ràng của nền dân chủ tự do sau Chiến tranh Lạnh, các quốc gia thuộc loại nhà nước cảnh sát này dường như không còn tồn tại. Các chuẩn mực toàn cầu về những gì cấu thành một chế độ hợp pháp đã thay đổi. Bước sang thiên niên kỷ, các công nghệ mới, bao gồm Internet và điện thoại di động, hứa sẽ trao quyền cho công dân, cho phép các cá nhân tiếp cận nhiều hơn với thông tin và khả năng tạo kết nối mới và xây dựng cộng đồng mới.

Nhưng tầm nhìn mong muốn về một tương lai dân chủ hơn này có vẻ ngây thơ. Thay vào đó, công nghệ mới hiện nay cho phép các nhà lãnh đạo áp dụng phương pháp cai trị mới để bảo toàn quyền lực nếu không nói là cải tiến các chiến thuật của Stasi. Giám sát bằng trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence- AI), ví dụ, cho phép tự động hóa việc theo dõi phía đối lập ít lộ liễu hơn nhiều so với giám sát truyền thống. Các công cụ kỹ thuật số này không chỉ cho phép các chế độ độc đoán tạo ra một mạng lưới theo dõi rộng hơn so với các phương pháp cũ mà còn sử dụng ít tài nguyên hơn : không ai phải trả tiền cho một chương trình phần mềm để giám sát tin nhắn văn bản, đọc các bài đăng trên mạng xã hội của giới bất đồng chính kiến hoặc theo dõi việc di chuyển của họ. Và một khi công dân biết được những gì đang xảy ra, họ sẽ thay đổi hành vi mà chính quyền không cần phải đụng tay chân.

Bức tranh đáng báo động này trái ngược hoàn toàn với sự lạc quan ban đầu đi kèm với sự phát triển của Internet, phương tiện truyền thông xã hội và các công nghệ mới khác xuất hiện từ năm 2000. Hy vọng như vậy lên đến đỉnh điểm vào đầu những năm 2010 khi truyền thông xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc lật đổ bốn chế độ độc tài cầm quyền lâu nhất thế giới ở Ai Cập, Libya, Tunisia và Yemen. Trong một thế giới tiếp cận thông tin và người dân được trang bị công nghệ, những kẻ chuyên chế sẽ không còn có thể duy trì sự tập trung quyền lực. Tuy nhiên, giờ đây, rõ ràng là công nghệ không nhất thiết làm lợi những người tìm cách lên tiếng hoặc phản kháng đàn áp. Đối mặt với áp lực ngày và nỗi sợ hãi người dân càng tăng, chế độ độc đoán đang phát triển. Họ đang nắm lấy công nghệ để đổi mới chủ nghĩa độc đoán thời đại hiện đại.

Noi theo Trung Quốc, ngày nay các chế độ chuyên chế kỹ thuật số đang sử dụng công nghệ như Internet, phương tiện truyền thông xã hội, AI, để áp dụng các chiến thuật sinh tồn độc đoán lâu đời. Họ đang khai thác một kho công cụ kỹ thuật số mới để chống lại thứ đã trở thành mối đe dọa quan trọng nhất đối với chế độ độc tài điển hình hiện nay : nhân lực trong các cuộc biểu tình chống chính phủ. Do đó, chế độ tự động kỹ thuật số đã phát triển bền bỉ hơn nhiều so với các chế độ trước đây ít sử dụng công nghệ. Trái ngược với những gì những người lạc quan về công nghệ đã hình dung vào đầu thiên niên kỷ, nhiều chế độ chuyên chế được hưởng lợi từ Internet và các công nghệ mới khác, mà không trở thành nạn nhân của chúng.

Các dạng phản đối

Thời đại kỹ thuật số đã thay đổi bối cảnh trong đó các chế độ độc đoán hoạt động. Những công nghệ mới như Internet và phương tiện truyền thông xã hội đã giảm bớt rào cản trong việc phối hợp, giúp người dân bình thường dễ dàng huy động và thách thức các chính phủ không phản ứng và đàn áp. Dữ liệu từ Dự án Huy động hàng loạt, đã thực hiện bởi các nhà khoa học chính trị David Clark và Patrick Regan, và bộ dữ liệu của Chế độ chuyên quyền [3], mà hai chúng tôi (Erica Frantz và Joseph Wright) đã giúp xây dựng, tiết lộ rằng từ năm 2000 đến năm 2017, 60% của tất cả các chế độ độc tài phải đối mặt với ít nhất một cuộc biểu tình chống chính phủ từ 50 người tham gia trở lên. Mặc dù nhiều cuộc biểu tình này là nhỏ và gây ra mối đe dọa nhỏ cho chế độ, nhưng tần suất tuyệt đối của chúng nhấn mạnh sự bất ổn liên tục mà nhiều chính phủ độc tài phải đối mặt.

Nhiều phong trào trong số này đã thành công trong việc mang lại sự sụp đổ của chế độ độc tài. Từ năm 2000 đến 2017, các cuộc biểu tình đã đánh đổ mười chế độ chuyên chế, hay 23% trong số 44 chế độ độc đoán đã sụp đổ trong thời kỳ này. 19 chế độ độc đoán khác bị mất quyền lực thông qua bầu cử. Và trong khi có gần gấp đôi số chế độ bị lật đổ bởi các cuộc bầu cử cũng như các cuộc biểu tình, nhiều cuộc bầu cử đã diễn ra sau các chiến dịch phản kháng có đôngngười tham gia.

Sự gia tăng các cuộc biểu tình đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong chính trị của các chế độ độc tài. Trong lịch sử, các cuộc đảo chính của giới tinh hoa và sĩ quan quân sự là mối đe dọa lớn nhất đối với các chế độ độc tài. Giữa năm 1946 và 2000, nhiều cuộc đảo chính đã lật đổ khoảng một phần ba trong số 198 chế độ độc tài đã sụp đổ trong thời kỳ đó. Các cuộc biểu tình, ngược lại, không được thành công thế, chỉ 16%Đến thế kỷ này, và một thực tế khác xuất hiện : các cuộc đảo chính đã làm sụp đổ 9% các chế độ độc tài đã sụp đổ giữa năm 2001 và 2017, trong khi các phong trào quần chúng dẫn đến lật đổ chính phủ thành công gấp đôi. Ngoài các chế độ lật đổ trong Mùa xuân Ả Rập, các cuộc biểu tình đã dẫn đến sự lật đổ của các chế độ độc tài ở Burkina Faso, Georgia và Kyrgyzstan. Các cuộc biểu tình đã trở thành thách thức quan trọng nhất mà chế độ độc tài phải đối mặt ở thế kỷ 21.

Mối đe dọa ngày càng tăng của các cuộc biểu tình đã không bị mất đối với các chế độ chuyên chế ngày nay. Trước đây, khi họ sợ các cuộc đảo chính, hầu hết các nhà lãnh đạo như vậy đều dựa vào các chiến thuật chống đảo chính bằng cách trả lương cao cho lực lượng an ninh để mua lòng trung thành hoặc xoay chuyển giới tinh hoa thông qua nhiều vị trí quyền lực để không ai có thể phát triển một cơ sở hỗ trợ độc lập. Tuy nhiên, khi các cuộc biểu tình gia tăng, các chế độ độc đoán đã điều chỉnh các chiến thuật sinh tồn của họ để tập trung vào việc giảm thiểu mối đe dọa từ biểu tình đông người. Dữ liệu do Freedom House tổng hợp tiết lộ rằng kể từ năm 2000, số lượng hạn chế đối với tự do chính trị và dân sự trên toàn cầu đã tăng lên. Một phần lớn sự gia tăng này đã xảy ra ở các quốc gia độc tài, nơi các nhà lãnh đạo áp đặt các hạn chế đối với tự do chính trị và dân sự để khiến công dân khó tổ chức và phát động biểu tình chống lại nhà nước.

Ngoài việc thu hẹp không gian cho xã hội dân sự, các quốc gia độc tài cũng đang học cách sử dụng các công cụ kỹ thuật số để dập tắt bất đồng chính kiến. Mặc dù công nghệ đã giúp tạo điều kiện cho các cuộc biểu tình, ngày nay, các chế độ độc đoán chuyên sâu về kỹ thuật số đang sử dụng một số cải tiến công nghệ tương tự để đẩy lùi các cuộc vận động biểu tình nguy hiểm.

Phương tiện kiểm soát

Phân tích của chúng tôi sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu của Varieties of Democracy (thu thập từ 202 quốc gia) và Dự án Huy động hàng loạt cho thấy các chế độ chuyên chế sử dụng đàn áp kỹ thuật số phải đối mặt với nguy cơ phản kháng thấp hơn so với các chế độ độc đoán không sử dụng công cụ này. Đàn áp kỹ thuật số không chỉ làm giảm khả năng xảy ra một cuộc biểu tình mà còn làm giảm khả năng chính phủ sẽ phải đối mặt với những cuộc biểu tình nhiều người và dai dẳng như các cuộc biểu tình áo đỏ của Thái ở Thái Lan năm 2010 hoặc các cuộc biểu tình chống Mubarak và chống chế độ quân sự ở Ai Cập vào năm 2011. Ví dụ về Campuchia minh họa cách các động lực này có thể diễn ra.

Chính phủ của Thủ tướng Hun Sen, người đã nhậm chức từ năm 1985, đã áp dụng các phương pháp kiểm soát công nghệ để giúp duy trì quyền lực của mình. Dưới sự cai trị của Hun Sen, các phương tiện truyền thông truyền thống đã hạn chế đưa tin về phe đối lập Campuchia. Trước thềm cuộc bầu cử tháng 7 năm 2013, điều này khiến phe đối lập sửdụng các công cụ kỹ thuật số để huy động những người ủng hộ. Cuộc bầu cử là gian lận, khiến hàng ngàn công dân phải xuống đường để yêu cầu một cuộc bỏ phiếu mới. Ngoài việc sử dụng lực lượng vũ trang để dập tắt các cuộc biểu tình, chính phủ đã tăng cường sử dụng các biện pháp đàn áp kỹ thuật số. Chẳng hạn, vào tháng 8 năm 2013, một nhà cung cấp dịch vụ Internet đã tạm thời chặn Facebook và vào tháng 12 năm 2013, chính quyền ở tỉnh Xiêm Riệp đã đóng cửa hơn 40 quán cà phê Internet. Năm sau, chính phủ tuyên bố thành lập Nhóm Chiến tranh Điện tử, có nhiệm vụ giám sát Internet để gắn cờ hoạt động chống chính phủ trực tuyến. Một năm sau, chính phủ đã thông qua một đạo luật cho phép nó kiểm soát rộng rãi ngành công nghiệp viễn thông và thành lập một cơ quan thực thi có thể đình chỉ các công ty viễn thông, dịch vụ và thậm chí sa thải nhân viên của họ. Một phần là kết quả của những bước này, phong trào phản kháng ở Campuchia đã xẹp xuống. Theo Dự án Huy động hàng loạt, chỉ có một cuộc biểu tình chống chính phủ ở nước này vào năm 2017, so với 36 vào năm 2014, khi phong trào đối lập đang ở đỉnh cao.

Chế độ độc tài khai thác công nghệ không chỉ để đàn áp các cuộc biểu tình mà còn làm các phương pháp kiểm soát cũtrở nên hiệu quả hơnPhân tích của chúng tôi từ bộ dữ liệu của Variety of Democracy cho thấy rằng các chế độ độc tài sử dụng đàn áp kỹ thuật số cũng có xu hướng gia tăng việc sử dụng các hình thức đàn áp bạo lực của họ trong đời thực, đặc biệt là tra tấn và giết chết đối thủ. Điều này chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo độc đoán không thay thế hoàn toàn đàn áp truyền thống bằng đàn áp kỹ thuật số. Thay vào đó, bằng cách giúp các chế độ độc đoán dễ dàng xác định sự đối thủ của chúng, đàn áp kỹ thuật số cho phép chúng xác định hiệu quả hơn nên gõ cửa nhà ai hoặc ném ai vào xà lim. Việc nhắm mục tiêu gần hơn của đối thủ làm giảm nhu cầu phải dùng đến sự đàn áp bừa bãi, điều này có thể gây ra phản ứng dữ dội và phản ứng của dân chúng.

Mô hình Trung Quốc

Sự tiến bộ của giám sát do AI cung cấp là sự tiến hóa quan trọng nhất trong chế độ độc đoán kỹ thuật số. Máy ảnh độ phân giải cao, nhận dạng khuôn mặt, phần mềm độc hại gián điệp, phân tích văn bản tự động và xử lý dữ liệu lớn đã mở ra một loạt các phương pháp kiểm soát công dân mới. Những công nghệ này cho phép các chính phủ giám sát công dân và xác định những người bất đồng chính kiến theo cách thức kịp thời và đôi khi thậm chí còn được ưu tiên.

Không có chế độ nào khai thác tiềm năng đàn áp của AI một cách triệt để như ở Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc thu thập một lượng dữ liệu đáng kinh ngạc về các cá nhân và doanh nghiệp : khai thuế, báo cáo ngân hàng, lịch sử mua hàng, và hồ sơ tội phạm và y tế. Sau đó, chế độ sử dụng AI để phân tích thông tin này và tổng hợp điểm tín dụng xã hội, mà nó tìm cách sử dụng để thiết lập các tham số về hành vi chấp nhận được và cải thiện kiểm soát công dân. Các cá nhân hoặc công ty được coi là không đáng tin cậy có thể thấy mình bị loại trừ khỏi các lợi ích do nhà nước tài trợ, như cho thuê căn hộ không cần tiền gửi, hoặc bị cấm đi máy bay và đường sắt. Mặc dù Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn đang mài giũa hệ thống này, nhưng những tiến bộ trong công nghệ phân tích và ra quyết định dữ liệu lớn sẽ chỉ cải thiện khả năng dự đoán, điều mà chính phủ gọi là quản lý xã hội.

Trung Quốc cũng cho thấy cách thức đàn áp kỹ thuật số hỗ trợ đàn áp vật lý trên quy mô lớn. Tại Tân Cương, chính phủ Trung Quốc đã giam giữ hơn một triệu người Duy Ngô Nhĩ trong các trại cải tạo của Hồi giáo. Những người không ở trong trại bị mắc kẹt trong các thành phố nơi các khu phố được bao quanh bởi các cổng được trang bị phần mềm nhận dạng khuôn mặt. Phần mềm đó xác định ai có thể vượt qua, ai có thể không và ai sẽ bị bắt giữ ngay lập tức. Trung Quốc đã thu thập một lượng lớn dữ liệu về dân số Duy Ngô Nhĩ, bao gồm thông tin điện thoại di động, dữ liệu di truyền và thông tin về các hoạt động tôn giáo, mà họ tổng hợp trong nỗ lực ngăn chặn các hành động được coi là có hại cho trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia.

Các công nghệ mới cũng đủ khả năng cho các quan chức Trung Quốc kiểm soát nhiều hơn đối với các thành viên của chính phủ. Các chế độ độc đoán luôn dễ bị tổn thương trước các mối đe dọa từ bên trong, bao gồm các cuộc đảo chính và đào tẩu của quan chức cấp cao. Với các công cụ kỹ thuật số mới, các nhà lãnh đạo có thể theo dõi các quan chức chính phủ, đánh giá mức độ họ tiến tới các mục tiêu của chế độ và loại bỏ các quan chức kém hiệu quả, theo thời gian có thể làm xấu đi hình như hình ảnh của chế độ. Ví dụ, nghiên cứu đã chỉ ra rằng Bắc Kinh tránh kiểm duyệt công dân các bài viết về tham nhũng địa phương trên Weibo (tương đương với Twitter của Trung Quốc) vì những bài đăng đó cho chế độ xem hiệu suất của các quan chức địa phương.

Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc triển khai công nghệ để hoàn thiện hệ thống kiểm duyệt của mình. AI, ví dụ, có thể sàng lọc một lượng lớn hình ảnh và văn bản, lọc và chặn nội dung không thuận lợi cho chế độ. Chẳng hạn, khi một phong trào phản kháng nóng lên ở Hồng Kông vào mùa hè năm ngoái, chế độ Trung Quốc chỉ đơn giản là tăng cường Tường lửa Tuyệt vời của họ, xóa bỏ nội dung kêu gọi lật đổ ở Internet ở Trung Quốc đại lục gần như ngay lập tức. Và ngay cả khi kiểm duyệt thất bại và bất đồng quan điểm leo thang, chế độ chuyên quyền kỹ thuật số có thêm một biện pháp phòng thủ : họ có thể chặn mọi truy cập Internet của mọi người (hoặc phần lớn của nó) để ngăn các thành viên của phe đối lập truyền đạt, tổ chức hoặc truyền phát thông điệp của họ. Ví dụ, ở Iran, chính phủ đã đóng cửa thành công Internet trên cả nước trong bối cảnh các cuộc biểu tình lan rộng vào tháng 11 năm ngoái.

Mặc dù Trung Quốc là công ty hàng đầu trong lĩnh vực đàn áp kỹ thuật số, nhưng các chế độ chuyên chế khác đang tìm cách làm theo. Chính phủ Nga, chẳng hạn, đang thực hiện các bước để kiềm chế công dân của mình về quyền tự do trực tuyến bằng cách kết hợp các yếu tố của tường lửa dạng Trung Quốc, cho phép Kremlin cắt đứt Internet của đất nước khỏi phần còn lại của thế giới. Tương tự như vậy, Freedom House đã báo cáo vào năm 2018 rằng một số quốc gia đang tìm cách mô phỏng mô hình kiểm duyệt tự động và giám sát tự động của Trung Quốc, và nhiều quan chức từ các chế độ chuyên chế trên khắp Châu Phi đã đến Trung Quốc để tham gia các khóa đào tạo về quản lý không gian mạng, nơi họ học các phương pháp của Trung Quốc kiểm soát.

Tô son trát phấn

Ngày nay, các công nghệ không chỉ giúp các chính phủ dễ dàng đàn áp các nhà phê bình ; chúng cũng làm cho các chế độ chuyên chế hợp tác với nhau. Sự tích hợp công nghệ giữa các cơ quan chính phủ cho phép chính quyền Trung Quốc kiểm soát chính xác hơn quyền truy cập vào các dịch vụ của chính phủ, để nó có thể hiệu chỉnh việc phân phối hoặc từ chối tất cả mọi thứ từ xe buýt và hộ chiếu đến công việc và tiếp cận giáo dục. Hệ thống tín dụng xã hội non trẻ ở Trung Quốc có tác dụng trừng phạt các cá nhân chỉ trích chế độ và khen thưởng lòng trung thành. Công dân có điểm tín dụng xã hội tốt được hưởng lợi từ một loạt các đặc quyền, bao gồm các ứng dụng du lịch nước ngoài cấp tốc, hóa đơn năng lượng giảm giá và kiểm toán ít thường xuyên hơn. Theo cách này, các công nghệ mới giúp các chế độ độc đoán điều chỉnh việc sử dụng phần thưởng và từ chối của chúng, làm mờ ranh giới giữa cộng tác và kiểm soát cưỡng chế.

Chế độ độc tài cũng có thể sử dụng các công nghệ mới để định hình nhận thức của công chúng về chế độ và tính hợp pháp của nó. Các tài khoản tự động (hoặc tài khoản ma) trên phương tiện truyền thông xã hội có thể khuếch đại các chiến dịch ảnh hưởng và tạo ra một loạt các bài đăng gây mất tập trung hoặc gây hiểu lầm, lấn át các đối thủ nhắn tin trên mạng. Đây là một lĩnh vực mà Nga đã đóng một vai trò hàng đầu. Điện Kremlin cho đăng tải trên Internet nhiều bài viết ủng hộ chế độ, đánh lạc hướng người dùng trực tuyến khỏi những tin tức tiêu cực, và tạo ra sự nhầm lẫn và không chắc chắn thông qua việc lan truyền các câu chuyện thay thế.

Các công cụ kỹ thuật số thậm chí có thể giúp các chế độ làm cho bản thân chúng ra vẻ ít đàn áp hơn và phản ứng nhanh hơn với công dân. Trong một số trường hợp, các chế độ độc đoán đã triển khai các công nghệ mới để bắt chước các thành phần của nền dân chủ, chẳng hạn như sự tham gia và cân nhắc. Ví dụ, một số quan chức địa phương của Trung Quốc đang sử dụng Internet và phương tiện truyền thông xã hội để cho phép công dân nói lên ý kiến của họ trong các cuộc thăm dò trực tuyến hoặc thông qua các kênh kỹ thuật số khác. Một nghiên cứu năm 2014 của nhà khoa học chính trị Rory Truex cho rằng sự tham gia trực tuyến như vậy đã nâng cao nhận thức cộng đồng về Đảng cộng sản Trung Quốc trong số những công dân ít học. Các trang web tư vấn, chẳng hạn như "Bạn Đề xuất Ý kiến của tôi", làm cho công dân cảm thấy rằng tiếng nói của họ được tôn trọng mà không cần chế độ phải thực sự theo đuổi cải cách thực sự. Bằng cách mô phỏng các yếu tố của nền dân chủ, các chế độ độc tài có thể cải thiện sức hấp dẫn của chúng đối với công dân và giảm bớt áp lực từ dưới lên để thay đổi.

Các chế độ chuyên chế số

Khi các chế độ chuyên chế đã học cách đồng lựa chọn các công nghệ mới, chúng đã trở thành một mối đe dọa ghê gớm hơn đối với nền dân chủ. Đặc biệt, ngày nay chế độ độc tài đã phát triển bền bỉ hơn. Từ năm 1946 đến năm 2000, năm, các công cụ kỹ thuật số bắt đầu sinh sôi nảy nở, chế độ độc tài điển hình cai trị trong khoảng mười năm. Kể từ năm 2000, con số này đã tăng hơn gấp đôi, đến gần 25 năm.

Không chỉ làn sóng công nghệ đang lên dường như có lợi cho tất cả các chế độ độc tài, mà phân tích thực nghiệm của chúng ta cho thấy rằng các chế độ độc đoán sử dụng nhiều hơn vào đàn áp kỹ thuật số là những chế độ bền vững nhất. Từ năm 2000 đến 2017, 37 trong số 91 chế độ độc tài kéo dài hơn một năm đã sụp đổ ; trung bình những chế độ tránh sụp đổ có mức độ đàn áp kỹ thuật số cao hơn đáng kể so với những chế độ đã bị đổ. Thay vì chịu khuất phục trước những gì dường như là một thách thức tàn khốc đối với sức mạnh của chúng, nhiều chế độ độc tài tận dụng sự xuất hiện và lan rộng của các công nghệ mới để củng cố sự cai trị của chúng.

Mặc dù chế độ chuyên chế từ lâu đã dựa vào nhiều mức độ đàn áp khác nhau để hỗ trợ các mục tiêu của chúng, nhưng việc các chế độ độc đoán của ngày hôm nay có thể có được khả năng đàn áp này đánh dấu sự ra đi đáng kể của các quốc gia cảnh sát trong quá khứ. Xây dựng tính hiệu quả và tính lan tỏa của Stasi Đông Đức, chẳng hạn, không phải là điều có thể đạt được chỉ sau một đêm. Chế độ phải nuôi dưỡng lòng trung thành của hàng ngàn cán bộ, đào tạo họ và chuẩn bị cho họ tham gia giám sát trên thực tế. Hầu hết các chế độ độc tài chỉ đơn giản là không có khả năng tạo ra một hoạt động rộng lớn như vậy. Theo một số nguồn tin, có một gián điệp Đông Đức cho mỗi 66 công dân. Đây là tỷ lệ trong hầu hết các chế độ độc tài đương thời (trong đó có dữ liệu) so sánh. Đúng là ở Bắc Triều Tiên, nơi được coi là quốc gia có quyền lực mạnh nhất hiện nay, tỷ lệ nhân viên an ninh nội bộ và người cung cấp thông tin cho công dân là 1/40, nhưng ở Iraq là 1/5.090 ở thời Saddam Hussein và 1/10.000 ở Chad dưới thời Hissène Habré. Tuy nhiên, trong thời đại kỹ thuật số, các chế độ độc tài không cần sử dụng nhiều nhân lực như vậy mà vẫn giám sát hiệu quả công dân.

Thay vào đó, các chế độ độc tài đầy tham vọng có thể mua các công nghệ mới, đào tạo một nhóm nhỏ các quan chức về cách sử dụng chúng thường xuyên với sự hỗ trợ của các tác nhân bên ngoài, chẳng hạn như Trung Quốc. Ví dụ, Huawei, một công ty viễn thông do nhà nước Trung Quốc hậu thuẫn, đã triển khai công nghệ giám sát kỹ thuật số của mình trong hơn một chục chế độ độc đoán. Năm 2019, các báo cáo nổi lên rằng chính phủ Nhật Bản đang sử dụng công cụ này để hack các tài khoản truyền thông xã hội và thông tin liên lạc điện tử của các đối thủ chính trị. Các nhà cung cấp công nghệ như vậy không cần cư trú ở các nước độc tài. Các công ty của Israel và Ý cũng đã bán phần mềm giám sát kỹ thuật số cho Ukraine. Các công ty Israel đã bán phần mềm gián điệp và thu thập thông tin tình báo cho một số chế độ độc tài trên toàn thế giới, bao gồm Angola, Bahrain, Kazakhstan, Mozambique và Nicaragua. Và các công ty Hoa Kỳ đã xuất khẩu công nghệ nhận dạng khuôn mặt cho các chính phủ ở Ả Rập Saudi và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Vết trượt

Khi các chế độ chuyên chế tồn tại lâu hơn, số lượng các chế độ như vậy được áp dụng tại bất kỳ thời điểm nào có thể sẽ tăng lên, vì dân chủ thụt lùi ở một số quốc gia. Mặc dù số lượng chế độ chuyên chế trên toàn cầu không tăng đáng kể trong những năm gần đây và nhiều người hơn bao giờ hết sống ở các quốc gia tổ chức bầu cử tự do và công bằng, xu hướng có thể đang quay đầu. Dữ liệu được thu thập bởi Freedom House [17] cho thấy, từ năm 2013 đến 2018, mặc dù có ba quốc gia đã chuyển từ trạng thái tự do một phần sang trạng thái tự do (Quần đảo Solomon, Timor-Leste và Tunisia), có 7 quốc gia đã trải qua điều ngược lại, chuyển từ trạng thái của tự do thành một phần tự do (Cộng hòa Dominican, Hungary, Indonesia, Lesentine, Montenegro, Serbia và Sierra Leone).

Nguy cơ công nghệ sẽ giúp tạo ra nhiều chế độ chuyên chế hơn là điều đáng quan tâm hơn cả bởi vì nghiên cứu thực nghiệm của chúng tôi đã chỉ ra rằng ngoài chế độ chuyên chế, các công cụ kỹ thuật số có liên quan đến việc tăng nguy cơ sụp đổ dân chủ trong các nền dân chủ mong manh. Các công nghệ mới đặc biệt nguy hiểm đối với các nền dân chủ yếu vì nhiều công cụ kỹ thuật số này được sử dụng kép : công nghệ có thể nâng cao hiệu quả của chính phủ và cung cấp khả năng giải quyết các thách thức như tội phạm và khủng bố, nhưng bất kể ý định nào mà chính phủ ban đầu mua công nghệ đó, chúng cũng có thể sử dụng các công cụ này để làm câm lặng và hạn chế các hoạt động của đối thủ.

Đẩy lùi chống lại sự lan rộng của chủ nghĩa độc đoán có sử dụng kỹ thuật số sẽ đòi hỏi phải giải quyết các tác động bất lợi của các công nghệ mới đối với việc quản trị trong chế độ chuyên chế và dân chủ. Bước đầu tiên, Hoa Kỳ nên hiện đại hóa và mở rộng luật pháp để giúp đảm bảo rằng các thực thể Hoa Kỳ không cho phép vi phạm nhân quyền. Báo cáo tháng 12 năm 2019 của Trung tâm An ninh Mỹ mới (nơi một trong số chúng tôi là đồng nghiệp cao cấp) nhấn mạnh sự cần thiết của Quốc hội để hạn chế xuất khẩu phần cứng kết hợp các công nghệ nhận dạng sinh trắc học hỗ trợ AI, như khuôn mặt, giọng nói và dáng đi ; áp dụng các biện pháp trừng phạt hơn nữa đối với các doanh nghiệp và các tổ chức cung cấp công nghệ giám sát, đào tạo hoặc thiết bị cho các chế độ độc đoán liên quan đến vi phạm nhân quyền ; và xem xét luật pháp để ngăn chặn các thực thể Hoa Kỳ đầu tư vào các công ty đang xây dựng các công cụ AI để đàn áp, chẳng hạn như công ty AI Trung Quốc SenseTime.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng nên sử dụng Đạo luật Magnitsky toàn cầu, cho phép Bộ Tài chính Hoa Kỳ xử phạt các cá nhân nước ngoài liên quan đến vi phạm nhân quyền, để trừng phạt người nước ngoài tham gia hoặc tạo điều kiện cho các vi phạm nhân quyền do AI cung cấp. Các quan chức Đảng cộng sản Trung Quốc chịu trách nhiệm về tội ác tàn bạo ở Tân Cương là những ứng cử viên rõ ràng cho các biện pháp trừng phạt như vậy.

Chính phủ Hoa Kỳ cũng nên theo đuổi các hành động để giảm thiểu các tác động tiêu cực tiềm tàng của sự lan truyền của công nghệ giám sát, đặc biệt là trong các nền dân chủ mong manh. Trọng tâm của sự tham gia đó phải là tăng cường các khuôn khổ chính trị và pháp lý chi phối cách sử dụng các công nghệ giám sát và xây dựng năng lực của xã hội dân sự và các tổ chức giám sát để kiểm tra lạm dụng của chính phủ.

Điều có lẽ quan trọng nhất, Hoa Kỳ phải đảm bảo rằng nó dẫn đầu về AI và giúp định hình các chuẩn mực toàn cầu để sử dụng theo cách phù hợp với các giá trị dân chủ và tôn trọng quyền con người. Điều này có nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất là người Mỹ phải có được điều này ngay tại nhà, tạo ra một mô hình mà mọi người trên toàn thế giới sẽ muốn mô phỏng. Hoa Kỳ cũng nên làm việc cùng với các nền dân chủ có cùng chí hướng để phát triển một tiêu chuẩn giám sát kỹ thuật số nhằm đạt được sự cân bằng giữa an ninh và tôn trọng quyền riêng tư và nhân quyền. Hoa Kỳ cũng sẽ cần hợp tác chặt chẽ với các đồng minh và đối tác có cùng chí hướng để thiết lập và thực thi các quy tắc của con đường, bao gồm bằng cách khôi phục sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong các tổ chức đa phương như Liên Hợp Quốc.

AI và các phát minh công nghệ khác hứa hẹn sẽ cải thiện cuộc sống hàng ngày, nhưng chúng đã củng cố sức mạnh không thể chối cãi của chế độ độc tài. Việc đàn áp kỹ thuật số tăng cường ở các quốc gia như Trung Quốc mang đến một tầm nhìn ảm đạm về sự kiểm soát nhà nước ngày càng tăng và quyền tự do cá nhân ngày càng bị thu hẹp.

Nhưng đó không cần phải phải là tầm nhìn duy nhất. Trong tương lai gần, sự thay đổi công nghệ nhanh chóng có thể sẽ tạo ra một động lực cạnh tranh khi công dân và chính phủ đua nhau giành thế thượng phong. Nếu lịch sử là bất kỳ hướng dẫn nào, thì sự sáng tạo và đáp ứng của các xã hội mở về lâu dài sẽ cho phép các nền dân chủ điều hướng hiệu quả hơn thời đại chuyển đổi công nghệ này. Giống như các chế độ chuyên chế ngày nay đã nắm bắt các công cụ mới, do đó, các nền dân chủ phải phát triển các ý tưởng mới, cách tiếp cận mới và sự lãnh đạo để đảm bảo rằng công nghệ trong thế kỷ hai mươi mốt sẽ không trở thành một lời nguyền.

Andrea Kendall-Taylor, Erica Frantz, Joseph Wright 

Nguyên tác : The Digital Dictators - How Technology Strengthens Autocracy, Foreign Affairs, March/April 2020

Vũ Quốc Ngdịch

Nguồn : VNTB, 11/02/2020

Tác giả :

Andrea Kendall-Taylor là thành viên cao cấp và Giám đốc Chương trình An ninh xuyên Đại Tây Dương tại Trung tâm An ninh Mỹ mới.

Erica Frantz là Trợ lý Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Bang Michigan.

Joseph Wright là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Bang Pennsylvania.

Published in Diễn đàn