Vẫn còn những khoảng lặng, những e dè
BBC, 17/02/2024
Sáng 17/2, một số người dân Hà Nội đã đến dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố để tưởng niệm 45 năm Chiến tranh Biên giới chống Trung Quốc.
Một số người dân đến Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hà Nội vào sáng 17/2/2024 để tưởng niệm 45 năm Chiến tranh biên giới với Trung Quốc
Ngày 17/2/1979 đánh dấu thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước, sau khi Trung Quốc đã thực hiện nhiều vụ xâm nhập bằng vũ lực nhỏ lẻ dọc biên giới.
Cuộc chiến diễn ra chưa đầy một tháng, từ 17/2 đến 16/3/1979, nhưng các nhà nghiên cứu và quan sát đánh giá đây là cuộc chiến khốc liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia láng giềng từng là đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam.
Trên thực tế, sau ngày 16/3/1979, xung đột còn kéo dài suốt hơn 10 năm, Trung Quốc vẫn duy trì nhiều sư đoàn, trung đoàn độc lập áp sát biên giới và hai bên vẫn không ngừng giao tranh, mãi đến năm 1991 thì mới bình thường hóa quan hệ.
Một điều khác biệt nổi bật là so với các cuộc chiến tranh với Pháp, Nhật và Mỹ trước đây, Chiến tranh biên giới 1979 cùng với cuộc hải chiến Gạc Ma 14/3/1988 ít được chính quyền Việt Nam nhắc đến.
Tình cảm người dân hướng về các liệt sĩ của cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc cũng "bị chính quyền giám sát chặt chẽ", theo lời một người dân ở Hà Nội nói với BBC sáng nay 17/2.
Người này nói thêm rằng khi đến nghĩa trang Hà Nội ở đường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm vào buổi sáng cùng ngày thì có một số nhân viên an ninh đã đứng canh sẵn.
Một số người dân Hà Nội đến dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố sáng 17/2
‘Bớt căng thẳng từ hai phía’
Bà Đặng Bích Phượng là một trong những người có mặt tại nghĩa trang liệt sĩ Hà Nội nhận xét với BBC News Tiếng Việt rằng khoảng hai, ba năm trở lại đây, chính quyền không còn làm khó khi người dân đi thắp hương, tưởng niệm nữa và điều này là xuất phát "từ hai phía".
"Từ phía chính quyền, họ giảm căng thẳng là vì việc biểu tình, thắp hương mang tính phong trào rầm rộ như ngày xưa không còn nữa. Trước đây có đủ mọi tầng lớp, lứa tuổi, còn bây giờ chỉ có mấy ông bà về hưu, không bị o ép làm ăn thì mới đi viếng.
"Khi phong trào mạnh và lan rộng thì chính quyền sẵn sàng dùng biện pháp thô bạo để trấn áp. Trước đây, người dân căng băng rôn, biểu ngữ và hô hào như 'Đả đảo Trung Quốc xâm lược' thì bên an ninh can thiệp. Còn giờ thay đổi rồi, người dân không làm rầm rộ nữa và chính quyền cũng không làm căng với mình", bà Phượng nhận xét.
Nhưng bà cũng gửi cho BBC những tấm hình ghi lại việc một số thanh niên mặc thường phục, cầm máy quay dí sát vào mặt những người dân đi thắp hương tại nghĩa trang.
"An ninh bây giờ không có lịch sự nữa, họ ngang nhiên và thách thức, đe dọa nhưng tôi nghĩ họ làm không đúng đối tượng. Vì đi viếng toàn là những ông bà già, còn có cả cựu chiến binh".
Một số thanh niên mặc thường phục, cầm máy quay dí sát vào mặt những người dân đi thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hà Nội
So sánh với nhiều năm trước, bà Phượng nhận xét "có sự thay đổi" vì bà kể rằng có một dạo, chính quyền cho lực lượng dân phòng ra gây sự và chửi bới người đi thắp hương, gây phản cảm và phần nào "bôi bác chế độ". Nhưng năm nay bà Phượng cùng bạn bè tới nghĩa trang thì không thấy lực lượng này.
"Chúng tôi chủ trương là năm nào nhà nước không thực hiện việc tưởng niệm, nhắc đến thì người dân chúng tôi duy trì để chính mình và con cháu ghi nhớ ngày này. Còn nếu họ làm thì mình hoan nghênh. Bất cứ nước nào thì cũng cần ôn lại lịch sử, để không quên quá khứ chứ không phải khơi dậy sự hận thù", bà Phượng bộc bạch với BBC.
Cuộc chiến thường bị né tránh
Hiện Việt Nam đã gia nhập "Cộng đồng chia sẻ tương lai" với Trung Quốc sau chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng 12/2023.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn được coi là mối nguy an ninh lớn nhất đối với Việt Nam, từ các sự kiện trong quá khứ như Hải chiến Hoàng Sa (tháng 1/1974), Chiến tranh biên giới (từ tháng 2/1979) và Gạc Ma (tháng 3/1988) tới những yêu sách chủ quyền và các hoạt động thực địa gây căng thẳng trên Biển Đông của Trung Quốc ngày nay.
Một số ý kiến cho rằng, từ sau Hội nghị Thành Đô vào năm 1990, Chiến tranh Biên giới dần "rơi vào quên lãng" một cách có chủ đích, rằng phía Việt Nam đã "hoàn toàn cho qua vấn đề" sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn rằng quan hệ hai nước từ nay "hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai".
Và Hà Nội đã trung thành với cam kết của mình, giữ quan hệ hòa hoãn với Bắc Kinh bằng cách không tưởng niệm rầm rộ trong những ngày như 17/2 hoặc 14/3.
Những năm gần đây, báo chí Việt Nam nhắc đến cuộc chiến biên giới nhiều hơn, với tên gọi "Trung Quốc" được đề cập, nhưng vẫn theo tinh thần chỉ đạo là "tránh làm căng thẳng quan hệ hai nước". Năm nay cũng không ngoại lệ.
Vào dịp kỷ niệm 45 năm cuộc chiến biên giới, thời điểm được coi là một cột mốc quan trọng thì các báo trực thuộc trung ương như báo Nhân dân, Quân đội nhân dân "quên" sự kiện này.
Đài VTV trong chuyên mục V-Zine có ấn phẩm đặc biệt với nhan đề Cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc - Không thể lãng quên nhưng bài viết gần 2.000 chữ lại "quên" đề cập tới "Trung Quốc".
Các báo đoàn hội, báo ngành, báo địa phương như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Vietnamnet, báo An Giang, Yên Bái và một số tờ báo điện tử… đồng loạt lên bài về chiến tranh biên giới, khai thác các câu chuyện của cựu chiến binh, thân nhân liệt sĩ, hoặc phản ánh những đổi thay tại các tỉnh biên giới nơi gần nửa thế kỷ trước là chiến trường khốc liệt trong cuộc chiến giữa hai nước "núi liền núi, sông liền sông".
Báo điện tử VOV của Đài Tiếng nói Việt Nam viết : "Sự kiện không mong muốn này như một vết cắt lịch sử nhưng không vì thế mà trở thành rào cản ngăn cách hai nước láng giềng cùng chung định hướng xã hội chủ nghĩa xích lại gần nhau hơn".
Về phía truyền thông Trung Quốc, các cơ quan trung ương như Nhân dân Nhật báo, Tân Hoa Xã... cũng hầu như "quên mất" cuộc chiến. Báo chí Trung Quốc cũng không đưa tin về hoạt động của lãnh đạo nước này liên quan đến dịp 45 năm cuộc chiến tranh biên giới.
Về phía chính giới Việt Nam, một số lãnh đạo cấp cao từng có các hoạt động tưởng niệm liệt sĩ của Chiến tranh biên giới Việt – Trung, nhưng thông thường các hoạt động này ít được truyền thông, hoặc thường tránh ngày kỷ niệm 17/2.
Thủ tướng Phạm Minh Chính dâng hương phần mộ liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang vào tháng 5/2023
Đơn cử, hồi tháng 5/2023, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính và đoàn công tác của Chính phủ đã viếng thăm Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên, các cơ quan truyền thông nhà nước như báo điện tử Chính phủ, Nhân dân, VOV, Tuổi Trẻ... đều không hề đề cập tới tên Trung Quốc trong suốt bài tường thuật lễ dâng hương tưởng niệm của người đứng đầu chính phủ.
Và hôm nay, không có hoạt động hay thông điệp nào của ông Phạm Minh Chính liên quan đến kỷ niệm 45 năm cuộc chiến được báo chí đưa tin.
Trước đây, vào ngày 14/7/2022, ông Nguyễn Xuân Phúc khi còn đương chức chủ tịch nước đã gặp mặt các đại biểu Ban liên lạc Hội Cựu chiến binh Mặt trận Vị Xuyên-Hà Tuyên ngay tại Phủ Chủ tịch nhân kỳ niệm 75 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7. Các báo như Quân đội Nhân dân, Lao động, báo Chính phủ đưa tin về sự kiện nhưng không nhắc đến tên Trung Quốc.
Vào tháng 7/2014, cũng tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước lúc đó là ông Trương Tấn Sang đã tiếp 80 cựu chiến binh Sư đoàn 356, đơn vị được đánh giá là đã có nhiều thành tích bảo vệ biên giới phía Bắc tại các cao điểm thuộc Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang từ năm 1984 đến 1988.
Ông Trương Tấn Sang cũng được cho là nhân vật đầu tiên trong 'Tứ trụ' thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 vào ngày 17/2/2016, gần một tháng sau Đại hội XII, khi ông chuẩn bị nghỉ hưu vào tháng 4 cùng năm.
Ông Võ Văn Thưởng khi còn làm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cũng từng tới thắp nhang tưởng nhớ các liệt sĩ ở biên giới phía Bắc. Ông đã không làm điều đó vào dịp kỷ niệm 45 năm cuộc chiến khi giữ chức Chủ tịch nước.
Một số nhà quan sát cho rằng có vẻ đã có một thỏa thuận hoặc sự ngầm hiểu giữa hai phía về việc tránh khơi gợi những ân oán cũ.
Nguồn : BBC, 17/02/2024
******************************
45 năm cuộc chiến Việt-Trung : Nhóm dân sự kêu gọi ‘đánh giá đúng lịch sử’
VOA, 17/02/2024
Sát dịp kỷ niệm 45 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 17/2, giới xã hội dân sự độc lập trong nước ra một bản tuyên bố chung, kêu gọi chính quyền Việt Nam "đánh giá đúng lịch sử" sự kiện này, đồng thời phản đối các khẩu hiệu tuyên truyền về mối quan hệ thân hữu giữa hai nước láng giềng.
Các tổ chức xã hội dân sự và hàng chục cá nhân nêu một số yêu cầu đối với nhà cầm quyền : Đưa cuộc chiến tranh tự vệ 1979 vào sử sách ; báo chí, truyền hình thông tin rộng rãi trong và ngoài nước ; thể hiện trong các bảo tàng lịch sử và tổ chức công khai lễ tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược Trung Quốc ; giảng dạy trong các nhà trường.
Tổ chức Lập Quyền Dân, Diễn đàn Xã hội Dân sự, Câu lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, cùng các cựu công chức và những người lên tiếng về sự bá quyền của Bắc Kinh ký tên vào bản tuyên bố chung được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội hôm 14/2.
Từ Hà Nội, giáo sư Nguyễn Đồng Cống, một trong những người ký bản tuyên bố, nêu ý kiến với VOA rằng sự kiện ngày 17/2/1979 là bài học lịch sử mà các thế hệ người Việt nên ghi nhớ.
"Cuộc chiến năm 1979 ở biên giới rõ ràng là một hành động tráo trở của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình. Ông Đặng Tiểu Bình ngang nhiên cho rằng phải dạy cho Việt Nam một bài học. Nguyên nhân sâu xa là Trung Quốc đánh để trả thù việc quân Việt Nam đánh Pol Pot ở Campuchia trong lúc Pol Pot được Trung Quốc ủng hộ rất mạnh".
"Đó là một cuộc chiến tranh mà dân Việt Nam phải ghi nhớ", vị giáo sư ngành xây dựng, từng nhận danh hiệu "Nhà Giáo Nhân Dân" và đã từ bỏ Đảng, nhấn mạnh.
Bản tuyên bố nhắc lại biến cố này với việc Bắc Kinh "xua 600.000 quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu cùng 400 xe tăng xâm lược Việt Nam…".
Bà Sương Quỳnh ở Đà Lạt, một thành viên của Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, nêu ý kiến cá nhân của bà với VOA :
"Chúng tôi mong muốn nhà cầm quyền Việt Nam phải công nhận cuộc chiến này, không vì lý do gì, vì lịch sử là lịch sử, để người dân Việt Nam biết về sự thật của cuộc chiến đẫm máu này. Tôi ủng hộ những lời kêu gọi của các trí thức và muốn rằng chính quyền Việt Nam phải lắng nghe những điều đó".
Các nhóm dân sự và các trí thức này nhận thấy rằng từ trước đến nay nhà nước không tổ chức lễ tưởng niệm 17/2, nhưng họ cùng các nhóm độc lập khác và cộng đồng mạng "lề dân" thường tổ chức thắp hương ở các khu vực khác nhau để ghi nhớ sự kiện này.
Họ cũng cho VOA biết rằng việc tưởng niệm này, dù với quy mô rất nhỏ, vẫn thường thì bị chính quyền ngăn cản, cấm đoán.
"Việt Nam là quốc gia láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam cần một môi trường hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng phát triển. Nhưng lịch sử là lịch sử, lịch sử phải được đánh giá đúng và không lãng quên, vì lịch sử tự vệ của Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược là máu xương của toàn dân tộc qua 4.000 năm lịch sử", bản tuyên bố chung viết.
Các nhóm xã hội dân sự cho rằng biến cố ngày 17/2/1979 và những gây hấn liên tiếp trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam cho đến hôm nay đã cho toàn thể nhân dân Việt nam cũng như toàn nhân loại hiểu một cách chính xác "quyền lợi quốc gia dân tộc của Trung Quốc và của Đảng Cộng sản Trung Quốc là tối thượng, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ lúc nào, khi cần thiết".
Tuyên bố nhận định rằng các khẩu hiệu "đồng chí", "cùng hệ tư tưởng", "cùng chung vận mệnh" chỉ là "xảo trá lừa dối, chẳng có ý nghĩa gì trong quan hệ giữa hai nước".
Hồi tháng 1/2022, trong một động thái được dư luận chú ý, Thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Minh Chính, đến thắp hương tại Khu tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ Pò Hèn, thuộc thành phố Móng Cái, Quảng Ninh, để tưởng niệm các liệt sĩ của đất nước đã ngã xuống trong cuộc chiến này.
Từ trước đến nay chính quyền thường kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đông người liên quan đến yếu tố Trung Quốc và ngăn cấm các hoạt động tưởng niệm do các nhóm dân sự tổ chức.
"Tôi thấy ông Thủ tướng có đi thắp hương, nhưng người dân đi tưởng niệm thì bị ngăn cản", bà Sương Quỳnh bày tỏ.
Trả lời phỏng vấn đài VOV hôm 16/2 về cuộc chiến này, giáo sư Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nêu nhận định : "Chúng ta nhìn lại sự kiện này, định vị về tính chất của cuộc chiến này không phải là để khắc sâu hận thù mà là để nhắc nhở trong quan hệ hai nước có một vết hằn như vậy, có một cái hố ngăn cách như vậy".
"Bây giờ chúng ta bước qua cái hố đó bằng cây cầu hữu nghị. Chúng ta luôn luôn nhớ là dưới cầu là có cái hố ấy như một sự nhắc nhở trong tương lai không bao giờ để nó tái diễn", vẫn lời giáo sư Giang.
Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, gồm Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Báo chí trong nước đưa tin Bắc Kinh đã "huy động cả hải quân và không quân", với 60 vạn quân và hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và hàng ngàn khẩu pháo mở đầu cuộc tấn công. Ngày 5/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên. Trong cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu rút quân.
Nguồn : VOA, 17/02/2024
*****************************
45 năm cuộc chiến 1979 : bài học nào cho Việt Nam hôm nay ?
RFA, 16/01/2024
Cuộc xâm lược của Trung Quốc vào năm 1979 dù đã 45 năm trôi qua vẫn không ngừng khiến người Việt Nam trăn trở, suy nghĩ. Ngày nay, nhà nước Việt Nam không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Sách giáo khoa chỉ nhắc đến cuộc chiến này sơ sài vào cuối học kỳ 2 của lớp 12. Tuy vậy, giới trí thức và các nhà hoạt động xã hội vẫn không ngừng thảo luận về cuộc chiến. Bởi lẽ cuộc chiến này để lại những bài học to lớn cho Việt Nam về chính trị quốc tế.
Nhạc sĩ Tạ Trí Hải (giữa) chơi violin trong đoàn biểu tình ngày 17/2/2016 ở Hà Nội tưởng niệm cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979, một hình ảnh không còn xuất hiện những năm gần đây. Reuters
Bài học cảnh giác và niềm tin ý thức hệ
Khi Trung Quốc mở đầu cuộc tấn công ngày 17/2/1979, Việt Nam khi đó đã bố trí quân chủ lực tại Campuchia. Biên giới phía bắc chỉ có dân quân. Cả miền Bắc chỉ có một sư đoàn chính quy là sư đoàn Sao Vàng bảo vệ. Nhiều người đã chỉ ra từ lâu rằng điều đó cho thấy lãnh đạo Hà Nội đương thời đã không đánh giá đúng tính toán chiến lược của Bắc Kinh cho cuộc chiến này. Nhận định về câu chuyện này, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng :
"Trước đó thì Việt Nam chưa hiểu Trung Quốc. Sau tháng 2/1979 thì hiểu Trung Quốc nhiều hơn. Trước đó thì có rất nhiều các tác phẩm văn chương, như thơ ca Tố Hữu, bày tỏ niềm tin với Trung Quốc hoặc những sự kiện như khi Trung Quốc trả lại đảo Bạch Long Vỹ thì Việt Nam còn không muốn nhận. Điều đó cho thấy khi đó Việt Nam rất tin tưởng vào Trung Quốc, theo cách nói của khối Cộng sản lúc đó là tin vào tình cảm giai cấp vô sản quốc tế. Có lẽ đó là bài học rất lớn. Không thể mơ hồ trước một Trung Quốc đầy tham vọng. Đó là bài học Việt Nam cần phải ghi nhớ".
Người dân chạy tị nạn khỏi thị xã Lạng Sơn, ngày 21/2/1979 (Ảnh : AP)
Sự thụ động của Việt Nam trước cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979, theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, một phần vì trước đó Hà Nội đã ký với Moscow một hiệp ước tương trợ an ninh. Ông cho rằng bài học thứ hai cho Việt Nam ở cuộc chiến này là hiểu về tính tương đối của các hiệp ước tương trợ an ninh quốc tế như vậy.
Vẫn theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, một khi Trung Quốc đã ra tay thì luôn tính toán rất kỹ lưỡng. Cái thời và cái thế là yếu tố quyết định việc lựa chọn chính sách. Thời là thời điểm. Thế là vị thế của quốc gia. Năm 1979, vị thế của Việt Nam cực kỳ thấp. Việt Nam lúc này đã bị Mỹ cấm vận, kinh tế vô cùng khó khăn, kiệt quệ. Việt Nam khi đó vừa ra khỏi cuộc chiến với hai cường quốc. Ngoài ra, năm 1977, lực lượng Khmer Đỏ đã gây hấn mạnh mẽ ở biên giới phía Nam và buộc Việt Nam phải tự vệ. Theo ông Hoàng Việt, khi đó Việt Nam tự vệ nhưng lại gây rất nhiều nghi ngờ cho các quốc gia khác trên thế giới. Ngoài Mỹ và Trung Quốc, những quốc gia khác ở Đông Nam Á như Singapore và Thái Lan cũng nghi ngờ Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam tìm kiếm hỗ trợ từ Liên Xô với hiệp ước tương trợ toàn diện. Ông nói tiếp :
"Có lẽ khi đó Việt Nam không đánh giá được tình hình. Việt Nam tin tưởng với hiệp ước tương trợ với Liên Xô thì Trung Quốc sẽ bị kiềm chế và không tấn công mình. Nhưng hóa ra không phải như vậy. Trên thực tế, cái thế và thời của mỗi quốc gia là cái quyết định hành động của họ chứ không phải hiệp định".
Bài học không "ngả hẳn một bên" về mặt quân sự…
Để chứng minh cho luận điểm trên, nhà nghiên cứu Hoàng Việt chỉ ra rằng không chỉ Liên Xô án binh bất động trước cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào Việt Nam năm 1979 mà Hoa Kỳ năm 2012 cũng án binh bất động khi Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines.
Trong sự kiện đó, phía Mỹ diễn giải rằng hiệp định liên minh quân sự hai bên không áp dụng cho những lãnh thổ mới được đòi hỏi sau này. Do đó, Hoa Kỳ đã không can thiệp trước hành động chiếm lãnh thổ Philippines của Trung Quốc năm 2012. Đến gần đây, Tổng thống Biden mới tuyên bố bãi cạn Scarborough cũng nằm trong hiệp định liên minh quân sự Mỹ - Philippines. Dẫn chứng như vậy, ông Hoàng Việt nhấn mạnh rằng "hiệp định là một chuyện, còn diễn giải hiệp định để hành động thì nhiều khi tùy thuộc vào bối cảnh chính trị". Từ các sự kiện vừa nêu, nhà nghiên cứu Hoàng Việt cho rằng :
"Tôi nghĩ điều đó ảnh hưởng tới chính sách hiện nay của Việt Nam là chính sách quốc phòng bốn không. Như đã trao đổi, tôi nghĩ lúc đó (năm 1979) Việt Nam tự tin là có hiệp ước tương trợ quân sự với Liên Xô. Việt Nam tin tưởng là Trung Quốc sẽ e ngại. Hai là nếu Trung Quốc không e ngại mà chủ động tấn công thì Liên Xô sẽ hỗ trợ. Nhưng khi Trung Quốc tấn công Việt Nam thì Liên Xô gần như không có động thái gì về mặt quân sự dù hiệp định ghi rõ là một bên bị tấn công thì bên kia sẽ hỗ trợ về quân sự. Có lẽ Liên Xô khi đó đã suy yếu và gặp nhiều khó khăn".
…nhưng phải "ngả hẳn một bên" về mặt lợi ích quốc gia
Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Nguyễn Lê Tiến, một nhà nghiên cứu độc lập ở California, Hoa Kỳ, tiếp cận bài học lịch sử cho Việt Nam năm 1979 từ góc độ tìm kiếm lợi ích quốc gia giữa những ngã ba đường của lịch sử thế giới. Ông điểm lại lịch sử các cuộc cách mạng công nghệ của nhân loại như cách mạng công nghệ cơ khí thế kỷ 19, cách mạng công nghệ máy tính giữa thế kỷ 20, cách mạng công nghệ quang bán dẫn - chip điện từ từ thập niên 1970s và cách mạng trí tuệ nhân tạo ngày nay.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Lê Tiến, Việt Nam đã lỡ bước ở tất cả các cuộc cách mạng công nghệ. Thế kỷ 19 thì lỡ bước cuộc cách mạng cơ khí và mất nước. Giữa thế kỉ 20 thì lỡ bước cuộc cách mạng máy tính vì "chọn nhầm phe". Cuộc cách mạng máy tính do Hoa Kỳ và Phương Tây khởi xướng nhưng khi đó Hà Nội chọn phe Liên Xô nên đứng ngoài cuộc.
Là một trong những chuyên gia đầu tiên của Miền Nam Việt Nam trước 1975 du học về ngành quang bán dẫn khi công nghệ này mới nổi lên, TS. Nguyễn Lê Tiến cho rằng thập niên 1970 là thập niên có hai cuộc chuyển đổi lớn. Một là khối cộng sản phân đôi, Liên Xô và Trung Quốc thành kẻ thù, Trung Quốc bắt tay với Hoa Kỳ. Hai là ngành bán dẫn, chip điện tử bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển ở Phương Tây. Trung Quốc đã ngả sang phía phương Tây đúng lúc, đúng thời điểm. Việt Nam rơi vào cuộc chiến 1979 vì tiếp tục chọn Liên Xô, chọn bên mà rồi đây sẽ tan rã. Ông nói tiếp :
"Thập niên 1970 thế giới thay đổi một lần nữa. Việt Nam lại chọn bên thua cuộc. Trong cuộc chiến tranh lạnh ở giai đoạn đó, dĩ nhiên Mỹ và Tây phương phải giúp các nước như Nhật, Đại Hàn, Đài Loan vươn lên. Thập niên đó là thập niên bắt đầu phát triển chip điện tử. Đài Loan đã vươn lên.
Và bây giờ thế giới lại đứng trước một cuộc cách mạng mới là cách mạng AI (trí tuệ nhân tạo). Đương nhiên Mỹ và phương Tây sẽ phải bao vây cho bằng được Trung Quốc. Không cách nào khác.
Việt Nam bây giờ nếu không ngả hẳn về một bên thì không tiến lên được đâu. Bi kịch của Việt Nam là không biết chọn bạn mà chơi".
Tuy vậy, Tiến sĩ Nguyễn Lê Tiến nhấn mạnh rằng "ngả hẳn về một bên" không bao giờ có nghĩa là ngả về mặt quân sự vào bên này để đánh nhau với bên kia. "Ngả hẳn về phương Tây" nhưng không phải đơn giản là "thoát Trung" như ở Việt Nam nhiều trí thức hay nói. Theo ông Nguyễn Lê Tiến, ngả về phương Tây" trước hết là học hỏi tinh thần khai sáng, học hỏi văn minh Tây phương như Nhật Bản, rồi Hàn Quốc, Đài Loan và một phần là Trung Quốc sau đó đã từng.
"Đi theo Tây phương là học tập tự do, dân chủ, khai sáng của Tây Phương, cho con người tự do suy nghĩ, sáng tạo, cho một cơ chế để phát triển. Học tinh thần khai sáng của Tây Phương không có nghĩa là từ bỏ những mỹ tục của mình, phải từ bỏ thờ cúng ông bà tổ tiên. Không phải. Đó là đi theo "con đường sáng" mà văn minh Phương Tây đã khai sáng ra".
Nguồn : RFA, 16/02/2024
******************************
Chiến tranh biên giới Việt–Trung : cuộc chiến đẫm máu giữa các ‘đồng chí’
BBC, 16/02/2024
Ngày 17/2/1979 được đánh dấu là thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biên giới hai nước. Đó là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu giữa những "đồng chí", đồng minh một thời.
Lính Việt Nam tiến ra biên giới sau khi Trung Quốc nổ súng tấn công vào tháng 2/1979
Lúc bấy giờ, Việt Nam vừa thống nhất đất nước sau Chiến tranh Việt Nam thì lại phải lâm vào cuộc chiến với Khmer Đỏ ở Campuchia. Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình gọi Việt Nam là "tiểu bá" và rắp tâm "dạy cho Việt Nam một bài học".
Trung Quốc gọi đây là cuộc chiến tự vệ. Trong ảnh : Xe tăng Trung Quốc tiến vào biên giới cách không xa thị xã Lạng Sơn của Việt Nam.
Sơ đồ các mũi tấn công của Trung Quốc
Chiến tranh nổ ra trên toàn tuyến biên giới vào ngày 19/2/1979, nhưng trước đó, trong tháng 1 và 2 cùng năm, Trung Quốc đã thực hiện hàng trăm vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam. Phía Trung Quốc gọi cuộc chiến này là Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến (Chiến tranh tự vệ đánh trả Việt Nam), còn phía Việt Nam thoạt tiên gọi là Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng Trung Hoa.
Khi đã hết chiến tranh, trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trước nhu cầu củng cố quan hệ với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam đã tránh làm đậm thông tin cuộc chiến này, tên cuộc chiến cũng đã thay đổi.
Về sau, tên gọi thường được biết đến nhiều nhất là Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979. Tên của "kẻ thù Trung Quốc" cũng ít được nhắc đến một cách chính thức, như cách mà chính quyền Việt Nam hay nhắc tới Pháp, Nhật, Mỹ trong các cuộc chiến trước đó.
Lính Trung Quốc tiến vào Phong Thổ, Lai Châu
Lính Trung Quốc niêm phong một cửa hàng tại vùng biên giới vừa chiếm được của Việt Nam
Người dân Lạng Sơn chạy nạn tháng 3/1979
Một đơn vị pháo binh của Việt Nam sử dụng pháo 130mm của Liên Xô, Lạng Sơn, tháng 3/1979
Các lễ kỷ niệm cuộc chiến không được tổ chức long trọng, với sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao nhất của trung ương như các "lễ mừng chiến thắng" thường thấy tại Việt Nam.
Trong khi đó, người dân hằng năm vẫn tưởng nhớ, với các hoạt động dâng hương tại Hà Nội và nhiều nơi.
Tinh thần chống Trung Quốc của người dân trong các dịp này thường được chính quyền Việt Nam theo dõi chặt chẽ với sự cảnh giác cao độ để không "bị thế lực thù địch lợi dụng" hoặc "tránh các diễn biến xấu, vượt kiểm soát".
Trong những năm gần đây, báo chí Việt Nam nhắc đến cuộc chiến này nhiều hơn, với tên gọi "Trung Quốc" được đề cập, nhưng vẫn theo tinh thần chỉ đạo là "tránh làm căng thẳng quan hệ hai nước".
Cuộc chiến giữa "những đồng chí xã hội chủ nghĩa" Việt Nam và Trung Quốc là một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu và kỳ lạ, khi cả hai bên đều tuyên bố thắng lợi.
Trước và sau chiến tranh, quan chức hai bên vẫn gọi nhau là "đồng chí", vẫn ôm nhau như những bằng hữu, huynh đệ.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung thường được xác định diễn ra từ ngày 17 tháng 2 đến 16 tháng 3 năm 1979.
Kết thúc, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành các mục tiêu chính trị, quân sự và kinh tế nên chủ động rút lui.
Trong khi đó, phía Việt Nam cho rằng họ đã đánh lùi được Trung Quốc.
Lính Trung Quốc bị bắt sống tại Cao Bằng, tháng 3/1979
Công nhân Nhà máy in Tiến Bộ tại Hà Nội sẵn sàng ra trận, ngày 19/2/1979
Một số người Úc tại Sydney biểu tình phản đối cuộc tấn công của Trung Quốc, ngày 19/2/1979
Lính Việt Nam tiến lên biên giới tháng 5/1984. Xung đột tiếp diễn cho tới năm 1991 mới kết thúc.
Tù binh Trung Quốc trả lời báo chí tại Lạng Sơn vào tháng 4/1984
Người dân Hà Nội tưởng niệm cuộc chiến vào năm 2016
Mỗi bên đưa ra các con số thiệt hại khác nhau, nhưng theo số liệu phương Tây, phía Trung Quốc có khoảng 20.000 – 28.000 người thiệt mạng, Việt Nam có khoảng 20.000 người chết hoặc bị thương.
Trên thực tế, cuộc xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc còn kéo dài suốt thập niên 1980, với các vụ đụng độ giữa bộ binh và các màn pháo kích liên miên giữa hai bên.
Xung đột chỉ thực sự chấm dứt khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.
Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam ôm lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội vào năm 2011. Vào năm 2023, Việt Nam đồng ý tham gia "cộng đồng chia sẻ tương lai", một sáng kiến do Trung Quốc đề xuất.
Từ đó đến nay, các mâu thuẫn về lãnh thổ, lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp tục tồn tại.
Tuy nhiên, lãnh đạo hai nước vẫn không ngừng nêu cao luận điệu về tình anh em, đồng chí.
Mới đây nhất, Việt Nam đã nhất trí tham gia xây dựng "Cộng đồng chia sẻ tương lai" , một sáng kiến do Trung Quốc đề xuất.
Nguồn : BBC, 16/02/2024
*************************
Đặng và Hứa 'khai đao' ngày 17 tháng 2
BBC, 17/2/2016
Sau chiến thắng 1975, miền Bắc Việt Nam đã chọn ưu tiên chiến lược là Liên Xô xa xôi và xa dần kẻ thù lịch sử, láng giềng Trung Quốc, theo bài trên Bách khoa Toàn thư Anh Quốc, Britannica, mục về Việt Nam.
Nữ quân nhân Việt Nam trên tuyến biên giới phía Bắc 1979
"Với thành công nhanh chóng trong chiến dịch bài Hoa, đuổi đi giới thương nhân gốc Hoa, Việt Nam còn mở vịnh Cam Ranh cho hải quân Liên Xô vào, và ký kết Hiệp ước hữu nghị với Moscow.
"Quân đội Việt Nam cũng đã xâm chiếm Campuchia để trục xuất quân Khmer Đỏ.
"Rất sớm sau khi Đặng Tiểu Bình có chuyến thăm được ca ngợi tới Mỹ, Bắc Kinh đã tuyên bố ý định trừng phạt Việt Nam vào tháng 2 năm 1979".
Reg Grant, trong một cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam đã đặt xung đột Trung - Việt vào nhóm các cuộc chiến mới nảy sinh ở vùng Đông Dương sau 1975.
Cuộc chiến Biên giới 1979 là hệ quả của chiến tranh Campuchia, khi xung đột nhỏ lẻ ở vùng biên giới với Việt Nam nổ ra vì các cuộc tập kích của Khmer Đỏ.
Theo tác giả này, các diễn biến ở biên giới khiến Việt Nam "đưa quân xâm lược Campuchia toàn diện vào Giáng Sinh 1978, và đến 7/01/1979 thì chiếm Phnom Penh và thiết lập một chính phủ mới".
"Quân Khmer Đỏ bị đẩy ra khỏi các đô thị và tiếp tục quấy nhiễu quân Việt Nam ở các tuyến dọc biên giới Thái Lan".
"Trung Quốc là nước hỗ trợ chính cho chế độ Pol Pot. Ngày 17/02/1979, Trung Quốc tung quân xâm lược Việt Nam. Họ không muốn chiếm nước này mà chỉ muốn ngăn sự hung hãn của Việt Nam".
"Nhưng quân Trung Quốc không thể nào tiến được trước sức chống trả bền bỉ của phía Việt Nam và đến ngày 6/3/1979, họ phải rút quân về".
Các bên cùng thất bại
Theo Britannica, cuộc chiến Trung - Việt diễn ra khi Hoa Kỳ, dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, đã ủng hộ Trung Quốc, một phần vì dư âm của sự thù ghét với Bắc Việt sau chiến tranh.
Đặng Tiểu Bình được Tổng thống Jimmy Carter mời đến thăm Hoa Kỳ tháng 2/1979
Liên Xô đáp trả với lời đe dọa chống lại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng không thắng được lực lượng dân quân biên giới của Việt Nam.
Sau ba tuần với những trận giao tranh dữ dội, Việt Nam tuyên bố gây ra con số 45.000 thương vong cho phía Trung Quốc và Trung Quốc đã rút quân.
Chính sách của Mỹ đem lại hậu quả tiêu cực.
"Uy tín quân đội chính quy của Trung Quốc bị phá tan, Campuchia vẫn ở lại trong phe Liên Xô-Việt Nam, và các chiến thuật sử dụng lá bài Trung Quốc của Hoa Kỳ trở nên vô duyên", Britannica viết.
Với Trung Quốc, một mục tiêu của việc phát động cuộc chiến đánh vào đồng minh của Liên Xô còn là nhằm để chia rẽ Washington và Moscow.
Đại đội 8, Tiều đoàn 2, Trung đoàn 448, Sư đoàn 150, Quân đoàn 50, Đại quân khu Thành Đô bị tập thể quân dân Cao Bằng bắt làm tù binh
Nhưng trái với mong đợi của Bắc Kinh, chiến tranh biên giới Việt-Trung cũng không ngăn được cuộc gặp Mỹ-Xô được lên kế hoạch từ trước đó, cũng như việc kí kết Hiệp ước hạn chế vũ khí tấn công chiến lược lần thứ hai (SALT II).
Đàm phán đã đi đến thỏa thuận ở Vladivostok và cuối cùng hai bên cũng đi đến bản Hiệp ước dự thảo.
Quá trình hòa hoãn Liên Xô và Mỹ chỉ ngưng lại khi Moscow đưa quân vào Afghanistan, bắt đầu một cuộc dính líu quân sự mới cho tới khi Liên Xô tan rã.
Còn Hà Nội sau cuộc chiến lại càng phụ thuộc vào Moscow cho tới khi Liên Xô sụp đổ, với các hệ luỵ về thể chế cho nước Việt Nam cộng sản.
Bài học cho Trung Quốc
Riêng với Trung Quốc, đây là cuộc chiến lớn nhất về mặt quân sự kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
Và bài học Bắc Kinh có thể rút ra thì rất nhiều, theo một tác giả gốc Trung Quốc, Zhang Xiaoming.
Trong bài trên The China Quarterly 2005, ông xác định qua các tài liệu Trung Quốc rằng Đặng Tiểu Bình là nhà lãnh đạo cổ vũ cho chuyện tấn công để "dạy cho Việt Nam một bài học".
Dù Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, gồm cả Hoa Quốc Phong không phản đối, nhưng ban lãnh đạo Trung Quốc cũng không hoàn toàn đồng thuận về cách dùng quân của ông Đặng.
Rốt cuộc, người ủng hộ rõ nhất cho Đặng là Trần Vân, nhân vật kỳ cựu trong Đảng.
Nhưng Zhang Xiaoming cho rằng chính Trung Quốc "mới là bên nhận một bài học".
Ông Đặng bỏ qua cơ chế chỉ huy bình thường, và trực tiếp giao cho Hứa Thế Hữu tấn công từ phía Đông (Quảng Tây), và điều động Dương Đắc Chí, từ quân khu Vũ Hán (miền Trung Trung Quốc) xuống chỉ huy cánh quân phía Tây từ Vân Nam đánh vào Việt Nam.
Ông Đặng, bắt chước Mao Trạch Đông, đã trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến và chỉ 'tham vấn trước' với một số nhân vật lão thành trước khi đưa ra một cuộc họp kéo dài 5 tiếng ở Bộ Chính trị.
Đặng học cách 'trực tiếp cầm quân' của Mao khi ra lệnh đánh Việt Nam năm 1979
Ông cũng bỏ qua vai trò của tư lệnh quân khu Côn Minh, tướng Vương Tất Thành.
Quyết định này của Đặng Tiểu Bình có hệ quả nghiêm trọng cho quân Trung Quốc : vì thiếu phối hợp hai cánh quân, họ bị tổn thất nặng nề, theo Zhang Xiaoming.
Đến giữa tháng 1/1979, chừng 320 nghìn quân Trung Quốc đã tập kết ở các tuyến dọc biên giới Việt Nam.
'Dùng dao mổ trâu chém gà'
"Cách dụng binh của Hứa Thế Hữu là "dùng dao mổ trâu chém gà" (niudao shaji - ngưu đao sát kê) tấn công tổng lực và toàn diện vào mọi điểm phòng vệ của Việt Nam".
Mục tiêu của chiến dịch "phản kích tự vệ" - cách Trung Quốc chuẩn bị dư luận trong và ngoài nước về cuộc xâm lăng - là nhanh chóng "tiêu hao sinh lực địch".
Pháo binh Việt Nam trong cuộc chiến 1979
Trung Quốc đưa 9 quân đoàn đánh xuyên biên giới và huy động cả hơn 200 nghìn dân Quảng Tây phục vụ chiến dịch, trong đó 26 nghìn dân quân tham chiến trực tiếp, theo Zhang Xiaoming.
Tại một số mặt trận như ở Cao Bằng, tỷ lệ quân Trung Quốc so với lực lượng Việt Nam là 8/1.
Nhưng tổn thất của phía Trung Quốc là rất lớn.
Bài của Zhang Xiaoming nhắc lại rằng Trung Quốc từng nói họ giết và làm bị thương 57.000 quân Việt Nam, còn Đài Tiếng nói Việt Nam vào thời gian đó nói họ giết và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc.
Nhưng theo tác giả này, các nghiên cứu được cập nhật (cho đến 2005) tin rằng số quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bị giết trong cuộc chiến là 25 nghìn, và số bị thương là 37 nghìn.
Ngay cả con số Bắc Kinh thừa nhận (6.700 tử sĩ và 15.000 thương binh) cũng đưa số thương vong lên 21 nghìn, trên tổng quân số chừng 300 nghìn tham chiến, một tỷ lệ rất cao.
Trung Quốc đã tổng kết, rút ra nhiều bài học về chiến thuật, về thông tin liên lạc, vũ khí.
Dù vậy, Zhang Xiaoming cho rằng vẫn có một bài học Trung Quốc chưa rút ra từ cuộc chiến với Việt Nam.
"Vì bị ảnh hưởng của tư tưởng Mao, coi chiến tranh là 'sự nối dài của mục tiêu chính trị', Trung Quốc vẫn chưa đánh giá lại xác đáng về chiến thắng hay thất bại nhìn từ góc độ quân sự thuần tuý".
Cuộc chiến 1979, nhìn từ phía Trung Quốc, là cách Bắc Kinh phản ứng lại sự bành trướng ra Đông Nam Á của Hà Nội, và cũng là cách ngăn chặn tham vọng toàn cầu của Moscow, theo Zhang Xiaoming.
Và đây có thể là bài học lớn nhất cho các quốc gia trong vùng đang tiếp tục có các tranh chấp trong một bối cảnh địa chính trị mới như ngày nay.
Nguồn : BBC, 17/02/2027
*************************
Cuộc chiến 1979 thực sự đã 'bắt đầu từ trước'
Quốc Phương, 17/02/2017
Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt - Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử từ Đại học Huế của Việt Nam.
Cuộc chiến trên Biên giới Việt - Trung khởi phát từ ngày 17/2/1979 đã trôi qua được 38 năm.
Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, ông Hà Văn Thịnh nói :
"Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.
"Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).
"Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn...
"Theo quan điểm của tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được".
Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.
Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt - Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói :
"Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.
"Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen...", ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.
'Phải tạo áp lực'
Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn '11 dòng' nói về cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là 'Trung Quốc xâm lược Việt Nam'.
Ông Nguyễn Quang Thạch cho rằng nếu giới làm sách giáo khoa ở Việt Nam chưa phản ánh đầy đủ cuộc chiến 1979, thì cần tạo áp lực xã hội và dư luận để có thay đổi.
Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói :
"Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh...
"Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.
"Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.
"Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết... phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên", ông Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.
Quý vị có thể bấm vào đường dẫn này để theo dõi toàn văn cuộc trao đổi giữa BBC với ông Nguyễn Quang Thạch hôm 17/2/2017.
Quốc Phương
Nguồn : BBC, 17/02/2017