Những bài học lịch sử, vấn đề của hiện tại và những trăn trở về tương lai
Tưởng niệm 49 năm biến cố lịch sử ngày 30/4/1975, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với hai người có xuất thân, quá trình học hành, kinh nghiệm sống khác hẳn nhau là Tiến sĩ, dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang A từng sống dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc trước đây, hiện tại đang sống tại Hà Nội, Việt Nam và nhà văn, nhà báo Từ Thức từng sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam, hiện tại đang sống tại Paris, Pháp.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A và Nhà báo Từ Thức
Song Chi : Chế độ Việt Nam Cộng Hòa kết thúc vào ngày 30/4/1975, đến nay đã gần nửa thế kỷ. Tuy nhiên, nếu chúng ta nói "Việt Nam Cộng Hòa" không phải là quá khứ mà là tương lai thì các ông nghĩ như thế nào về câu nói này ?
Nguyễn Quang A : Câu hỏi lý thú này có một câu trả lời là dứt khoát KHÔNG và một câu trả lời mang tính gợi ý CÓ.
1. Đầu tiên hãy xét phần dứt khoát không theo nghĩa hẹp, tức là "Việt Nam Cộng hòa" không phải là tương lai, bởi vì :
- Với tư cách một chính thể Việt Nam Cộng hòa đã chấm dứt ;
- Việc dùng tên Việt Nam Cộng hòa cho một chính thể tương lai sẽ gây chia rẽ hơn nữa trong một đất nước, một dân tộc cần tránh chia rẽ, phân cực hơn bao giờ hết và vì thế là không thích hợp cho sự hòa giải, thống nhất dân tộc, cho sự phát triển đất nước ;
- Chính vì thế tôi khuyên tất cả những ai coi trọng sự phát triển đất nước, sự thống nhất quốc gia dân tộc không nên dùng rhetoric gây chia rẽ, phân cực và cố gắng làm hết sức mình để vun đắp cho sự thống nhất và sự phát triển của đất nước trong mọi hoạt động của mình (bất chấp lối nói và hành động của những người khác ý kiến với mình và không sa đà vào việc tranh cãi mang tính thắng-thua và thay vào đó cố gắng xây dựng, truyền bá các giá trị hết sức cần thiết cho một xã hội dân chủ như tự do, công bằng, bình đẳng, trung thực, khoan dung, thỏa hiệp,… ; xây dựng văn hóa tranh luận cân nhắc và văn hóa chính trị lành mạnh).
2. Tuy vậy, hiểu theo nghĩa rộng, Việt Nam Cộng hòa đã là một chính thể theo hướng dân chủ đầu tiên trong suốt lịch sử dài của Việt Nam. Theo nghĩa đó, nếu muốn Việt Nam thực sự dân chủ và tự do thì dứt khoát chính thể tương lai của Việt Nam phải đi theo hướng đó, tức là đi theo hướng của Việt Nam Cộng hòa, phải học những kinh nghiệm cả hay và dở của Việt Nam Cộng hòa, nhưng không nên dùng cái tên Việt Nam Cộng hòa vì những lý do nêu ở phần 1 của câu trả lời, nhưng cũng vì Việt Nam Cộng hòa chưa phải là một chính thể dân chủ chín muồi thực sự và nửa thế kỷ qua đã có những biến đổi sâu rộng về công nghệ, xã hội và chính trị mà việc quá lưu luyến quá khứ đó chưa hẳn là cách hay.
Việc chọn tên nào cho chính thể tương lai là vấn đề chiến thuật tế nhị và cần được thảo luận trên tinh thần xây dựng, không gây chia rẽ, phân cực và lấy lợi ích phát triển quốc gia làm chính. Các tên khả dĩ có thể là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một cái tên rất hay nhưng có thể vẫn gây chia rẽ, phân cực ; có lẽ Việt Nam Cộng hòa Dân chủ hay hơn ? Hay chẳng nên dùng thêm tính ngữ nào cả mà chỉ tập trung vào xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ trong đó người Việt Nam được tự do, hạnh phúc. Đấy là những vấn để cần được thảo luận một cách xây dựng rộng rãi. Và đó có thể là một mẫu số chung để tất cả hay hầu hết những người Việt chung sức xây dựng một dự án mới cho đất nước.
Cũng cần tìm hiểu, nghiên cứu, thảo luận rộng rãi về Việt Nam nên đi theo con đường dân chủ như thế nào, để người dân có thể hiểu về dân chủ nói chung, dân chủ bầu cử, dân chủ đại diện, dân chủ thảo luận cân nhắc, dân chủ tham gia vân vân cũng như các điểm hay điểm dở của chúng đề xuất chúng ta nên xây dựng một nước Việt Nam dân chủ ra sao để chính họ sáng tạo, thử nghiệm các sáng kiến của chính họ trong mọi việc kể cả việc quản lý nhà nước ở mức địa phương và quốc gia. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay khi các nền dân chủ đang gặp nhiều thách thức, cần những cải cách sâu rộng (kể cả việc kết hợp bầu cử với sự "rút thăm") để xây dựng các cơ quan nhà nước hay bổ nhiệm các quan chức cấp cao thì việc "nâng cao dân trí" này càng cấp bách.
Từ Thức : Điều chắc chắn là chế độ tương lai không thể là một chế độc tài, nhất là độc tài toàn trị, kiểu cộng sản, hay hậu Cộng sản.
Phải có một chế độ dân chủ, nhưng dân chủ kiểu nào sẽ do một quốc hội lập hiến, do toàn dân bầu ra, quyết định. Ngày nay có rất nhiều hình thức dân chủ trên thế giới.
Thí dụ nước Pháp trao trọn quyền cho tổng thống, quốc hội đóng vai phụ, vì sau đại chiến thứ 2, Pháp muốn có một tổng thống nhiều quyền hành, để có thể hành động nhanh chóng.
Hoa Kỳ cũng theo tổng thống chế, nhưng quyền hạn bị hạn chế bởi quốc hội, nhất là Thượng Viện.
Tại nhiều nước khác quốc hội lựa Thủ tướng, tổng thống nếu có, chỉ đóng vai tượng trưng, không có quyền hình gì ; thủ tướng mất chức khi mất đa số ở quốc hội. Bà Merkel, thủ tướng Đức, có lần chỉ trụ sở quốc hội, nói : ‘’Boss của tôi’’.
Thuỵ Sĩ theo chế độ dân chủ trực tiếp, những vấn đề lớn đều do dân quyết định qua trưng cầu dân ý, một chuyện không thể thực hiện ở Pháp, vì dân Pháp bất mãn kinh niên, khi hỏi ý, đều trả lời ngược lại với chính sách của chính quyền, do chính họ bầu ra.
Hình thức dân chủ nào cũng có ưu hay khuyết điểm.
Việt Nam, trong cái rủi có cái may, là có hàng triệu người đang sống ở hải ngoại, có thể quan sát, học hỏi, rút kinh nghiệm tại nhiếu quốc gia, để khi có cơ hội, có thể xây dựng một thể chế thích hợp cho đất nước.
Có thể lạc quan về chuyện đó, khi thấy Đài Loan chỉ trong vài năm đã xây dựng một chế độ dân chủ gần như kiểu mẫu, không thua kém gì các nước Tây phương đã bỏ ra nhiều thế kỷ để thực hiện.
Vấn đề là bao giờ người Việt có quyền tự chủ ?
Song Chi : Theo các ông, những sai lầm lớn nhất của Đảng cộng sản Việt Nam và những di sản tệ hại nhất mà họ đang và sẽ để lại cho đất nước, dân tộc là gì ?
Nguyễn Quang A : Theo tôi, đó là :
1) Sử dụng bạo lực [cả vật lý và ngôn từ] và luôn tìm ra những kẻ thù tưởng tượng ;
2) Khi buộc phải sửa sai lầm của chính mình thì thường không thú nhận sai lầm một cách công khai (nhân văn giai phẩm, sửa chính sách kinh tế ["đổi mới" thực sự là sự sửa chính sách kinh tế sai lầm nhưng coi là thành công của mình], cải cách ruộng đất có thừa nhận công khai sai lầm nhưng chưa thành thật…) góp phần làm hủy hoại hệ thống đạo đức ;
3)Dùng các khái niệm cùng tên nhưng ngược với cách hiểu chung của thế giới, ngăn chặn và đàn áp các tiếng nói khác và như thế góp phần làm đảo lộn các giá trị ;
4) Bóp nghẹt tự do và như thế không có đất cho sự sáng tạo thật sự.
Từ Thức : Cái sai lầm lớn nhất và di sản tai hại nhất người cộng sản để lại cho đất nước là… đã nhập cảng chế độ cộng sản.
Câu trả lời có vẻ lẩm cẩm, nhưng đó là sự thực. Bởi vì chủ nghĩa đó là nguyên nhân của tất cả những bế tắc của Việt Nam.
Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế phủ nhận khái niệm quốc gia, khiến Việt Nam trước đây trở thành trường thành của cộng sản quốc tế, ngày nay càng ngày càng rơi vào quỹ đạo Trung Quốc, nhất là khi phe đảng cầm quyền ở Việt Nam nghĩ Bắc Kinh là bảo hiểm sinh mạng của họ.
Chủ nghĩa Cộng sản chủ trương vô sản chuyên chế, khiến độc tài toàn trị là con đường duy nhất, việc triệt tiêu những quyền căn bản của con người trở thành quốc sách, mặc dù ngày nay các nhà lãnh đạo vô sản đã trở thành triệu phú, hay tỷ phú dollars.
Cộng sản coi lý thuyết Mác Lê là kim chỉ nam, khiến Việt Nam không có giáo dục, chỉ có nhồi sọ ; coi tất cả những người không nghĩ như họ là kẻ thù, biến Việt Nam thành một nước không có văn hoá, vì văn hóa cần sáng tạo, sáng tạo cần tự do tối đa.
Chủ nghĩa Cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, coi thuần phong mỹ tục là trò chơi của giai cấp tư sản bóc lột, khiến tôn giáo bị đàn áp thẳng tay, để thay thế bằng mê tín dị đoan, xã hội rối loạn.
Trước bất cứ tệ trạng nào, người ta suy nghĩ tìm giải pháp, cuối cùng đều phải đi tới kết luận : chừng nào chế độ này còn tồn tại, sẽ không có giải pháp. Càng sửa càng sai, càng sai càng sửa.
Song Chi : Các ông đánh giá chiến dịch "đốt lò" chống tham nhũng của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có thành công không, tại sao, và liệu việc đánh tham nhũng này có dẫn đến nguy cơ cho Đảng cộng sản Việt Nam theo kiểu không kiểm soát được và sẽ "tự bắn vào chân mình" ?
Nguyễn Quang A : Tham nhũng gắn với quyền lực và vì thế không thể triệt tiêu tham nhũng. Chỉ có thể giảm bớt tham nhũng mà thôi. Thế giới có rất nhiều nghiên cứu về quản trị tốt và tham nhũng. Theo đó, muốn chống tham nhũng thành công (tức là gữ cho mức độ tham nhũng ở mức xã hội có thể chịu đựng được) thì về mặt thể chế cần ít nhất 4-5 thứ :
1) Luật trị hay nhà nước pháp quyền tức là không ai, không tổ chức nào có thể đứng trên luật pháp cả và bản thân việc làm luật cũng phải tuân theo những quy tắc phổ biến để bảo vệ các quyền của người dân, hạn chế sự lạm dụng của chính quyền, chứ không phải ban hành luật một cách tùy tiện ;
2) Nền tư pháp độc lập, tức là cơ quan điều tra, tố tụng và tòa án hoạt động độc lập chỉ dựa vào pháp luật, không bị một cá nhân hay tổ chức nào chi phối ;
3) Báo chí tự do, nhất là nghề báo điều tra ;
4) Xã hội dân sự lành mạnh, sôi động để tập hợp sức mạnh trí tuệ, kỹ năng của người dân để buộc các tổ chức, các quan chức phải minh bạch và có trách nhiệm giải trình ;
5) Có các cơ quan nhà nước giám sát độc lập nhưng không phụ thuộc vào chính quyền (về tiền tệ, môi trường, khoa học, dược và thực phẩm, v.v.) hoạt động chỉ theo các luật hay quy định riêng cho chúng.
Ngoài các nhân tố thể chế nói trên việc xây dựng các giá trị, tập quán văn hóa cũng quan trọng trong việc kiểm soát tham nhũng.
Các bạn soát lại xem Việt Nam có nhân tố nào trong 5 nhân tố cơ bản nêu trên : không nhân tố nào cả ! Càng độc quyền càng sinh ra tham nhũng. Hệ thống sinh ra ra tham nhũng. Thiếu các yếu tố đó thì bất kể cuộc chống tham nhũng nào, từ "đả hổ diệt ruồi" đến "đốt lò" đều không thể có kết quả, gỏi nhất chúng chỉ có thể làm hài lòng ngắn hạn dân chúng chưa hiểu biết kỹ mà chỉ khoái thấy các quan chức cấp cao bị "trừng trị" nhưng không thể giải quyết bài bản, tận gốc vấn đề tham nhũng mà ngược lại làm không khéo, tràn lan thì có thể gây sự mất lòng tin, sự tê liệt của bộ máy, mất tính sáng tạo, sáng kiến thử nghiệm của các tổ chức và các quan chức nhà nước, những việc vô cùng quan trọng trong việc vận hành, phát triển và đổi mới đất nước.
Từ Thức : Câu nói nổi tiếng của Lord Acton, mà người ta gán cho Churchill, đã trở thành một định luật : "Quyền lực đưa tới tham nhũng, quyền lực tối đa tham nhũng tối đa" (power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely).
Ở các nước dân chủ, không phải chỉ có chính quyền diệt tham nhũng. Việc tố cáo, điều tra hay trừng trị tham nhũng là việc làm của các cơ quan giám sát, của tư pháp chuyên môn về kinh tài, của quốc hội, của các hội đoàn, báo chí, các đảng phái, và ngay cả mọi công dân, tất cả hoàn toàn độc lập đối với chính quyền. Một người tham nhũng khó lọt qua tất cả những cửa ải đó.
Ở những nước độc tài, chuyện chống tham nhũng nằm trọn trong tay một người, toàn quyền quyết định ai tham nhũng, ai đáng bị trừng phạt.
Tòa án và công an điều tra chỉ tuân theo mệnh lệnh. Đó chỉ là những cơ hội để triệt hạ những kẻ không thuộc phe của nhóm đang cầm quyền.
Chiến dịch ‘’đốt lò’’ của ông Trọng chỉ là trò bắt chước chiến dịch "đả hổ diệt ruồi"của Tập Cận Bình, theo truyền thống những gì xẩy ra ở bên Tàu sẽ xẩy ra ở Việt Nam, như cuộc Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng, man rợ trước đây.
Nhân danh diệt tham nhũng, Tập đã bỏ tù trên 100.000 cán bộ lớn nhỏ, loại bỏ tất cả những người không cùng phe cánh, hay những nhà tài phiệt đã quá thành công để có thể có ảnh hưởng trong xã hội, như Jack Ma, để trở thành hoàng đế vĩnh viễn của nước Tàu.
Hậu quả là tham nhũng không thuyên giảm, nhưng guồng máy nhà nước trì trệ, vì cán bộ các cấp sợ bị sờ gáy, khoanh tay không làm gì nữa. Các nhà đầu tư ngoại quốc tìm cách chạy khỏi Trung Quốc, vì giới kinh tài rất sợ đầu tư ở những nước không có đường lối, luật pháp minh bạch.
Tập có 2 mục đích khi phát động chiến dịch "đả hổ diệt ruồi". Thứ nhất : loại trừ đối lập. Thứ hai : cứu Đảng, vì nạn tham nhũng khủng khiếm đã gây bất mãn trong các tầng lới nhân dân, ở một xứ người dân đã quên cả chuyện bất bình, để được yên thân.
Ông Trọng học nguyên văn bài bản của Tập, cũng có 2 mục tiêu đó khi "đốt lò". Chiến dịch đốt lò có vẻ ngoạn mục, trở thành chuyện vui trong các tiệm cà phê, bàn tán chuyện ai lên ngựa ai ngã ngựa, nhưng sẽ chẳng đi tới đâu. Ông Trọng cũng không nên mong chuyện diệt tham nhũng thành công, bởi vì nếu không còn tham nhũng, sẽ chẳng còn ai làm việc, chẳng còn ai giữ đảng.
Ngày nay, không ai còn mơ thế giới đại đồng, không còn chiêu bài chống Mỹ cứu nước, nếu còn những người trung thành với Đảng, chỉ vì còn đặc quyền đặc lợi, quyền được tham nhũng.
Bài trừ tham nhũng tới nơi tới chốn là một cách cưa cành cây, trên đó các lãnh tụ Đảng đang ngồi.
Song Chi : Sau gần nửa thế kỷ dưới một chế độ độc tài toàn trị, theo các ông, những "căn bệnh" lớn nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay là gì ?
Nguyễn Quang A : Băng hoại đạo đức, dối trá, khoa trương, không minh bạch.
Từ Thức : Dân tộc nào cũng có tính xấu bên cạnh tính tốt. Dân Việt Nam cũng vậy. Nhưng có những bệnh xã hội đặc biệt do chế độ độc tài tạo ra : bệnh dối trá, vô trách nhiệm, vô cảm, vô luân
Dối trá : Dưới một chế độ toàn trị, dối trá là một nghệ thuật sống. Nói thực điều mình suy nghĩ, bày tỏ sự bất mãn, bất đồng ý kiến có thể mất công ăn, việc làm, bổng lộc, nếu không mất mạng. Dối trá là một phương pháp để sống còn, dần dần sẽ trở thành một thói quen, một bản năng, một dân tộc tính.
Vô trách nhiệm : dối trá đưa tới tinh thần vô trách nhiệm. Người ta chỉ làm những gì chắc chắn là sẽ không bị tai bay vạ gió ; không ai nghĩ tới xã hội, tới ích lợi chung. Giả vờ tin, giả vờ làm việc.
Vô cảm : những người còn lương tâm, bất mãn trước bất công, trước bạo quyền, trước việc đất nước lâm nguy, đều bị đàn áp, hành hạ, bỏ tù. Hậu quả là không ai tha thiết đến chuyện chung nữa, hoàn toàn vô cảm, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng.
Vô luân : những giá trị cũ, phong hóa cũ bị xóa sạch, tôn giáo bị đàn áp để thay bằng mê tín dị đoan, giáo dục thay bằng tuyên truyền, xã hội không còn kim chỉ nam, hỗn loạn, không lý tưởng.
Đó chỉ là một vài thí dụ, nhưng đủ đưa tới một xã hội rất kỳ lạ. Rất khôi hài, nếu không phải là dân tộc của chính mình.
Một dân tộc không có quá khứ, bởi vì lịch sử đã bị viết lại. Không có tương lai, giống như cây tre, chính sách ngoại giao của ông Trọng, không biết ngả về hướng nào, không biết đi đâu, ngoài chuyện cố bám vào, hay giả vờ bám vào một chủ nghĩa đã giết 100 triệu người, mà thế giới, trừ Tàu, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn, đã chối bỏ.
Không quá khứ, không tương lai, không còn một giá trị, khuôn mẫu nào, xã hội như một con tầu không lái, không biết đi về hướng nào. Cả một dân tộc sống cho qua ngày, chờ đợi một cái gì vô hình. Giống như những nhân vật trong vở kịch "En attendant Godot’’ (Trong khi chờ đợi Godot), của Samuel Beckett, ngồi chờ Godot, nhưng không biết Godot là ai, có thể làm gì để cứu mình. Và cuối cùng Godot không tới.
Song Chi : Theo các ông, bài học lớn nhất rút ra từ cuộc chiến Việt Nam, cho cả hai miền Nam-Bắc là gì ? Và hiện nay Việt Nam đã học được bài học ấy chưa ?
Nguyễn Quang A : Bất bạo động, "bạo động tắc tử" như lời nhắc nhở của cụ Phan Châu Trinh. Đáng tiếc người dân Việt Nam ở khắp nơi cả trong nước và ngoài nước, thuộc bất cứ phe nào phải rất nghiêm túc học bài học này (kể cả việc không dùng ngôn từ kích động bạo lực, hiểu đúng về sự thỏa hiệp [một giá trị vô cùng quan trọng nhưng thường bị người Việt coi là xấu], cổ vũ khuyến khích sự khoan dung…nói cách khác là xây dựng các giá trị dân chủ trên tầng văn hóa).
Từ Thức : Bài học lớn nhất cho người Việt Nam là chỉ có mình bảo vệ, xây dựng đất nước mình. Những nước khác chỉ nghĩ tới quyền lợi của chính họ, sẵn sàng bỏ rơi đồng minh nếu họ muốn thay đổi chính sách.
Việt Nam Cộng Hòa quá tin Hoa Kỳ, đã bị bỏ rơi không thương tiếc.
Người Cộng sản trung thành, vâng lệnh Trung Cộng, mặc dù Trung Cộng xâm chiếm biển đảo, ranh giới, bành trướng thế lực ở Việt Nam, hay trắng trợn xâm lăng như khi Đặng Tiểu Bình muốn "dạy Việt Nam một bài học" năm 1979.
Bài học cực kỳ đơn giản đó, trải qua những kinh nghiệm đắng cay, đau đớn, người Việt ta chưa học được. Vọng ngoại là bệnh nan y của người Việt, nhiều người đồng hương vẫn trông chờ những đấng cứu tinh ngoại quốc tới cứu mình, quên rằng mục tiêu số một của họ là giữ cái ghế của chính họ, sau đó là quyền lợi phe đảng, cuối cùng là quyền lợi của đất nước họ. Số mệnh của dân tộc Việt Nam là một khái niệm rất mơ hồ. Nếu cần hy sinh hàng triệu người Việt vì một tính toán lợi lộc, họ sẵn sàng làm.
Việt Nam là một nước nhỏ, không thể đứng một mình, cần đồng minh. Nhưng đồng minh nào cũng chỉ là nhất thời, cái linh thiêng vĩnh viễn là vận mệnh dân tộc. Và vận mệnh của một dân tộc hoàn toàn tuỳ thuộc dân tộc đó.
Song Chi : Nhiều nhà bình luận quốc tế cho rằng thế giới hiện nay đang đứng trước một tình thế rất nguy hiểm, với những xung đột đang hoăc sẽ có khả năng bùng nổ ở nơi này nơi khác : cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine, xung đột ở khu vực Trung Đông, mối đe dọa của Trung Cộng đối với Đài Loan và khu vực biển Đông, sự hình thành trục ác Nga-Trung Quốc-Iran-Bắc Hàn trong lúc các nền dân chủ hàng đầu của phương Tây đang bị đánh phá, xói mòn từ bên ngoài lẫn bên trong… Chỉ cần một hành động gây hấn hay một cái đầu "nóng" của một nhân vật lãnh đạo, một nguyên thủ quốc gia nào đó là chiến tranh có thể lan rộng, thậm chí thế chiến thứ Ba sẽ bùng nổ ; hoặc sự thắng thua của một bên trong một cuộc xung đột có thể làm đảo lộn trật tự thế giới v.v… Đứng trước tất cả những thử thách đó thì các ông nhận thấy tầm nhìn, sự chuẩn bị đối phó cho tới những bước đi cụ thể của Đảng cộng sản Việt Nam ra sao ?
Nguyễn Quang A : Do Đảng cộng sản Việt Nam không minh bạch và có thể coi các sự chuẩn bị hay kế hoạch như vậy là bí mật quốc gia nên tôi không rõ họ chuẩn bị thế nào nên khó bình luận. Tuy vậy từ chính sách ngoại giao (xây dựng các mối quan hệ với các nước theo tầm quan trọng của họ với Việt Nam theo các cấp độ khác nhau) để tranh thủ giữ hòa bình phát triển đất nước là hướng tôi cho là đúng. Còn tốt hơn nữa nếu chúng ta có cùng các giá trị với các nước dân chủ tiên tiến và có sự thảo luận để dân chúng cùng xây dựng các phương án đối phó với tình hình, thế thì người dân mới là chủ chứ không chỉ là chủ hờ trên giấy.
Từ Thức : Tại Á Châu, các quốc gia láng giềng của Việt Nam đang xiết chặt hàng ngũ chống hiểm họa Tàu. Nhật Bản, Phi Luật Tân công khai hợp tác với AUKUS (1) là một tổ chức hợp tác quân sự giữa 3 quốc gia Úc, Anh và Mỹ thành lập từ 2021 với mục đích ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng. Hoa Kỳ qua quyết định viện trợ mới đây cho Đài Loan đã cho thấy họ sẵn sàng đương đầu với Bắc Kinh.
Trong bối cảnh đó, người ta không hiểu đường lối ngoại giao của Việt Nam là gì. Ông Trọng hãnh diện về chính sách ‘’ngoại giao cây tre’’. Cây tre không nghiêng hẳn về phe nào, nhưng theo cơ hội chủ nghĩa, ngả theo chiều gió.
Trung thành với Bắc Kinh, trong khi các nước trong vùng kết hợp chống Tàu, Việt Nam tự cô độc hóa ở Á Châu. Không quốc gia nào trong vùng tin vào Việt Nam nữa.
Vận mệnh Việt Nam nằm trong tay Bắc Kinh. Đó là một nghịch lý : trong khi Trung Hoa đang gặp khó khăn về mọi mặt : kinh tế khủng hoảng, xuất cảng giảm sút, thất nghiệp tràn lan, dân tộc lão hoá, và đang bị Hoa Kỳ và các nước Tây Phương coi là kẻ thù, ít nhất trên lãnh vực kinh tế. Tóm lại, khi chuyện thoát Trung có cơ hội thuận tiện nhất, Việt Nam càng ngày càng rơi vào quỹ đạo Tàu.
Nhìn từ ngoài thấy khó hiểu, nhưng ông Trọng có lý của ông khi ngả về phe Tàu. Thứ nhất : ông Trọng là những người cuối cùng còn tin, còn cuồng chủ nghĩa Cộng sản. Thứ hai : giới lãnh đạo Việt Nam vẫn cảm thấy gần gũi với những nước có văn hóa Cộng sản như Nga, hay Tàu, hơn là với những nước dân chủ. Thứ 3 : kết hợp bè đảng với các nước độc tài thoải mái hơn là với những nước dân chủ, có những nguyên tắc rắc rối, nhiêu khê mà họ ghê sợ, thí dụ bầu cử trong sạch, tự do báo chí, tam quyền phân lập vv…
Trong thời đại cực kỳ bất ổn hiện tại trên thế giới, rất khó biết đường đi nước bước của Việt Nam trong tương lai. Vì Việt Nam đi đâu, theo ngả nào, không phải là chuyện chung của gần 100 triệu người, mà là chuyện riêng của một nhóm. Họ có lý luận riêng, có logique riêng. Họ sẽ tuỳ cơ ứng biến, tuỳ theo quyền lợi của họ để quyết định vận mệnh của một mảnh đất 330.000 cây số vuông, mà họ là chủ nhân.
Song Chi : Dự đoán của các ông về tương lai của Việt Nam 10 năm tới và vai trò của người trí thức đối với vận mệnh của đất nước, dân tộc ?
Nguyễn Quang A : Một hệ thống gồm các thành phần biết tư duy, tức là suy nghĩ, có hành động (mà lại phụ thuộc vào tư duy) tạo thành một hệ thống phi tuyến, phức tạp và sự tiến triển của hệ thống như vậy không thể dự đoán được. Một xã hội là một hệ thống như vậy và còn phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh bên ngoài, nên các dự đoán thường chỉ là sự đoán mò của các lang băm.
Tôi không muốn trở thành một lang băm. Tuy nhiên nếu chúng ta làm mọi cách để nâng cao dân trí, để phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, để có cuộc sống khỏe, để nuôi dưỡng các giá trị chung, nhất là khát vọng tự do (chấn hung dân khí) và tích cực tham gia vào các phong trào xã hội để thực hiện và nâng cao các giá trị đó thì mục tiêu xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, bình đẳng hạnh phúc chắc chắn sẽ đạt được (từng phần) và quá trình này chỉ có thể được cải thiện liên tục nếu số đông người Việt làm vậy một cách liên tục và không ngưng nghỉ. Nói cách khác chúng ta nên học tập, phát triển, làm phong phú thêm và thực hiện tư tưởng Phan Châu Trinh. Việc đó chính là việc góp phần xây dựng dân chủ (ngay bây giờ trong lòng chế độ độc tài), hiện đại hóa đất nước thay cho việc ngồi thụ động trông chờ ai đó khác và bận tâm đến việc dự đoán. Tương lai của Việt Nam là sự lựa chọn của chính chúng ta, nó phụ thuộc vào suy nghĩ, hành động của tất cả chúng ta hàng ngày ! Tự do hay nô lệ là lựa chọn của chính chúng ta. Nước mạnh dân giàu hay dân nghèo nước yếu là lựa chọn của chính chúng ta.
Từ Thức : Các chuyên gia, kể cả những người lỗi lạc nhất, thường thường sai lầm khi tiên đoán thời cuộc.
Trước đó ít ngày, ít ai nghĩ Nga Xô Viết sụp đổ nhanh chóng như vậy, năm 1991. Trước khi Putin xua quân qua lãnh thổ Ukraine, không ai nghĩ Putin sẽ điên khùng như vậy, trừ tình báo Mỹ.
Những thay đổi lớn trên thế giới thường thường nhờ hai điều điện : thứ nhất là làn sóng ngầm, đòi hỏi thay đổi. Thứ hai là một đột biến khiến nhà cầm quyền không kiểm soát nổi tình thế.
Nếu lạc quan, người ta nghĩ chế độ Cộng sản đã cáo chung, vì bế tắc mọi mặt, khiến dân bất mãn, nghĩa là đã có một làn sóng ngầm.
Người bi quan hỏi : ai, lực lượng nào sẽ gây đột biến, trong một quốc gia đa số thờ ơ, vô cảm, trong một quốc gia ngân sách công an lớn hơn ngân sách giáo dục.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc xây dựng một mô hình xã hội như Aldous Huxley mô tả : một nhà tù không tường, trong đó tù nhân được hưởng những thú vui vật chất, những trò giải trí rẻ tiền, thỏa mãn với thân phận nô lệ của mình, không muốn phá ngục nữa, đôi khi còn đồng loã với cai ngục (2)
Khi nào cái tư duy chưa bị đập vỡ, sẽ khó có thay đổi. Và nếu có thay đổi, theo Antonio Gramsci, sẽ chỉ là những cuộc đảo chánh. Quyền lực sẽ từ Đảng cộng sản chuyển sang tư bản đỏ, mafia đỏ, như ở nước Nga của Putin.
Ai làm chuyện thay đổi tư duy đó, mà cụ Phan Chu Trinh gọi là ‘’khai dân trí’’, để làm nền móng cho tương lai ? Trí thức.
Rất tiếc Việt Nam không có một tầng lớp trí thức (intelligentsia), soi đường cho xã hội, là lương tâm của đất nước, như ở Pháp với Victor Hugo, Emile Zola…, hay gần đây với Albert Camus.
Sau gần một thế kỷ, chính sách ngu dân đã tiêu diệt hàng ngũ trí thức, chỉ còn những người có bằng cấp, bằng giả hay bằng thực, thụ động, yên phận để bảo vệ đôi chút bổng lộc, hay đôi khi chỉ đôi chút danh hão.
Vai trò của trí thức ? Câu hỏi mông mênh. Tạm trả lời, trong bối cảnh hiện tại, có lẽ không nên trông chờ một hàng ngũ trí thức đóng vai lương tâm của xã hội, đứng mũi chịu sào. Chỉ mong họ ý thức một điều cơ bản : đất nước không thể xây dựng trong một chế độ độc tài. Tất cả bắt đầu từ trí não, từ cách suy nghĩ. Nói vậy có vẻ đơn giản, trẻ con, nhưng rất gần với sự thực.
Viết về tệ trạng nô lệ thời La Mã, Alexis de Tocqueville ngạc nhiên thấy tại sao giữa các triết gia, trí thức uyên bác, không có ai thấy chuyện bình đẳng giữa người với người là một chuyện rất tự nhiên.
Đó là chuyện cách đây 2000 năm. Ngày nay, chắc có người ngạc nhiên tại sao ý niệm nhân quyền, nhân phẩm của mỗi người dân vẫn chưa là một ưu tiên, trước thú vui hưởng thụ vật chất, nơi rất rất đông người đồng hương, kể cả trí thức.
Trong bối cảnh đó, phải ngả mũ khâm phục những người, trí thức hay không, rất hiếm hoi, vẫn tiếp tục tranh đấu cho nhân quyền, cho đất nước, dưới mọi hình thức, bất chất đe doạ, phỉ báng, vu cáo, chụp mũ hay tù đày. Càng đáng kính hơn nữa, khi họ hành động trong sự thờ ơ của xã hội.
Song Chi : Chân thành cảm ơn TS Nguyễn Quang A và nhà báo Từ Thức.
Song Chi thực hiện
Nguồn : RFA, 25/04/2024
(1) AUKUS : Australia, United Kingdom, US
(2) https://www.tuthuc-paris-blog.com/post/huxley-orwell-ionesco-mô-hình-n...
Bây giờ là cuối tháng Tư. Một tháng tư ở Việt Nam (thường) là một ngày mưa. Một buổi chiều mưa, trời chuyển âm u thấp xám. Thời gian và không gian như ngưng đọng lại trong giây phút chuyển mùa. Rồi sấm chớp và kế tiếp là những giọt mưa nặng hạt, ào ạt, xối xả, phủ kín vạn vật.
Mưa gội sạch cây lá, tưới mát những bãi cỏ úa vàng, thấm ướt đất khô cằn cỗi. Nước mưa, nguồn sinh lực kỳ diệu đã làm vạn vật hồi sinh sau những ngày nắng cháy.
Rồi mưa tạnh, trời quang. Mặt trời lại hiện ra từ một nơi nào đó, rọi những tia vàng ấm khắp nơi. Đất bốc hơi thơm nồng ngai ngái. Cây cỏ sạch tươi dịu mát. Chim chóc ca hát trong trẻo líu lo…
Những buổi chiều mưa não nề diễm tuyệt như vậy rồi cũng mất hút trong đời.
Có những buổi chiều mưa đầu mùa bao nhiêu kẻ bỗng dưng bị bỏ rơi rồi rã ngũ. Hốt hoảng, căm hận, sợ hãi, người ta chạy tán loạn về thành phố. Những thành phố quê hương yêu dấu thoáng chốc mà ngùn ngụt khói lửa. Súng nổ râm ran ở khắp nơi. Dân chúng bồng bế dắt díu nhau để chạy.
Chạy đi đâu nữa ? Có còn nơi nào an toàn để chạy khi mà chính mình cũng đành buông súng với sự ray rứt, xót xa, đớn đau, hoang mang, sợ hãi.
Rồi đến những buổi chiều mưa tháng Tư của những năm tháng kế tiếp. Có bao nhiêu kẻ nằm mê man chờ chết bởi những cơn sốt rét ở trại tù binh xa xôi, heo hút. Trong cái cảm giác rối loạn của một thần trí không còn tỉnh táo, người ta vẫn mơ hồ cảm nhận được cái tâm cảm não nề u uẩn vào những lúc chuyển trời u ám. Người ta vẫn cứ nghe tiếng sấm chớp ngang trời và vẫn cứ thầm mong đó là tiếng súng. Chao ôi ! Phải chi mà có những tiếng súng gầm thét vang trời vào những ngày tháng lao tù nghiệt ngã ấy thì dẫu có phải chết, chết ngay tức khắc, chắc chắn cũng có nhiều kẻ cam lòng.
Nhưng người ta đã không chết dù phải chịu đựng hàng trăm thứ đòn thù thâm độc, dù đã trải qua bao nhiêu là cơn sốt thập tử nhất sinh. Con người còn sống được không phải chỉ nhờ vào cái kháng lực mong manh của cơ thể mà còn là nhờ vào cái ý chí khao khát được sống, cái ước mơ có ngày được trở lại thành phố quê hương của mình để nhìn cảnh khói lửa, để nghe súng đạn nổ ròn. Và lần này thì do chính tay họ siết cò…
Cái giấc mơ đó chưa bao giờ đến. Nỗi ước vọng được nghe tiếng súng đại bác nổ vang giữa đêm tù cũng chưa hề xẩy ra trong suốt thời gian người ta bị giam cầm. Vậy mà bao kẻ vẫn cứ mãi trông chờ, ngóng đợi !
Trong bao nhiêu đêm khuya, có người chợt thức giấc vì chợt nghe tiếng súng vọng lại từ một nơi xa xôi nào đó. Tiếng nổ mơ hồ, nhỏ bé phát ra từ một nòng súng cá nhân đến khi lọt vào thính giác của một tù binh bỗng bùng vỡ lên trong óc họ như tạc đạn.
Tim người ta liền đập hụt đi mấy nhịp, rồi sau đó là những nhịp dồn dập, rộn ràng. Mạch máu da thịt của những người tù căng ra. Mắt người ta mở lớn, trợn trừng trong bóng đêm. Tai vểnh lên như tai của loài thú rừng khi đang rình rập. Họ nằm nín thở, nghe ngóng, chờ đợi đặt hết niềm tin hy vọng vài tiếng súng vừa phát ra. Họ chờ đợi một tiếng nổ kế tiếp, rồi một tiếng nổ kế tiếp nữa. Sau đó là hàng loạt những tiếng nổ xé gió vang trời thì càng tốt.
Rồi họ tưởng tượng thêm, lẫn trong tiếng nổ đều đặn ấy là tiếng nổ ròn tan của những nòng súng cộng đồng. Chưa hết, bằng vào cái ảo giác của những kẻ đã bao năm trông chờ khao khát người ta như nhìn thấy được cả ánh hỏa châu soi sáng đêm tối bao la. Sau đó là bom đạn, phi pháo và nhà cửa, đồn bót cháy sáng một góc trời…
Đã bao nhiêu kẻ ước ao, nếu có phải chết xin cho họ được chết trong bối cảnh khói lửa bom đạn ngất trời như vậy. Không ai có thể đành tâm chết mỏi mòn, khắc khoải giữa những vòng rào thép gai tù ngục. Hận thù không phải là một tình cảm tốt đẹp. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, rửa hận là một điều cần thiết và công bằng.
Suốt những năm dài của đời sống tù binh khắc nghiệt bao người đã nhờ vào sự trông chờ hy vọng để giữ cho mình khỏi bị gục ngã. Niềm hy vọng thỉnh thoảng lóe lên khi họ chợt nghe được tiếng súng nổ ; rồi tắt lịm dần trong những giây phút im lặng tàn nhẫn phũ phàng sau đó.
Vậy mà người ta vẫn cứ không thôi trông chờ, mong đợi. Đợi mãi cho đến một lúc, lẫn trong cái tâm trạng mong chờ mòn mỏi người ta bắt gặp trong tâm hồn mình có thêm một thứ tình cảm buồn phiền oán hận.
Người ta oán hận những kẻ đang sống ngoài vòng tù ngục. Chắc chắn họ có nhiều đồng ngũ đang sống lẩn quất bên ngoài, có nhiều đồng ngũ khác đang sống tự do ở những phương trời xa xăm nào đó. Rồi người ta cảm thấy chua chát khi biết mình đã bị bỏ quên cho chết dần mòn, khắc khoải trong vòng tay kẻ thù. Có phải rằng chính họ đã bặm môi, cắn chặt răng bắn đến viên đạn cuối cùng để cho cấp chỉ huy, để cho đồng đội có đủ thời gian "di tản !".
Và rồi người ta quyết định… phải tìm cách đào thoát, không ít kẻ may mắn đã thoát thân.
Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Tháng Tư ở một vùng đất thuộc miền ôn đới. Nơi đây bây giờ không phải là những ngày tháng bắt đầu cho mùa mưa. Ở đây bây giờ là mùa Xuân. Mùa xuân xứ người.
Một buổi sáng mùa Xuân ở một nơi an bình và phú túc. Đường phố nhộn nhịp người đi. Những bộ quần áo ngắn, mỏng, lạ mắt và đẹp mắt. Những cặp đùi thon. Những cánh tay trần, hồng, trắng, nõn nà. Những bộ ngực căng đầy nhựa sống. Có kẻ lái xe đi giữa phố phường, hòa nhập với giòng người, giòng đời, vui lây với niềm vui của những người dân bản xứ bao quanh. Mùa Xuân đến với vạn vật với mọi người, kể cả người tị nạn.
Bất chợt có một tiếng còi. Tiếng còi lanh lảnh ghê rợn xoáy vào thính giác. Người ta giật bắn người tắp ngay xe vào lề đường. Có một chiếc xe khác thắng gấp phía sau. Một khuôn mặt đỏ gay vì giận dữ quay lại nguýt nhìn, lầu bầu chửi rủa. Người ta không quan tâm đến điều đó. Người ta chỉ muốn ngoái người lại nhìn xem chuyện gì đã xẩy ra ?
Không có gì cả. Tiếng còi chỉ do một người vừa thổi để chận đứng giòng xe đang xuôi ngược cho những đứa bé được an toàn băng qua đường đến trường học. Thế thôi ! Thế là thở phào nhẹ nhỏm, rút khăn lau mồ hôi trán.
Hoàn toàn chả có chuyện gì nghiêm trọng cả. Tiếng còi lanh lảnh ở đây không còn biểu tượng cho sự bắt bớ, khủng bố, giam cầm đầy ải nữa. Mọi người vẫn sinh hoạt bình thường. Ở đây mọi-chuyện-đều-luôn-luôn-rất-bình-thường.
Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một buổi chiều Xuân. Trời xanh cao, mây trắng nõn, nắng hanh vàng. Có kẻ đứng trước sân nhà, mải mê nhìn những con bướm trắng tung tăng trên thảm cỏ xanh, những con ong bầu bĩnh lượn vòng quanh những khóm hoa… và chợt người ta nghe tiếng súng.
Tiếng súng nổ gần. Người ta lại giật thót người. Ly rượu trên tay sóng sánh. Vài giọt tràn ra tay. Điếu thuốc đang hút dở dang tắt ngấm. Những con chim sâu nhỏ bé đang lẩn quẩn, an bình trên những cành mai hồng thắm vụt cánh bay. Người ta không thấy sợ hãi nhưng chợt cau mày với cái cảm giác bực dọc khó chịu. Không có thêm một tiếng súng nào tiếp theo đó. Không gian, khung cảnh trở lại an bình, yên tĩnh.
Chỉ có tâm hồn người là không an bình nữa. Mặt người ta chợt đỏ lên dù ly rượu trên tay chưa kịp uống. Người ta vừa trực nhận một cái cảm giác hổ thẹn. Tại sao lại bực dọc và khó chịu nhỉ ? Có phải vì tiếng súng đã làm hỏng mất một buổi chiều Xuân êm đềm và thi vị không ?
Vậy mà đã có lúc người ta thiết tha mong nhớ một tiếng súng. Một loạt những tiếng súng thì càng tốt ! Mới ngày nào tiếng súng nổ còn là dấu hiệu cho sự bạo động quật khởi, báo thù rửa hận. Bây giờ ở một nơi an bình, tiếng súng chỉ còn là biểu hiện cho sự bất an và lâm nguy !
Bây giờ là một ngày cuối tháng Tư. Một đêm tháng Tư xứ lạ. Có kẻ buổi chiều quá chén, nửa đêm thức giấc không biết mình đang nằm ở đâu ? Có tiếng máy sưởi tự động giảm nhiệt độ. Sự đàn hồi của kim loại phát ra những tiếng kêu tí tách. Trong cái cảm giác ngái ngủ người ta tưởng như mình đang nghe tiếng mưa rơi.
Tiếng mưa rơi trên mái tôn của một căn nhà trong một con hẻm lầy lội, hắt hiu vàng ánh điện câu. Đã bao đêm mưa người ta được bao che để sống chui nhủi dưới một mái nhà tôn như vậy. Đã bao đêm người ta thức giấc nằm nghe tiếng thằn lằn tắc lưỡi, tiếng ú ớ của những đứa em thơ nói trong mơ, tiếng động lục đục của những người mẹ già tảo tần lo lắng cho gánh hàng rong bán vào sáng sớm, tiếng xe xích lô nổ ròn đầu xóm. Và đôi khi tiếng ru con ầu ơ buồn não ruột của một người đàn bà hàng xóm.
Chiếc máy sưởi nguội dần, những tiếng kêu tí tách của kim loại đàn hồi từ từ nhỏ lại. Người ta lại nghe như là tiếng mưa rơi trên những mái tranh. Những mái tranh trống lốc, gió thổi tứ bề của trại tù Suối Máu, Cà Tum. Những mái nhà tranh của trại Minh Rồng, Đại Bình, Đại Lộc… người ta đã thức giấc bao nhiêu lần ở những trại tù heo hút đó để nghe tiếng mưa rơi, để chờ mong một tiếng súng vọng về từ rừng thẳm.
Đêm nay ở phương trời xa xăm cũ biết trời có mưa không ?
Đêm nay trong vòng rào tù ngục có bao nhiêu kẻ (chợt) thức giấc giữa đêm trường nằm mong chờ khắc khoải trong đói lạnh một tiếng súng mơ hồ ?
Và đêm nay – ở chốn xa xôi, an bình này – ai có bạc đầu không ?
Tháng Tư 1984.
Tưởng Năng Tiến
Nguồn : RFA, 19/04/2024
Chỉ còn hai ngày nữa là kỷ niệm 48 năm ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Tôi viết bài này như một lời xin lỗi muộn màng với dân tộc, đất nước. Lời xin lỗi phải chờ tới 48 năm sau mới đủ can đảm nói lên.
Tôi viết bài này như một lời xin lỗi muộn màng với dân tộc, đất nước. Lời xin lỗi phải chờ tới 48 năm sau mới đủ can đảm nói lên.
Khi cuộc chiến ngày càng khốc liệt vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 thế kỷ 20, không thấy được những chết chóc, tàn bạo, những hiểm nguy rình rập từng giây, từng phút, từng ngày của người lính trong các binh chủng bộ binh, nhẩy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân... lúc hành quân. Tôi thờ ơ với những bản tin chiến sự hàng ngày đăng kín trên các tờ báo, hay được radio, TV tường thuật.
Vào lúc miền Nam sụp đổ, tôi chỉ là một sĩ quan nhỏ, cấp bậc trung úy trong binh chủng không quân, chỉ có nhiệm vụ huấn luyện, không trực tiếp tác chiến. Sau thời gian huấn luyện quân sự, chuyên môn, nằm ở hậu cứ ở các phi trường Tân Sơn Nhứt, Nha Trang, Phan Rang, Đà Nẵng... tôi vẫn bình thản ngày ngày bình yên đi ăn sáng trong các câu lạc bộ ở các phi trường. Chiều tối rảnh rỗi ra phố uống cà phê, đi xem xi-nê...
Cho dù chiến sự ngày càng dữ dội, tin tức về những trận đánh nhau với những thương vong nặng nề từ cả 2 phía không khiến tôi quan tâm, lo lắng. Tôi đọc tin tức, coi truyền hình, nghe radio những thiệt hại về nhân mạng, những tàn phá, nhà cửa, ruộng vườn của người dân ở các quận lỵ, địa điểm giao tranh với tâm trạng dững dưng như chuyện của một đất nước, dân tộc nào xa xôi, không dính dáng, liên hệ gì với người Việt.
Những lần đi công tác trên các chuyến phi cơ, ngoài phi hành đoàn chỉ có vài người lính đi đưa tiễn những chiếc quan tài phủ cờ vàng bắt đầu có mùi hôi thối từ xác những người lính tử trận, tôi chỉ cảm thấy hơi khó chịu nhưng chưa bao giờ đặt câu hỏi : "Những người lính chết trận đang nằm trong đó, hy sinh cho ai, cho những điều gì ?". Tự do, dân chủ, nhân quyền với tôi lúc đó thật mơ hồ.
Cho đến lúc vào tù cải tạo, những năm tháng bị tuyên truyền, nhồi sọ bởi cán bộ, vệ binh cộng sản, tôi mới dần dần ý thức được những điều mà những người lính hy sinh nằm trong những quan tài tôi đã thấy : Tại sao, họ chiến đấu vì cái gì ? Mặc dù ngay cả những người lính chết trận đó chưa chắc đã ý thức, hiểu rõ được họ đang chiến đấu để chống lại cái gì. Họ chỉ biết họ đang chống lại kẻ thù có cùng màu da, tiếng nói…
Đi tù một thời gian, tôi được phóng thích và trở về Sài Gòn. Sống được ít lâu, tôi bỏ đi làm rẫy ngoài Long Thành để trốn tránh sự theo dõi, đe dọa của chính quyền quận Phú Nhuận – sau khi tố cáo sự lạm quyền của cán bộ trong ủy ban nhân dân quận trước khá đông đồng bào tại trường tiểu học Võ Tánh.
Càng ngày tôi càng hiểu biết rõ hơn về bản chất của chế độ cũng như con người cộng sản Việt Nam – một chế độ bất nhân, tàn bạo, thâm hiểm, gian manh, xảo trá cùng cực. Họ không những chỉ thâm độc, gian ác, lẻo lự, dối trá với người dân mà còn ngay cả với đồng chí, đồng đảng của họ. Không có việc gì tàn nhẫn, vô lương, xảo trá mà đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam ngần ngại, run tay, không dám làm khi cần phải bảo vệ địa vị cá nhân cũng như sự tồn tại của đảng. Nguyên tắc "Còn Đảng, Còn Mình" đã giúp cho họ tồn tại đến ngày hôm nay.
Tiếc thay, sự hiểu biết của tôi đã quá trễ. Trễ như người dân miền Nam khi nhận ra được sự thật về bản chất người cộng sản, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh. Nhận ra nhưng không làm gì được. Chế độ cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc thuần hóa người dân cũng như đào tạo được một lũ sai nha bảo vệ chế độ. Sự đói nghèo, khổ cực, bị trấn áp, cưỡng bức, đe dọa, tù đầy trong một thời gian dài hơn 47 năm trên cả nước đã làm tê liệt ý chí phản kháng, đòi hỏi nhân quyền, sự công bằng xã hội của người dân.
Trong suốt thời gian 21 năm (1954-1975), người dân miền Nam đã hoàn toàn phó mặc việc chống lại sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt cho chính quyền và quân đội. Cho dù sự thất bại của miền Nam trước sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt có nhiều lý do nhưng rõ ràng một trong những nguyên nhân đó là lãnh đạo của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa rõ ràng không hề quan tâm đến đấu tranh chính trị, giảng giải cho người dân hiểu về rõ cộng sản.
Phim Chúng tôi muốn sống của đạo diễn Vĩnh Noãn, với tài tử Lê Quỳnh, Mai Trâm, những bài báo của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm trong thập niên 50 thế kỷ 20 ở miền Bắc được tổng hợp bởi ông Hoàng Văn Chí... không gây được ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng miền Nam vì không được truyền thông, báo chí chuyển tải, phổ biến rộng rãi. Chỉ một số ít người dân thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng… biết, xem về những phim ảnh, bài viết này.
Chế độ giáo dục nhân bản của miền Nam đã bị chế độ giáo dục nhồi sọ, sắt máu, tàn bạo của miền Bắc hủy diệt. Hậu quả thế nào thì mọi người đã thấy. Lỗi của ai ? Lỗi của thế hệ chúng tôi, những thanh niên rường cột của đất nước đã không làm tròn được trách nhiệm, bổn phận ? Đó là lỗi lầm do thiếu hiểu biết, thiếu năng nổ, thiếu tinh thần dấn thân, học hỏi, tìm hiểu. Đa số chỉ biết cầm súng chống trả lại kẻ thù một cách thật đơn giản, không có một định hướng, một tư tưởng chính trị làm nền tảng cho cuộc chiến đấu sống còn của mình.
Không có nhiều người trong lứa tuổi chúng tôi đặt câu hỏi với thế hệ đàn anh : Vì sao chúng ta chống cộng ? Sự thiếu hiểu biết (về cộng sản) để có thể trả lời cho câu hỏi là một trong những nguyên nhân thất bại của miền Nam trong cuộc chiến Quốc-Cộng ? Cái giá phải trả cho tự do trong một cuộc đối đầu với chế độ cộng sản mà hiểu biết của người dân miền Nam về họ quá giới hạn, kém cõi.
Cho dù thế nào đi nữa, ngày hôm nay hồi tưởng lại cuộc đời mình, những tháng ngày trong quân đội, trong ngục tù cộng sản, thời gian sống ở hải ngoại, tôi cảm thấy mình có lỗi với quê hương, đất nước, dân tộc. Bài viết này, kỷ niệm 48 năm đất nước rơi vào tay người cộng sản, xin được coi như lời Xin Lỗi Muộn Màng của một người dân đã không tròn nhiệm vụ với đất nước, dân tộc.
Nếu người dân miền Nam hiểu biết về cộng sản Bắc Việt như người dân Ukraine hiểu biết về cộng sản Nga, lịch sử Việt Nam ngày nay (có thể) đã khác. Rất tiếc là lịch sử không có chữ NẾU.
Một ngày cuối tháng Tư
Nguyễn Tiến Cường
(28/04/2023)
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Phòng trà Sài Gòn trước 1975 - Ảnh minh họa
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Trước tiên, di sản lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương diệt tận gốc rễ của chính quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay thì hình như không có lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc Bolero, hay còn được gọi là "nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, chính trị hành chính và xã hội.
Tự hào tuổi trẻ và nền giáo dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh hay thoát ra khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của "giấc mơ xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở Sài Gòn từ đầu thập niên 2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục, tuy mang tiếng "từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-1963 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Sau này, khi có dịp về sống ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố -Trụ sở Hạ nghị viện Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Giới trẻ Việt Nam đang hướng về tương lai
Họ la hét ầm ĩ, có vài cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng Thái Lan hay Malaysia. Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là "non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ ít nghĩ xa như vậy.
Những người lớn tuổi xưa cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm, Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời Việt Nam Cộng Hòa, cũng phải tâm sự lên tiếng khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài Gòn, được hưởng nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa : Biết đâu sẽ có một ngày ?
Di sản cộng hòa cho Việt Nam nay là gì ?
A. Việt Nam Cộng Hòa và thành công kinh tế thị trường
Dù chưa được quen thuộc nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản lớn, Việt Nam Cộng Hòa đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn toàn với nền kinh tế Việt Nam bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý thuyết "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989 đã giúp Việt Nam có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách thể chế song hành với cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm dưới Việt Nam Cộng Hòa với thời gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước Việt Nam thống nhất, hai di sản kinh tế nổi bật của Việt Nam Cộng Hòa là :
Cách mạng Xanh
Đặc biệt là chính sách "Cải Cách Điền Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi "Người Cày Có Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới "Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích kinh tế đáng kể của Việt Nam Cộng Hòa khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt nhất.
Nước Việt Nam thống nhất sau tháng 4/1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm 1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang vùng thiếu, đã làm lại cuộc "cách mạng xanh" nói trên của Việt Nam Cộng Hòa, khởi đầu toàn chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền kinh tế trong ba thập niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần Nông" đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau Việt Nam đang từ thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
Khai thác dầu khí
Việt Nam Cộng Hòa đã tìm ra vài "túi dầu" đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư ngần ngại.
Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận chính trị sau này đã tiếc cho Việt Nam Cộng Hòa là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh Henry Kissinger ký kết bán đứng Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước Việt Nam thống nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế Việt Nam bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra.
Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng một phần di sản của Việt Nam Cộng Hòa là đây ?
B. Nền dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa
Nền dân chủ phôi thai của Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình v.v…vẫn được thực thi.
Một ngôi chùa của người Hoa trong Chợ Lớn
Chủ trương pháp trị, hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc hội và Tổng Thống tương đối tự do ; nền hành chánh trung ương và địa phương được điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam thống nhất bây giờ mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam bây giờ mới bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa và cử chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây giờ mới sửa soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc áp dụng những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C. Các tổ chức xã hội dân sự
Các tổ chức này dưới thời Việt Nam Cộng Hòa được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và tài chính. Ví dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà nước tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không được quyền ra báo, như đã duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở Điều 25 Hiến pháp 2013 viết :
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định".
Sinh viên biểu tình chống chính phủ Nguyễn Khánh, tháng 8/1964 ở Sài Gòn
Như nói ở trên, những dòng viết ngắn của tôi nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con dân Việt Nam Cộng hòa cũ.
Với thời gian hơn 50 năm từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ" trong 12 năm để tò mò xem xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Tôi tự cho mình trên nguyên tắc là người thuộc "Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ nhất Cộng hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn "đồng minh" Hoa Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng sản.
Lời hứa bằng giấy trắng mực đen của Tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa bằng văn thư với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành chấp nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền Nam thân yêu, nhưng chúng ta, những người miền Nam đã để lại di sản Việt Nam Cộng Hòa đáng kể cho cả đất nước và dân tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp xúc của tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng, chúng ta cũng phải nhìn nhận về "legacy" của "Bên Thắng Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại "chiến thắng" của họ năm 1975 nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp lực chính trị ngay từ trong lòng Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như "món quà chuộc" lấy lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được chiến thắng quân sự sau cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền hành chính trị, xét cho cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ biết "góp vốn" bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai dân chủ và văn minh trong tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ là công lao lớn cho dân tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo hiện nay chỉ biết nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh quang" của chiến thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi nhanh chóng.
Đã trải qua thời Việt Nam Cộng Hòa, cuộc sống ở hải ngoại và có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin vào lẽ tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ : "Cùng tắc biến, biến tắc thông…"
Nhiều người lãnh đạo cũ của Việt Nam Cộng Hòa ở tuổi 35-50 lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80 tuổi của Việt Nam bây giờ cũng phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp của thế hệ lãnh đạo cộng sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ đang thành quá khứ, và không phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang trưởng thành, chỉ chưa có quyền được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể "tắc" mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG" mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ 25-55, lớp người quyết định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, sẽ nối tiếp bó đuốc lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ để lại tên tuổi trong lịch sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường trong vùng Đông Nam Á.
Vũ Thăng Long
Nguồn : BBC, 23/04/2019
Tác giả Vũ Thăng Long, gửi bài tới Diễn đàn BBC News Tiếng Việt từ California, Hoa Kỳ.
30/4, không chỉ là chuyện ‘quá khứ’
Mạnh Kim, VOA, 26/04/2019
Trong khi trong nước giăng ra cờ phướn "Mừng ngày giải phóng thống nhất đất nước" thì kiều bào tại nhiều nước lại mặc niệm "Ngày Quốc hận". Khi những câu chuyện "chiến thắng" của phía "bên này" được đắc ý tung ra thì "bên kia" người ta nhắc nhau những bi kịch không thể quên trong nhà tù cộng sản lẫn những giọt nước mắt cay xót của lớp lớp thuyền nhân. 44 năm sau ngày 30/4/1975, oán hận giờ còn được chất thêm, không chỉ với gánh nặng quá khứ...
The Vietnam War poster.
Trong bản "Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam 30/4" đưa ra ngày 4/4/2019, Ban Tuyên giáo Đảng cộng sản Việt Nam "chỉ đạo" :
- Tuyên truyền giá trị, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ; đường lối cách mạng Việt Nam, đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta ; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Nêu bật sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường của quân và dân ta ; sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam ; sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta ; những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước…
- Tuyên truyền về thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xây dựng Đảng của đất nước, của tỉnh và các đơn vị, địa phương trong thời gian qua, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay ; khẳng định sự kế thừa, phát huy tinh thần "quyết thắng" và chủ động nắm bắt thời cơ trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975 để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế…
Với bài Xuyên tạc lịch sử chính là phá hoại tương lai, báo Quân Đội Nhân Dân ngày 22/4/2019 đã nã phát đạn "chào mừng ngày thống nhất" theo chỉ đạo Tuyên giáo. Bài báo viết :
"Cứ đến dịp kỷ niệm 30/4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như "tháng Tư là tháng "vo gạo bằng nước mắt", "mùa quốc hận-tháng tư đen". Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc "tử tế"… Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng ấy để "mở nền thái bình muôn thuở", "dập tắt chiến tranh muôn đời".
Bản "Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam" cùng với bài báo trên cho thấy, chiến tuyến "quốc-cộng" vẫn còn sờ sờ. Phân biệt "địch-ta" giữa những người mang chung dòng máu vẫn không hề biến mất. Lòng hận thù và nghi kỵ vẫn chưa nguôi. Thậm chí mới đây, trong buổi gặp kiều bào tại Cộng hòa Czech ngày 17/4/2019, Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn nói :
"Khi tôi đón ông Donald Trump vào thăm chính phủ, thì ổng cầm lá cờ Việt Nam ổng đưa lên cao thế này… Đó là gì ? Là bọn phản động, lưu vong người Việt và chống chúng ta rã rời chân tay luôn" ! Ai "chân tay rã rời", trong số "kiều bào ta ở nước ngoài là một phần máu thịt không thể tách rời" ?
44 năm qua, chưa có dịp 30/4 nào mà vấn đề hòa hợp-hòa giải được chính thức đặt ra. Bất luận nhai đi nhai lại rằng "Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được nhân dân Việt Nam, bạn bè quốc tế công nhận" – như được lặp lại lần nữa trong bài viết trên tạp chí Quốc Phòng Toàn Dân ngày 22/03/2019, chưa thời điểm 30/4 nào mà những kẻ "chiến thắng" mời người "thua cuộc" trở về cùng ngồi trên một bàn với nghị trình và lộ trình xóa bỏ hận thù quá khứ để xây dựng tương lai chung. Chế độ cộng sản, từ 1975 đến nay, vẫn giương súng bắn vào "kẻ thù quá khứ", trong khi luôn tránh né nguồn gốc và nguyên nhân tại sao "bọn phản động và lưu vong người Việt" cứ mãi "khơi gợi hận thù". Những cái chết vùi thây trong trại "cải tạo" hay cảnh người ăn thịt người trong các chuyến vượt biên liệu có thể được xóa toẹt đi, khi mà, thậm chí một lời xin lỗi còn chưa được đưa ra ?
44 năm dẫn dắt đất nước "mở nền thái bình muôn thuở", "chế độ mới" đã thay thế "chế độ cũ" bằng gì ? Một nền chính trị "bát nháo, đảo chính triền miên" với hệ thống chính quyền "tham nhũng tận cùng", như cách mà hai nền Đệ nhất và Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa được hệ thống tuyên truyền cộng sản miêu tả, đã được thay bằng một chính thể tham nhũng tệ hại gấp bao nhiêu lần ? Chế độ mới không chỉ có một "gia đình trị" mà nhan nhản "gia đình trị". Nền chính trị "chế độ mới" chưa từng xảy ra đảo chính nhưng các cuộc thanh trừng chặt chém phe nhóm bây giờ đã trở thành "trò chơi vương quyền" ngày càng khốc liệt lôi kéo sự theo dõi hồi hộp trong hứng thú của "một bộ phận không ít người dân". Đằng sau bức màn nhung của cuộc chiến cung đình, người dân mặc tình đồn đoán ai lên, ai xuống ; thậm chí ai giết ai và kẻ nào chết vì bị đầu độc gì. Một nền chính trị như thế có thể được gọi là "ổn định" ?
"Cái gọi là "tự do báo chí của Việt Nam Cộng Hòa" như một số kẻ vẫn rêu rao thực chất chỉ là lừa bịp, giả dối" – báo Nhân Dân (trong bài Sự thật không thể chối cãi, số ra ngày 31/08/2018) viết. Tuy nhiên, hệ thống "báo chí cách mạng" của chế độ cộng sản có sự kiện nào tương tự "Ngày Ký giả đi ăn mày" như miền Nam trước 1975 để phản đối kiểm duyệt báo chí ? Chế độ mới không "lê máy chém đi khắp miền Nam" nhưng họ kéo máy ủi đi khắp tỉnh thành cả nước trong các vụ cưỡng chiếm đất đai. Chế độ mới đã thay nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa từng được đánh giá cao nhất nhì Đông Nam Á thành một môi trường giáo dục bệ rạc cùng tình trạng suy thoái đạo đức tuột xuống tận cùng… 44 năm đằng đẵng đã đạt được những "thành tích" như thế, trong tiếng vỗ tay tự huyễn và trong sự mỉa mai của người dân khi họ cười cợt với những "tự hào quá, Việt Nam !"…
30/4 bây giờ không chỉ là sự nhắc lại quá khứ. Nó còn là dịp nhìn lại quê hương hiện tại với sự tự vấn rằng "Việt Nam quê hương tôi" sẽ tiếp tục điêu tàn và tan hoang đến mức nào, để người dân lại nổi điên trước sự hỗn loạn giáo dục, để những tiếng than van vận nước nổi trôi trước sự thao túng của "người anh em" Trung Quốc lại cất lên không ngưng, để cơn tức giận lại nổ bùng trước sự chứng kiến các vụ lũ lượt tháo chạy ra nước ngoài của "cán bộ cộng sản" nhằm tránh "thụ hưởng" những "thành tựu" mà "Đảng quang vinh" của họ mang lại. "Hận thù 30-4" giờ đây không chỉ liên quan quá khứ và sự cần thiết của việc thể hiện cụ thể chuộc lỗi quá khứ. Oán ghét và mâu thuẫn bây giờ còn là vấn đề của hiện tại và sự cần thiết điều chỉnh để sửa sai hiện tại. 44 năm sau cuộc nội chiến ý thức hệ, chính quyền cộng sản giờ đã "thành công" trong việc tạo ra một cuộc chiến "ý thức hệ" khác, mỗi lúc mỗi âm ỉ gay gắt, giữa khao khát dân chủ của người dân và cái "mô hình" gọi là "dân chủ tập trung" của chế độ. Trong cuộc xung đột "nội chiến" mới này, không còn là cuộc đọ súng của hai miền Nam Bắc. Nó là cuộc đối đầu giữa người dân từ Bắc xuống Nam trên một quốc gia thống nhất, với một chế độ cai trị đang "rã rời chân tay" bởi sự dối trá và bao che dối trá của họ chưa bao giờ bị lật tẩy nhanh bằng lúc này.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 26/04/2019
***********************
Cộng thắng, thắng ai, thắng cái gì ?
Thiện Ý, VOA, 25/04/2019
Trong bài trước, trên diễn đàn này của Đài VOA, chúng tôi đã viết về "nỗi uất hận" của "Bên thua cuộc" là Việt quốc, qua tiêu đề "Quốc hận, hận ai, hận cái gì, hận để làm gì ?". Bài viết này chúng tôi viết về"nỗi vui mừng" của "Bên thắng cuộc" là Việt cộng với tiêu đề"Cộng thắng, thắng ai, thắng cái gì, thắng để làm gì ?". Đúng như nhận xét lúc sinh thời của Ông Võ Văn Kiệt, cố cựu Thủ tướng chính phủ Việt cộng, đại ý rằng : Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã là niềm vui, nhưng cũng là nỗi buồn của hàng triệu người Việt Nam.
Bộ đội cộng sản Bắc Việt cầm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tràn vào dinh Độc Lập ở Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975.
Vì vậy bên vui mừng Việt cộng (Đảng và Chính quyền cộng sản Việt Nam) đã coi ngày 30/4/1975 là ngày "Đại thắng" và hàng năm thường ăn mừng với hình thức và mức độ "hoành tráng" tùy theo tình hình thực tế và nhu cầu tuyên truyền chính trị đòi hỏi ; song cường độ nhiệt thành dường như giảm dần theo thời gian. Vì sao vậy ? Qua bài này, người viết muốn trả lời phần nào cho câu hỏi này.
I. Cộng thắng : thắng ai, thắng cái gì, thắng để làm gì ?
Cộng thắng Quốc, cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước Miền Nam, để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.
Đó là mục tiêu chiến lược được Đại Hội Toàn đảng Cộng sản Việt Nam (ngụy trang Đảng Lao Động Việt Nam) lần thứ III họp từ ngày 5 đến ngày 10/09/1960 ởHà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 50.000 đảng viên lúc bấy giờ. Ông Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch đảng, Lê Duẩn được bầu là Bí thư Thứ nhất. Nghị quyết của Đại Hội này đã hạ quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc làm hậu phương lớn để"giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
II. Việt cộng đã thực hiện các mục tiêu chiến lược thế nào để thắng ?
1. Việt cộng đã thành đạt hai mục tiêu thắng Việt quốc, cướp được chính quyền Quốc gia Nam Việt Nam
Thành quả này có được nhờ các yếu tố chủ quan và khách quan sau đây :
- Chủ quan (về phía Việt cộng) trong chiến tranh, Việt cộng đã huy động, tận dụng được nhân lực, tài lực nhân dân Miền Bắc và lôi kéo được một số ít nhân dân Miền Nam lao vào cuộc chiến, nhờ vững về tổ chức, giỏi về tuyên truyền lừa mị nhân dân và quốc tế, đi kèm bạo lực, khủng bố cưỡng bách tận tình.
Vững về tổ chức vì chỉ có một đảng duy nhất nắm quyền trong một chế độ độc tài toàn trị cộng sản.Những người lãnh đạo chính quyền, quân đội cộng sản Bắc Việt hầu hết tập trung tâm lực vào cuộc chiến với quyết tâm chiến thắng. Việt cộng giỏi tuyên truyền lừa mị khi dùng chiêu bài "ngụy dân tộc" (từ thời kháng chiến chống Pháp) để phát động chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam dưới ngọn cờ "Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc", để kích động lòng yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm của nhân dân. Đối với những người dân nào biết được ý đồ này, không tin vào những sự tuyên truyền dôi trá của Việt cộng, nhưng vẫn phải tham gia cuộc chiến, không thể có sự chọn lựa nào khác. Vì nếu không họ sẽ bị các công cụ bảo vệ" nền chuyên chính vô sản" như công an, quân đội, pháp trường nghiền nát hay bị chế độ tem phiếu hộ khẩu xiết chặt dạ dày… (*).
- Khách quan (về phía Việt quốc) do phải thực hiện một chế độ dân chủ pháp trị phôi thai trong khung cảnh chiến tranh nên có nhiều kẽ hở để Việt cộng lợi dụng dân chủ cài cấy người vào nội bộ chính quyền các cấp, dân sự cũng như quân sự và các tôn giáo, tổ chức dân sự lỏng lẻo. Đồng thời, tìm cách mê hoặc, lôi kéo tuổi trẻ, thanh niên, sinh viên học sinh vào các phong trào "chống Mỹ cứu nước" gây bất ổn triền miên xã hội Miền Nam.
Ngoài ra, cũng phải thừa nhận, là đã có nhiều vấn đề ngay trong các cấp lãnh đạo của chính quyền Miền Nam, liên quan đến quyền lực và sự dựa dẫm vào Hoa Kỳ. Đồng thời, mặt trận tuyên truyền cũng là nơi thể hiện sự yếu kém của chính quyền miền Nam, không củng cố và làm sáng tỏ đượcvai trò chính thống của chính quyền và "Chính nghĩa quốc gia, dân tộc, dân chủ" trong nhân dân và trên trường quốc tế ; nên đã bị "ngụy nghĩa cộng sản, phi dân tộc, phản dân chủ" giật mất chính nghĩa để biến thành "bên thua cuộc" một cách phi lý, bất công gây uất hận cho bên "Việt quốc" là thế.
- Nhận định : Cộng có thắng Quốc thật không ?
Sự thật, khách quan và công bình hơn, như chúng tôi đã trình bày trên diễn đàn này một số bài viết về thực chất chiến tranh Việt Nam. Rằng đó là cuộc chiến tranh giữa hai phe, bốn bên. Hai phe đó là phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa (chiến tranh ý thức hệ toàn cầu) ; với bốn bên Liên Xô và Trung quốc, bên Hoa Kỳ và đồng minh (ngoại chiến) ; bên Việt cộng và bên Việt quốc (nội chiến quốc-cộng). Cả hai cuộc chiến này cùng diễn ra trên chiến trường Việt Nam, trùng lắp không gian và thời gian, nhưng khác ý đồ, lợi ích của các bên tham chiến muốn thành đạt qua cuộc chiến thường gọi chung là cuộc "Chiến tranh Việt Nam". Cuộc chiến này đã chấm dứt vào ngày 30/4/1975, sau khi bên cộng sản Bắc Việt đánh bại hoàn toàn bên quốc gia Nam Việt, thôn tính được Miền Nam, thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy theo ý nghĩa thông thường, phe xã hội chủ nghĩa đã thắng phe tư bản chủ nghĩa trong cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, thông qua cuộc chiền tranh cục bộ tại Việt nam, vì đã giành thêm lãnh địa toàn cõi Việt Nam cho phe xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác một cách cụ thể là bên Liên Xô và Trung quốc đã thắng bên Hoa Kỳ và đồng minh trong cuộc chiến tranh cục bộ Việt Nam. Đồng thời, bên Việt cộng cũng đã thắng bên Việt quốc trong "cuộc chiến tranh quốc-cộng" tại Việt Nam ( thắng một giai đoạn của cuộc "Nội chiến ý thức thức hệ Quốc-Cộng", hai giai đoạn kia là "Tiền chiến tranh Quốc-Cộng" (1930-1954) và "hậu chiến tranh Quốc-Cộng" từ 1975 đến nay vẫn chưa kết thúc).
Thế nhưng như chúng tôi đã đưa ra nhận định nhiều lần, rằng đó chỉ là "chiến thắng biểu kiến" (coi vậy chứ không phải vậy). Vì chiến tranh Việt Nam đã kết thúc nhanh gọn, bị động và bất ngờ cho hai bên nội chiến Quốc-Cộng ; cùng với diễn biến các sự kiện vào những ngày tháng cuối cùng trước và sau khi khi kết thúc cuộc chiến một cách không bình thường, tựa hồ như một kịch bản tiền định… Vì nếu việc kết thúc chiến tranh Việt Nam quả là một "thắng lợi thật" của phe xã hội chủ nghĩa trong đó có "bên thắng cuộc" Việt cộng, thì tình hình Việt Nam và thế giới phải biến chuyển theo chiều hướng khác với thực tế kể từ sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975.
Thực tế hợp luận lý (logic) phải là phe xã hội chủ nghĩa, cụ thể là các cường quốc cộng sản hàng đầu như Liên Xô, Trung Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi viện tối đa cho chế độ cộng sản Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển đến cường thịnh. Ðể làm gì ? – Ðể phát huy thắng lợi Việt Nam nhằm lôi kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong vùng hãy noi gương Việt Nam, lao vào "một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc…" để đạt mục tiêu lật đổ các chính quyền tư sản, xóa bỏ "các chế độ người bóc lột người" để thay thế bằng các chế độ "Xã hội chủ nghĩa" ; rằng hãy theo gương Việt Nam, để trong "Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng" sẽ được trợ giúp tối đa về vũ khí, lương thực để đánh thắng các chính quyền "phản động" ; và sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong "tinh thần quốc tế vô sản", để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng vô sản toàn cầu, xây dựng thành công "xã hội xã hội chủ nghĩa" tại mỗi nước, tiến tới xã hội viên mãn toàn cầu : "Xã hội cộng sản" với đỉnh cao là "Thiên đường Cộng sản" trong viễn tưởng !
Thế nhưng thực tế trái ngược là, chỉ sau trên dưới 15 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975-1991), Liên Xô và toàn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế sụp đổ, chỉ còn sót lại bốn nước trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sao ?
Nay thì thực tế ngày càng cho thêm dữ kiện đầy đủ để mọi người Việt Nam có thể đi đến thống nhất nhận định, rằng cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là cuộc nội chiến ý thức hệ do các cường quốc phát động và tiến hành trên đất nước Việt Nam, thông qua các cá nhân, tập đoàn bản xứ tri tình (Việt cộng) hay ngay tình (Việt quốc) làm công cụ, xô đẩy nhân dân Việt nam vào một cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn. Hậu quả bi thảm của cuộc chiến tranh này đất nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ và lợi ích chiến lược trong vùng của các cường quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến Việt Nam.
Và vì vậy, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt quốc), mà chỉ vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc (chiến lược toàn cầu mới) đã để cho chiến tranh Việt Nam đi đến kết thúc. Chính dân tộc Việt Nam, nhân dân hai miền Bắc-Nam mới là nạn nhân và là bên thua cuộc hoàn toàn. Thiết tưởng đã 44 năm qua rồi, thời gian đã quá đủ cho cả Việt quốc và Việt cộng chẳng nên tiếp tục tự hào về cuộc chiến ấy nữa, khi trong cuộc nội chiến "nồi da xáo thịt" này, các bên đều bị ngoại bang sử dụng như những công cụ chiến lược một thời. Thực tế bây giờ là cả Việt quốc và Việt cộng cần cố gắng đẩy lùi quá khứ, hướng đến tương lai, để biết phải làm gì và cần làm gì hữu ích, có lợi nhất cho nhân dân và đất nước.
2. Mục tiêu Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa đạt thì sao ?
Đây là mục tiêu chiến lược thứ ba cũng là mục tiêu tối hậu mà Việt cộng vẫn chưa thành đạt, dù chiến tranh Việt Nam kết thúc đã 44 năm rồi (1975-2019).Việt cộng đã có một thời gian dài thử nghiệm mô hình xã hội chủ nghĩa của mình.
Nhiều câu hỏi được đặt ra là Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì cái gì, sao chưa thành đạt, bao giờ hay sẽ không bao giờ thành đạt ?
III. Thay lời kết
Chúng tôi dự định sẽ tìm cách trả lời những câu hỏi trên qua một bài viết chi tiết khác dưới chủ đề : "44 năm Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội vì sự nghiệp cộng sản quốc tế, thành quả và triển vọng". Đồng thời đi kèm với bài viết tựa đề "44 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước, thành quả và triển vọng".
Mục đích để bạn đọc so sánh thấy được trong giai đoạn cuối cùng của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam (hậu chiến tranh Quốc-Cộng ) Việt cộng hay Việt quốc bên nào sẽ thành đạt mục tiêu tối hậu của mình :
- Việt cộng có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ?
- Việt quốc có thành đạt mục tiêu dân chủ hóa đất nước
- và Cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng sẽ có cơ may chấm dứt khi nào và như thế nào ?
Houston, 15/4/2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 25/04/2019
(*) Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp đã "ngụy dân tộc" nên đã phải tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập Mặt trận "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội" gọi tắt là Việt Minh (mặt nạ của Việt cộng).
Sau Hiệp định Genève 1954 Pháp ký với Việt Minh chia đôi đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam dấu mặt dưới cái tên Đảng Lao Động Việt Nam, ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa dưới bảng hiệu chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có từ sau "Cách mạng Tháng 8/1945"với chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng do Ông Hồ làm Chủ tịch, dựng lên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/12/1960), rồi Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam(1967) làm công cụ quân sự và chính trị thực hiện cái gọi là "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đật nước" dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản). Tất cả những cái ngụy trên đã lộ nguyên hình sau khi cộng sản Bắc Việt cướp được chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975.