Dù Luật Công đoàn năm 2012 có khá nhiều mối liên hệ hữu cơ qua lại với Bộ luật Lao động, và một cách đương nhiên theo đòi hỏi của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam tham gia - khi sửa luật này thì đồng thời phải sửa luật kia và ngược lại, vẫn đang tồn tại âm mưu ‘không sửa Luật Công đoàn’.
Các đại diện thành viên thuộc TPP chụp hình tại Santiago, Chile, ngày 8 tháng Ba.
Kẻ nào là thủ phạm của âm mưu trên ?
Và nếu âm mưu trên được thi hành, kẻ nào sẽ được hưởng lợi lớn nhất ?
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và 3% ‘ăn cướp’ !
Cùng với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam nằm trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ bị xem là bám chặt đời sống ký sinh, mỗi năm tiêu xài đến 14.000 tỷ đồng tiền ngân sách - tức tiền mà người dân phải è cổ đóng thuế.
Nhưng ngoài tiền cấp từ ngân sách, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam còn một nguồn thu rất màu mỡ khác.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
"Đối tượng đóng kinh phí công đoàn theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật công đoàn là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà không phân biệt cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó đã có hay chưa có tổ chức công đoàn cơ sở" - Điều 4, Nghị định số 191/2013/NĐ-CP do ‘Anh Ba X’ - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành đã quy định như thế.
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’.
Thu tiền và xài tiền phủ phê đến thế, nhưng có một thực tế không thể chối cãi là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam lại chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân còn khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Rốt cuộc, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã chỉ hiện hình như một cơ chế trung gian ‘ăn cướp’ 3% và quá vô tích sự, nếu không nói là đã ‘phản động’ đến mức đi ngược lại quyền lợi của hàng chục triệu công nhân.
Vì sao ‘hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp’ ?
Chỉ đến tháng Mười Một năm 2018, trùng với thời điểm đích thân ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng ‘chỉ đạo’ Quốc hội thông qua Hiệp định CPTPP, một quan chức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Phó Chủ tịch Ngọ Duy Hiểu mới nêu ra, như một cách lên án, đối với ‘công đoàn vàng’
"Nếu không cẩn thận, sẽ hình thành một loại tổ chức công đoàn gọi là 'công đoàn vàng', hoặc một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp" - Quan chức Ngọ Duy Hiểu ‘lo ngại’.
Trong lý luận về lao động quan hệ lao động của chính quyền Việt Nam, ‘công đoàn vàng’ là một khái niệm nhằm ám chỉ công đoàn của giới chủ, lập ra bởi giới chủ và phục vụ cho quyền lợi của giới chủ, trong khi đối lập với quyền lợi của người lao động.
Nhưng vì sao đến lúc này giới quan chức công đoàn quốc doanh lại lo sợ "hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp" ? Với thâm ý gì ?
Quyền được tự thành lập một tổ chức công đoàn độc lập của công nhân đã trở nên quá bức bách trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích tham tàn ở đất nước này đẩy vào tình thế suy thoái và khủng hoảng trong suốt hàng chục qua. Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Điều kiện sống eo hẹp đã dẫn đến tình cảnh quá khó khăn của công nhân ở rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Ngược lại, những điều kiện sử dụng lao động lại ngày càng hà khắc, không chỉ biểu tả cho một "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" mà còn thêu dệt cho bức tranh thời kỳ đầu của "chủ nghĩa tư bản dã man" tại quốc gia đang quá sức nhập nhoạng và như thể đang chen lấn lao xuống địa ngục trong cơn khủng hoảng về ý thức hệ này…
Sự thật trần trụi là một khi người công nhân được tự do thành lập nghiệp đoàn độc lập, họ sẽ tự bảo vệ quyền lợi của mình, phản đối các chính sách bất công của chính quyền và giới chủ và cũng đương nhiên phản ứng với não trạng, thái độ và cách hành xử bảo thủ, quan liêu và ngập ngụa tư chất lợi ích nhóm của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam.
Khi đó, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ phải chịu nguy cơ lớn, hoặc rất lớn về mất mát quyền lực, hoặc chắc chắn sẽ mất hẳn vai trò "tổ chức chính trị - xã hội’ của nó, không những không còn ngân sách đảng phóng tay cấp tiền ăn xài mà còn sẽ mất hẳn 3% ‘ăn cướp’ được từ giới doanh nghiệp và công nhân.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa mà đã khiến giới quan chức của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trở nên biến báo, ngụy biện và quy chụp chính trị bất cần liêm sỉ về ‘công đoàn vàng’ và "một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp", khi đề cập đến công đoàn độc lập - ‘kẻ thù’ của họ và cũng là của chế độ một đảng.
Một bằng chứng từ Phạm Bình Minh
Nguy cơ mất ăn 3% cũng chính là nguồn cơn sâu xa khiến tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2018, mặc dù đã phải thừa nhận sẽ cạnh tranh với công đoàn độc lập được lập ra bởi công nhân trong tương lai, nhưng giới quan chức nhà nước vẫn âm mưu đối phó với CPTPP hiện thời và cả EVFTA sau này bằng cách ‘chỉ sửa Luật Lao động nhưng không cần thiết phải sửa Luật Công đoàn’. Một trong những bằng chứng rõ nhất âm mưu này chính là thông tin mà quan chức Phó thủ tướng Phạm Bình Minh nói trước quốc hội : ‘cho đến hiện nay thì Chính phủ không đề xuất sửa Luật Công đoàn’.
Đó là chính phủ của Thủ tướng Phúc. Liệu chính phủ này có toa rập với Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam để trong suốt một thời gian dài, cơ quan công đoàn quốc doanh này đã không hề trình một dự thảo nào về sửa Luật Công đoàn ?
Lý do thật ‘đơn giản’ : nếu sửa Luật Công đoàn thì rất có thể sẽ phải bỏ quy định ‘ăn cướp 3%’ của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đối với thu nhập của các doanh nghiệp và của người lao động - một quy định ăn trên ngồi trốc, bị xem là ‘ăn trên xương máu người lao động’ mà đã gây phẫn nộ lớn trong nhiều năm qua trong cả giới công nhân lẫn giới chủ.
Và nếu phải sửa Luật Công đoàn, chẳng có gì chắc chắn là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ giữ được vai trò ‘quản lý lao động’ như Luật Công đoàn cũ. Hoặc nếu được sửa, rất có khả năng Luật Công đoàn (sửa đổi) sẽ vẫn bao hàm một nội dung - dù được thể hiện kín đáo hơn chứ không dám lộ liễu như trước - về việc Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ ‘quản lý’ cả các công đoàn độc lập, một quy định hoàn toàn trái khoáy với các công ước quốc tế về lao động mà Việt Nam sẽ phải ký kết bởi trong các công ước quốc tế này, bởi trong CPTPP vai trò và tư cách của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và các tổ chức công đoàn độc lập là bình đẳng, không ai được ‘quản lý’ ai…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/12/2018
"Đặc biệt trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, tham gia CPTPP vừa giúp ta có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh".
Sáng ngày 2/11, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày Tờ trình về việc đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp định CPTPP.
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng có câu nhấn như gửi gắm một thông điệp trong phần trình bày tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan hôm 2/11. (Hoặc có thể đây chỉ là sự tình cờ ‘cố ý’ của bộ phận biên soạn văn kiện cho việc trình Quốc hội phê chuẩn CPTPP).
Chấm dứt ‘cương lĩnh Đảng quan trọng hơn Hiến pháp’
Sau phần nghi thức mang tính thủ tục đó, ông Phạm Bình Minh đã thay mặt Chính phủ thuyết minh thêm về việc tham gia CPTPP. Rất khôn khéo, Phó thủ tướng, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh đã dạo đầu bằng ngôn ngữ thuần tuyên giáo đảng (trích) : "Các nước thành viên CPTPP đều khẳng định tôn trọng thể chế chính trị và an ninh quốc gia, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau (…).
Tham gia CPTPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên sẽ thể hiện mạnh mẽ chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta, khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như Châu Á - Thái Bình Dương, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế".
Hàng loạt các nội dung tiếp theo mang tính chuyên môn hẹp của các vấn đề liên quan công pháp quốc tế, về chính sách thuế khóa, chính sách lao động, cán cân mậu dịch… Các đại biểu quay về thảo luận ở tổ về việc phê chuẩn CPTPP cùng các văn kiện liên quan.
Dưới góc độ pháp lý, việc Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đọc tờ trình CPTPP trước ‘bá quan văn võ’ ở Quốc hội là bất ngờ vì điều đó ít nhiều mâu thuẫn với định hướng lâu nay của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là "Cương lĩnh Đảng quan trọng hơn Hiến pháp" (1).
Nếu kỳ họp này Quốc hội phê chuẩn CPTPP thì xem ra Quốc hội sẽ rất bận rộn cho hàng loạt việc xây dựng, điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với những cam kết CPTPP. Trong đó, Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất cho mọi điều chỉnh.
Tác động của địa chính trị ?
Các giao ước ở CPTPP được thực hiện giữa các chính phủ mà không có sự can thiệp của bất kỳ đảng phái chính trị nào. Đây cũng chính là điều mà Ngoại trưởng Phạm Bình Minh rất khôn ngoan khi sử dụng cách nói : "Các nước thành viên CPTPP đều khẳng định tôn trọng thể chế chính trị và an ninh quốc gia, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau" (2).
Thể chế chính trị mà ông Phạm Bình Minh nhấn mạnh tại nghị trường nằm ở Điều 2, Hiến pháp 2013 : Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Lâu nay, đảng cộng sản Việt Nam căn cứ vào Điều 4.1 của Hiến pháp để mặc định cho quyền lực "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Trong lúc đó, Điều 4.3, Hiến pháp lại giới hạn "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". Thế nhưng đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có luật về các đảng phái chính trị. Bởi như lời nhận xét của giáo sư Chu Hảo trong bản thông báo rời bỏ đảng cộng sản ở tuần cuối tháng 10 vừa rồi, "đảng không có chính danh để lãnh đạo".
Như vậy sắp tới đây nếu Quốc hội phê chuẩn CPTPP, thì tư cách là Chủ tịch nước – đồng thời cũng là Trưởng Ban Cải cách Tư pháp Trung ương (đây là cơ quan giữ vai trò tham mưu cho Bộ Chính trị), ông Nguyễn Phú Trọng phải trả lời được ít nhất một câu hỏi, là tại sao một ngân sách công vốn cần được dùng cho các chính sách cộng đồng, lại phải gánh chịu chi phí hoạt động và lương bổng cho cả một hệ thống chính trị từ Đảng, Hội, Đoàn được xem là cánh tay nối dài của đảng, chứ không phải là những tổ chức xã hội – dân sự thuần túy như cách hiểu chung của CPTPP ?
11 quốc gia thành viên CPTPP gồm có Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. Tính đến thời điểm này, có nhiều kỳ vọng tiếp tục đặt ra từ tác động về địa chính trị trong CPTPP, vì chỉ có duy nhất Việt Nam là quốc gia theo thể chế độc đảng toàn trị và các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam không có tính độc lập, mà buộc phải chịu sự phụ thuộc vào các tổ chức của đảng, mặt trận tổ quốc.
Trần Thành
Nguồn : VNTB, 04/11/2018
(2) nguồn đã dẫn