(2) Edward Luce, "‘We are now living in a totally new era’ - Henry Kissinger", Financial Times, 09/05/2022
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ngày 01/06/2022 tuyên bố Kiev đã bảo đảm với Mỹ là sẽ không dùng các hệ thống tên lửa mà Nhà Trắng hứa cung cấp cho Ukraina để bắn vào các mục tiêu trên lãnh thổ Nga.
Trong cuộc họp báo, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ngày 01/06/2022 nhấn mạnh cuộc chiến Ukraina sẽ còn ‘kéo dài nhiều tháng’, chưa có dấu hiệu cho thấy Nga sớm ngừng tấn công Ukraina, nên Mỹ muốn bảo đảm ‘Ukraina có trong tay những thứ họ cần để phòng vệ’ và Washington muốn bảo đảm ‘Nga cảm thấy một áp lực mạnh từ tối đa các nước’.
Ảnh minh họa : Người dân khắp thế giới biểu tình chống chiến tranh Nga xâm lược Ukraine.
Theo AFP, trong số các vũ khí mà Mỹ hứa cấp cho Ukraina lần này, có 4 hệ thống Himars, dàn phóng đa rocket gắn trên các xe bọc thép hạng nhẹ, có thể phóng cùng lúc 6 rocket và có tầm bắn hơn 70km, mạnh gấp đôi so với với các rocket Mỹ hiện được lực lượng Ukraina sử dụng trên chiến trường. Ngoài ra, Ukraina cũng sẽ nhận được 5 radar chống pháo binh, 2 radar phòng không, 6.000 vũ khí chống tăng, 15.000 đạn pháo và 15 xe chiến thuật.
Về phía Nga, ngay trong ngày 01/06, Matxcơva đã có những cảnh báo gay gắt về nguy cơ đối đầu quân sự Nga - Mỹ. Từ Matxcơva, thông tín viên Anissa El Jabri cho biết thêm :
Lời cảnh báo đầu tiên trong buổi sáng, một lời cảnh báo không có chỗ cho sự nghi ngờ : ‘Bất kỳ cuộc giao vũ khí nào cũng tiếp tục làm gia tăng và làm nghiêm trọng hơn nguy cơ xảy ra một cuộc đối đầu quân sự giữa Mỹ và Nga’. Đây là phát biểu của thứ trưởng Ngoại Giao Nga Serguei Riabkov, một dấu hiệu cho thấy vụ việc đang được theo dõi ở cấp chóp bu Nhà nước.
Sáng thứ Tư, phát ngôn viên Điện Kremlin đã đẩy áp lực tăng thêm một nấc. Phát ngôn viên điện Kremlin Dimitri Peskov nói: ‘Mỹ đang cố tình đổ thêm dầu vào lửa. Hoa Kỳ chỉ muốn một điều duy nhất : chiến đấu với Nga đến người Ukraina cuối cùng. Những đợt giao vũ khí như vậy không khiến Kiev muốn tái khởi động các cuộc thương lượng hòa bình’.
Nga đã ưu tiên việc chiếm được toàn bộ miền Donbass của Ukraina, thậm chí không chỉ điều tối đa trang thiết bị và binh lính đến Severodonetsk và Lyssychansk từ 3 tuần nay, mà còn điều cả các đội quân tinh nhuệ đến vùng này’.
Nga tập trận hạt nhân
Cũng trong ngày 01/06, theo một nguồn tin của Interfax, được Reuters trích dẫn, các lực lượng hạt nhân của Nga tổ chức một cuộc tập trận ‘cường độ cao’ ở tỉnh Ivanovo với các tên lửa đạn đạo liên lục địa RS-24 Lars dài 23m mang 6 đầu đạn nhiệt hạch. Lars có nghĩa là ‘tên lửa răn đe hạt nhân’. Có 1.000 binh sĩ Nga tham gia tập trận. Tỉnh Ivanovo là nơi Nga có một trung tâm thử nghiệm hạt nhân trong lòng đất, cách Matxcơva 363 km về phía đông bắc.
Nguồn: RFI Tiếng Việt
(2/6/2022)
I. Tổng quan
Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court – ICC) được thành lập trên cơ sở Quy chế Rome năm 1998, nhằm hướng đến truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 4 nhóm tội phạm : tội xâm lược, tội phạm chiến tranh, tội ác chống loài người và tội phạm diệt chủng. Về mặt nguyên tắc, các hành vi phạm tội do các cá nhân (hoặc tổ chức) tiến hành trên phạm vi một lãnh thổ quốc gia nhất định, do đó nó thuộc thẩm quyền truy cứu của quốc gia đó. Tuy nhiên, do những đặc điểm đặc trưng của 4 nhóm tội phạm này (có liên quan mật thiết với chính quyền và những người đứng đầu trong bộ máy nhà nước) cho nên trong nhiều trường hợp việc truy cứu trách nhiệm hình sự gặp phải những rào cản và khó khăn nhất định. Do đó, việc thành lập ICC nhằm mục đích bổ trợ cho hệ thống tư pháp quốc gia trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm và tránh bỏ lọt người phạm tội. Hay nói cách khác, hoạt động của ICC không nhằm ‘tranh giành’ thẩm quyền xét xử các tội phạm hình sự của các tòa án quốc gia, mà nó chỉ tham gia khi các quốc gia ‘không thể’ hoặc ‘không muốn’ xét xử các tội thuộc 4 nhóm tội phạm nói trên. Trên cơ sở các hoạt động quân sự hiện tại mà Nga tiến hành nhằm chống lại Ukraine, một quốc gia có độc lập và chủ quyền, và dựa vào các quy định của pháp luật quốc tế, bài viết này hướng tới làm rõ các hành vi cấu thành tội phạm xâm lược và tội phạm chiến tranh chứa đựng trong chiến dịch quân sự này.
Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court – ICC)
II. Tội phạm xâm lược
Theo điều 1, Nghị quyết số 3314 ngày 14/12/1974 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, thì xâm lược là "việc một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang nhằm chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự độc lập về chính trị của một quốc gia hoặc một liên minh các quốc gia khác, hoặc theo những cách khác trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc".
Trên cơ sở đó, pháp luật của các nước cũng cụ thể hóa hành vi xâm lược trong quan hệ quốc tế. Chẳng hạn, theo khoản 7 Điều 2 Luật Quốc phòng Việt Nam 2018, "Xâm lược là hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang hoặc cách thức khác trái với pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế".
Theo khoản 1, Điều 8bis, Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế (ICC), …"Tội phạm xâm lược có nghĩa là lập kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu hoặc thực hiện, bởi một người ở một vị trí có thẩm quyền để thực hiện quyền kiểm soát hoặc chỉ đạo các hành động chính trị hoặc quân sự của một Quốc gia, hành động xâm lược mà xét theo đặc tính, mức độ nghiêm trọng và quy mô của nó, tạo thành một sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc".
Tiếp đó, khoản 2, Điều 8bis của Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế có định nghĩa lại hành vi xâm lược trên cơ sở định nghĩa của Nghị quyết 3314 nói trên. Đồng thời, khoản 2 Điều 8bis cũng xác định cụ thể các hành vi bị coi là xâm lược, bao gồm nhưng không giới hạn trong các hành vi sau :
1. Sử dụng lực lượng vũ trang chiếm đóng hoặc tấn công lãnh thổ của Quốc gia khác, hoặc bất kỳ hành vi chiếm đóng quân sự nào, dù là tạm thời, xuất phát từ sự xâm lược hoặc tấn công đó, hoặc bất kỳ sự sáp nhập lãnh thổ hoặc một phần lãnh thổ của Quốc gia khác bằng cách sử dụng vũ lực ;
2. Sử dụng lực lượng vũ trang bắn phá vào lãnh thổ quốc gia khác, hoặc sử dụng bất kỳ vũ khí nào chống lại lãnh thổ quốc gia khác ;
3. Phong tỏa hải cảng hay bờ biển của quốc gia khác bằng lực lượng vũ trang ;
4. Sử dụng lực lượng vũ trang tấn công các lực lượng hải lục không quân, hoặc tầu ngầm hay hạm đội của quốc gia khác ;
5. Sử dụng lực lượng vũ trang trong lãnh thổ quốc gia khác theo thỏa thuận, mà không tuân thủ các điều khoản của thỏa thuận hoặc mở rộng sự hiện diện trong vùng lãnh thổ đó vượt quá thỏa thuận ;
6. Cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để xâm lược nước thứ ba ;
7. Dưới danh nghĩa quốc gia, gửi hoặc cùng gửi các băng nhóm vũ trang, không chính quy hoặc đánh thuê, để thực hiện các hành động của lực lượng vũ trang chống lại quốc gia khác ở mức độ đủ nghiêm trọng như những hành động đã nêu trên, hoặc sự can dự của họ ở đó được coi là đáng kể.
Nếu đối chiếu định nghĩa và các đặc điểm cấu thành của tội xâm lược theo quy định của pháp luật quốc tế với hành động quân sự của Nga ở Ukraine trong gần hai tháng qua, rõ ràng các hành động của quân đội Nga đã cấu thành tội xâm lược. Trong trường hợp này, ông Putin, các quan chức và tướng lĩnh trực tiếp tổ chức và chỉ huy cuộc chiến là những cá nhân phạm tội xâm lược, tức là có thể thuộc phạm vi thẩm quyền xét xử của ICC.
III. Tội phạm chiến tranh
Khoản 2, Điều 8 Quy chế Rome 1998 đã liệt kê một loạt các hành vi cấu thành tội phạm chiến tranh, bao gồm :
1. Những vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva 12/8/1949, cụ thể là bất kỳ hành vi nào chống lại người hay tài sản được bảo hộ theo các quy định của Công ước Geneva liên quan sau đây :
(i) Cố ý giết người ;
(ii) Tra tấn hoặc đối xử vô nhân đạo, kể cả những thí nghiệm sinh học ;
(iii) Cố ý gây đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho thân thể hoặc sức khỏe ;
(iv) Hủy hoại và chiếm đoạt nhiều tài sản không vì yêu cầu quân sự và được thực hiện một cách bất hợp pháp và bừa bãi ;
(v) Buộc tù binh chiến tranh hoặc những người được bảo hộ khác phải phục dịch trong quân đội của bên đối địch ;
(vi) Cố ý tước đoạt quyền được xét xử công bằng và hợp thức của tù binh hoặc những người được bảo hộ khác ;
(vii) Trục xuất, chuyển giao hoặc giam giữ bất hợp pháp ;
(viii) Bắt giữ con tin.
2. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán được áp dụng trong xung đột vũ trang có tính quốc tế trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là :
(i) Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự ;
(ii) Cố ý tấn công vào các mục tiêu dân sự, nghĩa là các mục tiêu phi quân sự ;
(iii) Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng bảo hộ như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang ;
(iv) Cố ý mở cuộc tấn công mặc dù biết rằng cuộc tấn công đó có khả năng gây thương vong cho thường dân hoặc gây hư hại cho các mục tiêu dân sự hoặc làm tổn hại trên diện rộng, lâu dài và nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên mà rõ ràng vượt quá mức cần thiết để đạt được ưu thế quân sự dự kiến ;
(v) Tấn công hoặc bắn phá, bằng bất kỳ phương tiện nào, các thành phố, làng mạc, nhà cửa hoặc công trình xây dựng không được bảo vệ và không phải là mục tiêu quân sự ;
(vi) Giết hoặc làm bị thương binh sĩ đã hạ vũ khí hoặc không còn phương tiện tự vệ và đã tự nguyện đầu hàng ;
(vii) Sử dụng sai cờ ngừng bắn, cờ hoặc phù hiệu và đồng phục của quân địch hoặc của Liên Hợp Quốc, cũng như các biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva, gây chết người hoặc thương tích nghiêm trọng ;
(viii) Lực lượng chiếm đóng trực tiếp hay gián tiếp di dời các bộ phận dân cư của mình đến vùng lãnh thổ đang chiếm đóng, hoặc trục xuất hay di dời toàn bộ hay các bộ phận dân cư của lãnh thổ bị chiếm đóng trong phạm vi hoặc ra ngoài phạm vi lãnh thổ đó ;
(ix) Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là các mục tiêu quân sự.
(x) Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của người đó, và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ ;
(xi) Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho những người thuộc quốc gia hay quân đội đối địch ;
(xii) Tuyên bố tuyệt diệt ;
(xiii) Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của kẻ thù, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của chiến tranh ;
(xiv) Tuyên bố hủy bỏ, đình chỉ hoặc không chấp nhận tại tòa án các quyền và hành vi của công dân bên đối địch ;
(xv) Buộc công dân bên đối địch tham gia các hoạt động chiến tranh chống lại chính đất nước họ cho dù họ đã phục vụ quân đội của nước tham chiến trước khi bắt đầu chiến tranh ;
(xvi) Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công ;
(xvii) Sử dụng chất độc hoặc vũ khí có chất độc ;
(xviii) Sử dụng hơi ngạt, hơi độc hoặc các loại khí khác, cũng như các loại chất láng, chất liệu hoặc phương tiện tương tự khác ;
(xix) Sử dụng đầu đạn có khả năng giãn nở hay dàn máng trong cơ thể con người, như đầu đạn có vỏ bọc cứng không phủ kín lõi hoặc được khía thủng thành các rạch ;
(xx) Sử dụng vũ khí, đạn phóng, vật liệu và các phương pháp chiến tranh có thể gây tổn thương vô ích hoặc đau đớn không cần thiết hoặc vốn là sự vi phạm bừa bãi pháp luật quốc tế về xung đột vũ trang, miễn là những vũ khí, đạn phóng, vật liệu và phương pháp chiến tranh đó bị cấm hoàn toàn và được ghi trong phụ lục của Quy chế này bằng một văn bản sửa đổi phù hợp với các quy định liên quan tại các Điều 121 và 123 ;
(xxi) Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân cách ;
(xxii) Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2 (f), cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva ;
(xxiii) Sử dụng sự có mặt của thường dân hoặc những người được bảo hộ khác để tránh các hoạt động quân sự cho các vị trí, khu vực hoặc lực lượng quân đội nhất định ;
(xxiv) Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế ;
(xxv) Cố ý sử dụng nạn đói của dân thường như một phương pháp tiến hành chiến tranh bằng cách tước đi của họ những thứ thiết yếu nhất cho sự sống, kể cả việc cố ý ngăn chặn hàng cứu trợ như được quy định trong các Công ước Geneva.
(xxvi) Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng những trẻ em đó tích cực tham gia chiến sự.
3. Những vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của các Công ước Geneva ngày 12/8/1949 trong trường hợp xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào được thực hiện nhằm vào những người không tham gia tích cực vào chiến sự, kể cả các binh sĩ đã hạ vũ khí và những người bị loại khỏi vòng chiến đấu do bị ốm, bị thương, bị giam giữ hay vì bất kỳ lý do nào khác sau đây :
(i) Xâm phạm đến tính mạng và thân thể, cụ thể là giết người dưới mọi hình thức, gây thương tật, đối xử tàn ác và tra tấn ;
(ii) Xúc phạm nhân phẩm, cụ thể là sự đối xử mang tính làm nhục và hạ thấp nhân phẩm ;
(iii) Bắt giữ con tin ;
(iv) Thông qua bản án và thi hành hình phạt mà không có phán quyết trước đó của một tòa án được thành lập hợp thức có đủ những bảo đảm tư pháp được thừa nhận là không thể thiếu.
4. Những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng luật và tập quán áp dụng trong xung đột vũ trang không mang tính quốc tế, trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, cụ thể là bất kỳ hành vi nào sau đây :
(i) Cố ý tấn công vào cộng đồng dân cư hoặc những thường dân không trực tiếp tham gia chiến sự ;
(ii) Cố ý tấn công vào các tòa nhà, vật tư, đơn vị y tế, phương tiện vận chuyển và nhân viên mang biểu tượng phân biệt của các Công ước Geneva phù hợp với luật pháp quốc tế ;
(iii) Cố ý tấn công vào nhân viên, kho thiết bị, vật tư, các đơn vị, phương tiện giao thông tham gia trợ giúp nhân đạo hoặc sứ mệnh gìn giữ hòa bình theo Hiến chương Liên Hợp Quốc miễn là những đối tượng này được hưởng sự bảo hộ như thường dân và các mục tiêu dân sự theo luật quốc tế về xung đột vũ trang ;
(iv) Cố ý tấn công vào các tòa nhà được sử dụng cho mục đích tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, từ thiện, các tượng đài lịch sử, bệnh viện, và những nơi tiếp nhận người bị ốm, người bị thương, với điều kiện đó không phải là các mục tiêu quân sự ;
(v) Cướp bóc một thành phố hoặc địa điểm, kể cả khi chiếm được nơi đó bằng tấn công ;
(vi) Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, ép buộc mang thai như quy định tại Điều 7 khoản 2(f), cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng Điều 3 chung của bốn Công ước Geneva ;
(vii) Cưỡng ép hoặc tuyển mộ trẻ em dưới 15 tuổi vào lực lượng vũ trang quốc gia hoặc dùng các trẻ em đó tích cực tham gia chiến sự ;
(viii) Ra lệnh di dân vì các lý do liên quan đến cuộc xung đột, trừ phi để bảo đảm an toàn cho dân thường hoặc vì yêu cầu quân sự cấp bách.
(ix) Lừa dối giết hoặc gây thương tích cho binh sĩ của bên đối địch ;
(x) Tuyên bố tuyệt diệt ;
(xi) Đưa người của bên đối địch ra để cắt xẻo cơ thể hoặc để tiến hành thí nghiệm y học hay khoa học dưới bất kỳ hình thức nào mà không thể coi là điều trị y tế, nha khoa hay bệnh viện cho người đó cũng như không phải vì lợi ích của người đó và gây chết người hoặc nguy hiểm nghiêm trọng cho sức khỏe của họ ;
(xii) Hủy hoại hoặc chiếm giữ tài sản của bên đối địch, trừ phi việc đó là do yêu cầu cấp bách của cuộc xung đột.
Căn cứ vào cơ sở những quy định này, có thể thấy rằng nhiều hành vi của quân đội Nga thực hiện ở Ukraine có thể cấu thành tội phạm chiến tranh. Theo như điều tra của nhiều tổ chức quốc tế, truyền thông, và các tố cáo của người dân Ukraine, quân đội Nga đã nhiều lần tấn công vào các mục tiêu phi quân sự như khu dân cư, chung cư cao tầng, bệnh viện, bệnh viện phụ sản, trường học, các khu chợ, nhà hát, viện bảo tàng… Đặc biệt, việc tìm thấy những hố chôn tập thể ở một số vùng trước đây bị quân Nga chiếm đóng mà nay đã rút đi như Bucha, hay Mariupol càng làm tăng thêm sự nghi ngờ về những hành vi phạm tội phạm chiến tranh mà Nga tiến hành ở Ukraine. Hiện tại, theo truyền thông của các nước, Cơ quan Công tố của Tòa án Hình sự quốc tế, các quốc gia liên quan và một số tổ chức quốc tế độc lập cũng đang tiến hành điều tra hiện trường, thu thập chứng cứ, phỏng vấn người dân địa phương ở Ukraine để làm rõ liệu các hành vi của quân đội Nga có cấu thành tội phạm chiến tranh hay không.
IV. Thẩm quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những loại tội phạm này
1. Thẩm quyền của Tòa án hình sự quốc tế – ICC
Trong các hệ thống pháp luật quốc gia, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm được thực hiện tương đối thuận lợi bởi Nhà nước có đầy đủ quyền lực cũng như các công cụ và phương tiện hỗ trợ hiệu quả. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC không hề là một điều đơn giản, nếu không muốn nói là rất khó khăn. Điều này xuất phát từ nguyên nhân đầu tiên là các tội phạm này liên quan trực tiếp đến các quan chức lãnh đạo cấp cao của một quốc gia, những người phát động và lãnh đạo các hành động quân sự là khởi đầu của các hành vi phạm tội thuộc 4 nhóm tội thuộc thẩm quyền của ICC. Do đó, trong nhiều trường hợp chính quyền của các quốc gia vi phạm cố ý bao che, né tránh hoặc từ chối truy cứu trách nhiệm của những cá nhân vi phạm này. Đây chính là trường hợp các quốc gia ‘KHÔNG MUỐN’ xét xử như đề cập ở phần mở đầu của bài viết. Chẳng hạn, nhiều hành động của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam đã cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh. Từ đó, các cá nhân phát động, chỉ đạo và điều hành cuộc chiến cũng như những người lính trực tiếp chiến đấu trên chiến trường có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bản thân chính quyền và hệ thống pháp tư pháp Hoa Kỳ chắc chắn là không muốn thực hiện việc truy cứu này. Tương tự, các hành vi quân sự của Trung Quốc chống lại Việt Nam trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974, chiến tranh biên giới 1979, cuộc đụng độ quân sự ở bãi Gạc Ma 1988… cũng có bản chất như vậy. Và giờ đây, khi Nga tấn công Ukraine, nhiều hành vi của lãnh đạo cấp cao, tướng lĩnh và lính Nga trong ‘chiến dịch quân sự đặc biệt’ đã cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh, nhưng chắc chắn chính quyền của ông Putin sẽ lãng tránh hoặc từ chối truy cứu trách nhiệm.
Không những thế, nhiều quốc gia còn ký kết các Hiệp định miễn trừ song phương (Bilateral Immunity Agreement – BIA) nhằm tránh cho công dân nước mình bị chuyển giao cho ICC xét xử. Hoa Kỳ là quốc gia điển hình cho vấn đề này khi họ đã vận động và ký được gần 110 BIA với các quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này đảm bảo rằng nếu công dân của họ (bao gồm cả binh lĩnh và tướng lĩnh) có các hành vi phạm tội thuộc 4 nhóm tội của ICC sẽ không bị quốc gia sở tại chuyển giao cho ICC xét xử. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì Hoa Kỳ là quốc gia có lực lượng quân đội hiện diện ở nhiều nước nhất, và họ cũng là quốc gia can thiệp quân sự vào nhiều nơi nhất trên thế giới. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển của ICC, thế giới chứng kiến một cuộc chạy đua giữa EU – bên ủng hộ ICC và Hoa Kỳ – bên phản đối ICC. Trong khi EU làm việc không ngừng nghỉ, thậm chí sử dụng nhiều lợi ích kinh tế thương mại, để thuyết phục và vận động các quốc gia tham gia Quy chế Rome 1998, tức là ủng hộ sự tồn tại và phát triển của ICC, thì Hoa Kỳ cũng ra sức vận động các nước ký kết các BIA để miễn trừ cho công dân của họ trong những trường hợp cần thiết.
Măt khác, thẩm quyền của ICC cũng có thể phát sinh khi các quốc gia ‘KHÔNG THỂ’ xét xử các tội phạm. Về mặt nguyên tắc, một hành vi chỉ bị xem là tội phạm nếu nó được quy định trong luật hình sự của một quốc gia và từ đó phát sinh thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia đó. Tuy nhiên, việc nhìn nhận đánh giá một hành vi nguy hiểm cho xã hội có nên được quy định là tội phạm hay không sẽ tùy thuộc vào chính quyền của các nước. Do đó, có nhiều hành vi ở quốc gia này thì bị coi là tội phạm, nhưng ở quốc gia khác thì không. Trong số các hành vi cấu thành các tội phạm thuộc 4 nhóm tội theo Quy chế Rome, có nhiều hành vi không bị xem là tội phạm hình sự trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, do đó các tòa án ở các quốc gia đó sẽ ‘KHÔNG THỂ’ xét xử. Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt, các quốc gia ‘KHÔNG THỂ’ xét xử do hệ thống tư pháp của họ không đáp ứng được tiêu chuẩn hoặc họ thiếu đội ngũ chuyên gia đủ kiến thức chuyên môn để xét xử. Cũng có thể có trường hợp quốc gia sở tại nơi xảy ra hành vi bị nghi phạm tội có đủ các điều kiện cơ sở vật chất, nhân sự và hệ thống pháp luật để truy cứu trách nhiệm nhưng gặp khó khăn trong việc bắt giữ nghi can và điều tra hành vi phạm tội do đối tượng nghi phạm không hiện diện ở quốc gia đó và thiếu sự hợp tác hiệu quả từ phía các quốc gia liên quan. Do đó, họ cũng ‘KHÔNG THỂ’ điều tra và xét xử trong trường hợp này.
Như vậy, trong hai trường hợp các quốc gia ‘KHÔNG MUỐN’ hoặc ‘KHÔNG THỂ’ xét xử thì thẩm quyền truy cứu trách nhiệm sẽ thuộc về ICC.
2. Có thể truy cứu trách nhiệm các hành vi phạm tội trong cuộc xung đột Nga-Ukraine hay không ?
a) Thẩm quyền của ICC trong điều tra và truy cứu các hành vi phạm tội khi Nga và Ukraine chưa tham gia Quy chế Rome 1998
Như nói ở trên, các tòa án của Nga sẽ không bao giờ truy cứu trách nhiệm đối với các hành vi của binh lính, tướng lĩnh và quan chức của Nga thực hiện trên lãnh thổ của Ukraine. Trong trường hợp này, thẩm quyền truy cứu có thể sẽ thuộc về các tòa án của Ukraine nơi xảy ra hành vi bị nghi phạm tội hoặc ICC. Để xác định thẩm quyền của các tòa án Ukraine, trước hết phải xem xét liệu các hành vi của quân đội Nga có cấu thành một tội phạm gì hay không trong hệ thống pháp luật của Ukraine. Nếu các hành vi đó không được quy định trong hệ thống pháp luật của Ukraine thì các tòa án của quốc gia này đương nhiên không có thẩm quyền xét xử. Ngược lại, trường hợp các hành vi của quân đội Nga thực sự đã cấu thành tội phạm theo pháp luật của Ukraine, thì tiếp theo phải xem xét liệu Ukraine ‘CÓ MUỐN’ hoặc ‘CÓ THỂ’ xét xử hay không, tức là trở lại câu hỏi ở phần 1) nói trên. Nếu Ukraine ‘KHÔNG MUỐN’ hoặc ‘KHÔNG THỂ’ điều tra và xét xử, thì lúc này mới bàn tới thẩm quyền của ICC.
Theo quy định của Quy chế Rome, thẩm quyền của ICC trước hết giới hạn đối với các hành vi xảy ra trên lãnh thổ hoặc được tiến hành bởi công dân của quốc gia là thành viên của Quy chế Rome. Trên thực tế, hiện tại cơ quan công tố của ICC cũng đang tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm đối với các hành vi của quân đội Nga ở Ukraine. Tuy vậy, ngay cả khi ICC có đầy đủ chứng cứ cấu thành tội xâm lược hoặc tội phạm chiến tranh của quân đội Nga thì việc truy cứu cũng sẽ khó thực hiện được. Lý do đầu tiên là Nga chưa phải là một thành viên của Quy chế Rome, do đó họ không bị ràng buộc bởi các quy định của Quy chế này. Chính quyền của ông Putin có thể tuyên bố họ không chấp nhận thẩm quyền của ICC đối với các vụ việc liên quan đến công dân họ, tương tự như việc họ vừa tuyên bố Tòa án Công lý quốc tế (International Court of Justice) không có thẩm quyền đối với vụ việc mà Ukraine đệ trình chống lại hành vi xâm lược của Nga. Mặt khác, bản thân Ukraine, là quốc gia nơi xảy ra các hành vi có dấu hiệu phạm tội, cũng chưa phải là thành viên của Quy chế Rome, do đó ICC không có thẩm quyền đương nhiên đối với các hành vi của quân đội Nga thực hiện trên lãnh thổ của Ukraine.
b) Vai trò của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc trong mối quan hệ với ICC
Được xem là cơ quan chính trị thường trực của Liên Hợp Quốc, Hội đồng Bảo an chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo hòa bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, trong trường hợp xung đột Nga – Ukraine, chủ thể chính gây ra mất an ninh và đe dọa hòa bình là Nga, một trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an và có quyền phủ quyết. Về lý thuyết, Hội đồng Bảo an có thể hỗ trợ cho ICC trong những trường hợp các tình huống có dấu hiệu phạm tội không xảy ra trên lãnh thổ hoặc không được thực hiện bởi công dân của quốc gia là thành viên của Quy chế Rome. Cụ thể, theo khoản b, điều 13 Quy chế Rome, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có thể thông qua một nghị quyết để thực hiện việc đề xuất cho ICC tiến hành điều tra một tình huống và truy cứu những hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia chưa phải là thành viên hoặc những hành vi được tiến hành bởi công dân của quốc gia chưa phải là thành viên của Quy chế Rome. Tuy vậy, trên thực tế, rào cản ở đây là Nga có thế sử dụng quyền phủ quyết để ngăn chặn Hội đồng Bảo an thông qua một nghị quyết như vậy.
c) Có thể dựa vào các tòa án lâm thời ?
Trong lịch sử đấu tranh phòng chống tội phạm quốc tế, đã có một số tòa án lâm thời (ad-hoc) được lập ra để giải quyết những vụ việc cụ thể, sau khi hoàn thành nhiệm vụ thì các tòa đó được giải thể. Chẳng hạn, sau Thế chiến thứ hai, một loạt các cá nhân của chế độ phát-xít Đức và Nhật bị đưa ra xét xử ở các tòa án quốc tế lâm thời là Tòa án Nuremberg 1946 và Tòa án Tokyo 1946 vì hành vi phạm tội phạm chiến tranh. Do Đức và Nhật là những nước bại trận sau cuộc chiến, buộc phải ký văn bản đầu hàng, cho nên việc truy tố và xét xử được tiến hành tương đối thuận lợi. Sau này, thế giới cũng chứng kiến các tòa án mang tính chất lâm thời khác như Tòa án Ruanda 1994 và Tòa án Nam Tư 1993 được lập ra để xét xử các tội phạm chiến tranh và tội diệt chủng, đều nằm trong 4 nhóm tội thuộc thẩm quyền của ICC. Thực chất, Rwanda và Nam Tư là những quốc gia không có vị thế lớn trên trường quốc tế, hơn nữa chính quyền có những sự thay đổi trong giai đoạn chuyển giao, do đó việc đưa các cựu quan chức của chính quyền ra xét xử cũng hầu như không gặp những cản trở gì.
Tuy vậy, sau khi ICC được thành lập vào năm 1998 và chính thức đi vào hoạt động vào năm 2002 với tư cách là một tòa án thường trực, thì không có một tòa án lâm thời nào được thành lập nữa. Về bản chất, các tòa án lâm thời trước đây được thành lập trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc và hoạt động mang nặng tính chính trị, thậm chí là thiên vị, khác với ICC là một cơ quan tư pháp mang tính độc lập. Sắp tới, việc Liên Hợp Quốc có quyết định thành lập một tòa án lâm thời để xét xử các hành vi bị xem là tội phạm trong cuộc xung đột Nga – Ukraine hay không vẫn còn là một câu hỏi phía trước.
Nhưng một điều có thể thấy trước là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi do quan chức và lực lượng quân đội Nga sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Càng khó khăn hơn khi Nga là một cường quốc về quân sự, ông Putin thì luôn lăm le ‘nút bấm hạt nhân’ trong tay, và Nga lại là quốc gia có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Sự khó khăn này cũng tương tự như việc đưa các quan chức, tướng lĩnh và binh lính của Hoa Kỳ ra truy cứu trách nhiệm trước ICC về các hành vi mà họ thực hiện trong các cuộc can thiệp quân sự ở Iraq, Nam Tư hay Afghanistan trước đây. Mặc dù có nhiều bằng chứng và tài liệu do các tổ chức quốc tế độc lập thu thập và công bố chứng minh hành vi phạm tội của quân đội Hoa Kỳ ở các nơi mà họ can thiệp quân sự (chẳng hạn việc ngược đãi tù binh, giết nhầm dân thường, không kích vào các cơ sở dân sự… được trang WikiLeak của Julian Assange điều tra và tiết lộ), nhưng cho đến nay hầu như chưa một cá nhân công dân nào của Hoa Kỳ bị ICC đưa ra xét xử.
V. Kết luận
Việc hành động quân sự của Nga tiến hành ở Ukraine có cấu thành tội xâm lược và tội phạm chiến tranh hay không có lẽ phải chờ kết quả điều tra chính thức của các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan công tố của Tòa án Hình sự quốc tế. Tuy nhiên, với những gì đã và đang diễn ra ở chiến trường Ukraine đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp luật quốc tế, việc kết luận Nga phạm tội xâm lược và tội phạm chiến tranh có lẽ không có gì phải bàn cãi.
Vấn đề là làm sao để có một cơ chế truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các cá nhân có liên quan, đảm bảo công lý được thực thi mới là điều đáng nói, đặc biệt khi chủ thể vi phạm là những quan chức đứng đầu nhà nước của những cường quốc. Đây vẫn đang là một khiếm khuyết của pháp luật quốc tế nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng.
Hồ Nhân Ái
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 24/04/2022
© Tiến sĩ Hồ Nhân Ái, Khoa Luật Quốc tế – Trường Đại học Luật – Đại học Huế.
Tài liệu tham khảo :
1. Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế
2. MacKennan Graziano and Lan Mei, "The Crime of Aggression Under the Rome Statute and Implications for Corporate Accountability", The Harvard Inetrnational Law, April 2017
3. Anouk T. Boas, "Định nghĩa tội phạm xâm lược và sự liên quan đến các cuộc xung đột vũ trang đương đại", Brief 1, International Crime Database, June 2013
4. Associated Press in Washington, "Is Vladimir Putin a war criminal, and who decides ?", The Guardian, 17/03/2022
5. "War crimes and Russia’s invasion of Ukraine", Aljazeera, 17/03/2022
6. The States Parties to the Rome Statute, International Criminal Court
7. Louise Arbour, "The Relationship Between the ICC and the UN Security Council", Global Governance 20, 2014, Vol. 20, No. 2, pp.195-201.
"Những gì chúng ta đang đối mặt, có thể chỉ còn vài tuần nữa sẽ xảy ra, là một cuộc chiến tranh ngang hàng đầu tiên giữa hai quân đội hàng đầu, được công nghiệp hóa, số hóa, diễn ra trên lục địa này trong nhiều thế hệ qua". Đây là cảnh báo vào ngày 19 tháng 1 của James Heappey, Bộ trưởng Quân lực Anh, khi nói về việc Nga đang tăng cường hơn 100.000 quân ở biên giới Ukraine. "Hàng chục nghìn người có thể chết". Bộ trưởng quốc phòng Estonia lặp lại lời cảnh báo. Ông nói : "Mọi thứ đang tiến tới xung đột vũ trang".
Sergei Lavrov, ngoại trưởng Nga, sẽ gặp Antony Blinken, ngoại trưởng Mỹ, tại Geneva vào ngày 21 tháng 1. Nhưng triển vọng ngoại giao là rất mờ mịt. Vào ngày 19 tháng 1, Sergei Ryabkov, một trong những cấp phó của ông Lavrov, nói rằng ngay cả quyết định đóng băng trong 20 năm đối với việc xem xét tư cách thành viên NATO của Ukraine cũng sẽ không làm Nga hài lòng. Trong những tuần gần đây, Nga đã điều động quân dự bị và triển khai binh lính và tên lửa từ tận biên giới Triều Tiên đến khu vực này.
Các nước phương Tây đang chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Hôm 17 tháng 1, Anh bắt đầu vận chuyển hàng nghìn tên lửa chống tăng tới Ukraine. Vài ngày trước đó, Thụy Điển đã cho xe bọc thép tới đảo Gotland khi ba tàu đổ bộ Nga đi qua Biển Baltic, không rõ điểm đến. Cùng ngày, Ukraine bị tấn công mạng, trong đó các trang web của chính phủ bị đổi giao diện và máy tính của các cơ quan nhà nước bị khóa. Trong khi đó, Nhà Trắng cho biết họ có thông tin tình báo cho thấy Nga đang lên kế hoạch dàn dựng các hành động phá hoại chống lại các lực lượng ủy nhiệm của Nga ở miền đông Ukraine để lấy cớ tấn công nước này.
Một cuộc tấn công như vậy có thể có nhiều hình thức. Một khả năng là Nga sẽ chỉ tiến hành một cách công khai những gì họ đã làm trong bảy năm qua : đưa quân vào các "nước cộng hòa" Donetsk và Luhansk, các lãnh thổ ly khai ở vùng Donbas, miền đông Ukraine, hoặc để mở rộng ranh giới về phía tây, hoặc để công nhận chúng là các quốc gia độc lập, như họ đã làm sau khi Nga đưa quân vào Abkhazia và Nam Ossetia, hai khu vực của Georgia, hồi năm 2008.
Một kịch bản khác, được thảo luận rộng rãi trong những năm gần đây, là Nga có thể tìm cách thiết lập một hành lang đường bộ tới Crưm, bán đảo mà nước này sáp nhập vào năm 2014. Điều đó buộc Nga phải chiếm một dải đất dài 300 km dọc theo Biển Azov, bao gồm cả hải cảng quan trọng của Ukraine, cảng Mariupol, kéo dài đến sông Dnieper.
Việc chiếm những vùng đất hạn chế như vậy sẽ nằm trong khả năng của các lực lượng được tập hợp ở miền tây nước Nga. Điều chưa rõ ràng là liệu họ có nhằm phục vụ mục tiêu chiến tranh của Điện Kremlin hay không. Nếu mục tiêu của Nga là khiến Ukraine phải quỳ gối và ngăn nước này gia nhập NATO, hoặc thậm chí ngăn Ukraine hợp tác với liên minh này, thì việc chỉ củng cố quyền kiểm soát đối với Donbas hoặc chiếm một dải đất nhỏ ở miền nam Ukraine là không đủ để giúp đạt được mục tiêu này.
Để làm như vậy, Nga phải buộc chính phủ Kiev chịu những tổn thất lớn, cho dù bằng cách làm suy yếu các lực lượng vũ trang Ukraine, phá hủy cơ sở hạ tầng quan trọng, hay lật đổ hoàn toàn chính phủ nước này. Một lựa chọn là Nga sẽ sử dụng vũ khí mà không cần triển khai quân đội trên bộ, mô phỏng cuộc không kích của NATO chống lại Serbia năm 1999. Các cuộc tấn công bằng rocket và tên lửa sẽ gây tàn phá cho Ukraine. Những vũ khí này có thể được bổ sung bằng các vũ khí kiểu mới hơn, chẳng hạn như các cuộc tấn công mạng nhắm vào cơ sở hạ tầng của Ukraine giống như những cuộc tấn công làm gián đoạn lưới điện của nước này hồi năm 2015 và 2016.
Vấn đề là các chiến dịch trừng phạt như vậy có xu hướng kéo dài hơn và tỏ ra khó khăn hơn so với suy nghĩ ban đầu. Nếu chiến tranh xảy ra, các cuộc không kích có nhiều khả năng chỉ là màn dạo đầu và chuẩn bị cho một cuộc chiến trên bộ hơn là một biện pháp thay thế cho nó. David Shlapak, đến từ Rand Corporation, một viện nghiên cứu chính sách, nói rằng : "Tôi không thấy có nhiều trở ngại có thể ngăn cản người Nga".
Mục đích có thể là làm tổn thương Ukraine chứ không phải chiếm đóng nước này. Đất nước này rộng lớn và đông dân ngang Afghanistan, và kể từ năm 2014, hơn 300.000 người Ukraine đã tích lũy được một số kinh nghiệm quân sự ; hầu hết đều sở hữu hoặc có thể tiếp cận vũ khí. Các quan chức Mỹ đã nói với các đồng minh rằng cả Lầu Năm Góc lẫn CIA đều sẽ hỗ trợ một cuộc kháng chiến có vũ trang [chống lại quân Nga].
Shlapak nói, Nga có thể cân nhắc điều mà quân đội Mỹ gọi là một "cuộc tấn công sấm sét" ("thunder run"), tức một cuộc tấn công nhanh và thọc sâu trên một mặt trận hẹp, nhằm gây sốc và làm tê liệt kẻ thù, chứ không nhằm chiếm đóng lãnh thổ. Và một cuộc tấn công như vậy không nhất thiết phải đến từ phía đông.
Vào ngày 17 tháng Giêng, binh sĩ Nga, một số đến từ vùng Viễn Đông, bắt đầu tập trung vào Belarus, bề ngoài là để tham gia các cuộc diễn tập quân sự được lên lịch vào tháng Hai. Nga cho biết họ cũng sẽ gửi 12 máy bay chiến đấu và hai hệ thống phòng không S-400. Một cuộc tấn công từ phía bắc, thọc qua biên giới Belarus-Ukraine, sẽ cho phép Nga tiếp cận và bao vây thủ đô Ukraine từ phía tây.
Shlapak đặt câu hỏi : "Một khi lực lượng này đã vào đến một khu vực mà từ đó có thể phóng rocket vào trung tâm thành phố Kiev, thì đó có phải là tình huống mà người Ukraine muốn sống chung hay không ?" Ngay cả khi Volodymyr Zelensky, tổng thống Ukraine, sẵn sàng chấp nhận đối đầu với cuộc bao vây, Nga có thể đánh cược rằng chính phủ của ông sẽ sụp đổ, và họ có thể sử dụng gián điệp, lực lượng đặc biệt và các chiến dịch tin giả để đẩy nhanh quá trình đó.
Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh thường diễn ra theo những cách không thể đoán trước. Nga đã không tham gia một cuộc tấn công quy mô lớn nào có sử dụng bộ binh, thiết giáp và không quân kể từ sau các trận chiến đỉnh cao thời Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Các quốc gia bị tấn công cũng có thể dễ dàng đứng vững hoặc sụp đổ. Ivan Timofeev đến từ Hội đồng Các vấn đề Quốc tế Nga cảnh báo về một "cuộc đối đầu kéo dài và tiêu hao", làm chính nước Nga cũng gặp nhiều bất ổn.
Ngay cả nếu Nga giành chiến thắng, họ cũng sẽ phải trả giá đắt. Peter Zwack, một vị tướng hồi hưu và từng là tùy viên quốc phòng của Mỹ tại Moscow thời điểm Nga xâm lược Ukraine lần đầu hồi năm 2014, nói rằng "Người Ukraine sẽ chiến đấu và gây những tổn thất lớn cho người Nga. Đây sẽ là một nhiệm vụ khó khăn của Nga, và về cơ bản họ chỉ có một mình". Cùng với mối đe dọa bị áp đặt các biện pháp trừng phạt nặng nề mà Mỹ và các đồng minh Châu Âu đang chuẩn bị, cùng với sự vắng bóng bất kỳ sự ủng hộ nào từ người dân trong nước cho một cuộc phiêu lưu mới, tất cả những điều này, ngay cả bây giờ, cũng có thể khiến Putin phải tạm dừng để suy nghĩ.
Nguyên tác : "As war looms larger, what are Russia’s military options in Ukraine ?", The Economist, 21/01/2022.
Phan Nguyên biên dịch