Có phải Việt Nam tới phiên phải đương đầu với Donald Trump không ? Trong một cuộc phỏng vấn rầm rộ hồi tuần trước với Fox News, Trump đã bất ngờ thổi bay Việt Nam, một đối tác Mỹ đang phát triển ở Đông Nam Á và là nước chủ nhà Hội nghị Thượng đỉnh với lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un vào tháng Hai mà Trump đặt kỳ vọng rất cao nhưng cuối cùng đã thất bại. Việt Nam "gần như là kẻ lạm dụng tồi tệ nhất hơn tất cả", Trump tuyên bố khi trả lời câu hỏi về việc có áp thuế đối với Việt Nam hay không, và nói thêm rằng "rất nhiều công ty đang chuyển đến Việt Nam, nhưng Việt Nam còn lợi dụng chúng ta thậm chí còn tệ hơn cả Trung Quốc".
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại lễ ký kết các thỏa thuận thương mại với Tổng thống Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Phủ Chủ tịch, tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 27 tháng 2 năm 2019 (ảnh AP của Evan Vucci).
Đây là lần đầu tiên quan chức Việt Nam bị đe doạ kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức. Vài giờ kể sau khi nhậm chức vào tháng 1 năm 2017, Trump đã rút Hoa Kỳ ra khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, hay TPP Thỏa thuận này sẽ ràng buộc Mỹ, Việt Nam và mười quốc gia Thái Bình Dương khác với thỏa thuận thương mại tự do táo bạo nhất thế giới, một hiệp ước bao gồm một phần ba giao thương hàng hóa và dịch vụ thế giới và đặt ra các tiêu chuẩn cao về điều kiện làm việc, quản lý môi trường và bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Đàm phán TPP, là một bước tiến của Việt Nam. Hà Nội đã nắm bắt cơ hội để tiến lên, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh ở Châu Á, hướng tới một cấp độ ưu tú trong hệ thống thương mại thế giới. Việc Trump kết thúc thỏa thuận này chỉ là động thái đầu tiên trong nhiều động thái của Nhà Trắng, coi chính sách đối ngoại và đặc biệt là chính sách thương mại là "chúng ta hưởng được gì từ đó ?". Trump đã quan tâm đặc biệt tới các quốc gia mất cân bằng thương mại lớn với Hoa Kỳ. Với thặng dư thương mại lớn và ngày càng tăng của Việt Nam, 42 tỷ đô la xuất khẩu sang Hoa Kỳ và 10 tỷ đô la nhập khẩu trong năm 2016, cần phải hành động nhanh.
Vào tháng 5/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm Washington và cam kết mua nhiều sản phẩm của Mỹ để xoa dịu Trump. Trong những tháng tiếp theo, Nguyễn Xuân Phúc và các nhà lãnh đạo cấp cao khác của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã nhắc nhở Hoa Kỳ bất kỳ khi ào có thể về giá trị của Việt Nam như một lá cờ cho Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã cúi xuống để trở thành người bạn hữu ích, đến mức cũng im re khi Trump và những người đại diện nâng Việt Nam thành một tấm gương sáng cho Triều Tiên nếu Bình Nhưỡng chỉ từ bỏ giấc mơ hạt nhân.
Những gì các quan chức Việt Nam không thể làm được là ngăn chặn sự mất cân bằng thương mại song phương. Một điều họ có thể làm, nhưng lại không, là ngăn cản các công ty Trung Quốc đổi thương hiệu hàng tỷ đô la hàng hóa có nguồn gốc Trung Quốc thành "sản xuất tại Việt Nam".
Hiện tượng đổi thương hiệu, điều mà các quan chức thương mại Hoa Kỳ gọi là trung chuyển không có gì là mới mẻ. Gần như ngay khi hàng xuất khẩu của Trung Quốc tăng vọt so với hạn ngạch ở Châu Âu và Mỹ cách đây hàng chục năm, các công ty Trung Quốc đã tìm kiếm, hoặc thành lập, các công ty Việt Nam để hoàn thiện sản phẩm may mặc và giày dép nhập khẩu từ Trung Quốc và sau đó xuất đi qua các siêu thị Walmarts và Euromarché.
Năm 2015, khi chính quyền Obama áp đặt cáo buộc chống bán phá giá đối với các nhà sản xuất thép cán nguội của Trung Quốc, Washington đã chậm phản ứng, nhưng vào tháng 5/2018, chính quyền Trump đã đóng sập cửa, áp thuế đối kháng nặng nề đối với các sản phẩm được cho là của Việt Nam này. Hà Nội hầu như không buồn phản đối.
Sau đó, vào tháng 7/2018, chính quyền Trump quyết định áp thuế 25% đối với khoảng 200 tỷ đô la hàng hóa Trung Quốc đã tạo ra một làn sóng lừa đảo thương hiệu mới. Trong vài tuần, hàng hóa Trung Quốc đã được chuyển hướng qua các nước láng giềng với cơ sở hạ tầng phát triển tốt, các quan chức hải quan "l inh động" và với lượng hàng xuất khẩu lớn đã được sản xuất sang Hoa Kỳ – tức Việt Nam. Đôi khi không có gì hớn là chỉ thay đổi nhãn, hàng sau đó được chuyển đến các cảng của Hoa Kỳ.
Ví dụ các tấm pin mặt trời. Kể từ năm 2012, Washington đã cố gắng hết sức để giữ cho một số nhà sản xuất pin mặt trời của Hoa Kỳ trụ được bằng cách đánh thuế chống bán phá giá đối với các đối thủ cạnh tranh Trung Quốc nghi là sao chép công nghệ. Với đợt thuế quan đầu tiên của Trump vào giữa năm 2018 thêm vào các loại thuế đối kháng nặng, pin và tấm pin mặt trời Trung Quốc không còn tồn tại được ở thị trường Mỹ. Trong khi đó, theo dữ liệu của Phòng Thương mại Trung Quốc, trong quý đầu tiên của năm 2019, xuất khẩu tấm pin mặt trời từ Trung Quốc sang Việt Nam đã tăng vọt lên 739 triệu USD từ mức gần 0 USD năm ngoái.
Tờ Bưu điện Hoa Nam có trụ sở tại Hồng Kông cho biết, rõ ràng là các công ty Trung Quốc đang sử dụng Việt Nam để giải quyết vấn đề thuế quan : bán các bộ phận cho các công ty ở Việt Nam để hoàn thiện và lắp ráp, thay đổi hàng hóa để đạt tiêu chuẩn xuất xứ, sau đó xuất sang thị trường Mỹ.
Theo dữ liệu hải quan của Mỹ năm 2018 , Hoa Kỳ đã nhập khẩu 49,2 tỷ đô la hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trong khi giá trị xuất khẩu sang Việt Nam chỉ 9,7 tỷ đô la. Dữ liệu từ những tháng đầu năm 2019 cho thấy xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh hơn trong tất cả các danh mục được áp dụng bởi thuế quan của Hoa Kỳ. Đó là một cản trở lớn trong thương mại song phương, nhưng không phải là thực sự lớn trong thương mại đa phương. Hoa Kỳ thường bán ít hàng hoá hơn so với nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Và trớ trêu thay, Việt Nam đã có tất cả những gì cần thiết để làm rất tốt trong thương mại toàn cầu mà không cần đổi nhãn trên hàng hóa Trung Quốc, và từ đó tự nhận trừng phạt của Hoa Kỳ và có lẽ các đối tác thương mại khác. Việt Nam có một lực lượng lao động tương đối trẻ, lương thấp và không tạo gánh nặng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam cũng tham gia thỏa thuận thương mại toàn diện với tất cả các quốc gia đã đàm phán CPTPP, trừ Hoa Kỳ ; và, kể từ ngày 30 tháng 6, có thỏa thuận thương mại tự do với Liên minh Châu Âu. Việt Nam hiện là nơi yêu thích ngoài Trung Quốc mà các công ty đa quốc gia công nghệ cao đang nhắm tới để sản xuất các sản phẩm của họ.
Việt Nam nhận thức rõ rằng có một vấn đề trung chuyển mãn tính. Báo chí quốc gia đã đưa tin rằng Cơ quan Hải quan Việt Nam đang chuyển cho công an về giấy chứng nhận xuất xứ xuất khẩu đáng ngờ. Các phương tiện truyền thông Việt Nam có thể nói nhiều hơn nữa, nếu nhà nước sẽ cho phép. Họ có thể suy đoán rằng Hà Nội đã cho phép các công ty Trung Quốc né tránh thuế quan của Mỹ như một sự nhượng bộ đối với nước láng giềng hùng mạnh.
Trung chuyển là hành động mờ ám mà Hà Nội cần phải dừng lại để có được một vị trí an toàn trong câu lạc bộ thương mại thế giới. Việt Nam có được nhiều ý xấu và gần như không có lợi nhuận gì khi hàng hóa Trung Quốc hoặc các nước khác đi qua nhà máy và cảng của Việt Nam chỉ để được dán nhãn hiệu mới. Mặc dù chính quyền Trump có thể có tầm nhìn hạn chế về hầu hết các vấn đề thương mại, nhưng về việc trung chuyển thì lại đúng. Chừng nào Việt Nam còn giúp Trung Quốc tránh các hạn chế thương mại của Hoa Kỳ, thì họ không có cơ hội được Hoa Kỳ công nhận là "nền kinh tế thị trường", để có thể không bị nhận thuế chống bán phá giá và đối kháng của Mỹ .
Những chỉ trích thương mại của Trump với Việt Nam vẫn là một màn trình diễn không quan trọng so với một cuộc thương chiến thảm khốc giữa Mỹ với Trung Quốc. Vì lợi ích của Việt Nam họ nên đóng cửa tránh né trung chuyển để được yên. May mắn thay có một giải pháp đơn giản giúp củng cố nền kinh tế của chính Việt Nam. Họ có thể đánh thuế xuất khẩu đối với bất kỳ hàng hóa nào, giả sử, 5% thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Ngoài ra, chỉ đơn giản là có thể cấm xuất khẩu các mặt hàng đó.
Mọi quốc gia Châu Á công nghiệp hóa nhanh chóng lần đầu tiên được Mỹ và các đối tác thương mại lớn phương Tây khác và sau đó, khi sức mạnh thị trường của họ lớn mạnh thì buộc phải tuân theo các quy tắc thương mại quốc tế. Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan đều đã vượt qua rào cản này nhiều năm trước, không có gì đáng lo ngại. Việt Nam vẫn đang trong thời gian thử thách, và phải tự giác ưu tiên cho lợi ích lớn hơn của quốc gia.
David Brown
Nguồn : Why Vietnam Looks Like the Next Target of Trump’s Tariffs, World Politics Review, 02/07/2019
Khánh Anh dịch
Nguồn : VNTB, 05/07/2019
Nguyễn Phú Trọng và đồng chí thân cận củng cố quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản cầm quyền và chính phủ của Việt Nam. Nền kinh tế vẫn mạnh do được đầu tư nước ngoài bơm vào sản xuất. Công chúng lúc đầu còn hoài nghi rằng chiến dịch chống tham nhũng của đảng sẽ kéo dài, họ đã rất ấn tượng với các bản cáo trạng chồng chất một loạt quan chức và doanh nhân cao cấp.
Đã ba năm kể từ khi ông Trọng ngăn cản ý định của thủ tướng hai nhiệm kỳ Nguyễn Tấn Dũng Dũng thay thế ông ta để làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay hầu như không thấy còn có một lời thì thầm phàn nàn chống lại Trọng. Uy lực của Bộ Chính trị trong các vấn đề chính sách một lần nữa lại trở nên tuyệt đối.
Tháng 9 năm ngoái, khi chủ tịch nước Trần Đại Quang qua dời do bệnh tật, các đồng chí của ông Trọng đã giao cho ông thêm trách nhiệm chủ tịch nước. Chức vụ đó bao gồm việc giám sát Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Đây là sự tập trung quyền lực không tồn tại ở Việt Nam trong 40 năm qua và một sự sùng bái đáng chú ý dành cho một nhà lý luận Mác-Lênin vốn lu mờ trong nhiều thập kỷ.
Trọng là lãnh đạo đầu tiên lâu nay quyết định khôi phục lại hình ảnh của đảng. Hai năm trước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra danh sách 27 biểu hiện suy thoái, bao gồm không chỉ chủ nghĩa cơ hội, mà còn quan niệm rằng nhà nước độc đảng Việt Nam có thể trở thành một nền dân chủ đa nguyên. Một cuộc thanh trừng mềm các cán bộ biến chất đang được tiến hành tích cực.
Trái ngược hoàn toàn với thời ông Dũng trước đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và chính quyền Việt Nam đã gọt đẽo sát với chỉ thị của Bộ Chính trị. Phần lớn, họ đã quản lý nhà nước một cách khéo léo.Chính sách vẫn kiên định với định hướng đưa Việt Nam vào hệ thống thương mại thế giới. Nền kinh tế phát triển ở mức hơn 6% hàng năm kể từ năm 2015 và Bộ Tài chính dường như đang nắm vững hơn việc quản lý nợ công, vốn chủ yếu tăng lên trong những năm ông Dũng cầm quyền. Đầu tư tư nhân trong nước đã tăng mạnh sau khi bị mức tăng trưởng đầu tư nước ngoài trực tiếp trong nhiều năm qua mặt.
Ở Việt Nam, cũng giống như hầu hết Châu Á, định hướng Công Nghệ Thông Tin 'Công nghiệp 4.0', là câu thần chú mới trong việc tăng trưởng kinh tế thông minh. Cùng với chủ tịch Ủy ban Kinh tế Trung ương Đảng Nguyễn Văn Bình, ông Phúc đã triệu tập một diễn đàn quốc gia cao cấp tại Hà Nội vào tháng 7 năm ngoái để tuyên bố rằng có những thay đổi lớn sắp diễn ra - "chúng ta phải sớm bước lên được 'đoàn tàu 4.0', không để bị bỏ lại". Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, nhóm nghiên cứu của chính phủ, đã được giao nhiệm vụ phát triển chiến lược Công nghiệp 4.0.
Không phải tất cả các tin tức kinh tế Việt Nam đều là tốt. Mạng an sinh xã hội Việt Nam - đặc biệt là lời hứa về chăm sóc sức khỏe toàn diện và giáo dục miễn phí ở cấp tiểu học và trung học - đang bị phá sản. Nghèo đói vẫn là đặc hữu ở khu vực nông thôn, mức độ nghèo đói chỉ giảm nhẹ cho những người có việc làm với mức lương thấp tại các khu công nghiệp gần đó. Thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả đã chậm lại. Đất nông nghiệp tiếp tục bị chiếm đoạt với giá trị thị trường ít ỏi ở ngoại thành các thành phố Việt Nam.
Việc làm sai lầm của chính phủ ông Phúc một trong năm 2018 là đề xuất thành lập các đặc khu kinh tế tại ba trọng điểm ven bờ biển Việt Nam. Trung Quốc - nước láng giềng rộng lớn, mới giàu lên và không dễ chịu - là ông ba bị lâu năm của Việt Nam. Khi kế hoạch đặc khu sắp sửa được cơ quan lập pháp Việt Nam thông qua, một cơn bão phản đối rộng rãi đã nổ ra trên phương tiện truyền thông xã hội.
Một loạt các ý kiến cho rằng kế hoạch này là một cánh cửa mở ra cho các nhà đầu tư Trung Quốc để có được chỗ đứng đặc biệt tại các địa điểm chiến lược. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2018, các cuộc biểu tình đã chuyển từ mạng xã hội ra đường phố ở các thành phố lớn của Việt Nam. Đến cuối ngày, hàng chục ngàn người biểu tình đã bị cảnh sát giải tán một cách chuyên nghiệp. Chính phủ rút lại đề luật đặc khu để nghiên cứu thêm. Có thể đề xuất này đã được lặng lẽ chôn vùi.
Trong bối cảnh rối ren về đặc khu, cơ quan lập pháp Việt Nam đã phê chuẩn luật an ninh mạng do Bộ Công an sốt sắng đề xuất. Một điều khoản của luật mới này đặt ra một vấn đề nan giải cho các nhà cung cấp truyền thông xã hội nước ngoài như Facebook và YouTube. Họ có nguy cơ bị trục xuất khỏi một thị trường rộng lớn và sinh lợi nếu họ không đồng ý lưu trữ dữ liệu chi tiết về người dùng Việt Nam và cung cấp dữ liệu đó cho cảnh sát khi có yêu cầu. Mặc dù luật mới có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm nay, một nghị định dự thảo về việc thực thi cho phép các công ty này thời hạn để tuân thủ đầy đủ cho đến tháng 1 năm 2020.
Tuy nhiên, Facebook không còn là nơi an toàn cho dân chúng chỉ trích đảng-nhà nước. Hà Nội đang thắt chặt giám sát những người chống đối, trực tuyến và ngoài đời. Theo Dự án 88, số lượng tù nhân lương tâm tại Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ năm 2016. Các phiên tòa thường xuyên đưa ra các bản án khắc nghiệt hơn nhiều so với tiêu chuẩn. Một nhóm tác chiến mạng đặc biệt ở Việt Nam đã triển khai công nghệ mới nhằm chống lại các trang web và blog đưa tin tức và bình luận không được kiểm duyệt. Và Bộ Công an dường như đã cho phép an ninh bắt giữ những người dùng Facebook quá tích cực đăng bình luận chê bai đảng-nhà nước hoặc, chỉ vì đọc chúng nhu trong trường hợp một người ở Nha Trang.
Lập luận cho rằng “sự thành công” kinh tế lâu dài phụ thuộc vào sự tham gia của các thể chế xã hội dân sự độc lập đang hình thành một thử nghiệm kinh điển ở Việt Nam, nơi đảng cầm quyền không chấp nhận bất kỳ thách thức nào cho quyết định độc quyền của đảng.
David Brown, cựu ngoại giao Mỹ - nhà phân tích tự do, thường xuyên viết về Việt Nam và khu vực lân cận.
Trong nhiều năm, quyền chủ quyền ở Biển Đông là chủ đề gây tranh chấp gay gắt giữa các nước ven biển : Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam (tất cả đều là thành viên của nhóm ASEAN 10 nước), cùng với Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ ở phía bắc, và Đài Loan. Trong khi các nước ven biển tranh giành lợi thế và Trung Quốc rõ ràng đã chiếm địa vị thống trị đối với các nước láng giềng, các nhà khoa học đã cảnh báo rằng, biển sẽ sớm trở thành thảm hoạ môi trường, sự sụp đổ có thể trông thấy của một trong những vùng thủy sản sinh sản nhiều nhất thế giới.
Hiện một nhóm chuyên gia gồm các nhà chiến lược địa chính trị cũng như các nhà sinh vật học biển đang kêu gọi các bên tranh chấp cùng hợp tác để chế ngự, bảo vệ nguồn cá và môi trường biển. Các chuyên gia lập luận rằng, tất cả các bên đều có thể làm như vậy mà không làm hại các yêu sách lãnh thổ của họ. Sự thành công của bất kỳ kế hoạch chế ngự nào, phụ thuộc vào sự tham gia hết lòng của Trung Quốc, nhưng vẫn chưa rõ liệu nước này, một cường quốc với sự thèm muốn rất lớn về hải sản, có chịu hợp tác hay không.
"Ở biển Đông, cá có thể đẻ trứng trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một nước, sống thời non trẻ trong EEZ của một nước khác, và sống phần lớn thời trưởng thành trong EEZ của một nước khác nữa. Đánh bắt quá mức hoặc hủy hoại môi trường tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tất cả những người sống xung quanh biển. Toàn bộ Biển Đông đang chao đảo bên bờ vực của một cuộc suy sụp nghề cá, và cách duy nhất để tránh nó là thông qua hợp tác đa phương trong các vùng biển đang bị tranh chấp". Các chuyên gia viết trong một báo cáo tóm tắt hồi mùa Thu này, nêu bật các khuyến nghị của họ.
Móng cột dựng cầu ở một bến tàu của Malaysia trên đảo Hoa Lau (Layang Layang) ở quần đảo Trường Sa đang tranh chấp ở biển Đông. Ảnh : Greg Asner / Divephoto.org
"Lượng cá bắt được đều đặn che khuất một vấn đề nghiêm trọng"
Biển Đông là một vùng rộng, nửa kín, lớn gấp rưỡi Địa Trung Hải, và không kém phần quan trọng về chiến lược. Hơn một nửa số tàu đánh cá trên thế giới hoạt động ở biển Đông, và trong những năm gần đây, nó đã đều đặn sản xuất khoảng 12% sản lượng cá bắt được toàn cầu.
Nhưng sự đều đặn này là lừa mị. Chuyên gia khu vực của Không quân Mỹ, Adam Greer viết trên báo Diplomat hồi năm ngoái, "lượng cá bắt được đều đặn che khuất một vấn đề nghiêm trọng". Số lượng công sức cần thiết để duy trì sản xuất đã tăng lên nhanh chóng, và "lượng cá đánh bắt được ngày càng gồm nhiều loài cá nhỏ hơn mà dân số của chúng đang bùng nổ khi những loài ăn thịt chúng đã bị đánh bắt quá mức – một hiện tượng thường được gọi là ‘đánh bắt dưới mức mạng lưới thức ăn’ (fishing down the food web)". Báo cáo của các giáo sư Rashid Sumaila và William Cheung, thuộc Đại học British Columbia, kết luận rằng, sinh khối (biomass) trong vùng Biển Đông đã bị đánh bắt xuống dưới mức năm 1950 từ 5% đến 30%, và có thể 40% tổng lượng cá bắt được là bất hợp pháp hoặc đơn giản là không được báo cáo.
Năm quốc gia thành viên ASEAN ven Biển Đông đã tuyên bố chủ quyền ở các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) theo các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) bắt đầu có hiệu lực từ năm 1994. Những yêu sách này trùng lặp ở những nơi các quốc gia lân cận có những ý tưởng khác nhau về khu vực để vẽ đường cơ sở của họ, nhưng hầu hết các nhà quan sát đều đồng ý rằng, các bất đồng nầy không nên quá khó trong cách giải quyết, nếu nhu cầu đặt ra. Ngược lại, yêu sách của Trung Quốc là khó xử lý về mặt pháp lý.
Bản đồ cho thấy Biển Đông gồm các đảo mà các nước chiếm đóng. (Các đảo không ai chiếm không được vẽ ra). Bản đồ do Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) của CSIS, cung cấp.
UNCLOS, được Trung Quốc phê chuẩn, nói rằng Trung Quốc chỉ có thể yêu sách một vùng đặc quyền kinh tế nằm ngoài khơi bờ biển phía nam của họ kéo dài ra tới nửa chừng về phía Việt Nam và phía quần đảo Philippines. Thay vì vậy, Bắc Kinh cho rằng tất cả đảo, đá và rạn san hô trên Biển Đông đều thuộc "chủ quyền lịch sử của Trung Quốc từ thời xa xưa".
Năm 1974, quân đội Trung Quốc giật lấy quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa từ đội quân trú đóng của Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó, Trung Quốc chiếm một số rạn san hô ở quần đảo Trường Sa gần các đảo và rạn san hô có đơn vị Việt Nam và Philippines trú đóng. Khi tàu Cảnh sát biển Trung Quốc đuổi ngư dân Philippines khỏi bãi cạn Scarborough, một vùng biển có nhiều cá, khoảng 200 km về phía tây của đảo Luzon, đảo chính của quần đảo Philippines, Manila đã mất hết kiên nhẫn. Họ đã kháng cáo với Tòa án quốc tế về Luật Biển ở The Hague. Khi tòa đưa ra phán quyết chống lại Trung Quốc vào tháng 7 năm 2016, cho rằng yêu sách rộng lớn của họ ở biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân (Liu Zhenmin) đã cho rằng, phán quyết "không hơn gì một mảnh giấy lộn sẽ không được ai thi hành".
Ngoài việc bác bỏ lập luận "sử dụng lịch sử" của Trung Quốc, tòa cũng phán rằng, các hoạt động của đội tàu đánh cá của Trung Quốc đã không tuân thủ lệnh của UNCLOS đòi hỏi phải hợp tác với các nước láng giềng trong việc bảo vệ hệ sinh thái mong manh và quản lý thủy sản. Mặc dù các tàu tuần tra của Trung Quốc đã tấn công các tàu đánh cá nước ngoài gần các đảo mà họ cho là của họ, Trung Quốc dường như ít tùy tiện hơn về phần này trong phán quyết của tòa.
Điều này đã làm nức lòng các nhà sinh học biển với hàng thập kỷ kinh nghiệm nghiên cứu những thay đổi trong các hệ sinh thái biển Đông. Họ lý luận rằng Trung Quốc cũng mất mát nhiều như bất kỳ nước nào khác trong các nước yêu sách từ cuộc cạnh tranh tự do, vô tổ chức, đối với các nguồn tài nguyên đang suy giảm. Trên cơ sở đó, họ hy vọng rằng, Trung Quốc, hiện đang cắm sâu rất xa về phía Nam, tới các đảo nhân tạo mà họ đã xây dựng trên quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, sẽ chọn cách hợp tác chúng trong việc quản lý bền vững nguồn cá ở biển Đông.
Một chiếc thuyền đánh cá Việt Nam trên biển Đông. Ảnh : Jean-Pierre Bluteau/ Flickr (CC BY-NC 2.0).
"Tham gia… hoặc chúng tôi sẽ ăn hết cả mọi thứ"
Các cuộc họp do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tài trợ vào mùa hè năm nay ở Wahington D.C. đã tập hợp hơn hai mươi người khám phá nan đề này. Họ đến từ Mỹ, Philippines, Singapore, Malaysia, Úc, Canada, Việt Nam và Đài Loan. Các chuyên gia Trung Quốc không được mời vì, điều phối viên cuộc họp Gregory Poling của CSIS nói với Mongabay, "hiện nay rất khó để tìm các chuyên gia Trung Quốc sẵn sàng công khai kêu gọi thỏa hiệp trên biển Đông. Cuối cùng khi xét hết mọi thứ, hai mục tiêu phải có là, họ phải là một thành viên đến từ mỗi nước tranh chấp chủ quyền… và phải tạo ra cho chúng tôi cơ hội tốt nhất để đạt được sự đồng thuận mạnh mẽ về các vấn đề mâu thuẫn với nhau".
Những người tham gia tập trung vào việc làm thế nào để thúc đẩy Trung Quốc cộng tác với các nước đòi chủ quyền khác, trong việc hạn chế lượng cá bắt được hàng năm của các loại nguồn cá đang sụt giảm như cá ngừ, cá bơn, cá thu, cá mú và các loài có giá trị khác, trong việc bảo vệ hàng chục rạn san hô cung cấp cá con sẽ bổ sung số cá ven biển. Hồi tháng 9, họ đã công bố các khuyến nghị của mình trên mạng có tên là "A Blueprint for Fisheries Management and Environmental Cooperation in the South China Sea" (Bản phát thảo về Quản lý và Hợp tác Môi trường ở biển Đông). Rõ ràng trong Bản phát thảo này là ý tưởng, tất cả các nước đòi chủ quyền phải hợp tác cho việc quản lý và bảo vệ hiệu quả và họ có thể làm như vậy mà không làm tổn hại đến các yêu sách lãnh thổ của mình. Tiềm ẩn trong đó là sự công nhận rằng, Trung Quốc phải bước ra để lãnh đạo một nỗ lực như vậy.
Thái độ của Trung Quốc là điểm then chốt, do kích cỡ và quy mô công nghiệp của đội tàu đánh cá của họ, khi thủy sản ven biển của Trung Quốc đã cạn kiệt, đội tàu đã dấn sâu xuống các vùng biển xưa nay do các nước trên biển Đông khác đánh bắt. Hơn nữa, Trung Quốc đã thiết lập các căn cứ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (các căn cứ ở Trường Sa nằm trên nền của bảy rạn san hô mà họ phá hủy vì mục đích đó), mở rộng tầm hoạt động của lực lượng hải quân và bán quân sự của họ.
Thái độ của Trung Quốc cũng là một vấn đề vì bảo vệ môi trường biển, đặc biệt là các nỗ lực đa phương, cho đến nay có ưu tiên thấp ở biển Đông, xếp xa bên dưới các biện pháp đơn phương nhằm thống trị biển về mặt quân sự và giành quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên của nó, gồm các mỏ dầu khí, cũng như việc khai thác hải sản đại dương và rạn san hô.
Lời tụng của Trung Quốc về "chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và vùng biển liền kề" là một công thức liên quan đến Đặng Tiểu Bình, là người kế nhiệm cải cách của Mao Trạch Đông, thường xuyên kết hợp nó với lời kêu gọi "cùng phát triển" các nguồn tài nguyên biển Đông. Tuy nhiên, mặc dù nhóm ASEAN hướng tới các thỏa thuận tập thể, bao gồm tất cả các nước đòi chủ quyền trên biển Đông, Trung Quốc đã cho thấy một sự ưu tiên kiên quyết đối với hành động đơn phương hoặc đối với các hiệp ước, thoả thuận tay đôi với từng nước một, mà nếu ký kết họ có thể dễ dàng chiếm ưu thế. Tuyên bố hàng năm về lệnh cấm đánh cá ở nửa phía bắc biển Đông là một ví dụ điển hình cho chiến lược này.
Bill Hayton, tác giả cuốn sách The South China Sea : The Struggle for Power in Asia (Biển Đông : cuộc tranh giành quyền lực ở Châu Á), nói với Mongabay rằng : "Trên thực tế, Trung Quốc đang cầm súng chỉa vào đầu ngành công nghiệp đánh bắt cá ở Đông Nam Á, nói rằng này hãy tham gia vào cách bố trí quản lý cá của chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ ăn hết mọi thứ".
Một con rùa biển xanh (Chelonia mydas) ở quần đảo Trường Sa trên biển Đông. Ảnh : Greg Asner/ Divephoto.org
"Biển này giống như một bát súp lớn"
Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi. Các chuyên gia cho rằng, những nỗ lực đơn phương của Trung Quốc để thực thi lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trong ba tháng của họ chắc chắn bị thất bại ngay từ đầu. Họ nói rằng, khu vực bị cấm là quá lớn để Trung Quốc tuần tra có hiệu quả. Hơn nữa, các thông báo của Bắc Kinh khuyến khích Philippines, Việt Nam và Đài Loan thúc giục ngư dân mình thách thức các lệnh đó. Đối với các nước này, nếu làm ít hơn thế sẽ tương đương với việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các khu vực mà họ tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình theo đúng các quy định của UNCLOS.
John McManus, một nhà sinh thái học biển thuộc Đại học Miami, đồng tác giả của bản Phát thảo, nói với Mongabay rằng, để kiểm soát các khu vực giàu thủy sản trong vùng biển mà Trung Quốc yêu sách, Trung Quốc cần phải triển khai "một hạm đội thực thi khổng lồ với cái giá phải trả rất lớn, cả về mặt tiền bạc lẫn việc đánh mất sự nể trọng toàn cầu – là điều đi ngược hoàn toàn với những gì Trung Quốc đang cố đạt được".
Lina Gong, nhà nghiên cứu an ninh tại Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore, có quan hệ chặt chẽ với các nhà nghiên cứu Trung Quốc, lập luận rằng, Bắc Kinh đã nhận ra rằng "ngư dân Trung Quốc có xu hướng đánh bắt quá mức" và đang tìm cách đưa các hoạt động của đội đánh bắt của họ dưới sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Theo báo cáo, Trung Quốc chiếm 18% tổng sản lượng cá bắt được trên thế giới vào năm 2015. McManus nói với Mongabay rằng, ông phấn khởi với việc Trung Quốc hứa "cắt giảm đáng kể về kích cỡ đội tàu đánh cá biển Đông của họ, đây sẽ là một bước tiến lớn về sự bền vững".
Không chỉ trong bản Phát thảo của CSIS mà còn trong tài liệu nghiên cứu chính sách và tại hội nghị vào mùa Thu này ở Anh và Đài Loan, rất nhiều chuyên gia đã đưa ra một thông điệp nhất quán cho các nhà hoạch định chính sách : quản lý thủy sản, với việc kiểm soát hiệu quả, không thể chờ các nước đối thủ đồng ý về việc nước nào sở hữu phần nào trên biển Đông. Thay vì vậy, họ nói, Trung Quốc và các nước láng giềng ASEAN phải sớm lập ra một số tổ chức quản lý nghề cá khu vực. Nếu không, nguồn cá, đã bị căng kéo quá mức, sẽ sụp đổ và mất nhiều thập kỷ để phục hồi.
Ông McManus nói : "Biển này giống như một bát súp lớn với ít nhất sáu nước cùng nhấm nháp qua ống hút. Nếu một nước hút chậm, các nước khác giành phần. Cách duy nhất để đạt được tính bền vững là thông qua thỏa thuận hợp tác chúng … Trung Quốc không thể làm điều đó một mình. Không có lý do để tin rằng họ sẽ phản đối việc gia nhập một tổ chức mới nhàm mục đích giữ bền vững nghề cá khu vực và môi trường biển".
Cá đuối manta ở biển Đông. Ảnh : Greg Asner/ Divephoto.org
"Một bộ khung dựa trên luật lệ"
Hành động hợp tác trong đó có cả Trung Quốc không phải là một ý tưởng mới. Suốt hai thập kỷ, ASEAN đã tìm cách để có được sự đồng ý của Trung Quốc đối với một bộ Quy tắc Ứng xử (COC) trên biển Đông. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 2017, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc và 10 thành viên ASEAN đã thông qua một kế hoạch cho các cuộc đàm phán thiết yếu về COC, với mục tiêu đầu tiên là "Thiết lập một bộ khung dựa trên luật lệ có chứa một bộ các chuẩn mực để hướng dẫn cách ứng xử của các bên và thúc đẩy hợp tác trên biển ở biển Đông". Thỏa thuận này được hoan nghênh như một bước đột phá, mặc dù Bắc Kinh lại một lần nữa không đưa ra dấu hiệu nào cho thấy rằng, họ sẵn sàng chấp nhận những hạn chế có ràng buộc đối với hành vi của mình.
Nghiên cứu khoa học biển lẫn bảo vệ môi trường không được đề cập cụ thể trong bản kế hoạch một trang này. Tuy nhiên, theo một phân tích về kế hoạch đó của nhà nghiên cứu Ian Storey ở Singapore, hai hoạt động này được cho là nằm trong số các hoạt động được gộp vào trong cụm từ thu tóm "khuyến khích hợp tác biển thực tế".
Giả định là như vậy, các tác giả của bản Phát thảo tìm cách thuyết phục các nhà thương thuyết COC của ASEAN hướng tới mục tiêu cao hơn. Poling của CSIS nói, "Điều mà chúng tôi hy vọng sẽ làm là đặt một cột mốc, chứng minh rằng có thể thương lượng các thỏa thuận công bằng, hợp pháp và khả thi. Bản Phát thảo về hợp tác nghề cá và môi trường của chúng tôi … rất chi tiết, hoàn toàn khả thi và phù hợp với luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia ở các nước liên quan".
Khi các nước ASEAN bắt đầu công việc có thể là, cuộc đàm luận kéo dài về các chi tiết của COC lảng tránh lâu nay, các tác giả của bản Phát thảo hy vọng đại diện các nước sẽ dành ưu tiên cho việc lập một chương về thủy sản có hiệu lực thật sự. Những điều này bao gồm, việc thành lập một tổ chức quản lý nghề cá tập thể, thoả thuận dành ra các khu vực đánh bắt cá dựa trên hệ sinh thái bao gồm các rạn san hô còn lại có vai trò sống còn đối với tình trạng khoẻ khoắn của các nguồn cá địa phương, và sự quyết tâm thật sự trong việc nhanh chóng theo dõi việc thực hiện chúng. Trung Quốc có đồng ý hay không, nếu ASEAN đưa ra một đề xuất theo những đường hướng này, như nhóm CSIS hy vọng ?
Trả lời câu hỏi qua email của Mongabay, Nong Hong, giám đốc Viện Nghiên cứu Mỹ-Trung ở Washington, DC, tỏ ra lập lờ. Bà nói bản Phát thảo này "không phải là một cái gì đó thật sự mới mẻ. Chúng tôi (gồm cả các học giả của Trung Quốc, Đài Loan và các nước đòi chủ quyền khác) đã thảo luận về các vấn đề bảo tồn và quản lý nghề cá trong nhiều năm".
Carl Thayer, nhà khoa học danh dự môn chính trị, thuộc Đại học New South Wales, Australia, đã từng theo dõi các cuộc thảo luận giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc Ứng xử biển Đông trong hơn hai thập kỷ qua. Đánh giá dựa trên cách hành xử đã qua của Bắc Kinh, ông nói rằng ông nghi ngờ sự chân thành của Trung Quốc, chỉ ra việc Bắc Kinh xem thường phán quyết của Tòa án quốc tế về Luật biển và việc họ liên tục quân sự hóa các rạn san hô và các đảo mà họ chiếm đóng ở biển Đông.
Cảnh một rạn san hô dưới nước tại đảo Hoa Lau ở quần đảo Trường Sa, biển Đông. Ảnh : Greg Asner/ Divephoto.org
Tuy nhiên, Thayer nói với Mongabay, các yếu tố của một thỏa thuận đang nằm trong tay. Bắc Kinh đã đạt được mục tiêu nắm quyền bá chủ thực tế trong khu vực biển Đông. Họ có các kế hoạch đầy tham vọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các đồng minh ở khu vực Trung Á và Ấn Độ Dương để thực hiện ý tưởng "Một Vành đai, Một Đường" của chủ tịch Tập Cận Bình. Việc Trung Quốc tiếp tục bắt nạt các nước láng giềng xung quanh biển Đông sẽ khiến cho các nước có khả năng là đối tác phát triển khác trở nên cảnh giác. Thayer chỉ ra, đối với Trung Quốc lẽ thường (common sense) nằm ở hướng đạt được một thỏa thuận với ASEAN về hợp tác ở Biển Đông sao cho phản ánh thực tế hiện tại và lợi ích riêng của họ, để họ có thể tiếp tục tiến tới.
David Brown
Song Phan dịch
Nguồn : Tiếng Dân, 28/12/2017
Nguyên tác : Experts to China : cooperate or South China Sea fisheries may collapse, news.mongabay, 21/12/2017
David Brown là nhà ngoại giao Mỹ về hưu, hiện là một cây bút thường xuyên về Việt Nam đương đại và khu vực lân cận.