Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Ngày 27/1/1973 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, quyết định số phận của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa trên bàn Hội nghị tại Paris. Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết với hy vọng mang lại hòa bình cho Việt Nam nhưng nó đã bị vi phạm nghiêm trọng và hòa bình đạt được không như mong muốn.

hiepdinh1

Phái đoàn Mỹ và Bắc Việt ký thỏa thuận ngưng bắn ở Việt Nam vào ngày 27/1/1973 tại Paris. Đứng phía sau là đại diện Bắc Việt Nam - ông Lê Đức Thọ, và đại diện phía Mỹ - Cố vấn đặc biệt Mỹ Henry Kissinger - AFP

"Vừa đàm vừa đánh"

Theo thống kê của Chính phủ Việt Nam, để đi đến ký kết Hiệp định, các bên đã phải trải qua 201 phiên họp chung công khai và 45 cuộc tiếp xúc riêng giữa Mỹ và Bắc Việt Nam kể từ khi bắt đầu vào ngày 10/5/1968, 500 buổi họp báo và hơn 1.000 cuộc phỏng vấn.

Vào thứ năm mỗi tuần đều có một cuộc họp báo để bốn bên tường trình diễn biến Hội nghị. Có mặt trong phái đoàn báo chí phía Việt Nam Cộng Hòa suốt quá trình đàm phán, nhà báo Từ Thức vẫn còn nhớ những ấn tượng của mình :

"Cái cảm tưởng chung của tất cả các ký giả theo dõi Hội đàm Paris về Việt Nam là một sự nhàm chán. Nhàm chán bởi vì nó chỉ là một hội nghị "giả vờ" thôi. Theo chủ nghĩa của cộng sản là "vừa đánh vừa đàm". Bày ra chuyện hội nghị, nhưng sự thật vẫn tiếp tục đánh ở miền Nam và chuyện đánh miền Nam mới là chuyện quan trọng.

Trong những cuộc họp báo thì tuần nào cũng có một câu hỏi là "cuộc họp có kết quả gì không ?" và câu trả lời luôn luôn là "không" ! Và bên này đổ cho phía bên kia là không có thiện chí.

Đặc biệt là phát ngôn viên của Bắc Việt : ông Nguyễn Thành Lê coi đó là một diễn đàn để tuyên truyền. Ông ta nhắc đi nhắc lại những câu đã học thuộc lòng, đôi khi không có liên hệ gì đến câu hỏi cả. Đại khái là "nhân dân Việt Nam anh hùng, chống Mỹ cứu nước nhưng yêu chuộng hòa bình, đối xử nhân đạo tử tế với người Mỹ…". Hai, ba lần còn nghe, nhưng những năm sau có nhiều ký giả chán, bỏ cuộc hội đàm đi. Có những người cả năm không viết được một chữ nữa".

Truyền thông Nhà nước Việt Nam gọi chiến thắng của Hiệp định Paris là "kết quả của quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt và phức tạp trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, đỉnh cao của nghệ thuật kết hợp vừa đánh vừa đàm". Bàn về chủ trương này của cộng sản Việt Nam, nhà báo Từ Thức nói :

"Tất cả các tài liệu chính thức cũng như bán chính thức trên mọi cấp của cộng sản đều coi việc thôn tính miền Nam là một nghĩa vụ thiêng liêng, thành thử ra chuyện ngưng chiến chỉ là một giai đoạn mà thôi.

Chúng ta thấy gì ? Hiệp định Paris 1973 đòi ngưng bắn trên toàn miền Nam.Trên thực tế, ngay sau khi Hiệp định được ký kết, cộng sản đã đánh phá nhiều nơi, gia tăng quân sự để chiếm thêm đất ở những vùng mà thời đó gọi là "da beo" (một phần cộng sản, một phần quốc gia). Thí dụ họ tổng công kích Bình Long, Ban Mê Thuộc và cuối năm 1974, họ chiếm trọn tỉnh Phước Long".

Phe cộng sản Việt Nam vi phạm những điều nào trong Hiệp định ?

Hiệp định Paris gồm 9 chương và 23 điều được ký kết giữa bốn thành phần Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận giải phóng miền Nam với mục tiêu cao cả là chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Việt Nam. Thế nhưng, bao nhiêu điều khoản trong Hiệp định này được tôn trọng ? và ai đã vi phạm đầu tiên Hiệp định này ?

Ông Lâm Chấn Thọ, một luật sư về thương mại đang hành nghề tại tỉnh bang Quebec, Canada, nhận định phe cộng sản Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris.

"Phe cộng sản Việt Nam đã vi phạm điều 7 (Hiệp định). Chính quyền cộng sản miền Bắc Việt Nam không được đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội và cố vấn quân sự, nhưng mà họ vẫn làm. Sau khi ký rồi, họ vẫn tung vô bao nhiêu là đoàn xe của phe cộng sản Bắc Việt đi trên con đường Hồ Chí Minh để tiến vào miền Nam của chúng ta".

Nội dung điều 7 trong Hiệp định nêu rõ : "Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến khi thành lập chính phủ nói ở điều 9 (b) và điều 14 của Hiệp định này, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh".

Hai bên miền Nam Việt Nam ở đây được hiểu là Việt Nam Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Bắc Việt Nam lập ra vào tháng 6/1969 để điều hành cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam.

hiepdinh2

Một chỉ huy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa nói trên điện đàm khi nhóm của ông bị bao vây bởi hỏa lực từ phía Việt Cộng hôm 4/9/1965. AP

Điều 9 quy định quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Các nước ngoài sẽ không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị hoặc cá nhân nào đối với miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, điều 9 cũng đã bị phe cộng sản Việt Nam vi phạm theo nhận định của luật sư Lâm Chấn Thọ :

"Họ dùng chữ "nước ngoài" tức là không thuộc miền Nam Việt Nam. Tức là Hoa Kỳ là một nước ngoài, cũng như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là một nước ngoài đối với miền Nam Việt Nam. Hai quốc gia đó không được áp đặt bất cứ xu hướng chính trị nào hoặc cá nhân nào đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Rõ ràng như vậy. Mà họ vô, họ chiếm rồi họ bắt người. Họ không tôn trọng gì hết chiếu theo điều 9 này".

Điều 3 của Hiệp định quy định Hoa Kỳ phải rút quân, trong khi hơn 150.000 quân Bắc Việt vẫn còn trụ lại miền Nam Việt Nam, đó là một điều bất công, theo luật sư Lâm Chấn Thọ :

"Quân đội cộng sản miền Bắc Việt Nam được coi như là một lực lượng quân sự nước ngoài, nhưng họ vẫn có thể ở lại miền Nam Việt Nam trong lúc đó quân đội Hoa Kỳ và quân đội đồng minh của Hoa Kỳ thì phải rút đi. Đó là điều bất công".

Tại sao Hiệp định Paris vẫn được ký kết mặc dù có nhiều điều bất lợi về phía Việt Nam Cộng hòa ? Nhà báo Từ Thức lý giải :

"Lúc đó Hoa Kỳ đã muốn giao thương với Trung Quốc rồi. Lý thuyết lúc đó của Tây Phương là giúp cho Trung Quốc phát triển kinh tế. Và khi kinh tế phát triển thì người dân sẽ có nhu cầu đòi hỏi dân chủ, nước Tàu sẽ trở thành dân chủ. Ngày nay thì người ta đã vỡ mộng, người ta hiểu lý thuyết đó hoàn toàn sai, cộng sản vẫn là cộng sản dù kinh tế có phát triển tới đâu đi nữa !

Về phía Mỹ thì đang gặp khó khăn về chính trị nội bộ và trước phong tào phản chiến mạnh mẽ, Nixon chỉ có một mục tiêu là mang 23.000 quân Mỹ, mang tù binh Mỹ về Mỹ để bày tỏ công trạng với cử tri của Hoa Kỳ. Đó là chuyện chính trị nội bộ nước Mỹ, họ bất chấp rằng thái độ đó sẽ dẫn tới chuyện mất mạng hàng triệu người ở miền Nam Việt Nam, đồng minh của họ từ trước tới nay".

Ở thời điểm đó, cuộc chiến Việt Nam đã kéo dài 20 năm với những mất mát to lớn của Mỹ và đồng minh, ảnh hưởng bởi những tuyên truyền của Hà Nội cộng với các phong trào phản chiến nổ ra ở nhiều nước. Dước áp lực của Hoa kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đứng trước một tình thế bắt buộc phải ngồi vào bàn Hội nghị, nhà báo Từ Thức nói :

"Trước những yếu tố đó, ông Thiệu cực lực phản đối, ổng không muốn đi tới một Hội đàm tự sát, nhưng cuối cùng vẫn phải tham dự, bởi vì Nixon dùng mọi áp lực, nhất là viện trợ quân sự và kinh tế. Ông Nixon hứa sẽ tái oanh tạc, tái can thiệp nếu Bắc Việt vi phạm những điều đã ký kết. Nhưng sự thật thì ông ấy đã khoanh tay khi phe cộng sản gia tăng chiến tranh, gia tăng hoạt động trên đường mòn Hồ Chí Minh, gia tăng việc xâm chiếm miền Nam. Sự thật lúc đó ông Thiệu không tin vào lời hứa của Nixon nhưng vì hết ngân quỹ, hết súng đạn nên không còn con đường nào khác hơn chấp nhận ngồi vào bàn Hội nghị cả. Thành thử ra, đó là một chuyện cưỡng bách hơn là tự ý đi tới hội đàm".

Điều 10 của Hiệp định quy định hai bên miền Nam Việt Nam cam kết tôn trọng ngừng bắn và giữ vững hòa bình ở miền Nam Việt Nam, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực, theo luật sư Lâm Chấn thọ chuyện đó đã không hề xảy ra :

"Sau khi ký thì Mặt trận giải phóng miền Nam và quân đội cộng sản miền Bắc Việt Nam vẫn còn lại trong miền Nam Việt Nam. Họ tấn công, họ giành dân, họ chiếm đất của quân đội quốc gia của chúng ta. Chỗ nào bị phe cộng sản chiếm được là họ ám sát, họ giết cán bộ, công chức của Việt Nam Cộng hòa".

Nhà báo Từ Thức cũng đưa ra một vài con số cho thấy phe cộng sản Việt Nam không hề tôn trọng điều khoản này :

"Tài liệu bây giờ cho thấy là chỉ trong tháng 5/1973, Bắc Việt đã đưa thêm vào miền Nam từ 30.000 đến 35.000 quân, 35.000 tấn võ khí chỉ trong một tháng thôi ! Hiệp định quy định hai bên phải rút khỏi Lào và Cao Miên (Campuchia), không được dùng con đường Hồ Chí Minh nữa. Nhưng sau này, tướng Đồng Sĩ Nguyên, tức là tư lệnh binh đoàn Trường Sơn chỉ huy con đường Hồ Chí Minh, khoe rằng trong thời gian hội đàm, việc sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh còn tăng gấp bội, hơn cả trước nữa. Tức là họ coi Hội nghị Paris như một trò chơi".

Điều 11 quy định thực hiện hòa hợp hòa giải dân tộc, ngăn cấm mọi hành vi trả thù của bất cứ phe nào. Quyền tự do dân chủ của người dân phải được tôn trọng. Thế nhưng, theo luật sư Lâm Chấn Thọ, điều này đã không xảy ra sau khi Bắc Việt Nam chiếm được Nam Việt Nam :

"Sau khi ký thì họ không cho những người muốn về với Việt Nam Cộng Hòa được quyền đi lại. Đặc biệt là sau khi chiếm đóng miền Nam Việt Nam sau ngày 30/4/1975 thì những chuyện này chưa bao giờ được thực hành".

Và vi phạm được xem là nghiêm trọng nhất như trong quy định ở điều 12 là một Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tự do và dân chủ như đã nói trong điều 9 (b). Theo luật sư Lâm Chấn Thọ cuộc Tổng tuyển cử này đã không hề xảy ra.

"Trên nguyên tắc thì có hai miền ngồi lại để định đoạt việc bầu cử, nhưng tôi tin tưởng nếu có Tổng tuyển cử thì Việt Nam Cộng hòa, tức là phe Quốc gia của chúng ta sẽ thắng một cách vẻ vang nếu không có bạo lực và sự can thiệp của bộ đội cộng sản miền Bắc Việt Nam. Cuộc bầu cử đã không xảy ra vì phe cộng sản tấn công Việt Nam Cộng Hòa và chiếm giữ Việt Nam Cộng Hòa". 

Điều 19 trong Hiệp định cũng quy định trong vòng ba mươi ngày kể từ khi ký Hiệp định Paris sẽ có một Hội nghị quốc tế để ghi nhận các điều khoản trong Hiệp định được thực hiện. Hội nghị này sẽ bao gồm Trung Quốc, Liên xô, Anh, bốn nước trong Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, cùng với bốn nước tham gia Hội nghị Paris.

Thế nhưng, chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa kỳ, được quyền ưu tiên triệu tập Hội nghị này, Luật sư Lâm Chấn Thọ phân tích sự bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa trong điều 19 của Hiệp định Paris :

"Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ưu tiên tái hợp Hội nghị Quốc tế về vấn đề Việt Nam, không có Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ, nếu có Việt Nam Cộng hòa trong định ước này thì lúc đó nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vi phạm thì Việt Nam Cộng hòa có thể vận động Hoa Kỳ để tái hợp Hội Nghị quốc tế về vấn đề Việt Nam lại".

hiepdinh3

Trung tá quân đội Bắc Việt Bùi Tín nói "hòa bình" khi ông bắt tay với người lính Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn hôm 29/3/1973. AP

Không phải thắng lợi hay hòa bình cay đắng ?

Về mục tiêu "chấm dứt chiến tranh, thiết lập hòa bình" của Hiệp định Paris, ông Pierre Asselin, nguyên chuyên viên tại Trung tâm nghiên cứu Khoa học Quốc gia quận 6 Paris, hiện là giáo sư sử học tại Đại học Honolulu, tác giả của nhiều quyển sách về chiến tranh Việt Nam, nhận xét :

"Hiệp định Paris không phải là một thắng lợi vĩ đại của Hà Nội ; nó là một sự hòa bình cay đắng, nó cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng một cách nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975…".

Theo nhà báo Từ Thức, sự thống nhất đất nước của Việt Nam đã không đạt được qua con đường hòa bình, dù đó là một nền hòa bình cay đắng :

"Phe cộng sản đều làm ngược lại tất cả những gì họ đã ký kết. Chỉ cần đưa ra một vài thí dụ : Hiệp định Paris quy định ngưng bắn trên toàn miền Nam, việc thống nhất đất nước sẽ được thực hiện bằng phương pháp hòa bình. Tổng tuyển cử trong thời hạn do miền Nam và miền bắc đồng thuận. Trên thực tế chuyện gì đã xảy ra ? Hội nghị lần thứ 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản tháng 4 năm 1973 ghi rõ, không úp mở gì hết : Con đường cách mạng của miền Nam là "con đường cách mạng bạo lực", tức là phải dùng bạo lực để lật đổ chính quyền. Thành thử trong các tài liệu chính thức hay trên báo chí của họ, mục tiêu số 1 của họ là chiếm miền Nam. Họ dùng danh từ "thống nhất" nhưng trên thực tế là chiếm trọn miền Nam. Thành thử ra cái chữ "hòa bình" là hoàn toàn vô nghĩa".

hiepdinh4

Chữ ký của bốn bên đã ký vào Hiệp định Paris ngày 23/1/1973

Nhân kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris, vào ngày 14/1 vừa qua, tại thị xã Verrières Le Buisson, Pháp quốc, một triển lãm hình ảnh về Hiệp định Paris đã được tổ chức vì nơi đây có ngôi nhà mà bà Nguyễn Thị Bình và phái đoàn chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam lưu trú.

Bất chấp thời tiết giá lạnh, khoảng 20 người Việt đã tới số 17 Avenue Cambaceres, nơi bà Nguyễn Thị Bình lưu trú trước đây, để biểu tình. Ông Sơn Hà (thành viên Nhóm Tinh Thần Việt Nam Cộng Hòa) giải thích lý do ông kêu gọi biểu tình :

"Thứ nhất là để tố cáo cộng sản Việt Nam vi phạm Hiệp định Paris, sau là chúng tôi muốn lên tiếng với những người dân của thị xã này về sự dối trá, vi phạm của cộng sản Việt Nam. Một số người dân nghe chúng tôi giải nghĩa thì cũng đồng hành, đứng vào chung với nhóm biểu tình của chúng tôi".

Một đoàn xe của sứ quán Việt Nam đã tới nơi triển lãm nhưng đã phải bỏ đi khi gặp đoàn biểu tình mang cờ vàng của Việt Nam Cộng Hòa, theo chứng kiến của những người biểu tình.

Tường An

Nguồn : RFA, 24/01/2023

Published in Diễn đàn

Đã 46 năm trôi qua kể từ khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/01/1973 tại thủ đô nước Pháp. Vừa qua, một nhóm người từ Mỹ, Canada và tại Pháp, có người đã từng tham dự Hiệp định Paris cũng như đã từng phục vụ trong chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng hòa, đã đến thăm lại nơi chốn đã ký kết Hiệp định lịch sử này. Họ cũng là những người đang nỗ lực tái hợp lại Hiệp định Paris để tìm một giải pháp cho vấn đề biển Đông.

paris1

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger (phải) bắt tay ông Lê Đức Thọ, đại diện phái đoàn Việt Nam tại lễ ký thỏa thuận ngưng bắn ở Paris hôm 23/1/1973 - AFP

Số 19 đường Kleber, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế (Centre de Conférences International), cách đây 46 năm, đã ghi nhận một sự kiện lịch sử : Hòa đàm Paris, nơi mà 4 thành phần (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) đã đặt bút để ký : "Hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam" (Accords sur la fin de la guerre et le rétablissement de la paix au Vietnam - Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) thường được gọi tắt là Hiệp định Hòa bình Paris (Accords de Paix de Paris - Paris Peace Accords) hay Hiệp định Paris, quyết định số phận của miền Nam Việt Nam từ ngày 27/01/1973.

Trung tâm Hội nghị Quốc tế - nơi ký Hiệp định Paris - nay đã được chính phủ Pháp bán lại cho Tập đoàn khách sạn năm sao Peninsula (thuộc sở hữu của The Hongkong and Shanghai Hotels và Katara Hospitality, ex-Qatar National Hotels Co.) Mặc dù cư ngụ tại Pháp, nhưng lần đầu tiên trở lại nơi đây, nhìn lại cảnh cũ, ông Phạm Đăng Sum, nguyên Phát ngôn nhân và Giám đốc Nha Thông tin Báo chí của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa ngậm ngùi chia sẻ :

"Đến đây thì tôi rất là bỡ ngỡ, ngỡ ngàng. Bởi vì tôi không nhận ra được ! Lúc đó là buổi sáng, chúng tôi đến và ngồi ở cái phòng mà bây giờ tôi nhìn không ra mà có lẽ bây giờ họ đổi ra thành phòng ăn. Nó rộng lắm ! Có cái bàn rất rộng và trong đó có 4 phái đoàn : Lẽ tất nhiên là có phái đoàn Mỹ, phái đoàn Việt Nam Cộng hòa, phái đoàn Bắc Việt và phái đoàn miền Nam (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam-RFA) Tôi nhớ là tôi ngồi ở chỗ mà nhìn ra con đường, lúc đó chưa có cổng này".

paris2

Hình minh họa. Hình chụp hôm 25/1/1969 ở Paris : hội nghị nhằm thiết lập hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam AFP

Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 thực ra là kết cuộc của một chuỗi thương lượng kéo dài 4 năm 9 tháng bắt đầu từ ngày 13/05/1968 giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, sau đó ngày 25/01/1969 có thêm Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam với 202 phiên họp chính thức và 24 cuộc họp không chính thức (còn được gọi là "đi đêm") giữa Ngoại trưởng Henry Kissinger và các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Ông Phạm Đăng Sum còn nhớ lại sau khi Hiệp định được ký xong :

"Có một giai thoại là ông trưởng phái đoàn Bắc Việt và mấy anh ở trong Nam gặp chúng tôi cũng chào và nói rằng "Chúng mình nay mai sẽ thống nhất, gặp gỡ nhau. Trong việc này không ai được, ai thua hết. Chúng ta là dân Việt Nam cả, chúng ta từ này sẽ độc lập và theo những điều trong thỏa hiệp thì là không có những sự trả thù, không có những sự tranh đấu. Từ nay chúng ta sẽ thống nhất, hòa bình. Nhưng mà tiếc thay, lúc nói thì như vậy nhưng sau này thì sự thật thấy là sự thống nhất không được giải quyết bằng phương pháp hòa bình mà là sự cưỡng chế bằng vũ lực. Đó là điều không nói đến trong Hiệp định Ba-Lê, chỉ nói rằng sẽ có thống nhất với sự thỏa hiệp giữa hai miền chứ không có sự thống nhất bằng vũ lực như năm 1975. Đó là điều làm tôi rất buồn, rất tiếc".

Hiệp định Paris gồm 9 chương (8 chương chính và 1 chương phụ) và 23 điều khoản. Nội dung Hiệp định đòi hỏi các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam đã công nhận. Quận đội Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi Việt Nam. Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam có quyền quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng Tuyển cử tự do và dân chủ có giám sát quốc tế. Sau đó, việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.

Hiệp định Paris sẽ hết hiệu lực vào ngày Tổng tuyển cử 25/4/1976.

Điều 5, chương 2 của Hiệp định quy định Hoa Kỳ phái rút toàn bộ quân và cố vấn trong vòng 60 ngày sau khi ký hiệp định. Nhưng lại không nói gì đến lực lượng quân đội Bắc Việt còn ở lại miền Nam lúc ấy. Luật sư Lê Trọng Quát, Dân biểu thời Đệ nhất Cộng hòa , Quốc Vụ hanh thời Đệ Nhị Cộng hòa, phân tích :

"Điều khuất tất nhất trong Hiệp định Paris là không có nói chứ không phải là không nói rõ. Hoàn toàn không nói về sự tồn tại của 100.000 cán binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, cái hiệp định đó đã im lặng. Đó là sự nhượng bộ to lớn của Hoa Kỳ để cho Việt cộng ký hiệp định. Chúng ta biết rằng Hiệp định Paris có điều khoản cốt cán là quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải rút lui sau khi hiệp định ký kết. Trong lúc đó thì 100.000 cán binh Việt cộng còn ở lại trong Nam mà hiệp định hoàn toàn không nói đến. Đó là một ẩn khuất quan trọng đã quyết định số phận của miền Nam Việt Nam"

paris2

Hình minh họa. Một người dân ngồi giữa đống đổ nát ở làng mình sau những vụ đánh bom hôm 27/01/1973, ngày ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam. AFP

Hiệp định bắt đầu có giá trị lúc 0 giờ , giờ quốc tế GMT đêm 27 rạng 28/01/1973, tức 8 giờ sáng giờ Việt Nam. Nhưng sáng ngày 28/01/1973, miền bắc Việt Nam đã lợi dụng những vùng ‘tranh tối, tranh sáng’ hay vùng ‘da beo’ nơi không phân biệt được quốc gia hay cộng sản, để tiến hành cái mà họ gọi là "cuộc đấu tranh của nhân dân ta để thi hành Hiệp định Paris, thực chất là cuộc đấu tranh để tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam kéo dài hơn 2 năm nữa mới kết thúc".

Theo lời Luật sư Lê Trọng Quát thì đây là sự vi phạm Hiệp định Paris : 

"Khi tiếng súng vừa chấm dứt vào lúc 1.00 giờ sáng ngày 27/01 thì Việt cộng ở phía Bắc đã bắt đầu vi phạm hiệp định bằng cách không ngưng tiếng súng mà còn vượt ra khỏi vùng họ đang chiếm đóng để chiếm cứ thêm đất đai và dân chúng ở những vùng đó. Có thể nói tình trạng" da beo" lúc bấy giờ giữa hai bên, dân cư của những vùng khác nhau trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam đã tạo ra sự khó khăn cho việc thi hành hiệp định mà (Việt cộng) lợi dụng cơ hội đó tỏa ra để chiếm thêm đất đai, sự vi phạm bắt đầu từ đó.

Sự vi phạm thứ hai chúng ta đều biết là quân đội chính quy của Bắc Việt cộng sản đã hoàn tất cuộc xâm lăng, tràn vào chiếm cứ thủ đô Sài Gòn ngày 30/04/1975. Chúng ta thấy rõ ràng là họ vi phạm hoàn toàn Hiệp định Paris".

Để thoát ra khỏi vũng lầy của cuộc chiến Việt Nam, theo tài liệu của sử gia Trần Gia Phụng, truyền thông quốc tế sau này tiết lộ Tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã nói với Ngoại trưởng Henry Kissinger :

"Tôi không biết rằng những lời đe dọa liệu có đủ hay không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết như là - hay sẽ cắt đầu ông ta nếu cần" (Tin AFP, thứ Ba 23/06/2009. BBC thứ Tư 24/06/2009).

Ông Phạm Đăng Sum cũng khẳng định :

"Chúng tôi biết là cái Hiệp định này có nhiều cái bất lợi rồi, cho nên Tổng thống Thiệu lúc đó đã nhiều lần kéo dài không muốn ký, nhưng Hoa Kỳ đã ép buộc và đưa ra những đe dọa để bắt chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ký. Lúc qua đây, tôi là người ôm hồ sơ Hiệp định, tôi thấy rõ ràng có nhiều điều không tốt cho Việt Nam Cộng hòa. Nhưng mình nghĩ rằng nếu như thực hành nghiêm chỉnh thì cái Hiệp định đó có thể đưa ra sự hòa hợp, hòa giải giữa hai bên".

Điều thứ 11, Chương 4 trong Hiệp định quy định hai bên sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử
với bên này hay bên kia, bảo đảm các quyền căn bản của người dân.

Theo Luật sư Lê Đình Thông, nguyên công cán ủy viên Bộ Thông tin dưới thời đệ II Cộng hòa, luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn, Giáo sư Quan hệ quốc tế Đại học Nanterre (Pháp) sự thực thi điều khoản trong Hiệp định là một sự mỉa mai vì chính những người ký và cam kết đã không tôn trọng nó, ông nói :

"Mỗi điều khoản của hiệp định đã đưa đến cho tôi một sự cay đắng, một sự mỉa mai, bởi vì những quy định này hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Tôi phân tích vấn đề một cách khách quan và trong tinh thần đại học chứ không đứng trong quan điểm của bên này hay bên kia mà phân tích một cách thiên lệch : Như chúng ta thấy bản văn đã ghi rõ là "cấm mọi trả thù" vậy mà tại sao sau năm 75 chính những người đã ký kết họ đã trả thù một cách man rợ. Amnesty International đã nói rõ - mà con số này cũng do Hà Nội đưa ra - là có đến 1 triệu người đã phải vào các trại mà người ta gọi là "trại cải tạo" nhưng thực tế, "cải tạo" ở đây, theo cái nhìn của tôi là "cải tạo" từ "tự do sang nô lệ". Chữ "cải tạo" chỉ có một ý nghĩa như vậy thôi".

Điều 19 trong Hiệp định Paris quy định trong vòng 30 ngày sau khi ký kết, một Hội nghị sẽ được triệu tập để bảo đảm việc thực thi Hiệp định. Ngày 2/3/1973 một Hội nghị được triệu tập tại Paris để ký "Định ước của Hội nghị Quốc tế về Việt Nam" gồm 12 nước là bốn bên trong hội nghị Paris (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng hòa miền nam Việt Nam) cùng 8 nước khác là Canada, Hungary, Indonesia, Poland, Anh, Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc, Liên Xô và Pháp trước sự chứng kiến của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurd Waldheim. Định ước này gồm 9 điều khoản nhằm bảo đảm việc thực thi Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, giữ vững hòa bình tại Việt Nam. Luật sư Lê Trọng Quát cho biết :

"Định ước cuối cùng (Acte final) đó cũng ghi một điều rất quan trọng : Sự tôn trọng quyền lãnh thổ của nước Việt Nam. Nếu áp dụng đúng điều khoản đó thì Trung Cộng không thể xâm lăng những lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta như chúng ta đã biết".

paris4

Luật sư Lê Trọng Quát trả lời phỏng vấn RFA Photo : RFA

Dựa vào những điều khoản đã ghi rõ trong Hiệp định cũng như điều 7 trong Định ước Quốc tế quy định về việc tái hợp Hiệp định Paris, Luật sư Lâm Chấn Thọ (Montreal, Canada) từ năm 1999 đã tìm cách tái hợp lại Hiệp định Paris. Theo ông, Cộng sản Việt Nam đã không tôn trọng các điều khoản trong Hiệp định, vì thế chính phủ Việt Nam Cộng hòa chưa bao giờ thật sự chấm dứt. Nếu có một Chính phủ Pháp định liên tục công quyền Việt Nam Cộng hòa thì việc vận động các quốc gia khác tái hợp Hiệp định Paris là điều khả thi.

Điều 7 trong Định ước Quốc tế bảo đảm việc thực thi Hiệp định Paris quy định : Nếu muốn tái hợp Hiệp định Paris thì có hai cách :

1. Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tức Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay) đồng ý tái hợp

2. 6 quốc gia trong 12 quốc gia đã ký kết trong Định Ước đồng ý tái hợp. Điều này có nghĩa là : Nếu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa pháp định (hiện nay do Luật sư Lê Trọng Quát đảm nhiệm từ năm 2015) vận động được thêm 5 nước nữa đồng ý thì có thể tái hợp Hiệp định Paris.

Luật sư Lâm Chấn Thọ trình bày về công trình nghiên cứu của ông :

"Cái "Định ước Bảo đảm thực thi Hiệp định Ba-Lê" được định rằng : Khi có một vi phạm thì có một thủ tục mà chúng ta phải tuân theo để có thể tái hợp Hiệp định này lại. 

Thủ tục đó có hai phần : Phần thứ nhất : Tôi không hiểu vì lý do gì Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại có ưu tiên để tái hợp. Nếu họ đồng yêu cầu tái hợp thì mọi người phải họp. Còn nếu không thì 1 thành phần nào đó phải vận động 5 thành phần khác để được 6/12 thì mới tái hợp. Cái gì mà nó đưa tôi đến ý định đây là thời điểm mà chúng ta có thể làm việc được ? Tôi đã bắt đầu năm 1999 để kêu gọi đồng hương làm sao phục hoạt Việt Nam Cộng hòa thức dậy để dùng Việt Nam Cộng hòa kêu gọi những nước khác để có được 6 thành phần trên 12 để tái hợp Hội nghị, để đặt vấn đề bầu cử tự do ở Việt Nam và đặt vấn đề chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa với Trung cộng".

paris5

Luật sư Lâm Chấn Thọ trả lời RFA Photo : RFA

Luật sư Lâm Chấn Thọ đã bắt đầu công việc khó khăn mà có người cho là "đội đá vá trời" này để tìm lại công đạo cho miền Nam Việt Nam đã bị bức tử cách đây 46 năm bởi lợi ích của Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt. Cuộc trường chinh kéo dài 20 năm dần dần đã có những kết quả cụ thể, luật sư Lâm Chấn Thọ cho biết :

"Một tin mừng cho quý vị và cho tôi là hiện giờ Canada có một quyết nghị của Thượng Viện Canada đòi hỏi Canada phải đóng một vai trò tích cực hơn để dùng Định ước Bảo đảm thực thi Hiệp định Ba-Lê (hay còn gọi là Kết ước của Hội nghị Quốc tế về vấn đề Việt Nam) dùng cái đó để giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông. Đó là công sức của ông Thượng nghị sĩ Canada gốc Việt (Ngô Thanh Hải-RFA). Thành ra chúng ta đã đi được con đường rất xa và đặc biệt là ông Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải đã vận động được bộ luật Canada lên tiếng kết án Cộng sản Việt Nam vi phạm Hiệp định Ba-Lê một cách trắng trợn. Bộ luật đó đã được chuẩn y bởi quốc hội Canada mà không có bất kỳ một phiếu chống nào. Cộng sản Việt Nam đang điên tiết về vấn đề này. Đó là con đường chúng ta đã đi ở Canada rồi. Ở bên Hoa Kỳ, tôi đã tìm ra được một bộ luật. Đó là bộ luật 93559 : Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đồng đòi hỏi Hành pháp Hoa Kỳ phải tái hợp Hội nghị quốc tế về vấn đề Việt Nam như chúng ta đã muốn. Nhưng bộ luật đó bị ngâm tôm trong vòng mấy chục năm nay. Đó là cơ hội ngàn vàng cho chúng ta. Và sau đó quý vị thấy tôi có mặt tại Âu Châu đây là vì đây là bước tiến tiếp theo của chúng ta. Quý vị hỏi tôi những nước nào ? Xin cho tôi tạm không nói, nhưng quý vị hiểu rằng chúng tôi có mặt ở Âu Châu thì muốn hay không muốn, có những vận động đang xảy ra".

Trung Quốc là một trong những quốc gia đã ký kết bảo đảm việc thực thi hiệp định này, trong đó có điều khoản bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của miền Nam Việt Nam vì thế, việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường sa cũng là một hành động vi phạm Hiệp định Paris. Luật sư Lâm Chấn Thọ tiếp :

"Trung cộng là một thành phần đã ký, Trung cộng đã hứa sẽ tôn trọng và bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam vậy tại sao Trung cộng đã chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988 mà bây giờ không ai đặt vấn đề đó hết. Bây giờ đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề. Đặt vấn đề cách nào ? Đặt vấn đề tái hợp Hội nghị lại. Và khi chúng ta tái hợp Hội nghị lại chúng ta sẽ biến Hội nghị đó thành một cơ quan tài phán quốc tế. Tức là gì ? Là dùng ảnh hưởng của những nước (trong hội nghị Paris-RFA) để làm áp lực bắt Trung cộng phải có một thái độ đúng đắn về Hoàng Sa và Trường Sa".

Ngoài ra, Luật sư Lâm Chấn Thọ cũng trình bày trước công luận một hồ sơ mật đã được công bố : Đó là lá thư viết ngày 17/04/1975 của Ngoại trưởng Henry Kissinger gửi cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó là ông Graham Martin. Trong đó, Kissinger viết : Pháp đã tiếp cận chúng ta và đưa ý kiến tái hợp lại Hội nghị Paris, nhưng chúng ta đã từ chối vì điều đó phản tác dụng (counterproductive) cho Hoa Kỳ.

Từ đó, Luật sư Lâm Chấn Thọ có một cái nhìn lạc quan khi trở lại nơi này :

"Có 9 nước bảo đảm với đất nước của tôi là Việt Nam Cộng hòa rằng họ sẽ tôn trọng và sẽ bảo đảm quyền tự quyết của nhân dân tôi. Cho nên đó là một món nợ mà họ đã thiếu nhân dân tôi. Khi đến đây, tôi nhìn thấy cảnh vật thay đổi thì tôi nghĩ rằng tình hình thế giới sẽ thay đổi và những người đã quên món nợ của họ phải nhớ lại. Cho nên, mấy chục năm nay tôi theo đuổi để làm sống dậy, cho họ tỉnh thức dậy để họ hiểu rằng họ chưa trả món nợ đó. Đồng thời họ còn thiếu cái nợ thứ nhì là họ bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước tôi mà Trung cộng là một thành viên đã ký ngang nhiên chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Và những người đã ký cùng Trung Cộng không làm gì để giúp cho Việt Nam. Cho nên, khi tôi thấy vật đổi sao dời thì tôi nghĩ rằng gió phải đổi chiều. Tôi mong rằng đây là thời điểm chúng ta có thể đi đòi những món nợ mà những người thiếu đất nước chúng ta sẽ phải trả".

Những điều khoản đã nằm yên trong ngăn tủ từ hơn 40 năm qua nay được mở ra. Liệu chúng có khả năng giúp hồi sinh những tia hy vọng mới như lời Luật sư Lâm Chấn Thọ vừa bày tỏ ?

Tường An

Nguồn : RFA, 13/05/2019

Published in Diễn đàn