Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Đã hơn bốn thập niên Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, quá khứ chiến tranh đã thành tro tàn, những người "tham gia" vào cuộc chiến 1954-1975 không còn bao nhiêu người. Phe chiến thắng, những người lãnh đạo đất nước hôm nay, cũng không có mấy người có dính líu vào cuộc chiến. Dầu vậy lòng hận thù của phe chiến thắng, tức những người đang lãnh đạo hiện nay, vẫn còn sâu sắc đối với phe chiến bại, tức chế độ Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa. Từ trong lịch sử, những bộ sử mới nhứt được phát hành, Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị xem là "tập đoàn đánh thuê". Đến thực tế bên ngoài, cả một chính sách "phân bệt vùng miền" đã và đang ráo riết được áp dụng.

dbscl1

Đồng bằng sông Cửu Long một thời là vựa lúa không những của miền Nam mà còn cả Đông Nam Á

Bất cứ những ai có liên quan xa gần đến Việt Nam Cộng Hòa đều bị trừng trị nặng nề, bằng cách này hay cách khác. Nhiều vụ án, từ một đứa bé 14 tuổi, hay những người trẻ vô tư, chỉ vì mặc áo có hình "giống như" cờ Việt Nam Cộng Hòa đã bị Tòa kết án nặng nề. Một chiếc xe, chủ xe sơn ca pô màu vàng có sọc đỏ, cũng bị công an truy bức, bắt bớ không biết bây giờ ra sao. Dân tộc miền Nam, nhứt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, được mệnh danh là "vùng trũng của giáo dục". Không chỉ về giáo dục, ngay cả các đầu tư về hạ tầng cơ sở cho kinh tế như đường sá, cầu cống, mạng lưới điện… miền Nam luôn "bị" quên trong các kế hoạch kinh tế dài hạng của đảng cộng sản Việt Nam.

Chính sách này đã kéo dài hơn 4 thập niên. Dân đồng bằng sông Cửu Long, từ thời còn thuộc Pháp, luôn là "đầu tàu" cho kinh tế cả nước nhờ vào sản xuất lúa gạo. Nay lại trở thành một "gánh nặng" cho quốc gia. Người dân ở đây nghèo không thể tưởng. Ruộng đất không còn (hay không có). Con trai lớn lên thì bỏ xứ ra thành đi làm công nhân. Con gái thì lạc loài tứ xứ, đứa có nhan sắc thì làm đĩ, làm thiếp cho người nước ngoài (Đài Loan, Đại Hàn, Trung Quốc…). Đứa không có nhan sắc thì làm cu li, làm con ở…

Không ngoại lệ, bất kỳ một lãnh tụ công sản nào cũng "khoe" nhan sắc của người phụ nữ Việt Nam, xem đó như một "đòn bẫy" để phát triển kinh tế. Không biết vợ, con gái, cháu gái... của các lãnh tụ này có "xung phong" đi đầu trong phong trào "bán thân cứu nước" của các lãnh đạo công sản hay không. Ta không hề thấy một tiếng nói của hội bảo vệ phụ nữ, hội bảo vệ nhân phẩm… lên tiếng phản đối. Bởi vì phong trào "bán thân cứu nước" này chỉ có ở miền Nam, ở nơi gọi là "vùng trũng của giáo dục".

Chính sách "thù hận", phân biệt vùng miền này đã gây ung nhọt trên cơ thể dân tộc Việt Nam. Miền Nam (dưới vĩ tuyến 17) đã trở thành một "thuộc địa". Đảng cộng sản Việt Nam đã rớt mặt nạ "yêu nước" trở thành một lực lượng "nội xâm".

Đó là "vấn nạn" thuộc về "nội bộ".

Về "đối ngoại", chính sách miền Nam thuộc địa của đảng cộng sản Việt Nam lại gây nguy hiểm cho chủ quyền lãnh thổ cũng như vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông.

Bởi vì trên phương diện pháp lý quốc tế, chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa dính liền với Việt Nam Cộng Hòa hay các nhà nước tiền nhiệm. Tất cả các bằng chứng nhằm chứng minh chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này, không ngoại lệ, đều đến từ các nhà nước mà cộng sản Việt Nam coi là kẻ thù.

Hoàng Sa, Trường Sa đã được các triều nhà Nguyễn khám phá, khai thác và quản lý liên tục hàng thế kỷ trong hòa bình. Sang đến thời nhà nước bảo hộ Pháp, quần đảo Hoàng Sa được nhà nước này tuyên bố chủ quyền trước quốc tế, lý do thâu hồi một lãnh thổ của nhà Nguyễn mà Pháp có nhiệm vụ bảo hộ. Quần đảo Trường Sa cũng được nhà nước bảo hộ Pháp sáp nhập vào Việt Nam với danh nghĩa sáp nhập một lãnh thổ vô chủ.

dbscl2

Quần đảo Hoàng Sa là một phần lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa

Chủ quyền hai quần đảo này được đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa kế thừa.

Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là liên tục. Các nhà nước Việt Nam đã tiếp nối quản lý, khai thác hai quần đảo này trong hòa bình, không gặp quốc gia nào chống đối, (ngoại trừ Trung Quốc lên tiếng tranh chấp với Pháp ở quần đảo Hoàng Sa).

Nhưng đối với cộng sản Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn là "bọn phong kiến". Vua Gia Long, sáng lập lên nhà Nguyễn, người có công mở nước đến mũi Cà Mau, bị buộc tội "cõng rắn cắn gà nhà". Một trong những mục tiêu "khởi nghĩa", "làm cách mạng" của đảng cộng sản Việt Nam là "bài phong". Sang thời thực dân, mục tiêu trở thành "bài phong, đả thực". "Thực" là thực dân. Đến thời Việt Nam Cộng Hòa thì "đánh cho Mỹ cút ngụy nhào". "Ngụy" ở đây là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (với ông Diệm, ông Thiệu).

Tất cả những nhà nước Việt Nam chiếm hữu, tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa đều là kẻ thù "không đội trời chung" của đảng cộng sản Việt Nam.

Nói đến nhà Nguyễn, nhà nước thực dân thì quá xa. Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản Việt Nam gọi là "ngụy". Bằng cách nào chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa và Trường Sa được chuyển sang nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay ?

"Ngụy" là cái không thật. Nhà nước "ngụy" là nhà nước "bình phong", làm tay sai cho ngoại bang.

Làm thế nào để "kế thừa" Hoàng Sa và Trường Sa ở một nhà nước "phong kiến", sau đó nhà nước "thực dân", mà từ căn bản "cách mạng" là thề thốt "bài phong đả thực" tiêu diệt chúng. Làm thế nào kế thừa một tập đoàn tay sai, một tập đoàn đánh thuê ? Làm thế nào để kế thừa ở cái "không thật" ?

Bộ ngoại giao Việt Nam hôm nay, cũng như các học giả xuất thân, đều lớn tiếng nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Không loại trừ, ai cũng đưa các bằng chứng từ thời nhà Nguyễn, thời thực dân, thời "ngụy" Việt Nam Cộng Hòa để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam.

Nhà nưóc Việt Nam hôm nay vẫn xem Việt Nam Cộng Hòa là kẻ thù, vẫn còn phân biệt đối xử với dân miền Nam, vẫn còn xem những tư tưởng "khác với đảng" là phản động, thì làm thế nào hồ sơ kế thừa Hoàng Sa và Trường Sa có thể thiết lập ?

Tất cả những gì dính líu đến Việt Nam Cộng Hòa, từ cái "giống với lá cờ", đều bị trừng phạt nặng nề. Tất cả những nghĩa trang của người lính Việt Nam Cộng Hòa đều bị san bằng, cào sạch, ngoại trừ nghĩa trang Biên Hòa. Nhà nước cộng sản Việt Nam không "cào bằng" vì nó "lộ liễu" quá. Nhưng họ nghiêm cấm, không cho những thân nhân người chết đến trùng tu nghĩa trang. Thâm độc là họ cho trồng những loại cây có khả năng lớn lên, rể sẽ đội lên, "bứng" những ngôi mộ ra khỏi lòng đất. Rốt cục mục tiêu "cào bằng" của họ cũng thành công (mà không mang tiếng trả thù).

Biết bao nhiêu lần tôi đặt câu hỏi cho học giả Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bằng cách nào Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kế thừa Hoàng Sa và Trường Sa từ Việt Nam Cộng Hòa ?

Anh có thể ăn cướp của cải của một người mà anh xem là kẻ thù nhưng anh không thể kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào của người đó.

Tôi tham gia vào nghiên cứu vấn đề chủ quyền biển đảo, biên giới lãnh thổ từ những năm tôi ở tuổi bốn mươi. Đến nay đã qua lục tuần, rõ ràng là rất mõi mệt.

Hồ sơ của tôi về chủ quyền của Việt Nam hiện nay ở Hoàng Sa và Trường Sa chỉ đơn giản ở hai điều : 1/ kế thừa Việt Nam Cộng Hòa và 2/ lý thuyết về "quốc gia chưa hoàn tất", hoàn cảnh các "quốc gia bị phân chia" (như Nam, Bắc Hàn ; Đông, Tây Đức, Đài loan, lục địa…).

Sau đây là bài viết của tôi từ nhiều năm trước, nói về việc "kế thừa".

Hoàng Sa và Trường Sa : Vấn đề kế thừa Việt Nam Cộng Hòa

Trong hồ sơ Hoàng Sa, khó khăn nhất của Việt Nam hôm nay là chứng minh được quốc gia có tên gọi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã "kế thừa" danh nghĩa chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của thực thế Việt Nam Cộng Hòa.

Bà Monique Chemillier-Gendreau [i] dựa lên thuyết "liên tục quốc gia" để cho rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể kế thừa Việt Nam Cộng Hòa để có quyền chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa :

"Le Vietnam aujourd’hui unifié (par la victoire du Nord) doit choisir à qui il succède sur ce point. La logique territoriale renforce une cuccession aux droits et actions du Sud-Vietman, seul compétent d’une point de vue géographique".

Tạm dịch : Nước Việt Nam thống nhất hôm nay (do chiến thắng của miền Bắc) phải lựa chọn bên nào để kế thừa (danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa). Lôgíc về mặt lãnh thổ củng cố sự kế thừa về các quyền và những hành vi của Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý.

Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa liên tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn chuyển sang triều Tây Sơn, sang triều đại nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước bảo hộ Pháp. Năm 1954, quốc gia Việt Nam bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, tiếp nối nhà nước bảo hộ Pháp, quản lý liên tục và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa.

Tức là lập luận của bà học giả M. Chemiller-Gendreau "Nam Việt Nam, phía duy nhất có thẩm quyền trên quan điểm địa lý" là phù hợp với thực tế lịch sử và pháp lý.

Một câu hỏi (chính đáng) đã đặt ra, từ những lần bàn luận trên các diễn đàn internet : anh đã giết chết người ta thì anh có tư cách gì để kế thừa người ta ?

Từ "giết chết" sử dụng ở đây có thể không phù hợp, nhưng thực tế lịch sử giữa hai thực thể Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ năm 1959 đến 1975, đã thể hiện trong chiều hướng như vậy.

Thủ tục "kế thừa" có thể thể hiện (một cách đơn giản như bà học giả M. Chemiller-Gendreau đề nghị) trong một hoàn cảnh lịch sử thế này hay không ?

Nội dung Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của ông Hồ Chí Minh

"Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

Tuyên bố này, trên quan điểm pháp lý, cắt đứt mọi quan hệ giữa nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhà nước bảo hộ Pháp. Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là chính phủ của một Việt Nam mới (không quan hệ gì với nhà nước vương quyền cũng như các nhà nước đã từng hiện hữu trên đất nước Việt Nam, đồng thời hay trước đó.)

Nội dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Lê Duẩn :

"Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân… Nó đã xóa bỏ chính quyền Nhà nước của thực dân và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là Nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta…".

Bản báo cáo này khẳng định nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là chính phủ của một nước Việt Nam mới, đã "xóa bỏ thực dân phong kiến".

Khi đã "xóa bỏ" thì không có gì còn vướng mắc. Không hiện hữu vấn đề "kế thừa" giữa mình và cái mình đã xóa bỏ, mà chỉ có việc "chiếm hữu" (hay chiếm đoạt) mà thôi.

Nội dung hiến pháp 1959 :

"Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước".

Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa luôn gọi Việt Nam Cộng Hòa là "bọn tay sai", là "giặc", là "ngụy". "Ngụy" tức là giả. Khi anh cho rằng bọn đó là "giả", không phải là một thực thể chính trị, thì làm sao hiện hữu vấn đề kế thừa ? Anh không thể kế thừa một cái gì đó không có thật (ngụy).

Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10/9/1960 :

"Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược : Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước…".

Nghị quyết khẳng định chính quyền miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) là "bọn tay sai".

Câu nói hiện nay trên môi những người lãnh đạo Việt Nam (và các học giả Việt Nam) : "nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa từ nhà nước Việt Nam Cộng Hòa", hay nại việc Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố này kia tại Hội nghị San Francisco năm 1951 nghe thật là lố bịch và chướng tai. Đâu có ai kế thừa cái gọi là "danh nghĩa chủ quyền" từ "bọn tay sai" bao giờ ? Đã là "tay sai" thì chỉ có "tuân lệnh chủ" chứ làm sao có vấn đề "danh nghĩa" ở đây ?

Chiến thắng 30/4/1975, không hề hiện hữu một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa Việt Nam Cộng Hòa với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay với Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam).

Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa ?

Theo ý kiến của bà học giả M. Chemiller-Gendreau, sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể "kế thừa" Việt Nam Cộng Hòa để khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhưng với một thực tế lịch sử và pháp lý như vậy, ta có thể thuyết phục được ai ? Chưa chắc được với một người dân thường huống chi trước những Thẩm phán giàu kinh nghiệm trước một Tòa án, hay trước những học giả dư tài hùng biện của Trung Quốc.

Một số học giả Việt Nam (thuộc nhóm Quĩ nghiên cứu Biển Đông và Trường Sa, Phạm quang Tuấn) biện luận rằng "theo luật quốc tế, chủ quyền lãnh thổ thì thuộc về quốc gia" và chủ trương có hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ 1954-1975. Mục đích nhằm chứng minh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kế thừa danh nghĩa chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ Việt Nam Cộng Hòa, thông qua Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Lập luận này đã sai từ những điều rất cơ bản :

1/ Không có "luật quốc tế" nào (còn hiệu lực) qui định "chủ quyền lãnh thổ thuộc về quốc gia" hết cả. Lý thuyết của các học giả này là lý thuyết "territoire-objet", hiện hữu ở thời kỳ phong kiến, lãnh thổ thuộc về vua chúa. Quan niệm này chấm dứt cùng lúc với chế độ phong kiến quân quyền. Đây là một quan niệm được các nhà Luật học đương thời phê bình là "sai lầm"[ii].

2/ Không hề hiện hữu "hai quốc gia" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa trong thời kỳ 1954-1975.

3/ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể "kế thừa" danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa (và Trường Sa) từ Việt Nam Cộng Hòa, thông qua Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Lập luận này dựa theo thuyết "Reversion" không hề được công pháp quốc tế nhìn nhận (Xem tranh chấp Erythré và Yemen (2) về chủ quyền các đảo ở Hồng Hải).

Khi "lý thuyết" lập nên từ những lập luận nền tảng (đã sai), thì lý thuyết đó không có một giá trị hữu dụng nào.

Cũng những học giả này (Phạm Quang Tuấn và thuộc nhóm Quĩ nghiên cứu Biển Đông) lập luận trên nền tảng công ước Montévidéo, cho rằng Việt Nam Cộng Hòa là một "quốc gia" :

"Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể có đủ 4 điều kiện của một quốc gia (state), gồm : (a) một dân số ổn định ; (b) một lãnh thổ rõ rệt ; (c) có một chính quyền ; và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác".

Tác giả không giải thích bằng cách nào danh nghĩa chủ quyền Hoàng Sa từ "quốc gia" Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang "quốc gia" Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay.

Nếu các thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là hai "quốc gia", thì mối tương quan giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc là tương quan giữa "quốc gia" với "quốc gia". Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, được sự "im lặng đồng tình" của quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào tháng giêng năm 1974, cũng như được sự "đồng thuận" của "quốc gia" này trong quá khứ thể hiện qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (cùng với nhiều hành vi mặc định khác).

Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa trên tay Việt Nam Cộng Hòa

Quí vị thử giải thích làm sao Việt Nam Cộng Hòa có thể chuyển cho Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cái đã bị mất ?

Các học giả này vịn vào Công ước Montévidéo năm 1933 để cố chứng minh Việt Nam Cộng Hòa là "một quốc gia". Điều này hoàn toàn sai !

Thực ra là một công ước Montévidéo năm 1933 được ký kết giữa các xứ thuộc Châu Mỹ, lâu ngày trở thành "tập quán" của Luật quốc tế. Nhưng nội dung của nó không đủ để diễn đạt thế nào là một "quốc gia" sau Thế chiến II cũng như trong khung cảnh "Toàn cầu hóa" hiện thời.

Đâu phải hễ có lãnh thổ, dân chúng, một chính quyền và chính quyền này có khả năng giao dịch với các quốc gia thì là "quốc gia" ?

Trường hợp Palestine, Đài Loan… họ cũng có lãnh thổ, dân chúng, có chính quyền và chính quyền này có khả năng "giao dịch" với các nước trên thế giới, sao họ không là "quốc gia" ?

Các tổ chức "ONG", hay các "tập đoàn kinh tế" hiện nay, họ có tư cách pháp nhân trong "Luật quốc tế", có "quan hệ" với các quốc gia, nhưng họ đâu phải là quốc gia ?

Vì thế, Công pháp quốc tế hôm nay bổ túc thêm hai đặc tính "độc lập – indépendant" và "có chủ quyền – souveraineté" vào định nghĩa (điều kiện thành lập) "Quốc gia" theo công ước Montévidéo.

Hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa được khai sinh theo Hiệp định Genève 1954 và hiệp định này được quốc tế công nhận (và bảo trợ).

Trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.

Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất (được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973). Điều này thể hiện lên thực tế.

Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối xã hội chủ nghĩa công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

Các học giả này nói rằng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là "hai quốc gia độc lập, có chủ quyền".

Không ai đưa được bằng chứng cho biết quốc gia nào (trên thế giới này) đã cùng lúc công nhận hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ?

Điều tệ hại, nhân tôi viết về hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, quí vị học giả này cho rằng "công hàm Phạm Văn Đồng là vũ khí tuyên truyền của Trung Quốc". Quí vị Phạm Quang Tuấn cùng nhóm học giả Quĩ Nghiên cứu Biển Đông "chụp mũ" tôi là người "tuyên truyền" cho Trung Quốc.

Những người này bênh vực hành vi "bán nước" của ông Hồ, ông Đồng đến mức mù quáng. Công hàm này có hiệu lực pháp lý hay không là phải phân tích bằng tinh thần khách quan khoa học, dưới ánh sáng của quốc tế công pháp, chớ không phải bằng phương cách "cả vú lấp miệng em", thằng nào cãi hay là thằng đó nói đúng.

Trở lại vấn đề kế thừa Việt Nam Cộng Hòa

Nhiều người có ý kiến : chỉ cần đổi tên nước, đổi quốc kỳ, quốc ca… để trở thành Việt Nam Cộng Hòa thì mọi việc đều ổn thỏa.

Theo tôi thì chưa chắc. Khi anh gọi người ta là "ngụy", là "giặc", là "bọn tay sai"… thì anh làm sao kế thừa ?

Bà Joële Nguyên Duy-Tân qua bài "La représentation du Viet Nam dans les institutions spécialisées" [iii] có đặt vấn đề :

"La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle ?

Tạm dịch : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa luôn cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?

Vì thế, việc đổi tên nước, đổi cờ quạt này kia… là không thuyết phục.

Tôi đã đề nghị giải pháp "kế thừa" thông qua chính sách "hòa giải dân tộc" sau đây. Biện pháp là :

Nhà nước cộng sản Việt Nam bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ : Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính líu đến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân ; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Thể thức này nhằm đoạn tuyệt với di sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức đoạn tuyệt với công hàm 1958 cùng với những thái độ có thể khiến Việt Nam bị vướng Estoppel hay Acquiescement.

Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật "hòa giải dân tộc", trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức Việt Nam Cộng Hòa nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng "ngụy" đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án "xét lại chống đảng" v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệc cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…

Vấn đề "đền bồi" ở đây, trước tình hình đất nước, có thể chỉ là một hình thức nào đó, "tượng trưng" mà thôi. Để tránh những xáo trộn sâu xa trong xã hội.

Thể thức này nhằm "kế thừa" danh nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa.

Trên căn bản như thế Việt Nam đương nhiên có chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, như Việt Nam Cộng Hòa, từ đó mới có cơ sở giải quyết các tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế, phân định hải phận biển Đông với các nước khác.

Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, Việt Nam sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và hải phận của tổ tiên để lại.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb.nhantuan.truong, 19/01/2018

(1) http://www.viet-studies.info/…/LongHuyTuanDoan_CongHamPhamV…
(2) http://www.persee.fr/…/ar…/afdi_0066-3085_1998_num_44_1_3519
(3) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/ve-bai-viet-gia-tri-pha…
(4) http://www.diendan.org/viet-nam/viet-nam-lam-gi-bay-gio
(5) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/cong-ham-1958-mot-van-e…
(6) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/thu-xet-vai-lap-luan-ph…
(7) http://nhantuantruong.blogspot.fr/…/thu-mo-kinh-goi-thu-tuo…

[i] Monique Chemillier-Gendreau, "La Souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys", nxb Harmattan, ISBN 2-7384-4061-4, tr 123.

[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public, L.G.D.J, 8e Edition, tr 456.

[iii] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In : Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 

http://www.persee.fr/…/ar…/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996

Published in Diễn đàn