Để Việt Nam có thể tham gia hiệp định thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hà Nội đã đồng ý từ bỏ độc quyền về công đoàn, chấp nhận cho thành lập các công đoàn độc lập. Điều khoản này đã được đưa vào Luật Lao động sửa đổi được thông qua tháng 11/2019 và đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Nhưng để cho người lao động thật sự có quyền thành lập các tổ chức độc lập với các công đoàn do nhà nước kiểm soát, Việt Nam còn phải sửa đổi Luật Công đoàn.
Công nhân tại một nhà máy sản xuất áo thun ở ngoại ô Hà Nội, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 09/01/2007. AP - Tran van Minh
Nhưng có vẻ như Việt Nam không mấy vội vả trong việc sửa đổi luật này. Trong kỳ họp Quốc Hội Việt Nam hiện đang diễn ra, các đại biểu vừa thông qua quyết định là phải đến kỳ họp tháng 5/2024 mới xem xét Luật Công đoàn sửa đổi và đến kỳ họp tiếp vào tháng 10/2024 mới đưa luật này ra biểu quyết.
Công đoàn duy nhất
Hiện giờ, ở Việt Nam Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức công đoàn duy nhất, nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam. Chủ tịch hiện nay của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, ông Nguyễn Đình Khang, cũng là một ủy viên Trung ương Đảng.
Điều 7 Luật Công đoàn năm 2012 quy định "hệ thống tổ chức công đoàn gồm có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Công đoàn cơ sở được tổ chức trong cơ quan nhà nước, các tổ chức trong nước, đơn vị, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam".
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 20/02/2023, luật sư Hoàng Cao Sang, Công ty luật Hoàng Việt Luật, Sài Gòn, ghi nhận :
" Ở Việt Nam hiện có một công đoàn duy nhất và theo hệ thống ngành dọc. Trên cao nhất là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, sau đó là các công đoàn cơ sở, một hệ thống công đoàn duy nhất để quản lý, hỗ trợ cho người lao động. Tuy nhiên, trên thực tế, công đoàn không hỗ trợ được gì nhiều cho người lao động, mà chủ yếu mang tính hình thức và mang tính hành chính.
Theo Luật Công đoàn thì công đoàn đại diện bảo vệ quyền lợi cho người lao động, hướng dẫn cho người lao động ký kết hợp đồng, bảo vệ người lao động khi xảy ra các tranh chấp với người sử dụng lao động. Tuy nhiên, như tôi đã nói, những quy định đó chỉ mang tính hình thức, còn trên thực tế cũng không giải quyết được vấn đề gì.
Bản chất của vấn đề ở đây, đó là công đoàn là do nhà nước lập ra, chứ không phải là do người dân lập ra, không phải là do ý chí của người dân, của người lao động, cho nên hoạt động không hiệu quả. Tôi cho rằng, sắp tới đây, với xu thế hội nhập, cũng như là để đảm bảo quyền lợi của người lao động một cách chính đáng nhất, cần phải sửa đổi những quy định của Luật Công đoàn hiện nay .
Việt Nam đã sửa đổi Luật Lao động vào năm 2019 để hội nhập với thế giới theo tinh thần của Tổ chức Lao động quốc tế, nhưng Luật Công đoàn vẫn chưa được sửa đổi. Cho nên, so với tinh thần của Luật Lao động thì Luật Công đoàn vẫn còn chưa phù hợp, hay cách khác là còn lạc hậu so với những sửa đổi của Luật Lao động. Cụ thể là Luật Lao động đã cho người lao động, ngoài công đoàn của nhà nước, có quyền thành lập và có quyền tham gia các tổ chức để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Cho nên Luật Công đoàn còn bất cập với quy định về thành lập công đoàn, hay nói rộng hơn là bất cập với quy định về tự do thành lập các tổ chức, các hội của người lao động, cũng như của người dân nói chung".
Chưa phê chuẩn Công ước 87
Cũng theo luật sư Hoàng Cao Sang, công ước cuối cùng của Tổ chức Lao động Quốc tế mà Việt Nam hứa phê chuẩn là Công ước 87, liên quan đến tự do lập hội, thành lập công đoàn độc lập, vẫn chưa được Việt Nam ký kết :
"Trong năm 2023 này, theo lộ trình thì Việt Nam sẽ ký Công ước 87. Khi Việt Nam ký công ước đó thì đồng thời cũng phải sửa Luật Công đoàn sao cho phù hợp với tinh thần của hội nhập. Việt Nam phải sửa đổi, chứ không thể nào để pháp luật trì trệ khi mình muốn hội nhập để bảo đảm quyền lợi của mình trong cuộc chơi với các nước khác.
Tôi nghĩ rằng khi mà trong cuộc đua đã có hai đội trở lên, thì hai đội đều phải có tinh thần thay đổi. Nếu luật cho người lao động quyền thành lập một tổ chức mới, người lao động có quyền tham gia và điều hành các tổ chức đó để bảo vệ quyền lợi của họ, thì bản thân công đoàn của nhà nước cũng phải thay đổi theo tinh thần bảo vệ quyền lợi người lao động và tổ chức các hoạt động hiệu quả hơn. Nếu không hoạt động hiệu quả thì họ sẽ bị đào thải theo quy luật.
Đoạn 3 của điều 170 Luật Lao động có quy định là các tổ chức đại diện người lao động bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động. Với quy định đó, các công đoàn của nhà nước cũng như tổ chức do người lao động tự thành lập sẽ hoạt động tốt hơn so với bây giờ".
Hiện giờ Việt Nam chỉ mới trong giai đoạn "góp ý, hoàn thiện dự án luật Công đoàn sửa đổi", trong khi theo lẽ Luật Công đoàn sửa đổi phải được thông qua ngay từ năm nay. Trước mắt, theo kế hoạch của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trước ngày 01/03/2023, cơ quan này đã gởi hồ sơ đề nghị xây dựng luật đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để xem xét đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024. Vì sao có sự chậm trễ như vậy, luật sư Hoàng Cao Sang giải thích :
" Luật Công đoàn là một vấn đề nhạy cảm, vì thường ở đây có nhiều người nói rằng thành lập công đoàn độc lập có nghĩa là có nhiều tổ chức dân sự gần giống như là tự phát, như vậy thì nhà nước khó quản lý như trước đây và dẫn đến "bất ổn chính trị" cho Việt Nam.
Nhưng theo tôi, nhận định đó là không phù hợp, bởi lẽ vấn đề liên quan đến pháp luật thì phải đặt quyền lợi của người dân lên hàng đầu, quyền lợi của người lao động phải được đảm bảo, đặc biệt là khi Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế, sân chơi chung, thì phải có sự thống nhất.
Tôi nghĩ rằng quan điểm của một số người cũng dẫn đến việc sửa đổi bổ sung Luật Công đoàn bị chậm trễ. Tôi cho rằng không thể để chậm trễ hơn nữa, chúng ta càng đi chậm thì chúng ta sẽ càng bị tụt hậu so với hội nhập quốc tế".
Tác động của Mỹ
Chính là do sự thúc ép của Hoa Kỳ khi thương lượng về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, mà Việt Nam đã cam kết chấp nhận sự ra đời của các công đoàn độc lập. Nhưng chính quyền Donald Trump sau đó đã rút Mỹ khỏi thỏa thuận trước khi nó có hiệu lực. Hiệp định TPP nay đã đổi thành CPTPP, tức Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, mà vẫn chưa có sự tham gia của Mỹ.
Tuy vậy, theo trang mạng Nikkei Asia ngày 30/01/2023, chính phủ Hoa Kỳ đang hối thúc Việt Nam thông qua Luật Công đoàn mới. Ông Chad Salitan, tùy viên lao động tại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội, nói với Nikkei Asia : "Chúng tôi muốn giải quyết những vấn đề này không phải với tư cách kẻ cả, mà là với tư cách bạn bè, đối tác. Tất cả chúng tôi đều đang cố gắng làm ngày càng tốt hơn trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế".
Ông cho biết các quan chức Hoa Kỳ đang đóng góp ý kiến cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam để bảo đảm luật về công đoàn không chỉ "có trên giấy tờ" và người lao động thực sự có thể tham gia lập một tổ chức để bảo vệ quyền lợi cho họ.
Nikkei Asia nhắc lại vào năm 2022, Salitan đã là quan chức đầu tiên của Bộ Lao Động Hoa Kỳ được cử đến làm việc ở Việt Nam, đánh dấu một giai đoạn mới trong các cuộc đàm phán song phương về lao động trong bối cảnh chính quyền Biden đưa ra chính sách thương mại "lấy người lao động làm trung tâm".
Salitan cho biết ê kíp của ông và các đối tác Việt Nam đang thảo luận về thương lượng tập thể và quyền tự do hiệp hội để "người lao động có tiếng nói tại nơi làm việc". Theo ông, "các tổ chức đại diện của người lao động sẽ cho phép người lao động có tiếng nói tại nơi làm việc của họ độc lập với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam".
Nhưng Nikkei Asia trích lời ông Joe Buckley, một chuyên gia về chính sách lao động ở Việt Nam, cảnh báo rằng các tổ chức này sẽ không phải là công đoàn thực sự, và luật vẫn sẽ hạn chế khả năng mở rộng hoạt động công đoàn ra bên ngoài công ty của họ hoặc tham gia vào các cuộc thảo luận về chính sách.
Hơn nữa, ông Joe Buckley lưu ý, Hoa Kỳ không có một cơ chế chính thức nào để buộc Hà Nội phải tuân thủ cam kết của mình. Tuy vậy, các hiệp định CPTPP và EVFTA ( Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên Âu ) cho phép các thành viên khiếu nại về việc thực thi. Khi được hỏi liệu Hoa Kỳ có đang hợp tác với các thành viên của những khối đó hay không, Salitan nói rằng thông thường Mỹ "hợp tác với các đồng minh có cùng chí hướng của chúng tôi".
Trên trang mạng Fulcrum, chuyên phân tích tình hình các nước Đông Nam Á, ông Joe Buckley tuy vậy cho rằng Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có thể đóng một vai trò lớn hơn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động và trước mắt đã đạt được một số "thành tựu khiêm tốn" trong bối cảnh suy thoái hiện nay ở Việt Nam, khiến đời sống công nhân thêm khó khăn.
Nhưng ông Joe Buckley ghi nhận Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vẫn bị hạn chế lớn nhất, vì đây là một tổ chức do nhà nước lãnh đạo, nằm gọn trong cơ cấu cầm quyền và trực thuộc Đảng cộng sản, nên khó có thể là đại diện độc lập của người lao động đối với nhà nước và người sử dụng lao động.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 12/06/2023
Mãi đến tháng Bảy năm 2019, rốt cuộc một trong những mơ ước và cũng là mục tiêu đấu tranh gian khổ trong rất nhiều năm qua của người lao động cùng xã hội dân sự đã tạm đơm hoa kết trái : chính thể độc tài và chưa bao giờ chịu ‘nhả’ quyền lực can thiệp lẫn thao túng vào tổ chức công đoàn của công nhân đã phải chấp nhận sửa Luật Công đoàn.
Người lao động Việt Nam tại Đài Loan biểu tình đòi Hà Nội giải tán các tổ chức môi giới trung gian bóc lột - Hình minh họa.
Vẫn câm nín ‘phí ăn cướp 3%’ !
Nhưng sự kiện mang tính quá đỗi hiếm muộn trên đã chỉ được công bố chính thức sau khi Liên minh Châu Âu (EU), trong tư thế đành tạm hài lòng với một chút ‘cải thiện nhân quyền’ cho có và hết sức trí trá của chính thể Việt Nam, đã đành phải ‘nhả’ cho chính thể này bằng việc tổ chức ký kết hai hiệp định EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) và EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên Minh Châu Âu) vào ngày 30/6/2019 tại Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - một trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ đã dự kiến phạm vi Luật Công đoàn sửa đổi sẽ tập trung điều chỉnh với 6 nhóm quy định chủ yếu : Vai trò, quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn ; Nguyên tắc tổ chức và chỉ đạo hoạt động công đoàn ; Quyền gia nhập công đoàn của người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ; Quyền gia nhập hệ thống công đoàn Việt Nam của tổ chức đại diện người lao động ; Các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn ; Tài chính công đoàn.
Theo kế hoạch, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn dự kiến trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) và thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020).
Thế nhưng cáo chết không chừa nết. Một trong những nội dung cốt lõi trong Luật Công đoàn cần phải xóa bỏ là ‘phí ăn cướp 3%’ vẫn không được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nêu ra, trong khi trước đó chính chủ thể này đã là tác nhân muốn giấu biến Luật Công đoàn để khỏi phải sửa đổi.
Âm mưu !
Cho đến nay, không phải thông tin từ các cơ quan chính quyền mà là từ giới xã hội dân sự đã cho người lao động biết một yêu sách bắt buộc : Luật Công đoàn năm 2012 có khá nhiều mối liên hệ hữu cơ qua lại với Bộ luật Lao động, và một cách đương nhiên theo đòi hỏi của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam đã tham gia, và cả hai hiệp định EVFTA và EVIPA mà Việt Nam có thể sẽ được tham gia, khi sửa luật này thì đồng thời phải sửa luật kia và ngược lại.
Nhưng cái cách sửa luật song trùng như thế rất có thễ vẫn sẽ mãi là kỳ vọng mà không thể biến thành một thứ thực tế nào dù chỉ là thực tế thật khiêm tốn, bởi trong thực tế vào năm 2018 và cho đến tận gần đây đã tồn tại âm mưu ‘không sửa Luật Công đoàn’.
Bằng chứng của âm mưu trên, trớ trêu thay, lại bị lộ ra bởi… Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh. Tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2018, mặc dù đã phải thừa nhận sẽ cạnh tranh với công đoàn độc lập được lập ra bởi công nhân trong tương lai, Phạm Bình Minh vẫn thản nhiên nói trước quốc hội : ‘cho đến hiện nay thì Chính phủ không đề xuất sửa Luật Công đoàn’.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa và bệ rạc để Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong suốt một thời gian dài đã không hề trình một dự thảo nào về sửa Luật Công đoàn.
Nhưng vì sao Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại tha thiết với Luật Công đoàn cũ đến thế ?
"Không ăn cướp thì là cái gì !"
Cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nằm trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ bị xem là bám chặt đời sống ký sinh, mỗi năm tiêu xài đến 14.000 tỷ đồng tiền ngân sách - tức tiền mà người dân phải è cổ đóng thuế.
Nhưng ngoài tiền cấp từ ngân sách, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam còn một nguồn thu rất màu mỡ khác.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’.
Nhưng cho tới nay, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vẫn chưa hề minh bạch tài chính, hay nói thẳng là chưa hề công bố con số thu hàng năm từ ‘phí ăn cướp 3%’ là bao nhiêu, chi cho những mục gì và số tiền mà cơ quan này lợi dụng để ‘ăn chơi nhảy múa’ thâm lạm đến mức nào.
Cho đến năm 2019 và khi chính thể Việt Nam đã phủ phục sát thềm CPTPP và EVFTA, thái độ của ‘kẻ cướp’ vẫn chẳng có gì đáng gọi là phục thiện. Mối quan hệ giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với những đơn vị do cơ quan này làm ‘chủ quản’ thậm chí còn tồi tệ đến mức vào tháng 6 năm 2019, Đại học Tôn Đức Thắng ở Sài Gòn đã trở thành địa chỉ đầu tiên tố cáo cơ quan chủ quản của đại học này là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về chế độ ‘nộp tô’ đến 30% kết quả tài chính sau khi đã nộp thuế (có thể hiểu là phải nộp đến 30% của phần lợi nhuận ròng sau khi đã nộp thuế).
Trả thù đê tiện !
Đáng chú ý, thư tố cáo trên mà được gửi đến các cơ quan của đảng và chính quyền, nhưng không phải ‘lưu hành nội bộ’ mà được Đại học Tôn Đức Thắng công bố cho báo chí nhà nước - như một thông điệp sẵn sàng đối mặt với cơ chế đầy bất công và tham lam của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam bị một vố đau điếng từ thư tố cáo của một đơn vị do cơ quan này làm chủ quản. Và cũng là lần đầu tiên một đơn vị cấp dưới như Đại học Tôn Đức Thắng thấm thía về thói hư tật xấu và nạn thù vặt bẩn thỉu đê tiện của giới quan chức chủ quản luôn tụng niệm ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ và ‘luôn chăm lo và bảo vệ quyền lợi người lao động’ là đến mức nào.
Nhưng chỉ đến lúc này, các đơn vị bị ‘chủ quản’ mới nhận chân ra được việc cấp trên của họ sẵn sàng trả thù đê tiện ra sao. Ngay sau phản ứng công khai trên của Đại học Tôn Đức Thắng, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã trả đũa bằng cách đề nghị Bộ Giáo dục và đào tạo xem xét tính hợp pháp việc phong giáo sư của ông Lê Vinh Danh - hiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng - và tự phong giáo sư cho giảng viên của trường đại học này, mà có thể hiểu là muốn cách chức ông Danh.
Trùng với thời gian đòi Đại học Tôn Đức Thắng phải ‘nộp tô’, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần đầu tiên phải đối mặt với nguy cơ ‘đa công đoàn’, hoặc tương lai hình thành công đoàn độc lập do người lao động tự thành lập mà không còn nằm trong guồng máy chi phối của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, và sẽ cạnh tranh sòng phẳng với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khi chính thể độc tài Việt Nam triển khai Hiệp định thương mại quốc tế CPTPP và có thể được ‘ăn’ Hiệp định thương mại EVFTA với Châu Âu. Điều đó cũng có nghĩa rằng mức thu ‘3% ăn cướp’ nhiều khả năng không còn nữa.
Hẳn nguy cơ hụt thu trên đã khiến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, vốn quen ‘tham ăn’, không còn cách nào khác là tróc nã các đơn vị thuộc quyền chủ quẩn của mình như Đại học Tôn Đức Thắng, với mức thu như thể giết người.
Phải xóa bỏ !
Thực ra, sẽ chẳng cần ngạc nhiên về thói quen ‘ăn tạp’ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nếu biết tường tận về một thực tế không thể chối cãi : cơ quan này chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân đã khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Còn giờ đây, cái thời chuyên quyền độc đoán và ‘ăn cướp’ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đến hồi kết.
Đã tới lúc số thu ‘3% ăn cướp’ trong nhiều năm qua mà ‘thủ phạm’ là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phải được kiểm toán hoặc thanh tra cấp chính phủ, đồng thời phải bị xóa bỏ hoàn toàn trong Luật Công đoàn sửa đổi.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 14/07/2019
Sau nhiều năm đằng đẵng không chịu từ bỏ cơ chế độc quyến về ‘quản lý công đoàn’, cuối cùng chính thể độc tài Việt Nam đã phải chấp nhận sửa Luật Công đoàn sau khi hai hiệp định EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) và EVIPA (Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên Hiệp Châu Âu) được chính thức ký kết vào ngày 30/6/2019 tại Hà Nội.
Hội thảo về một số đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn - Ảnh minh họa
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - một trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ đã dự kiến phạm viLuật Công đoàn sửa đổi sẽ tập trung điều chỉnh với 6 nhóm quy định chủ yếu : Vai trò, quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn ; Nguyên tắc tổ chức và chỉ đạo hoạt động công đoàn ; Quyền gia nhậpcông đoàn của người lao động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ; Quyền gia nhập hệ thốngcông đoàn Việt Nam của tổ chức đại diện người lao động ; Các hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng chống công đoàn ; Tài chính công đoàn.
Theo kế hoạch, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn dự kiến trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) và thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020).
Thế nhưng một trong những nội dung cốt lõi trong Luật Công đoàn cần phải xóa bỏ là ‘phí ăn cướp 3%’ vẫn không được Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam nêu ra, trong khi trước đó chính chủ thể này đã là tác nhân muốn giấu biến Luật Công đoàn để khỏi phải sửa đổi.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’.
Nhưng cho tới nay, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam vẫn chưa hề minh bạch tài chính, hay nói thẳng là chưa hề công bố con số thu hàng năm từ ‘phí ăn cướp 3%’ là bao nhiêu, chi cho những mục gì và số tiền mà cơ quan này lợi dụng để ‘ăn chơi nhảy múa’ thâm lạm đến mức nào.
Trong thâm niên ‘ăn tạp’ của mình, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân còn khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Được xem là ‘anh em sinh đôi’ với Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn ‘ăn cướp 3%’ là một trong những chân kiềng cho chế độ độc tài và độc quyền cả về bóp hầu bóp cổ công nhân.
Mối quan hệ giữa Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam với những đơn vị do cơ quan này làm ‘chủ quản’ thậm chí còn tồi tệ đến mức vào tháng 6 năm 2019, Đại học Tôn Đức Thắng ở Sài Gòn đã trở thành địa chỉ đầu tiên tố cáo cơ quan chủ quản của đại học này là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về chế độ ‘nộp tô’ đến 30% kết quả tài chính sau khi đã nộp thuế (có thể hiểu là phải nộp đến 30% của phần lợi nhuận ròng sau khi đã nộp thuế).
Đáng chú ý, thư tố cáo trên mà được gửi đến các cơ quan của đảng và chính quyền, nhưng không phải ‘lưu hành nội bộ’ mà được Đại học Tôn Đức Thắng công bố cho báo chí nhà nước - như một thông điệp sẵn sàng đối mặt với cơ chế đầy bất công và tham lam của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam bị một vố đau điếng từ thư tố cáo của một đơn vị do cơ quan này làm chủ quản. Và cũng là lần đầu tiên một đơn vị cấp dưới như Đại học Tôn Đức Thắng thấm thía về thói hư tật xấu và nạn thù vặt bẩn thỉu đê tiện của giới quan chức chủ quản luôn tụng niệm ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ và ‘luôn chăm lo và bảo vệ quyền lợi người lao động’ là đến mức nào.
Thường Sơn
Nguồn : VNTB, 09/07/2019
Đúng theo dự kiến, ngày 14/06/2019, Quốc hội Việt Nam vừa thông qua Nghị quyết phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
Công nhân một xưởng may ở Sài Đồng, Hà Nội, 01/07/2015. Quan hệ giữa người lao động với chủ công ty sẽ có nhiều thay đổi với Công ước 98. Reuters/Kham/Files
Yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do
Để được gia nhập các hiệp định thương mại tự do "thế hệ mới" như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên Hiệp Châu Âu (EVFTA), mà theo dự kiến sẽ được ký kết năm 2019, Việt Nam phải phê chuẩn tổng cộng 8 Công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Trước kỳ họp của Quốc hội vừa qua, Việt Nam đã phê chuẩn 5 trong số 8 văn bản này : Công ước 29 (năm 1930) về lao động cưỡng bức ; Công ước 100 (năm 1951) về trả công bình đẳng ; Công ước 111 (năm 1958) về chống phân biệt đối xử ; Công ước 138 (năm 1973) về tuổi lao động tối thiểu, Công ước 182 (năm 1999) về chống bóc lột lao động trẻ em.
Sau Công ước 98, từ đây đến năm 2023, Việt Nam sẽ còn phải phê chuẩn hai công ước khác của Tổ chức Lao động Quốc tế : Công ước số 87 "về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức" và Công ước số 105 "về xóa bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc".
Thật ra, không chỉ có Hiệp định Thương mại Tự do với châu Âu, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam đã chính thức gia nhập vào năm 2018 cũng yêu cầu Hà Nội phải phê chuẩn ba công ước nói trên.
Trước mắt, Hà Nội buộc phải phê chuẩn Công ước 98 nhằm chứng tỏ thiện chí, để Hội Đồng Châu Âu chấp nhận ký kết Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA và đưa hiệp định này ra trước Nghị Viện Châu Âu để phê chuẩn trong năm 2019.
Công ước 98, tên đầy đủ là Công ước về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể 1949, bao gồm có 3 nội dung cơ bản : Bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử, chống công đoàn của người sử dụng lao động ; Bảo vệ tổ chức của người lao động không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động ; Những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện, thiện chí.
Theo nội dung tờ trình của chủ tịch nước về việc gia nhập Công ước 98, xét về mặt kinh tế - xã hội, tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản về áp dụng quyền tổ chức và thương lượng tập thể quy định trong Công ước số 98 "thể hiện giá trị tiến bộ của nhân loại về lao động". Cũng theo tờ tình này, việc gia nhập và thực hiện Công ước số 98 sẽ góp phần "giúp cho thương lượng tập thể được thực chất, hiệu quả hơn trên thực tế".
Việt Nam đang đi ngược ?
Nhưng trước mắt, việc phê chuẩn Công ước 98 sẽ chưa có những tác động nào theo hướng cải thiện điều kiện của người lao động tại Việt Nam, theo nhận định của luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt, Sài Gòn :
"Tôi cho rằng việc Việt Nam phê chuẩn Công ước 98 cũng không có tác dụng gì nhiều đối với quyền của người lao động, cũng như đối với những tổ chức bảo vệ người lao động, bởi vì trên thực tế, Công ước 98 và Công ước 87 là một cặp song sinh, đi liền với nhau. Khi có Công ước 87 thì Công ước 98 mới có hiệu lực.
Công ước 87 là công ước về quyền của người lao động được lập hội, tức là công đoàn độc lập, còn Công ước 98 là công ước quy định các nguyên tắc về các quyền của tổ chức được thương lượng tập thể. Bây giờ Công ước 98 có mà Công ước 87 không có thì cũng không có hiệu quả gì hết và như vậy là giống như mình đang đi ngược. Vì vậy, tôi nghĩ đây chỉ là bước đệm của Nhà nước Việt Nam cho các các công ước tiếp theo : Công ước 105 và Công ước 87.
Công ước 98 hiện chưa có giá trị gì, bởi vì bản thân công ước này cũng mâu thuẫn với Luật Lao động và Luật Công đoàn, và có vẻ như Việt Nam chưa có sự chuẩn bị cho việc áp dụng công ước này".
Những mâu thuẫn với luật hiện hành
Cụ thể có những mâu thuẫn gì giữa Công ước 98 với Luật Công đoàn của Việt Nam hiện nay ? Luật Công đoàn hiện hành quy định người sử dụng lao động, tức là chủ công ty, phải nộp 2% trên tổng quỹ tiền lương cho quỹ công đoàn.
Trong kỳ họp của Quốc hội vừa qua, đại biểu Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, đã đề nghị chính phủ làm rõ là quy định nói trên có bị coi là hành vi can thiệp vào tổ chức công đoàn, theo quy định tại điều 2, Công ước 98, hay không.
Điều 2 của Công ước 98 ghi rõ : "Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại mọi hành vi của những phái viên hay thành viên của mỗi bên để can thiệp vào việc tổ chức điều hành và quản lý nội bộ của phía bên kia".
Mặt khác, cũng theo đại biểu Hồ Sỹ Lợi, Luật Công đoàn hiện hành quy định là cả người sử dụng lao động và người lao động đều được coi là đoàn viên công đoàn, điều này cũng có thể bị xem là hành vi chi phối của người sử dụng lao động, và như vậy là vi phạm Công ước 98 hay không ?
Không chỉ có Luật Công đoàn, mà cả bộ Luật Lao động của Việt Nam cũng cần phải được sửa đổi cho tương hợp với Công ước 98 về thương lượng tập thể.
Công ước 87 : Trì hoãn đến giờ chót ?
Trong số hai công ước mà Việt Nam sẽ phải phê chuẩn từ nay đến năm 2023, quan trọng hơn hết là công ước 87, tức là công ước cho phép tự do thành lập công đoàn, một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với chính quyền Hà Nội, cho nên rất có thể họ sẽ trì hoãn cho đến phút chót mới phê chuẩn công ước này, theo nhận định của luật sư Hoàng Cao Sang :
"Việt Nam là một quốc gia nhỏ và việc chuẩn bị cho hội nhập quốc tế cần có một thời gian nhất định. Tôi thấy Nhà nước Việt Nam ký kết trước những công ước nào có ít ảnh hưởng nhất và đơn giản nhất. Cụ thể là ở đây công ước 98 chỉ mang tính bước đệm, hoặc như một số người nói, chỉ mang tính đối phó, đối phó với Hội Đồng Châu Âu do họ buộc Việt Nam phải thông qua 3 công ước còn lại thì mới cho ký kết hiệp định thương mại tự do Liên Hiệp Châu Âu - Việt Nam.
Việt Nam đang trì hoãn việc ký công ước khó nhất là Công ước 87, vì tinh thần của công ước này là quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận, phải đi liền với thương mại. Theo lộ trình, Việt Nam phải ký Công ước 87 vào năm 2023.
Nhưng tôi thấy Việt Nam dù đã ký kết các văn bản, nhưng thực hiện và sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với những văn bản đó,và thực hiện pháp luật đó thường là chậm trễ so với những lộ trình dự kiến và những gì đã cam kết với quốc tế, như là trong hiệp định thương mại với Liên Hiệp Châu Âu, hay hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP. Việt Nam cũng luôn có nhiều cách để chứng tỏ mình có thiện chí. Tuy nhiên, thiện chí đó luôn được kéo dài. Việt Nam luôn có những động thái từng bước, từng bước, để cho người ta thấy mình có thiện chí, chứ không làm một cách hoàn toàn triệt để".
Cho tới nay ở Việt Nam chỉ có một công đoàn duy nhất là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, được định nghĩa là một tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Nhưng một khi Công ước 87 được phê chuẩn, công đoàn của Nhà nước sẽ không còn nắm độc quyền nữa, mà người lao động sẽ có thể tự mình lập công đoàn hoặc gia nhập bất cứ công đoàn nào họ muốn.
Khi gia nhập CPTPP vào năm 2018, Việt Nam sẽ có tối đa 5 năm chuẩn bị khuôn khổ pháp lý cho phép thành lập các tổ chức đại diện người lao động khác ở cấp cơ sở và 7 năm để cho phép các tổ chức này có thể liên kết với nhau để thành lập tổ chức ở cấp cao hơn. Nếu sau 5 năm Việt Nam chưa cho phép thành lập công đoàn tự do thì Việt Nam có thể sẽ bị các nước thành viên CPTPP trừng phạt thương mại.
Tóm lại, chính áp lực từ những hiệp định thương mại tự do đang buộc Việt Nam phải thay đổi hệ thống luật pháp.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 24/06/2019
Được xem là ‘anh em sinh đôi’ với Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn ‘ăn cướp 3%’ là một trong những chân kiềng cho chế độ độc tài và độc quyền cả về bóp hầu bóp cổ công nhân.
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động). Ảnh minh họa
Chính vào lúc này, khi EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Châu Âu - Việt Nam) bắt đầu có triển vọng sẽ được ký kết và phê chuẩn vào cuối tháng 6 năm 2019 với điều kiện chính thể độc đảng ở Việt Nam đã phải cam kết với Liên Hiệp Châu Âu (EU) về một gói cải thiện nhân quyền ngay lập tức, việc nền hành pháp Việt Nam vẫn còn nguyên trạng chây ì và ‘trên bảo dưới không nghe’ về Bộ luật Lao động đang làm cho Nguyễn Thị Kim Ngân mất mặt khi bà ta đã hứa hẹn nhiều với EU về việc sẽ sửa bộ luật này để lần đầu tiên đề cập một cách chính thức đến vai trò của công đoàn độc lập và quyền tự do thành lập công đoàn độc lập của người lao động.
Nhưng không chỉ sửa Bộ luật Lao động, chính quyền Việt Nam còn phải sửa cả Luật Công đoàn năm 2012 - một văn bản luật có khá nhiều mối liên hệ hữu cơ qua lại với Bộ luật Lao động, và một cách đương nhiên theo đòi hỏi của EVFTA và CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, thay thế cho TPP mà không có vai trò của Mỹ) thì Việt Nam khi sửa luật này cũng đồng thời phải sửa luật kia và ngược lại.
Thế nhưng cho tới nay vẫn đang tồn tại âm mưu ‘không sửa Luật Công đoàn’. Cho tới nay và sau khi Hiệp định EVFTA bị Hội đồng Châu Âu thẳng tay thông báo đình hoãn vào tháng 2 năm 2019 mà nguồn cơn thực chất là vô số vi phạm nhân quyền trầm trọng không hề dịu bớt của chính thể độc đảng ở Việt Nam, chuyến trở về nhà của Nguyễn Thị Kim Ngân và Nguyễn Xuân Phúc sau khi đi Châu Âu vận động EVFTA mới chỉ ló ra chỉ đạo sửa đổi Bộ luật Lao động mà không hề nhắc tới Luật Công đoàn.
Luật Công đoàn có ‘ý nghĩa’ thiết yếu và thiết thân đến thế nào mà được giấu biến để khỏi phải sửa?
Kẻ nào được hưởng lợi lớn nhất trong Luật Công đoàn?
Cùng với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam nằm trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ bị xem là bám chặt đời sống ký sinh, mỗi năm tiêu xài đến 14.000 tỷ đồng tiền ngân sách - tức tiền mà người dân phải è cổ đóng thuế.
Nhưng ngoài tiền cấp từ ngân sách, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam còn một nguồn thu rất màu mỡ khác.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
"Đối tượng đóng kinh phí công đoàn theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật công đoàn là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà không phân biệt cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó đã có hay chưa có tổ chức công đoàn cơ sở" - Điều 4, Nghị định số 191/2013/NĐ-CP do ‘Anh Ba X’ - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành đã quy định như thế.
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘Không ăn cướp thì là cái gì ?’.
Thu tiền và xài tiền phủ phê đến thế, nhưng có một thực tế không thể chối cãi là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam lại chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân còn khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Rốt cuộc, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã chỉ hiện hình như một cơ chế trung gian ‘ăn cướp’ 3% và quá vô tích sự, nếu không nói là đã ‘phản động’ đến mức đi ngược lại quyền lợi của hàng chục triệu công nhân.
Chỉ hứa không làm
Một khi người công nhân được tự do thành lập nghiệp đoàn độc lập theo quy định đương nhiên của hai hiệp- định CPTPP và EVFTA, họ sẽ tự bảo vệ quyền lợi của mình, phản đối các chính sách bất công của chính quyền và giới chủ và cũng đương nhiên phản ứng với não trạng, thái độ và cách hành xử bảo thủ, quan liêu và ngập ngụa tư chất lợi ích nhóm của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam.
Khi đó, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ phải chịu nguy cơ lớn, hoặc rất lớn về mất mát quyền lực, hoặc chắc chắn sẽ mất hẳn vai trò "tổ chức chính trị - xã hội’ của nó, không những không còn ngân sách đảng phóng tay cấp tiền ăn xài mà còn sẽ mất hẳn 3% ‘ăn cướp’ được từ giới doanh nghiệp và công nhân.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa mà đã khiến giới quan chức của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trở nên biến báo, ngụy biện và quy chụp chính trị bất cần liêm sỉ về ‘công đoàn vàng’ và "một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp", khi đề cập đến công đoàn độc lập - ‘kẻ thù’ của họ và cũng là của chế độ một đảng.
Trong thời gian tới, nếu tình trạng chây ì sửa đổi Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn vẫn tiếp diễn, chẳng có gì bảo đảm là Việt Nam sẽ được sớm tham gia vào EVFTA, còn nếu có tham gia cũng sẽ mất nhiều cơ hội vì bị chậm trễ trong việc triển khai hiệp định này, với lý do chủ quan thuộc về phía các cơ quan ‘chỉ biết ăn không biết làm’ của phía Việt Nam.
Cần nhắc lại, ngay sau khi kết thúc chuyến đi Châu Pháp và Bỉ vào cuối tháng 3 năm 2019 để vận động cho EVFTA, Nguyễn Thị Kim Ngân đã chủ trì một phiên họp quốc hội. Được báo Sài Gòn Giải Phóng tường thuật, bà Ngân đã "Tỏ ra rất sốt ruột về việc chưa nhận được hồ sơ trình dự án sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, trong khi chương trình xây dựng pháp luật năm 2019 đã có dự án này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói rõ : "Chúng ta đã cam kết với Nghị viện Châu Âu về thời hạn xem xét sửa đổi Bộ luật Lao động. Đó chính là cơ sở quan trọng để Nghị viện Châu Âu xem xét thông qua Hiệp định EVFTA, vậy mà bây giờ các bước cần thiết vẫn chưa được tiến hành. Thay vì trình hồ sơ dự án thì cơ quan trình lại chỉ báo cáo, xin ý kiến của UBTVQH về một số vấn đề, như thế có phải là làm ngược quy trình hay không ?".
Cho tới lúc đó, thói che giấu lâu năm đã lộ hẳn: suốt từ cuối năm 2018 - thời điểm tái khởi động quy trình ‘chuẩn bị ký kết và phê chuẩn EVFTA’ cho đến khi bà Ngân phải nổi nóng bởi bị bẽ mặt trước quốc tế về chuyện hứa mà không làm, các bộ ngành đã gần như không làm gì cả đối với việc sửa đổi nội dung của Bộ luật Lao động để đáp ứng đòi hỏi của Hiệp định EVFTA.
Được xem là ‘anh em sinh đôi’ với Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn ‘ăn cướp 3%’ là một trong những chân kiềng cho chế độ độc tài và độc quyền cả về bóp hầu bóp cổ công nhân.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 17/05/2019
Dù Luật Công đoàn năm 2012 có khá nhiều mối liên hệ hữu cơ qua lại với Bộ luật Lao động, và một cách đương nhiên theo đòi hỏi của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam tham gia - khi sửa luật này thì đồng thời phải sửa luật kia và ngược lại, vẫn đang tồn tại âm mưu ‘không sửa Luật Công đoàn’.
Các đại diện thành viên thuộc TPP chụp hình tại Santiago, Chile, ngày 8 tháng Ba.
Kẻ nào là thủ phạm của âm mưu trên ?
Và nếu âm mưu trên được thi hành, kẻ nào sẽ được hưởng lợi lớn nhất ?
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và 3% ‘ăn cướp’ !
Cùng với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Hội Nông Dân Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam nằm trong số 6 ‘cánh tay nối dài của đảng’ bị xem là bám chặt đời sống ký sinh, mỗi năm tiêu xài đến 14.000 tỷ đồng tiền ngân sách - tức tiền mà người dân phải è cổ đóng thuế.
Nhưng ngoài tiền cấp từ ngân sách, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam còn một nguồn thu rất màu mỡ khác.
Trong rất nhiều năm qua, bằng một quy định tài chính tự đặt ra, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam - tổ chức được xem là ‘cánh tay nối dài của đảng’ - đã nghiễm nhiên phè phỡn hưởng thụ ít nhất 3% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp (gồm 2% do doanh nghiệp phải ‘đóng góp’ và 1% từ thu nhập của người lao động).
"Đối tượng đóng kinh phí công đoàn theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật công đoàn là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mà không phân biệt cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đó đã có hay chưa có tổ chức công đoàn cơ sở" - Điều 4, Nghị định số 191/2013/NĐ-CP do ‘Anh Ba X’ - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành đã quy định như thế.
Một quy định mà rất nhiều doanh nghiệp và công nhân đã phẫn nộ : ‘không ăn cướp thì là cái gì !’.
Thu tiền và xài tiền phủ phê đến thế, nhưng có một thực tế không thể chối cãi là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam lại chưa bao giờ đồng thuận, càng không hề lãnh đạo, tổ chức bất kỳ vụ đình công nào với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Nhiều nguồn tin từ giới công nhân còn khẳng định rằng nhiều lãnh đạo công đoàn nhà nước đã được trả lương cao để phục vụ cho giới chủ đầu tư và bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền, thay vì bảo vệ người lao động. Ngay cả một số nhà nghiên cứu thuộc chính quyền cũng không che giấu rằng không phải là điều bất thường khi các nhà quản lý trở thành lãnh đạo công đoàn và sử dụng công cụ này để thao túng các cuộc bầu cử công đoàn. Rất nhiều ví dụ trong thực tế đã cho thấy giới lãnh đạo công đoàn ở nhiều địa phương đã thỏa hiệp và toa rập với giới chủ và công an địa phương để theo dõi công nhân, chỉ điểm những người đứng đầu phong trào đình công để công an truy xét, sách nhiễu và bắt bớ họ.
Rốt cuộc, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã chỉ hiện hình như một cơ chế trung gian ‘ăn cướp’ 3% và quá vô tích sự, nếu không nói là đã ‘phản động’ đến mức đi ngược lại quyền lợi của hàng chục triệu công nhân.
Vì sao ‘hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp’ ?
Chỉ đến tháng Mười Một năm 2018, trùng với thời điểm đích thân ‘Tổng Chủ’ Nguyễn Phú Trọng ‘chỉ đạo’ Quốc hội thông qua Hiệp định CPTPP, một quan chức của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Phó Chủ tịch Ngọ Duy Hiểu mới nêu ra, như một cách lên án, đối với ‘công đoàn vàng’
"Nếu không cẩn thận, sẽ hình thành một loại tổ chức công đoàn gọi là 'công đoàn vàng', hoặc một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp" - Quan chức Ngọ Duy Hiểu ‘lo ngại’.
Trong lý luận về lao động quan hệ lao động của chính quyền Việt Nam, ‘công đoàn vàng’ là một khái niệm nhằm ám chỉ công đoàn của giới chủ, lập ra bởi giới chủ và phục vụ cho quyền lợi của giới chủ, trong khi đối lập với quyền lợi của người lao động.
Nhưng vì sao đến lúc này giới quan chức công đoàn quốc doanh lại lo sợ "hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp" ? Với thâm ý gì ?
Quyền được tự thành lập một tổ chức công đoàn độc lập của công nhân đã trở nên quá bức bách trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã bị các nhóm lợi ích tham tàn ở đất nước này đẩy vào tình thế suy thoái và khủng hoảng trong suốt hàng chục qua. Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Điều kiện sống eo hẹp đã dẫn đến tình cảnh quá khó khăn của công nhân ở rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Ngược lại, những điều kiện sử dụng lao động lại ngày càng hà khắc, không chỉ biểu tả cho một "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" mà còn thêu dệt cho bức tranh thời kỳ đầu của "chủ nghĩa tư bản dã man" tại quốc gia đang quá sức nhập nhoạng và như thể đang chen lấn lao xuống địa ngục trong cơn khủng hoảng về ý thức hệ này…
Sự thật trần trụi là một khi người công nhân được tự do thành lập nghiệp đoàn độc lập, họ sẽ tự bảo vệ quyền lợi của mình, phản đối các chính sách bất công của chính quyền và giới chủ và cũng đương nhiên phản ứng với não trạng, thái độ và cách hành xử bảo thủ, quan liêu và ngập ngụa tư chất lợi ích nhóm của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam.
Khi đó, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ phải chịu nguy cơ lớn, hoặc rất lớn về mất mát quyền lực, hoặc chắc chắn sẽ mất hẳn vai trò "tổ chức chính trị - xã hội’ của nó, không những không còn ngân sách đảng phóng tay cấp tiền ăn xài mà còn sẽ mất hẳn 3% ‘ăn cướp’ được từ giới doanh nghiệp và công nhân.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa mà đã khiến giới quan chức của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trở nên biến báo, ngụy biện và quy chụp chính trị bất cần liêm sỉ về ‘công đoàn vàng’ và "một loại tổ chức đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp", khi đề cập đến công đoàn độc lập - ‘kẻ thù’ của họ và cũng là của chế độ một đảng.
Một bằng chứng từ Phạm Bình Minh
Nguy cơ mất ăn 3% cũng chính là nguồn cơn sâu xa khiến tại kỳ họp quốc hội tháng 10 - 11 năm 2018, mặc dù đã phải thừa nhận sẽ cạnh tranh với công đoàn độc lập được lập ra bởi công nhân trong tương lai, nhưng giới quan chức nhà nước vẫn âm mưu đối phó với CPTPP hiện thời và cả EVFTA sau này bằng cách ‘chỉ sửa Luật Lao động nhưng không cần thiết phải sửa Luật Công đoàn’. Một trong những bằng chứng rõ nhất âm mưu này chính là thông tin mà quan chức Phó thủ tướng Phạm Bình Minh nói trước quốc hội : ‘cho đến hiện nay thì Chính phủ không đề xuất sửa Luật Công đoàn’.
Đó là chính phủ của Thủ tướng Phúc. Liệu chính phủ này có toa rập với Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam để trong suốt một thời gian dài, cơ quan công đoàn quốc doanh này đã không hề trình một dự thảo nào về sửa Luật Công đoàn ?
Lý do thật ‘đơn giản’ : nếu sửa Luật Công đoàn thì rất có thể sẽ phải bỏ quy định ‘ăn cướp 3%’ của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đối với thu nhập của các doanh nghiệp và của người lao động - một quy định ăn trên ngồi trốc, bị xem là ‘ăn trên xương máu người lao động’ mà đã gây phẫn nộ lớn trong nhiều năm qua trong cả giới công nhân lẫn giới chủ.
Và nếu phải sửa Luật Công đoàn, chẳng có gì chắc chắn là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ giữ được vai trò ‘quản lý lao động’ như Luật Công đoàn cũ. Hoặc nếu được sửa, rất có khả năng Luật Công đoàn (sửa đổi) sẽ vẫn bao hàm một nội dung - dù được thể hiện kín đáo hơn chứ không dám lộ liễu như trước - về việc Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam sẽ ‘quản lý’ cả các công đoàn độc lập, một quy định hoàn toàn trái khoáy với các công ước quốc tế về lao động mà Việt Nam sẽ phải ký kết bởi trong các công ước quốc tế này, bởi trong CPTPP vai trò và tư cách của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và các tổ chức công đoàn độc lập là bình đẳng, không ai được ‘quản lý’ ai…
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 04/12/2018