Hàng năm Nhật Bản đều kỷ niệm ngày đầu hàng Đồng Minh 15/08/1945, kết thúc Thế Chiến II. Nhân lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng hôm nay trong buổi lễ kỷ niệm, Nhật Hoàng Akihito đã bày tỏ lòng hối tiếc về cuộc chiến. Trong khi đó, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã cho dâng lễ vật ở đền Yasukuni, nơi có thờ bài vị tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên ông Abe cũng hứa là những sự kiện kinh hoàng của chiến tranh sẽ không tái diễn.
Hình ảnh binh sĩ của chế độ quân phiệt Nhật được tái hiện tại đền Yasukuni, Tokyo ngày 15/08/2018, nhân kỷ niệm 73 năm Nhật đầu hàng đồng minh kết thúc Đệ nhị Thế chiến. Reuters/Kim Kyung-Hoon
Năm nay 84 tuổi, Nhật Hoàng Akihito, sẽ từ nhiệm vào năm tới đây sau 3 thập niện bảo vệ hòa bình và sự hòa giải, đã một lần nữa bày tỏ hối tiếc :
"Khi nghĩ lại thời gian yên ả trong những năm qua, sau chiến tranh, khi suy nghĩ lại về quá khứ của chúng ta và cảm thấy hối tiếc sâu sắc, tôi hy vọng là những tàn phá của chiến tranh sẽ không tái diễn".
Theo hãng tin Anh Reuters, những lời này tương tự những gì ngài đã nói cách đây 3 năm, vốn được nhiều nghị sĩ xem như lời chỉ trích gián tiếp thái độ của ông Abe cho là nước Nhật không thể mãi xin lỗi về chiến tranh trong quá khứ.
Về phần thủ tướng Abe, trong phát biểu nhân lễ kỷ niệm, ông cam kết "những nỗi kinh hoàng của chiến tranh không nên tái diễn, và đứng trước lịch sử, chúng ta sẽ tiếp tục giữ vững lời hứa này". Thủ tướng Nhật dĩ nhiên là không có lời xin lỗi.
Ngày 15/08/2018, ông Abe đã cho gởi lễ vật đến đền thờ Yasukuni, nơi thờ tử sĩ trong đó có bài vị của 14 người mà tòa án Nuremberg tháng 9/1945 đã liệt vào hạng tội phạm chiến tranh. Bắc Kinh và Seoul luôn xem Yasukuni là biểu tượng của chế độ quân phiệt Nhật Bản.
Thủ tướng Abe, trong hai nhiệm kỳ của ông luôn cho dâng lễ vật vào ngày 15/08, nhưng không đích thân đến đền. Lần cuối cùng mà ông đến Yasukuni là vào năm 2013, và hành động đó đã gây phẫn nộ ở các nước láng giềng.
Cũng như vào năm ngoái, lễ vật năm nay do nữ nghị sĩ Masahico Shibayama, thuộc Đảng Tự do Dân chủ của ông mang đến.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 15/08/2018
Mới đây, vào thượng tuần tháng 7/2018, biểu tình chống dự luật Đặc Khu đã đồng loạt nổ ra nhiều nơi tại Việt Nam, với những khẩu hiệu chống Trung Quốc xuất hiện rộng khắp, bất chấp việc chính quyền liên tục biện minh rằng từ Trung Quốc không hề có trong dự luật. Trong một bài phân tích công bố ngày 07/07/2018, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về Việt Nam tại Học Viện Quốc Phòng Úc (Đại học New South Wales), đã điểm qua một loạt nhân tố tạo nên tâm lý chống Trung Quốc rất mạnh nơi người Việt Nam ngày nay.
Hầu như người Việt ở đâu cũng chống Trung Quốc. Một ví dụ : Sinh viên Việt Nam biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc tại Manila, Philippines, ngày 25/02/2016. REUTERS/Romeo Ranoco
Theo giáo sư Thayer, ngoài các nhân tố khách quan mang tính chất địa lý lịch sử, một loạt động thái chèn ép của Trung Quốc đối với Việt Nam trong thời kỳ hiên đại cũng duy trì tâm lý ghét Trung Quốc nơi người Việt Nam, từ việc không muốn Việt Nam thống nhất sau khi chiến tranh kết thúc, ủng hộ Khơme Đỏ đánh phá Việt Nam, trực tiếp xua quân đánh vào miền Bắc năm 1979, cho đến tranh chấp Biển Đông, đánh Việt Nam giành đảo, đem giàn khoan vào khiêu khích trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, gây sức ép cấm Việt Nam khoan dầu trong khu vực mà Bắc Kinh cho là của Trung Quốc…
Trong bài phân tích, giáo sư Carl Thayer trước tiên nhắc lại :
Tôi đã từng viết một bài với tựa đề "Sự khắc nghiệt của địa lý : Chiến lược của Việt Nam đề ngăn chặn Trung Quốc ở Biển Đông" để mô tả quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Tôi đã chơi chữ dựa theo tựa đề một quyển sách về lịch sử Úc của Geoffrey Blainey "Sự khắc nghiệt của khoảng cách". Tác giả muốn nói – đây là tôi nói thay ông ấy - là Úc sẽ dễ chịu hơn nếu là một lục địa ở giữa Đại Tây Dương, giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ, giữa tuyến đường vòng quanh trên thế giới từ đất mẹ Anh Quốc. Đấy là tôi chơi chữ với ngụ ý châm biếm.
Việt Nam có đường biên giới chung với Trung Quốc, nhưng dân số của Việt Nam chỉ ở tầm cỡ một tỉnh trung bình của Trung Quốc. Như Brantly Womack từng viết, đó là một quan hệ thật bất cân xứng. Việt Nam đã phải rất cảnh giác, đến mức bị ám ảnh, trước những gì Trung Quốc nói và làm, trong khi Trung Quốc có những lợi ích lớn hơn nhiều.
Một học giả Việt Nam đã có lần nhẹ nhàng chỉ trích tôi về tựa của bài viết vì soi rọi quan hệ Việt-Trung một cách tiêu cực. Ông lập luận rằng có một khía cạnh tích cực trong việc Việt Nam ở gần Trung Quốc. Việt Nam đã rút tỉa được cái hay trong văn hóa, ngôn ngữ Trung Quốc và điều này đã giúp cho việc hình thành nhà nước Việt Nam.
Giáo sư Thayer đã ghi nhận quá trình chống Trung Quốc xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hai Bà Trưng cho đến gần đây :
Sử sách đã ghi nhận là nhiều triều đại Trung Quôc đã xâm lăng Việt Nam ít nhất là 11 lần. Việt Nam đã thành công trong việc đánh bật kẻ xâm lược. Chuyện Hai Bà Trưng chống lại Trung Quốc đã trở thành huyền thoại của Việt Nam qua bao nhiêu thế hệ. Dù không thành công, nhưng Hai Bà Trưng đã cho thấy tình thần bất khuất của người Việt Nam, muốn độc lập và chống lại sự xâm lược của ngoại bang.
Tất cả người Việt Nam ngày nay đều biết về lịch sử các mối quan hệ giữa Việt Nam với các triều đại Trung Quốc, và đó là nền tảng cơ bản của tâm lý bài Trung Quốc ngày nay.
Đối với giáo sư Thayer, cách giải thích đó chưa đầy đủ :
Người Việt Nam có cảm nhận là Trung Quốc đã bán rẻ ước nguyện thống nhất của Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Trung Quốc tìm hỗ trợ của Mỹ để chống lại "chủ nghĩa đế quốc xã hội chủ nghĩa" của Liên Xô và đã khuyên Việt Nam đặt việc thống nhất đất nước là một mục tiêu lâu dài, giống như trường hợp của Trung Quốc đối với Đài Loan. Và ngay tháng Giêng 1973, khi Hiệp Định Paris về chấm dứt cuộc chiến và vãn hồi hòa bình ở Việt Nam dược ký kết, Trung Quốc đã giảm ngay trợ giúp quân sự cho Việt Nam. Việt Nam đã phải dựa vào hỗ trợ quân sự của Liên Xô để thống nhất đất nước khi lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định Paris bị phá vỡ.
Ít lâu sau khi chiến tranh với Mỹ kết thúc, Việt Nam lại phải đối phó với mối đe dọa Khờme Đỏ được Trung Quốc hậu thuẫn. Lực lượng này đã nhiều lần tràn qua Việt Nam, tàn sát nhiều dân làng Việt Nam. Việt Nam thoạt đầu đã trả đũa bằng một số chiến dịch đột kích qua biên giới, nhưng sau cùng đã mất kiên nhẫn và tràn qua chiếm đóng Cam Bốt trong một thập niên. Các lãnh đạo Việt Nam mà tôi có dịp phỏng vấn vào năm 1981, đã giải thích là chiến lược của Trung Quốc là muốn Việt Nam sa lầy ở Cam Bốt và bị kiệt quệ.
Từ tháng Giêng đến tháng 3/1979, Trung Quốc trả đũa bằng cách đưa quân đánh chiếm vùng phía bắc của Việt Nam với lý do bình định vùng biên giới và "dậy cho Việt Nam một bài học". Tranh chấp biên giới Trung Quốc Việt Nam kéo dài cho đến năm 1987. Hai năm sau thì Việt Nam ổn định tình hình Cam Bốt, rút quân khỏi nước láng giềng.
Biển Đông trở thành điểm nóng, dân chúng biểu tình chống Trung Quốc
Quan hệ Việt Nam Trung Quốc được bình thường hóa vào tháng 11/1991. Một năm sau đó, Trung Quốc thông qua một đạo luật tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó lại đẩy Bắc Kinh vào thế tranh chấp với Hà Nội.
Bối cảnh là Trung Quốc đã có kế hoạch trước, tấn công vào lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa (để chiếm toàn bộ quần đảo này) vào tháng Giêng năm 1974, và sau đó lại tấn công vào quân đội của nước Việt Nam thống nhất ở Gạc Ma (Johnson Reef – quần đảo Trường Sa) vào tháng 3/1988.
Cuộc biểu tình công khai chống Trung Quốc đầu tiên diễn ra tại Hà Nội vào cuối năm 2007 sau khi có tin tức được loan truyền là quy chế thị trấn Tam Sa (Sansha) trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được nâng lên thành địa cấp thị (thành phố cấp địa khu). Một năm sau, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc lại diễn ra khi các vận động viên rước đuốc Olympic Bắc Kinh trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
Biển Đông đã nổi lên thành điểm nóng ở Việt Nam vào năm 2009 khi các quốc gia ven biển đến hạn đệ trình lên Liên Hiệp Quốc các đề xuất kéo dài thềm lục địa của mình. Việt Nam và Malaysia đã có một đề nghị chung, và Việt Nam cũng đồng thời đưa ra một đề nghị riêng. Trung Quốc, lần đầu tiên, đã công bố bản đồ 9 đường gián đoạn để yêu sách toàn bộ Biển Đông. Điều đó dẫn đến các vụ va chạm trên biển thường xuyên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) khi Trung Quốc tìm cách ngăn không cho Việt Nam thăm dò dầu khí.
Trung Quốc cũng áp dụng các biện pháp thô bạo đối với ngư dân Việt Nam trong vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa, tịch thu cá họ đánh bắt được, tước đoạt các thiết bị vô tuyến điện, các công cụ hải hành và mọi tài sản có giá trị. Nhiều ngư dân Việt Nam đã bị Trung Quốc bắt giữ (thực ra là bị bắt làm con tin) để đòi tiền chuộc.
Năm 2013, Việt Nam đã hủy bỏ chính sách có từ trước đó là xem Trung Quốc là môt nước xã hội chủ nghĩa thân hữu. Hiện nay, Việt Nam đánh giá quan hệ với Trung Quốc trên lợi ích quốc gia chứ không còn là trên cơ sở ý thức hệ. Việt Nam đã thông qua một chiến lược vừa hợp tác và vừa đấu tranh với Trung Quốc. Các hạn chế trên các phương tiện truyền thông đã được nới lỏng để cho phép một cái nhìn ít tô hồng hơn về người hàng xóm phương bắc.
Bước ngoặt của vụ giàn khoan HD-981
Một bước ngoặt xuất hiện vào năm 2014 khi Trung Quốc mang một giàn khoan dầu khổng lồ vào cắm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo một hạm đội gồm 100 con tàu đủ loại, bao gồm tàu chiến, tàu hải giám, tàu kéo và tàu đánh cá có vũ trang. Nhiều chiếc đã cố ý đâm vào tàu Việt Nam và dùng vòi rồng công suất mạnh tấn công tàu Việt Nam.
Sự cố này đã làm dấy lên những cuộc biểu tình chống Trung Quốc khắp nơi ở Việt Nam, với một số vụ biến thành bạo động làm người Trung Quốc tử vong. Ở đỉnh điểm cuộc khủng hoảng đó, một nhóm cán bộ hồi hưu đã lưu hành một bản kiến nghị kêu gọi Việt Nam "thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc".
Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay xem hành vi xâm lăng của Trung Quốc ở Biển Đông là một mối đe dọa trên sự tồn tại của chủ quyền Việt Nam. Việc Trung Quốc xây dựng và quân sự hoá 7 hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa gần các thực thể do Việt Nam kiểm soát được xem như là bằng chứng về mối đe dọa này.
Tâm lý chống Trung Quốc còn dựa trên suy nghĩ cho rằng chế độ hiện tại không tích cực bảo vệ sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Chính quyền Việt Nam có thể là đã chiến thắng trước tòa án công luận thế giới vào năm 2014, nhưng sau đó lại lùi bước trước áp lực của Trung Quốc trong hai năm 2017 và 2018, khi đình chỉ thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh Bãi Tư Chính (Vanguard Bank).
Những yếu tố khác
Nếu thêm vào "nồi súp Biển Đông" các gia vị khác như là chính sách Trung Quốc sử dụng lao động Trung Quốc trong các dự án viện trợ và phát triển ở Việt Nam, và nghi vấn rộng khắp về sự thông đồng giữa các doanh nhân Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam ở địa phương và trung ương, ta sẽ có một hợp chất bài Trung Quốc tai hại.
Điều đó đã được thấy rõ qua các cuộc biểu tình khắp nơi chống lại dự luật Đặc Khu Hành Chính và Kinh Tế trong tháng này. Trên cơ sở an ninh quốc gia, những người biểu tình phản đối hợp đồng cho thuê trong 99 năm đối với các doanh nghiệp Trung Quốc.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 27/07/2018
Chuyến ghé cảng Đà Nẵng mang tính lịch sử của tàu sân bay Mỹ Carl Vinson bắn đi một tín hiệu mạnh mẽ tới Trung Quốc, nhưng quan hệ chiến lược Việt-Mỹ vẫn còn mang tính tượng trưng hơn là thực chất. Trên đây là nhận định của giáo sư Richard Javad Heydarian, chuyên gia về địa chính trị Châu Á thuộc Đại Học De La Salle (Philippines), trong một bài phân tích công bố ngày 05/03/2018 trên báo mạng Asia Times tại Hồng Kông.
Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson đến Đà Nẵng, ngày 05/03/2018. Reuters/Kham
Đối với giáo sư Heydarian, sự kiện chiếc USS Carl Vinson, một hàng không mẫu hạm với lượng giãn nước 103.000 tấn, cùng hai tàu chiến lớn khác, ghé Đà Nẵng ngày 05/03 trong một chuyến thăm hữu nghị 5 ngày là một dấu hiệu rất đáng chú ý, phản ánh quan hệ chiến lược đang tăng cường giữa hai kẻ cựu thù.
Đây là lần đầu tiên trong hơn bốn thập kỷ mà Mỹ cho triển khai một nhóm tàu sân bay đến Việt Nam, đánh dấu sự hiện diện quân sự lớn nhất của Hoa Kỳ bên bờ biển Việt Nam từ năm 1975, và báo hiệu sự xuất hiện của một liên minh ít ai ngờ tới giữa Washington và Hà Nội.
Việt Nam là đối tác trong chiến lược Mỹ
Trong Chiến Lược An Ninh Quốc Gia Mỹ công bố tháng 12 năm ngoái (2017), chính quyền Donald Trump đã xác định Việt Nam là một đối tác hợp tác trên biển (cooperative maritime partner)", nêu bật vai trò của Hà Nội đang vươn lên thành một tác nhân chủ chốt trong việc giữ gìn trật tự hiện có trong vùng biển Đông Á.
Daniel Kritenbrink, tân đại sứ Mỹ tại Việt Nam, tuyên bố : "Chuyến thăm đánh dấu cột mốc cực kỳ quan trọng trong quan hệ song phương Mỹ-Việt, và thể hiện hậu thuẫn của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam hùng mạnh, thịnh vượng và độc lập… Với nỗ lực, sự tôn trọng lẫn nhau và bằng cách tiếp tục giải quyết các vấn đề trong quá khứ, đồng thời hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn, từ cựu thù, chúng ta đã trở thành đối tác chặt chẽ".
Theo giáo sư Heydarian, nhân tố trung tâm thúc đẩy đà sưởi ấm quan hệ nhanh chóng giữa hai nước cựu thù là sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhất là sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của họ trên Biển Đông, đe doạ chủ quyền và lợi ích trên biển của Việt Nam, cũng như quyền bá chủ hải quân của Mỹ ở Châu Á.
Vào lúc các đồng minh khu vực truyền thống của Hoa Kỳ như Thái Lan và Philippines đang càng lúc càng có một chính sách đối ngoại thân Bắc Kinh, Washington đã phải cấp tốc đi tìm những đối tác chiến lược mới và đáng tin cậy hơn ở Đông Nam Á.
Việt Nam đi đầu trong nỗ lực chống Trung Quốc tại Biển Đông
Với quyết tâm bảo vệ các tuyên bố chủ quyền của mình ở Biển Đông, Hà Nội đã nổi lên thành một quốc gia đi đầu - nếu không nói là duy nhất - chống lại chính sách quyết đoán trên biển của Trung Quốc.
Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là chuyến thăm mang tính biểu tượng cực cao của chiếc USS Carl Vinson sẽ sớm dẫn đến một liên minh quân sự thực thụ nhằm chống lại Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn luôn đi đầu trong các nỗ lực ngoại giao đa phương, nhất là trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á, để chỉ trích các hoạt động cải tạo, bồi đắp rầm rộ của Trung Quốc trên các thực thể đang tranh chấp ở Biển Đông.
Giáo sư Heydarian nêu bật là để đối phó với việc Trung Quốc quân sự hóa nhanh chóng các hòn đảo nhân tạo, Việt Nam cũng đã bắt tay vào các hoạt động bồi đắp và cải tạo, với quy mô hạn chế, trên các thực thể mình kiểm soát, cũng như triển khai các hệ thống vũ khí, trong đó có các loại pháo có hệ thống dẫn đường chính xác, trên một số hòn đảo ở Trường Sa.
Trên phạm vi rộng hơn, Việt Nam đã nhanh chóng tăng cường năng lực hải quân của mình, bao gồm việc mua tàu ngầm từ Nga và phát triển cơ sở hải quân tại cảng chiến lược Cam Ranh.
Việt Nam cũng đã mở cửa các mỏ khí đốt tự nhiên khác nhau trong vùng đặc quyền kinh tế của mình cho các công ty năng lượng quốc doanh của Nga và Ấn Độ, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Mục tiêu của Hà Nội là thông qua cách thức đó, lôi kéo được các cường quốc khác vào việc bảo vệ tài nguyên và tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Ba không về quân sự nhưng vươn tới các cường quốc khu vực
Ông Heydarian còn ghi nhận là trên bình diện học thuyết an ninh quốc gia, nước Việt Nam độc lập đã áp dụng chính sách "ba không", bao gồm việc không dựa vào một khối quyền lực nào để chống lại một khối khác, không đón nhận bất kỳ căn cứ quân sự nước ngoài nào trên lãnh thổ của mình và không liên minh quân sự và lệ thuộc vào bất kỳ một thế lực nào ở bên ngoài.
Tuy nhiên, trong một động thái kinh điển về đa dạng hoá chiến lược, Hà Nội đã vươn tới các cường quốc khu vực lớn như Nga, Ấn Độ và Nhật Bản nhằm tăng cường năng lực phòng thủ và giám sát trên biển.
Nhận thức rõ sự phụ thuộc của mình vào Trung Quốc trong lãnh vực kinh tế, Việt Nam đã tìm cách thu hút các khoản đầu tư quy mô lớn từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và các nước phương Tây.
Việt Nam cũng tìm cách gia nhập khối Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiện đang hồi sinh thành TPP-11 (trừ Hoa Kỳ), nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn và công nghệ.
Do đó, Hà Nội đã phát triển được một không gian chiến lược cũng như một năng lực răn đe tối thiểu chống lại các ý đồ của Trung Quốc trong vùng biển Việt Nam.
Nỗi lo của Việt Nam : Bị cô lập về chiến lược
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cảm thấy bất an và lo ngại trước khả năng bị cô lập về mặt chiến lược. Nỗi quan ngại này bắt nguồn từ sức mạnh quân sự và ảnh hưởng kinh tế ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong khu vực, cũng như chính sách chạy theo Trung Quốc ngày càng rõ của các nước có tranh chấp Biển Đông khác, như Philippines dưới thời tổng thống thân Trung Quốc Rodrigo Duterte chẳng hạn.
Một ví dụ, trong khối ASEAN, Việt Nam thường thấy mình là tiếng nói duy nhất chống lại các hành động quyết đoán trên biển của Trung Quốc, trong lúc phần còn lại của khu vực thì lại chủ trương thỏa hiệp về mặt chiến lược và tiếp tục làm ăn kinh tế với cường quốc Châu Á.
Bằng cách vươn tới Hoa Kỳ, Việt Nam hy vọng sẽ có thêm sức mạnh trong việc chống lại Trung Quốc. Chiến lược đó tuy nhiên không chỉ có nguy cơ bị phản tác dụng vì có khả năng kích động Trung Quốc hành động hung hăng hơn, mà lại còn phải đối mặt với những hạn chế to lớn mang tính chất cơ cấu.
Ý muốn của Việt Nam là ngăn chặn các tham vọng trên biển của Trung Quốc, nhưng Hà Nội cũng rất dễ bị Bắc Kinh trả đũa về kinh tế và quân sự. Việt Nam có đường biên giới rất dài trên biển và trên bộ, không chỉ với Trung Quốc mà còn cả với các nước láng giềng đi theo Trung Quốc như Cam Bốt.
Trong khi đó, Quốc Hội Hoa Kỳ cũng dè dặt trong vấn đề phê duyệt việc bán vũ khí tiên tiến cho Việt Nam, vốn liên tục bị cáo buộc là vi phạm nhân quyền một cách rộng rãi. Cho đến nay, không có thỏa thuận vũ khí quan trọng nào được đặt lên bàn đàm phán.
Trên bình diện này thì nhiều vũ khí của Việt Nam lại có nguồn gốc Nga, gây nên mối quan ngại về khả năng tương thích về mặt công nghệ nếu Việt Nam kết hợp vũ khí Nga với vũ khí Mỹ. Hơn nữa, còn có mối quan ngại về quyết tâm thực thụ và phương tiện mà Mỹ huy động vào việc chống Trung Quốc khi xẩy ra chuyện.
Giáo sư Heydarian đi đến kết luận : Rốt cuộc, Hà Nội rất sợ khả năng bị bỏ rơi về mặt chiến lược nếu liên minh rõ ràng hơn với Mỹ và các cường quốc có cùng quan điểm (với Mỹ). Do vậy, rất khó mà nghĩ rằng mối quan hệ hợp tác đầy hứa hẹn hiện nay sẽ trở thành một liên minh toàn diện chống lại Trung Quốc.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 06/03/2018
Nhân vụ căng thẳng giữa Trung Quốc và Ấn Độ sau khi Bắc Kinh, vào trung tuần tháng 6 này, cho lính tiến vào cao nguyên Doklam trên lãnh thổ Bhutan để xây đường, một chuyên gia Ấn Độ về quốc phòng, nữ tiến sĩ Namrata Goswami, đã có bài phân tích trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 18/08/2017 về thủ đoạn của Bắc Kinh : Ký kết các "Nguyên tắc chỉ đạo việc duy trì nguyên trạng ở các vùng tranh chấp" để ràng buộc láng giềng, để rồi sau đó phớt lờ thỏa thuận đã ký để ngang nhiên đòi xâm lấn vùng lãnh thổ tranh chấp
Bản đồ nới tranh chấp - Doklam - giữa Bhutan và Trung Quốc.© RFI
Trong bài viết mang tựa đề "Có nên nghiêm túc tin vào ‘lời hứa’ đàm phán về tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc hay không - Can China Be Taken Seriously on its ‘Word’ to Negotiate Disputed Territory ?", tác giả đã lần lượt phân tích thủ đoạn của Bắc Kinh tại ba vùng tranh chấp : Doklam ở Bhutan, Arunachal Pradesh ở Ấn Độ và Biển Đông.
Tại vùng cao nguyên Doklam ở Bhutan, nơi binh lính Ấn Độ và Trung Quốc đang gờm nhau ở vùng biên giới với Trung Quốc từ trung tuần tháng Sáu, Bắc Kinh đã gây căng thẳng khi đưa công binh đến xây một con lộ trên lãnh thổ Bhutan chạy từ Dokola đến Jampheri, nơi có căn cứ quân sự Bhutan.
Đối với Bộ Ngoại giao Bhutan, hành động của Trung Quốc đã "vi phạm các thỏa thuận song phương, tác động đến tiến trình phân định biên giới hai bên". Bhutan đồng thời hy vọng là "nguyên trạng của vùng Doklam như trước ngày 16/06/2017 được duy trì".
Tuy Bhutan và Trung Quốc không có quan hệ ngoại giao nhưng hai bên đã tiến hành 7 vòng đàm phán và chủ trương giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Năm 1988, hai nước đã ký một thỏa thuận về "Các nguyên tắc chỉ đạo", và đến năm 1998 thì ký thỏa thuận "Duy trì hòa bình và sự yên ổn ở biên giới Trung Quốc - Bhutan".
Qua hai thỏa thuận này, hai quốc gia cam kết giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, đối thoại, và không có bất kỳ hành động nào đe dọa hòa bình. Hai bên cam kết giữ nguyên trạng, không thay đổi gì ở biên giới.
Nhưng Trung Quốc gần đây đã khẳng định thỏa thuận về vấn đề biên giới với Bhutan không liên quan đến vùng Doklam, vì đứng trên mặt lịch sử vùng này thuộc Trung Quốc.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Lục Khảng, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 28/06, khẳng định : "Doklam là một vùng của Trung Quốc từ thời xa xưa, chứ không phải là của Bhutan, và càng không phải là của Ấn Độ. Đó là điều không thể chối cãi và được lịch sử chứng minh. Trung Quốc xây dựng một con đường ở Bhutan là một hành động chủ quyền trên lãnh thổ của mình."...
Theo tác giả bài viết, việc Trung Quốc đột nhiên vào Bhutan xây đường có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng khi nhìn những gì Trung Quốc đã làm đến nay, liên quan đến lãnh thổ đang tranh chấp, từ Ấn Độ qua Bhutan rồi đến Biển Đông, thì dường như Bắc Kinh theo đúng một mô hình, tiến hành một cách có hệ thống.
Trung Quốc ký "nguyên tắc chỉ đạo" hay "thỏa thuận duy trì hòa bình và ổn định" với quốc gia tranh chấp, thiết lập như vậy một cái khung, với quy tắc rõ rệt, ràng buộc nước ký kết và che mắt đối thủ về những kế hoạch tương lai của Trung Quốc đòi chủ quyền một cách hung hăng.
Ấn Độ
Một ví dụ là trường hợp Ấn Độ. Năm 2005, Trung Quốc và Ấn Độ ký thỏa thuận mang tên "Thông số chính trị và các nguyên tắc chỉ đao việc giải quyết vấn đề biên giới Ấn-Trung". Điều IX của thỏa thuận này quy định hai bên tôn trọng đường ranh hiện hữu và cùng duy trì ổn định vùng biên giới.
Nhưng năm 2006, đại sứ Trung Quốc tại Ấn Đô, Tôn Ngọc Tỉ (Sun Yuxi) tuyên bố là "cả bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc, và nơi tranh chấp, vùng Tawang, chỉ là một bộ phận của Arunachal. Chúng tôi đòi cả bang. Đó là quan điểm của chúng tôi".
Sau tuyên bố này, quân đội Trung Quốc thường xuyên thâm nhập vào khu vực, tìm cách dựng trại, căn cứ tại đây. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng cho in bản đồ Arunachal Pradesh trên hộ chiếu Trung Quốc cũng như những vùng tranh chấp ở Biển Đông, coi như thuộc về Trung Quốc.
Biển Đông
Mô hình mà Trung Quốc sử dụng ở 3 nơi tranh chấp chủ quyền y hệt như nhau : Yêu sách chủ quyền dựa trên nền tảng lịch sử xa xưa, tiếp theo là đưa quân thâm nhập, xây đường xá, bất chấp thỏa thuận đã ký kết là bảo đảm duy trì nguyên trạng và giải quyết tranh chấp qua đàm phán hòa bình.
Trường hợp Biển Đông cũng vậy. Trung Quốc cũng đồng ý với ASEAN về một khung ứng xử (CoC-Code of Conduct) vào tháng 5 vừa qua. Theo bản dự thảo (CoC), các bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, tránh lắp đặt vũ khí tấn công trên các đảo.
Năm 2002 trong Bản Tuyên Bố Ứng Xử (DoC-Declaration of Conduct) mà Trung Quốc và ASEAN đã thông qua, có phần ghi rõ "các bên tự kềm chế trong hoạt động có thể làm tranh chấp phức tạp hay leo thang, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó có việc cư ngụ trên các đảo, đá, vốn không người ở hay những thực thể địa lý khác"...
Nhưng Trung Quốc đã sử dụng sự hiện diện của họ và những yếu tố khác tại hiện trường để đưa ra yêu sách chủ quyền, mặc dù đã ký kết bản tuyên bố 2002, và đã lập ra những vùng cấm, những vùng quân sự ở Biển Đông.
Tháng Giêng 2014, tàu Trung Quốc ồ ạt nạo vét cát, tiến vào bên trong các rạn san hô ở 7 thực thể ở Trường Sa : Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Vành Khăn (Mischief Reef), Ga Ven (Gaven Reef), Châu Viên (Cuarteron Reef), Xu Bi (Subi Reef), Gạc Ma (South Johnson Reef), và Tư Nghĩa (Hughes Reef).
Một khi các đảo nhân tạo được hoàn tất, bước tiếp theo là các công trình xây dựng cơ sở, bến cảng, phi đạo, đài rađa, nơi đóng quân, tóm lại, tất cả hoạt động xác định chủ quyền và kiểm soát lãnh thổ tranh chấp.
Yêu sách chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc cũng dựa trên lịch sử ; thủy thủ Trung Quốc thời xa xưa đã khám phá ra các đảo Nam Sa (Nansha), tức là các đảo Biển Đông bây giờ. Theo Bắc Kinh, đó là từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, và ngư phủ Trung Quốc luôn qua lại vùng này từ thời nhà Minh và nhà Thanh.
Tóm lại, theo chuyên gia Goswami, chiến lược của Trung Quốc là luôn đi ngược lại với những gì chính họ ký kết. Họ đưa quân xây đường ở vùng tranh chấp với Bhutan, thâm nhập vùng tranh chấp với Ấn Độ, xây đảo nhân tạo ở Biển Đông trong lúc vẫn cổ vũ duy trì nguyên trạng.
Câu hỏi là tại sao ký "nguyên tắc chỉ đạo", "thỏa thuận khung" để rồi vi phạm sau đó ? Có lẽ là để kềm chế, ràng buộc nước tranh chấp với Trung Quốc, còn Bắc Kinh thì hành động ngược lại, sử dụng lịch sử, che mắt đối phương trên các đường biên giới không rõ ràng.
Bài viết kết luận : Điều rõ nét qua chiến lược của Trung Quốc ở 3 nơi tranh chấp trên là Trung Quốc không hề tôn trọng "những thỏa thuận khung", những cam kết, khiến người ta nghi ngờ về tính nghiêm túc, đáng tin cậy của Trung Quốc trong đàm phán.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 23/08/2017
Căng thẳng trong quan hệ giữa Việt Nam với Đức sau vụ Berlin tố cáo Hà Nội "bắt cóc" ông Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức cao cấp Việt Nam đang xin tị nạn tại Đức, tiếp tục được báo chí quốc tế theo dõi, đặc biệt trên hậu quả của vụ này đối với Việt Nam. Ngày 11/08/2017, báo Mỹ Forbes đăng bài viết của cộng tác viên David Hutt, cho rằng vụ này có nguy cơ "đánh sập" Hiệp Định Tự Do Mậu Dịch giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu. Trước đó một hôm, ngày 10/08, trên trang mạng The Interpreter của viện nghiên cứu Úc Lowy Institute, nhà báo Helen Clark cũng cho rằng vụ bắt cóc này "phá hoại các nỗ lực tìm kiếm bạn bè và tăng cường uy tín của Việt Nam".
Ảnh chụp cảnh ông Trịnh Xuân Thanh phát biểu trên TV Việt Nam, phát hình ngày 03/08/2017, cho biết là ông "đã ra đầu thú". REUTERS/Kham
Dưới tựa đề "Một vụ bắt cóc tác hại thế nào đến Hiệp Định Tự Do Mậu Dịch giữa Việt Nam và Châu Âu", ký giả David Hutt (1) trên tờ báo Mỹ Forbes, đã cho rằng "thỏa thuận tự do mậu dịch đang được đề xuất giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu có thể sẽ bị xét lại". Đây là một điều hệ trọng vì lẽ Châu Âu hiện là đối tác thương mại thứ nhì của Việt Nam sau Trung Quốc, và thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ.
Đức có thái độ rất kiên quyết
Ký giả David Hutt trước tiên ghi nhận phản ứng gay gắt và cứng rắn của Berlin từ khi vụ việc bùng lên, với việc Bộ Ngoại giao Đức thông báo "không một chút nghi ngờ" là "mật vụ và đại sứ quán Việt Nam" dính líu đến vụ bắt cóc, và kêu gọi Hà Nội cho ông Thanh trở lại Đức, nơi ông xin tị nạn. Ngoại trưởng Đức, theo bài báo, còn mô tả vụ việc như một sự kiện không khác gì "phim trinh thám thời Chiến Tranh Lạnh". Kèm theo tuyên bố gay gắt đó, Đức đã loan báo quyết định trục xuất một cán bộ Việt Nam bị coi là phụ trách tình báo Việt Nam tại Đức.
Tuy nhiên, bài báo nhận thấy là Việt Nam không có vẻ gì là sẵn sàng cho ông Thanh trở lại Đức theo yêu cầu của Berlin, do đó chính quyền Đức, đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam ở Châu Âu, đã gia tăng áp lực, với phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Đức cho hãng tin anh Reuters biết rằng Berlin "đang tìm cách để làm cho đối tác Việt Nam hiểu là chúng tôi không thể chấp nhận điều đó" và "tất cả các giải pháp đều được đặt lên trên bàn".
Berlin có thể vận động để hoãn phê chuẩn FTA Việt Nam-EU
Câu hỏi mà bài báo trên tờ Forbes nêu bật là Đức có thể làm gì đối với Việt Nam. David Hutt cho rằng một trong những biện pháp là việc Berlin giảm trợ giúp phát triển cho Việt Nam, đã lên đến 257 triệu đô la trên hai năm được cam kết năm 2015. Tuy nhiên nghiêm trọng hơn là khả năng Đức chống lại việc ký kết hiệp định thương mại Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam.
Theo David Hutt, một số chuyên gia phân tích đã tiết lộ riêng về một giải pháp khác : Đó là thủ tướng Đức Angela Merkel, một lãnh đạo nặng ký trong Liên Hiệp Châu Âu, bật đèn xanh cho chính phủ của bà vận động các thành viên khác để đình chỉ thỏa thuận tự do thương mại EU-VIệt Nam mà hai bên đã đồng ý vào tháng 12/2015 và dự kiến đưa ra phê chuẩn vào đầu năm tới đây.
Đây là một thỏa thuận tối quan trọng đối với Việt Nam. Thương mại với EU tăng mạnh, từ 10 tỷ đô la vào năm 2006 lên thành 48 tỷ vào năm ngoái 2016. Ủy Ban Châu Âu ước tính là thỏa thuận tự do mậu dịch sẽ giúp GDP Việt Nam tăng 15%.
Ngay từ trước lúc xẩy ra vụ Trịnh Xuân Thanh, đã có những đề nghị hoãn lại việc phê chuẩn thỏa thuận này vì vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã tụt hậu trong những năm gần đây. Theo quy định mới của Châu Âu, thì FTA phải được từng nước thành viên của Liên Hiệp chấp thuận, cũng như Nghị Viện Châu Âu. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền đang ráo riết vận động để bác bỏ thỏa thuận hay ít ra buộc chính phủ Việt Nam phải cải thiện điều kiện nhân quyền trong nước.
Trong một cuộc họp báo vào tháng Hai vừa qua khi viếng thăm Việt Nam, ông Pier Antonio Panzeri, chủ tịch tiểu ban nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu đã xác nhận rằng vấn đề nhân quyền tại Việt Nam khiến cho việc phê chuẩn thỏa thuận tự do thương mại EU-Việt Nam gặp khó khăn.
Theo nhà báo David Hutt, trước lúc xẩy vụ bắt cóc, chính phủ Việt Nam đã cho thấy ý muốn xoa dịu các mối quan ngại của Châu Âu, vì thế, vụ việc này càng làm cho vấn đề rối ren thêm.
Vào tháng 7 vừa qua chẳng hạn, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc qua Đức tham dự thượng đỉnh G20, ở Hamburg. Ông đã gặp 14 lãnh đạo thế giới, trong đó có cả chủ tịch Liên Hiệp Châu Âu Donald Tusk và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Jean Claude Juncker. Ông cũng tiếp xúc với thủ tướng Đức Merkel, và trong cuộc gặp này, hai bên đã đồng ý trên 1,7 tỷ đô la thỏa thuận thương mại mới. Sau đó ông Phúc sang Hà lan, nước đầu tư hàng đầu của Châu Âu vào Việt Nam. Tại La Haye ông Phúc thông báo Việt Nam sẽ bãi bỏ giới hạn trong đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành công nghiệp.
Liệu nhân quyền có cản đường thương mại hay không ?
Theo nhận định của nhà báo trên tờ Forbes, chính quyền Việt Nam có lẽ cũng biết là trong lúc vấn đề nhân quyền có thể là một ‘lằn ranh đỏ’ đối với một số quan chức châu Âu, nhưng lợi nhuận đầy hứa hẹn đối với các tập đoàn Châu Âu có thể đủ sức để thúc đẩy một số khác chấp nhận thỏa thuận tự do mậu dịch với Việt Nam.
Châu Âu có thể tự hại mình nếu đình hoãn thúc đẩy tự do mậu dịch với Việt Nam vì vấn đề nhân quyền, vì như thế sẽ tạo nên tiền lệ cho những thỏa thuận sau này. EU từ lâu nay luôn muốn có thỏa thuận tự do thương mại với cả khối Đông Nam Á và các cuộc thảo luận đã được nối lại vào tháng Ba.
Nếu FTA với Việt Nam không thành do vấn đề nhân quyền - dù không phải là do sự kiện ông Thanh bị bắt cóc – thì thỏa thuận EU – ASEAN cũng sẽ tiêu tan vì nếu căn cứ vào điều kiện nhân quyền, thì tình trạng ở Lào, Cam Bốt, Malaysia, Philippines, Brunei không khác gì Việt Nam.
Nhìn từ Úc : Uy tín quốc tế của Việt Nam bị sứt mẻ
Cũng về vụ Đức tố cáo Việt Nam "bắt cóc" ông Trịnh Xuân Thanh, nhà báo Helen Clark trên trang mạng của viện nghiên cứu Úc The Lowy Institute (2) ngày 10/08/2017 đã cho rằng vụ này không chỉ gây sứt mẻ trong quan hệ song phương Việt-Đức, mà còn "phá hoại các nỗ lực tìm kiếm bạn bè và tăng cường uy tín của Việt Nam", tựa của bài báo.
Đối với Helen Clark, giới đầu tư nước ngoài và định chế tài chính thế giới từ lâu nay chỉ mong muốn Việt Nam cải tổ khu vực kinh tế quốc doanh tham nhũng và kém hiệu quả. Phải công nhận là Việt Nam đã có một số tiến bộ năm trong qua, và tại Đại Hội Đảng lần thứ 12, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn manh trên nhu cầu cải tổ.
Tuy nhiên, vụ bắt cóc môt cựu lãnh đạo doanh nghiệp xin tị nạn tại Đức gần đây đã làm suy giảm sự tin tưởng vào đà cải tổ dựa trên luật pháp ở Việt Nam. Cuộc chiến chống tham nhũng của Việt Nam từng dẫn đến nhiều vụ truy bắt khác, nhưng hiếm khi liên quan đến một người chức cao như ông Trịnh Xuân Thanh, đã từng được huân chương anh Hùng Lao Động Thời kỳ Đổi Mới vào năm 2011.
Theo Helen Clark, nhiều nhà phân tích cũng tự hỏi là phải chăng những cáo buộc nhắm vào ông Thanh nằm trong nỗ lực của ông Nguyễn Phú Trọng muốn triệt hạ tất cả những người thân cận với cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Việc khai trừ ông Đinh La Thăng, thân cận với ông Thanh, ra khỏi Bộ Chính Trị vào năm nay, do hoạt động kém cỏi trước đây, cũng nhằm mục tiêu trên. Điều đáng tiếc là ở Việt Nam, tham nhũng là một vấn đề muôn thuở.
Lỡ dịp có thị trường châu Âu để giảm bớt lệ thuộc vào Trung Quốc
Cũng như nhà báo David Hutt, Helen Clark cũng chú ý đến các tác hại đối ngoại của vụ Trịnh Xuân Thanh, trong đó có vấn đề đàm phán về Hiệp định Tự Do Thương Mại với Liên Hiệp Châu Âu, trong bối cảnh vì mất đi TPP, Việt Nam đang cần tìm thêm một thị trường lớn để giảm thiểu lệ thuộc vào giao thương với Trung Quốc, một mục tiêu mà Hà Nội khó thể đạt được với hiệp định khu vực RCEP (Regional Comprehensive Economic Partnership).
Về phần Liên Hiệp Châu Âu cũng vậy, họ nhìn Việt Nam như một thị trường tốt với tầng lớp trung lưu đang lên và tìm kiếm những sản phẩm tiêu thụ khác thay thế sản phẩm Trung Quốc bị xem là chất lượng kém. Vấn đề đặt ra là cho đến nay, nhiều thành viên Châu Âu chống lại việc ký kết tự do thương mại với Việt Nam do vấn đề nhân quyền, và việc bắt giữ, trấn áp các blogger đang tiến hành có lẽ sẽ được đưa ra thảo luận ở Nghị Viện Châu Âu. Vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh trên lãnh thổ Đức sẽ gây thêm phiền phức.
Để mất người bạn tốt nhất tại châu Âu
Theo Helen Clark, hậu quả của vụ này còn nghiêm trọng hơn nữa khi mà cho đến nay, Đức là người bạn tốt nhất của Việt Nam ở Châu Âu, là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam trong Liên Hiệp Châu Âu.
Nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và thủ tướng Đức Angela Merkel đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược năm 2011. An ninh và quốc phòng ngày trở nên vấn đề trọng tâm đối với Việt Nam trong quan hệ kiểu này.
Thế nhưng vấn đề trọng tâm trong thỏa thuận Đức–Việt là gì ? Đối với Helen Clark, ngoài giáo dục và môi trường, còn có vấn đề hành xử theo luật pháp. Đức đã nỗ lực hỗ trợ Việt Nam cải tổ hệ thống luật pháp trong đó có việc được Bộ Ngoại giao Đức nói rõ là "hướng dẫn thực thi các công ước quốc tế… phát huy nhân quyền và trợ giúp pháp lý và những vấn đề khác".
Làm sao đả kích Trung Quốc không tôn trọng luật quốc tế trên Biển Đông ?
Những yếu tố trên rõ ràng là không giống với nhận định của Bộ Ngoại giao Đức xác nhận vụ bắt cóc mới đây, theo đó "Việc bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh trên lãnh thổ Đức là một sự vi phạm chưa từng thấy và trắng trợn luật lệ của Đức và quốc tế".
Đối với Helen Clark, đây quả là một vấn đề lớn vì Việt Nam mong muốn hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng quốc tế, đề cao các giá trị đa phương cũng như hoạt động dựa trên luật pháp của các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ hay Nhật Bản. Và đấy là do tranh chấp của Việt Nam ở Biển Đông về đường chín đoạn của Trung Quốc, Việt Nam hậu thuẫn phán quyết của Tòa Trọng tài La Haye và muốn áp dụng luật biển quốc tế trong cuộc tranh chấp.
Để thúc đẩy những vấn đề cốt lõi này, Việt Nam đã từng tìm kiếm một vai trò quốc tế hùng mạnh hơn, từ chiếc ghế không thường trực tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cho đến tham gia công tác duy trì hòa bình, hay làm thành viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc vài năm trước đây. Trong bối cảnh đó, một vụ bắt cóc kiểu thời Chiến Tranh Lạnh đã làm đảo lộn tất cả, vi phạm luật pháp Đức cũng như quốc tế, và không phù hợp với quy chế một quốc gia có trách nhiệm.
Mai Vân
Nguồn : RFI, 16/08/2017