Sau biến cố Thiên An Môn vào mùa xuân năm 1989, Đặng Tiểu Bình và phe diều hâu tại Bắc Kinh đã tiến hành chiến dịch tẩy sạch, bên ngoài là càn quét các phong trào dân chủ, nhất là giới lãnh đạo sinh viên, và bên trong là thanh trừng phe cải cách, cấp tiến trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc. Theo các dẫn chứng trong tác phẩm "Cuộc chạy đua 100 năm" của tiến sĩ Michael Pillsbury thì trong vòng một năm sau đó, họ đã tìm cách kiểm soát thông tin chặt chẽ, đóng cửa 12 phần trăm tổng số báo chí, 76 phần trăm các nhà xuất bản, 13 phần trăm các tạp chí khoa học định kỳ, tịch thu 32 triệu cuốn sách, cấm 150 bộ phim, và trừng phạt 80 ngàn người vì các hoạt động liên quan đến truyền thông.
Đặng Tiểu Bình đứng thứ hai từ phải sang.
Tổng thống George H Bush lúc đó khá bị động, và các chính sách đối phó khá chạm chạp. Theo Tiến sĩ Pillsbury thì ông Bush chủ yếu lắng nghe Richard Nixon, chỉ huy cũ của ông. Trong nhật ký của mình, ông Bush cho biết ông Nixon cố vấn như sau : "Không nên gây gián đoạn quan hệ. Những gì diễn ra đã bị xử lý rất tồi và đáng chê trách, nhưng nên nhìn ở đường dài". Nixon nhấn mạnh quan hệ tốt trên đường dài mới là quan trọng.
Trong khi đó thì một xu hướng diều hâu, chủ nghĩa dân tộc cực đoan (ying pai, hypernationalism) đã phát triển như một trường phái tư tưởng khoảng đầu thập niên 1980, xem cung cách sống và văn hóa của Mỹ là "ô nhiễm tinh thần", mà sẽ hủy hoại Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình, tuy không phải là thành viên của nhóm chống lại Hoa Kỳ này, nhưng sau biến cố Thiên An Môn, bắt đầu tin rằng Hoa Kỳ muốn dựt sập Đảng cộng sản Trung Quốc, nên đã ủng hộ khuynh hướng này. Triệu Tử Dương thì bị quản thúc tại gia cho đến khi lìa trần.
20 năm sau biến cố Thiên An Môn, giáo sư Andrew Nathan, một chuyên gia về Trung Quốc, cùng với một chuyên gia nổi tiếng khác là giáo sư Perry Link, một giáo sư hàng đầu về Hán học, cho xuất bản "Tài liệu về Thiên An Môn" và các tài liệu liên hệ khác. Lúc đó giới tinh hoa và nghiên cứu, cũng như giới tình báo Hoa Kỳ, về Trung Quốc mới thật sự hiểu những gì đã diễn ra đối với Triệu Tử Dương và bao nhiêu nhà đối kháng ủng hộ cho xu hướng dân chủ khác, điều mà họ không nắm rõ thời đó.
Tiến sĩ Pillsbury thừa nhận rằng vào thời đó ông cũng dễ tin, và vẫn duy trì ảo tưởng rằng lãnh đạo chính trị Trung Quốc lúc đó phản ứng quá đà, chứ trước sau gì họ cũng sẽ đi theo con đường dân chủ mà thôi. Không phải chỉ mình ông mà đại đa số thành phần tinh hoa và tình báo Hoa Kỳ đều suy nghĩ như thế vào thời điểm đó. Vì tin như thế nên dù có bao nhiêu bằng chứng khác, họ vẫn gạt sang một bên những gì không ủng hộ quan điểm của họ. Tiến sĩ Pillsbury xác nhận đây là một trong những thất bại e chề của giới tình báo Hoa Kỳ.
Nhiều nhà cải cách của Trung Quốc đã bị kết án và bị quản thúc tại gia, trong khi đó một số trí thức trước đây từng phục vụ trong các cơ quan nghiên cứu của Đảng cộng sản Trung Quốc tìm cách trốn ra nước ngoài. Trước biến cố Thiên An Môn, rất nhiều trong số này khi đến Hoa Kỳ đều kết luận tương tự, rằng Trung Quốc đang trên đường đi đến một nền kinh tế thị trường, bầu cử (tự do) và sẽ hợp tác rộng rãi hơn nữa. Nhưng sau biến cố này, một số nhà đào ngũ đã trình bày các suy nghĩ khác, đáng quan ngại hơn trước, nhưng ngay cả thế, giới tình báo CIA và nhân viên hàng đầu Lầu Năm góc từ chối lắng nghe quan điểm này.
Ông Trắng cho biết trong vòng ba năm, từ năm 1986 đến 1989, đã có cuộc đấu đá trong nội bộ Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chiến lược nào cho tương lai.
Thường, người đào ngũ với chức vụ cao đòi hỏi nhiều, nhất là nhiều tiền. Ai cũng tự cho mình biết nhiều tài liệu mật hơn và quan trọng hơn những người khác. Nhưng có một người, tạm gọi là ông Trắng (Mr White), chỉ yêu cầu được tị nạn chính trị, một tên mới, một nhà ở, một công việc có lương tương đối, và dĩ nhiên một câu chuyện để giới tình báo Trung Quốc thuyết phục rằng ông ấy đã chết. Ông Trắng đến văn phòng của trụ sở chính của FBI vào đầu thập niên 1990, lầu 8, đường Pennsylvania Avenue. Tiến sĩ Pillsbury kể lại buổi họp này khác thường. Tất cả các chuyên gia về Trung Quốc thuộc nhiều bộ và ban ngành khác nhau được mời đến để lắng nghe và đánh giá các thông tin mật về phần trình bày của các nhà đào ngũ từ Trung Quốc. Buổi họp dự trù một tiếng kéo dài thành ba tiếng.
Ông Trắng là một trong những các đối tượng chính để thảo luận. Ngoại trừ cặp mắt ông láo liết và các ngón tay ông rung rung khi tiết lộ chi tiết, ông có vẻ khả tín. Một số tin mật ông tiết lộ thì có thể kiểm chứng được : như danh tánh của một số tình báo Trung Quốc tại Hoa Kỳ ; cách sắp xếp các phòng họp và chi tiết hệ thống điện thoại mật mà giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc sử dụng ; ông nhận diện được các tài liệu mật của Trung Quốc mà Hoa Kỳ đã lấy được ; phân biệt cái nào thật cái nào giả một cách dễ dàng ; ông còn qua được máy kiểm tra nói thật/dối. Vấn đề duy nhất mà giới tình báo Hoa Kỳ có với ông lúc đó là những thông tin tình báo mới mà ông trình bày. Họ không tin những điều ông nói.
Ông Trắng cho biết trong vòng ba năm, từ năm 1986 đến 1989, đã có cuộc đấu đá trong nội bộ Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chiến lược nào cho tương lai. Được đọc các tài liệu mật về các cuộc họp và tranh luận ở cấp cao, ông Trắng trình bày sức mạnh của phe diều hâu ; những nỗ lực rộng khắp của họ để dập tắt xu hướng ủng hộ Hoa Kỳ trong nước ; khủng hoảng Thiên An Môn đã làm lung lây sự ổn định nội địa Trung Quốc ; và Đặng Tiểu Bình đang nghiên về phía phe diều hâu trong đảng. Ông biết luôn cả vai trò của từng tên diều hâu, và làm cách nào mà họ khống chế thành phần ôn hòa. Nhưng ông cứ tưởng rằng bằng cách nào đó Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ cho các nhà cải cách thật sự. Ông Trắng giả định Hoa Kỳ biết nhiều về nội tình chính trị của Trung Quốc, và niềm hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ cứu giúp khuynh hướng cải cách. Khi nghe lời điều trần của ông Trắng thì chính Tiến sĩ Pillsbury cũng cảm thấy xót xa vì toàn tình báo Hoa Kỳ không biết về những điều này.
Ông Trắng còn cho hay Đặng Tiểu Bình có những kế hoạch táo bạo để phổ biến rộng rãi quan điểm chủ nghĩa cực đoan của phe diều hâu Trung Quốc. Ông Trắng cũng đã tham dự các cuộc họp mật tập trung thảo luận làm sao để phục hồi Khổng Tử như là một anh hùng dân tộc, sau bao nhiêu thập niên Đảng cộng sản Trung Quốc (chủ trương của Mao Trạch Đông) tấn công vào văn hóa Khổng Giáo và tất cả những gì có liên hệ đến tôn giáo.
Theo Tiến sĩ Pillsbury thì việc Đảng cộng sản Trung Quốc viết lại lịch sử là điều không có gì lạ, vì sau khi nắm quyền vào năm 1949, một đội ngũ sử gia Trung Quốc cải tác lại lịch sử, nhấn mạnh rằng tất cả những tiến bộ đều đến từ cuộc kháng chiến của nông dân. Nhưng với những gì ông Trắng trình bày, nó quá rộng khắp đến độ thách thức cả sự nhẹ dạ. Đảng cộng sản Trung Quốc từ khi ra đời cho đến nay cho rằng họ đã đoạn tuyệt với quá khứ thì làm sao bây giờ họ trở lại ôm lấy nó ? Ý thức hệ cộng sản đã được âm thầm gạt bỏ để nhường chỗ cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan chỉ vì sự tồn vong của chính quyền ? Nếu vậy, Trung Quốc đỏ, thật ra, không còn đỏ lắm. Cho nên những gì ông Trắng trình bày có vẻ khó tin và khó thuyết phục, nhất là vào thời điểm đó, ngay cả với những người dễ tin.
Khu vực tự do mậu dịch Shanghai, Pudong district. Hình minh họa.
Cùng lúc với sự tiết lộ bí mật của ông Trắng là những thông tin được một phụ nữ, tạm gọi là bà Xanh, một tài sản bí mật quý giá lâu nay của FBI, cung cấp. Các yêu cầu về tài chánh của bà Xanh nhiều hơn, hai triệu đô la, vì bà tự nhận có mức độ quen biết sâu hơn.
Bà Xanh tự nhận không những biết về Bộ Chính trị mà còn biết rất rõ về người kế vị của Đặng Tiểu Bình, tức Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Bà biện luận rằng ông Đặng lẫn ông Giang đều kiên quyết ủng hộ Hoa Kỳ. Ông Giang còn ủng hộ nhiều hơn cả ông Đặng và còn thích hát nhạc Elvis Presley bằng tiếng Anh. Bà chế nhạo ý tưởng cho rằng Khổng Tử sẽ được đề cao trở lại hoặc các môn học Mác-xít sẽ bị loại bỏ khỏi chương trình giáo dục quốc gia. Bà khẳng định rằng phe diều hâu chỉ là những nhà tư tưởng bên lề, ngoài giòng chính, già nua và nhanh chóng mất những ảnh hưởng vốn không còn bao nhiêu cả.
Khác với ông Trắng, bà Xanh đã không, và không thể, tiết lộ tên hoặc địa điểm của bất kỳ một điệp viên Trung Quốc nào tại Hoa Kỳ. Bà cũng không nhận diện ra được bất cứ điệp viên nào trong các tấm hình cung cấp. Bà tự nhận là không có kiến thức nào về các đường hầm bí mật dài hàng dặm nằm dưới thủ đô Bắc Kinh mà các viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc dùng để đi lại. Bà cũng không nhận diện ra được bất kỳ tài liệu mật nào của Trung Quốc.
Bà Xanh lại sẵn sàng hiểm nguy cả tính mạng để bay về lại Trung Quốc một năm một hoặc hai lần để thu thập các tin tình báo mới. Ảnh minh họa
Nhưng khác với ông Trắng người nói tiếng Anh phần lớn khó hiểu được, bà Xanh nói tiếng Anh thông thạo. Bà lạc quan về hầu hết mọi địa hạt chính sách mà Hoa Kỳ hợp tác với Trung Quốc. Không như ông Trắng người tỏ vẻ lo lắng và ngay cả khiếp sợ về việc gặp mặt lại đồng hương của mình, bà Xanh lại sẵn sàng hiểm nguy cả tính mạng để bay về lại Trung Quốc một năm một hoặc hai lần để thu thập các tin tình báo mới.
Vào thời đó, Tiến sĩ Pillsbury biện luận rằng Hoa Kỳ có thể giữ cả hai người trong số người được lưu giữ bởi chính quyền, nhưng các đồng nghiệp của ông không đồng ý. Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ phát đạt nhờ sự đồng thuận. Bà Xanh giải quyết được vấn đề và họ theo phe bà và cung cấp số tiền bà yêu cầu.
Tuy thế, Tiến sĩ Pillsbury, vì tò mò chứ không nhất thiết tin tưởng ông Trắng vào lúc đó, cũng đã tiếp tục gặp và trao đổi với ông Trắng sau đó. Họ trao đổi nhau bằng Hán ngữ. Tiến sĩ Pillsbury thắc mắc làm thế nào mà chủ thuyết Mác sẽ được loại bỏ khỏi ý thức hệ quốc gia và chương trình giáo dục quốc gia ? Ông Trắng trả lời rằng ông đã từng được nghe về kế hoạch thiết lập chương trình "giáo dục yêu nước". Sẽ có hàng trăm cơ sở giáo dục yêu nước khắp nơi, các tượng đài lịch sử mới, và các viện bảo tàng mới để phục vụ cho kỹ nghệ du lịch. Lãnh đạo chính trị sẽ hỗ trợ tài chánh cho các chương trình truyền hình, phát thanh và phim ảnh ghi chép các biến cố "thế kỷ quốc nhục" mà Trung Quốc đã hứng chịu vì các thế lực ngoại bang, như Nhật Bản và Hoa Kỳ. Họ sẽ tuyên bố rằng Hoa Kỳ ra sức phong tỏa Trung Quốc và tìm cách ngăn chặn Trung Quốc trở lại một thời vinh quang.
Ông Trắng cho rằng giới trẻ và trí thức Trung Quốc đã yêu Hoa Kỳ qua biến cố Thiên An Môn, nhưng lãnh đạo Trung Quốc sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra lần nữa. Họ sẽ bôi nhọ Hoa Kỳ, sẽ tìm cách hồi sức (rejuvenation), chấm dứt nỗi nhục do bàn tay của Tây phương gây ra. Ông Trắng kết luận : "Hai con chim, một hòn đá". Tiến sĩ Pillsbury hỏi : "Hai chim ở đây là ai ?". Ông Trắng trả lời rằng thứ nhất là sẽ không còn đe dọa từ Liên Xô nữa ; nó đã sụp đổ rồi, nên Bắc Kinh không cần Hoa Kỳ bảo vệ nữa. Con chim thứ nhì là Hoa Kỳ. Trung Quốc muốn làm bá chủ.
Theo Tiến sĩ Pillsbury thì Hoa Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội, vì kể từ năm 1972 cho đến biến cố Thiên An Môn, đó là lần đầu tiên Hoa Kỳ có cơ hội nhìn lại Trung Quốc với cặp mắt khác ngoài màu hồng. Nhưng Tổng thống Bush lúc đó, mặc dầu biết các nhà cải cách Trung Quốc bị thanh trừng và Chủ tịch nước Triệu Tử Dương bị quản thúc, vẫn bám vào quan niệm sai lầm cũ. Đối với cả hai nhà cải cách thật sự là Hồ Diệu Bang, người đã qua đời, và người kế vị, Triệu Tử Dương, thì Hoa Kỳ quyết định không nâng cao số phận của họ. Không ai biết họ là người cải cách thật sự. Không ai biết mức độ cải cách mà họ đã vận động ở thượng tầng lãnh đạo. Các thông tin đó chỉ đến sau này, từ các người đào ngũ từng làm việc trực tiếp với họ Triệu và họ Hồ trong các cải cách chính trị dân chủ. Tóm lại, theo Tiến sĩ Pillsbury thì Hoa Kỳ bấy lâu nay đã hỗ trợ cho những nhà cải cách giả và bỏ rơi những nhà cải cách thật, và đây là điều mà sau này trở lại ám ảnh Hoa Kỳ.
Để hoàn tất bản báo cáo của mình, Tiến sĩ Pillsbury được gửi sang Paris để phỏng vấn những đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vượt thoát được và đang được chính quyền Pháp cho trú ẩn. Họ chọn một lãnh đạo và thành lập một chính quyền lưu vong với hy vọng được Tây phương công nhận. Tổng thống Bush không quan tâm đến tổ chức này. Các chi tiết trong hồi ký của các nhà hoạt động này (những người từng làm việc trực tiếp dưới họ Hồ họ Triệu, muốn xây dựng một hệ thống chính trị như Hoa Kỳ), đồng thuận và hỗ tương nhau, nhưng vào thời đó nó không đủ và lại đến quá trễ.
Thêm vào đó bà Xanh khẳng định họ Giang, người được họ Đặng chọn lấy, là thuộc phe cải cách và hát nhạc Elvis Presley. Sau vụ thảm sát Thiên An Môn, ngày 5 tháng Sáu năm 1989, Tổng thống Bush tuyên bố rằng ông tin các lực lượng dân chủ sẽ vượt qua các biến cố bất hạnh tại Quảng trường Thiên An Môn. Nhưng ngay trong thời điểm nổi dậy và bị đàn áp đó, Tổng thống Bush tiếp tục ra lệnh cho Lầu Năm Góc hoàn thành lời hứa chuyển giao ngư lôi, hệ thống radar, và các thiết bị quân sự khác cho Trung Quốc. Vì đã hoàn toàn thuyết phục bởi chủ trương của Nixon lúc đó nên ông không thể có một cái nhìn khác đi được. Thêm vào đó quan điểm của ông Bush được hỗ trợ bởi giới lãnh đạo doanh nghiệp Hoa Kỳ rất sẵn lòng duy trì mối quan hệ và các cơ hội làm ăn đang phát triển bởi vì thị trường Trung Quốc có nhiều hứa hẹn trở thành lớn nhất trên thế giới.
Quan điểm của Tổng thống Bush về Trung Quốc đã bị ông Bill Clinton phê phán nặng nề trong cuộc tranh cử năm 1992. Trong cuộc tranh cử, ông Clinton phê phán ông Bush nâng niu "những kẻ tàn sát của Bắc Kinh". Sau khi đã thắng cử, Tổng thống Clinton vào lúc đầu nhiệm kỳ đã có quan điểm cứng rắn nhất đối với Trung Quốc so với các tổng thống tiền nhiệm như Eisenhower, Kennedy và Johnson. Warren Christopher, Bộ trưởng Ngoại giao của Clinton, điều trần trước Ủy ban Ngoại giao Thượng viện rằng "Chính sách của chúng tôi là sẽ tạo điều kiện cho những sự chuyển hóa rộng lớn và ôn hòa tại Trung Quốc từ cộng sản đến dân chủ bằng cách khuyến khích các lực lượng tự do hóa về kinh tế và chính trị".
Quan điểm mạnh mẽ của Tổng thống Clinton được thể hiện cao nhất vào ngày 28 tháng Năm năm 1993, khi ông đã mời 40 nhà đối kháng Trung Quốc, kể cả những người đại diện cho Đạt Lai Lạt Ma và lãnh đạo phong trào sinh viên Thiên An Môn, đến Nhà Trắng. Đây là một sự khiển trách chưa từng thấy theo cái nhìn của Bộ Chính trị Trung Quốc, và đe dọa toàn bộ mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Theo ông Trắng, người vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ với nguồn của mình tại Trung Quốc, cho biết các chuyên viên tình báo Trung Quốc nắm rõ sự chia rẽ bên trong nội bộ chính quyền Clinton về Trung Quốc, do đó họ đã ra sức thi hành chiến lược vận động để chuyển hóa. Họ chủ trương thành lập một liên minh để ủng hộ đường lối Bắc Kinh. Họ nghiên cứu kỹ lưỡng quan điểm của từng người trong chính quyền Clinton, và dồn mọi nỗ lực để vận động và hỗ trợ cho những cá nhân nào ủng hộ mối quan hệ với Trung Quốc. Các doanh nghiệp và những người ủng hộ tài chánh chính cho chiến dịch vận động tranh cử của ông Clinton bây giờ đi vận động trực tiếp với tổng thống. Họ yêu cầu ông không nên gây nguy hại cho viễn ảnh cơ hội buôn bán máy bay Boeing cho Trung Quốc, cũng như những vệ tinh thương mại của Mỹ nếu sử dụng hỏa tiển Trung Quốc thì tiết kiệm được hàng trăm triệu đô la vân vân… Họ cũng nỗ lực vận động quốc hội Hoa Kỳ mềm mỏng hơn trong bang giao với Trung Quốc, chủ yếu dựa trên quyền lợi kinh tế của cử tri.
Tượng Khổng Tử gần quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh. Khổng Tử là một "sức mạnh mềm" mà Trung Quốc muốn quảng bá ra thế giới.
Đến cuối năm 1993 các liên minh yểm trợ Trung Quốc này đã thuyết phục được Tổng thống Clinton bớt cứng rắn trong chính sách đối với Trung Quốc. Các quy định hình phạt trước đây dần dần được dịu bớt và xóa bỏ, và các cuộc gặp gỡ với Đạt Lai Lạt Ma không xảy ra nữa. Những người ủng hộ quan điểm này được Bắc Kinh cám ơn, xem như là "những người bạn của Trung Quốc". Trong khi đó Bắc Kinh vẫn tiếp tục đàn áp các nhà đối kháng trong nước. Và Hoa Kỳ lại tiếp tục xem Trung Quốc như một đồng minh.
Mọi sự trở lại bình thường, ít ra nó trông là vậy. Cho đến gần cuối nhiệm kỳ của Clinton khi máy bay Hoa Kỳ, lãnh đạo khối NATO, lẽ ra nhắm vào một địa điểm trong thủ đô Belgrade của Serbia, nhưng năm quả bom JDAM đã rớt trúng phía nam của tòa đại sứ Trung Quốc tại Belgrade, làm ba người bị chết vào thứ Sáu ngày 7 tháng Năm năm 1999. Mặc dầu Tổng thống Clinton chính thức xin lỗi rằng đây là một tai nạn hoàn toàn không cố ý, và xin lỗi không phải một lần, các lãnh đạo Bắc Kinh đều tin rằng Hoa Kỳ cố tình thực hiện để xem phản ứng của Trung Quốc ra sao. Chỉ trong vòng vài tiếng sau vụ ném bom này, hàng trăm người Trung Quốc đã tụ tập trước tòa đại sứ Hoa Kỳ phản đối, kêu gọi trả thù Hoa Kỳ và khối NATO, và ném đá, trứng và cà chua vào tòa đại sứ. Ngày Chủ Nhật họ ném hai quả bom xăng vào cửa sổ tòa đại sứ. Không xa tòa đại sứ, các cục bê tông được ném vào cửa sổ phòng ăn của nơi thường trú của Đại sứ Hoa Kỳ James Sasser, nơi vợ con ông đang ở. Mãi đến chiều thứ Hai thì chính quyền Bắc Kinh mới chính thức can thiệp với (bốn) điều kiện.
Vào năm 2001, giới tình báo Hoa Kỳ đã lấy được biên bản mật của buổi họp Bộ Chính trị Trung Quốc được triệu tập khẩn cấp sau khi vụ ném bom ở Belgrade xảy ra. Từ Giang Trạch Dân cho đến tất cả lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc xem hành động này là cố ý chứ không phải là tai nạn, tin rằng Hoa Kỳ muốn "xác định sức phản ứng của Trung Quốc đối với các khủng hoảng và xung đột quốc tế và nhất là các biến cố bất thình lình như thế".
Điều đáng nói ở đây là khi sự kiện ném bom này xảy ra, Tiến sĩ Pillsbury đã liên lạc liền với ông Trắng vì muốn biết ông nghĩ gì về chuyện này, trước khi có biểu tình tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Ông Trắng cho biết đây là cơ hội không thể bỏ qua để chính quyền Trung Quốc áp dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan mới mà ông từng trình bày trước đây. Ông tiên đoán : "Sẽ có nhiều ngày náo động chống Hoa Kỳ sắp tới". Ông Trắng khẳng định lãnh đạo Trung Quốc sẽ không nhìn nó như là một tai nạn, mà "Họ sẽ nhìn nó như là một cảnh báo của Hoa Kỳ và thử nghiệm sự quyết tâm của Trung Quốc". Lúc đó Tiến sĩ Pillsbury nghe ông Trắng thì nghe nhưng tin thì không.
Điều đáng nói kế tiếp là ngay cả sau sự kiện này, nó cũng không làm cho lãnh đạo và giới chức Hoa Kỳ giảm bớt bao nhiêu sự tự mãn và niềm lạc quan vào Trung Quốc. Phần lớn các viên chức Hoa Kỳ chọn thái độ mặc kệ các chỉ dấu chống Mỹ. Một số các bằng chứng chống Mỹ của Trung Quốc còn bị ngăn chặn trong chính quyền Hoa Kỳ. Vào thập niên 1990, trong chuyến viếng thăm một trung tâm thông dịch của CIA tại Reston, Virginia, Tiến sĩ Pillsbury có hỏi một thông dịch viên vì sao có quá ít thí dụ về những phát biểu chống Mỹ của lãnh đạo Trung Quốc trong các bản báo cáo ?
Hầu hết các viên chức Mỹ dựa vào các thông dịch này để hiểu được trong đầu lãnh đạo Trung Quốc nghĩ gì bởi rất ít người có thể đọc và có thể nắm bắt nhiều sắc thái và ngụ ý quan trọng trong Hán ngữ. Cô thông dịch trả lời rằng bà đã nhận được mệnh lệnh từ trên là không thông dịch những thứ mang tính chủ nghĩa dân tộc. Ông bối rối hỏi tại sao thì được cô trả lời rằng "Bộ phận lo về Trung Quốc tại văn phòng trung ương bảo tôi rằng nó chỉ gây thêm vấn đề đối với thành phần bảo thủ và những người vận động nhân quyền tả khuynh tại Washington và làm tệ thêm quan hệ với Trung Quốc".
Ngay cả với những gì xảy ra như thế, từ biên bản của Bộ Chính trị đến nhận định từ ông Trắng, Tiến sĩ Pillsbury cho biết ông vẫn chưa trở thành người bi quan và hoài nghi về Trung Quốc. Bởi các nguồn tình báo khác có vẻ ủng hộ cho quan niệm rằng tất cả những điều tiêu cực rồi sẽ đi qua. Mục tiêu đường dài cần lãnh đạo quốc gia có viễn kiến để tập trung vào nỗ lực dân chủ hóa Trung Quốc sẽ chắc chắn xảy ra, và những kẻ diều hâu đang ở tuổi bảy mươi hay tám mươi nên trước sau gì cũng sẽ bị thay thế bởi giới cải cách ôn hòa hơn.
Trong suốt thời gian đó, các hy vọng này đã được củng cố bởi một trong các điệp viên hàng đầu về Trung Quốc, bà Xanh. Bà liên tục đảm bảo rằng Bắc Kinh không phải là mối đe dọa cho Hoa Kỳ. Các báo cáo của bà Xanh và việc bà tiếp cận sát với giới lãnh đạo Bắc Kinh đã tiếp tục ảnh hưởng viên chức Hoa Kỳ cho đến khi FBI bắt giữ bà vào ngày 9 tháng Tư năm 2003. Một nguồn CIA từ bên trong Trung Quốc đã tố giác bà. Vụ án này đã bị chánh án Florence Marie Cooper bác bỏ đơn năm 2005, nhưng sau đó bà bị buộc tội lần nữa, lần này bị ba năm quản chế. FBI chưa bao giờ công khai các báo cáo của họ về sự báo cáo giả dối của bà Xanh. Cho đến khi nào FBI công bố điều này thì công chúng không thể biết được điều gì tệ hại hơn: các bí mật bà cung cấp cho Trung Quốc hay các bảo đảm bà cung cấp cho Hoa Kỳ.
Vài lời kết
Trong tác phẩm này, Tiến sĩ Pillsbury ghi nhận những đánh giá sai lầm của mình và của các cơ quan tình báo Hoa Kỳ, cũng như của lãnh đạo chính trị hàng đầu của Hoa Kỳ về Trung Quốc. Không chỉ riêng Tổng thống Bush mà các tổng thống trước và sau ông trên bốn thập niên qua đều có nhiều nhận định sai lầm.
Cuộc chạy đua một trăm năm" của Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.
Những gì ông Trắng trình bày sau này phần lớn được chứng minh là chính xác, từ "giáo dục yêu nước" cho đến "Viện Khổng Tử" vân vân…, và cách suy nghĩ của lãnh đạo Bắc Kinh. Nhưng giới lãnh đạo chính trị và tình báo Hoa Kỳ đều phất lờ, đều không muốn tin. Nếu không ghi nhận và không công khai chia sẻ bài học này cho công chúng thì người dân không thể biết và do đó không thể kiểm soát được các hành động của chính quyền. Không ghi nhận thì cũng không cố gắng học hỏi để tìm cách điều chỉnh, cải tiến và tìm ra các sáng kiến và phương thức làm việc mới hiệu quả hơn.
Qua câu chuyện Mr White và Ms Green, một chương sách đáng nghiên cứu trong tác phẩm của Tiến sĩ Pillsbury, tôi thấy có ba điều đáng suy ngẫm và học hỏi, cho cá nhân và cho đất nước.
Một, cần ý thức được rằng tất cả chúng ta đều có những suy nghĩ thiên vị, và kể cả lệch lạc. Nó đến từ môi trường sống, văn hóa, tôn giáo, giáo dục, ý thức hệ, chính trị v.v… Nhất là những ảnh hưởng dạy dỗ từ thời còn rất nhỏ. Các ảnh hưởng bởi những suy nghĩ một chiều và những định kiến và thiên vị từ bé đã đi vào tiềm thức và sau này tiếp tục chi phối suy nghĩ và hành động của mỗi chúng ta một cách tự động. Do đó nếu không lưu ý và thách thức các suy nghĩ của mình thì chính chúng ta sẽ là nạn nhân một cách vô thức.
Hai, các thành phần bảo thủ, cực đoan, suy nghĩ lắm khi một chiều, đại đa số lại cho mình là đúng hơn người khác và thượng đẳng (superior) hơn người khác. Chẳng hạn như phe diều hâu và lãnh đạo chính trị của Trung Quốc. Vì suy nghĩ độc đoán như thế, họ ảo tưởng rằng chỉ có mình mới đúng nhất, nên coi thường và bác bỏ mọi ý kiến khác. Vì suy nghĩ đó, bằng mọi giá họ xóa bỏ các dữ kiện lịch sử của Thiên An Môn hay tất cả những gì bất lợi cho họ, kể cả viết lại lịch sử đảng và các quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, chẳng hạn. Họ xóa bỏ cả các tên Hồ Diệu Bang hay Triệu Tử Dương trong sách giáo khoa, và cấm không được ai nhắc đến. Đó là tại Trung Quốc.
Tại Hoa Kỳ thì một nghiên cứu vào năm 2017 cũng đưa đến kết luận tương tự. Cuộc nghiên cứu dành cho người cấp tiến và bảo thủ về chín vấn đề gây nhiều tranh cãi kết luận rằng những người cấp tiến hay bảo thủ vừa phải (moderate) thì còn sẵn lòng ghi nhận là có thể phía bên kia có phần đúng. Trong khi đó thành phần cực đoan của hai phía đều xác định mình đúng hơn và thượng đẳng hơn. Suy nghĩ một chiều và gạt bỏ các quan điểm khác một bên mà lại tin tưởng mình đúng nhất mới là điều khó giả thích. Theo Pew Research Centre thì cử tri Mỹ ngày càng trở nên phân cực hơn trong 20 năm qua, và số người ôn hòa vào năm 2014 ít hơn năm 1994 đến 20 phần trăm, trong khi số người cực đoan cả hai phía Cộng hòa và Dân chủ tăng lên gấp đôi trong 20 năm này.
Một xã hội mà có nhiều người cực đoan, dù phía nào đi nữa, và dù chỉ là thiểu số trong tổng số dân chúng, vẫn dễ đưa đến sự phân hóa trầm trọng, và mọi nỗ lực trao đổi, thảo luận hay thương lượng tìm giải pháp chung trở nên khó hơn.
Ba, bài học từ hai điều nói trên là tinh thần lắng nghe đích thực (active or true listening). Bằng lỗ tai, cặp mắt, trái tim và đầu óc. Xã hội sẽ tốt hơn nếu càng nhiều người biết lắng nghe và bớt đi tiếng ồn tiếng nhảm. Lãnh đạo chính trị cũng như tất cả mọi công dân cần lắng nghe và tìm hiểu thông tin và suy luận mọi chiều trong cuộc sống, ngay cả những gì khó nghe hay khó tin nhất, để từ đó tìm ra được phần nào sự thật của vấn đề (một cách tương đối, không hề có cái sự thật tuyệt đối).
Quý bạn đọc nghĩ sao về vấn đề nêu trên đối với người Việt Nam, trong lẫn ngoài nước?
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 27/10/2018
Tài liệu tham khảo :
Bài viết này chủ yếu dựa vào chương 4 : Mr White and Ms Green, trang 84 đến 102, của tác phẩm "Cuộc chạy đua một trăm năm" của Michael Pillsbury, "The Hundred Year Marathon", Henry Holt and Company, February 2015.