Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Dân chủ, pháp luật là các khái niệm biểu hiện thực chất thật sự phát triển tiến bộ, văn minh của xã hội loài người. Cách đây hơn bảy thập kỷ, sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh, thoát khỏi ách nô lệ thực dân, phong kiến, nhân dân Việt Nam đã lập nên "nước dân chủ cộng hòa" – hình thức quốc gia có nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện, bảo đảm "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" của nhân dân. Thế nhưng tại sao đã hơn bảy thập kỷ trôi qua mà dân chủ pháp luật thật sự phát triển chưa có ở Việt Nam ?

Để trả lời được câu hỏi này, cần phải nhận thức bản chất, thực chất, tính chất của dân chủ thật sự, pháp luật, thật sự phát triển là gì ?

democracy1

Sự thật là khái niệm biểu hiện của bản chất bên trong ; còn thật là khái niệm biểu hiện của thực chất toàn diện ở giữa bên ngoài và bên trong.

Thật sự phát triển là gì ?

Thật sự là khái niệm có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như sau : "bản chất sự thật – thực chất thật – tính chất thật sự" [1]. Theo đó, trong mối liên hệ với sự thật, thật, thì thật sự chỉ là khái niệm biểu hiện của tính chất bên ngoài ; sự thật là khái niệm biểu hiện của bản chất bên trong ; còn thật là khái niệm biểu hiện của thực chất toàn diện ở giữa bên ngoài và bên trong.

Từ mô hình cấu trúc thực chất thật nêu trên cho thấy rằng, phát triển là khái niệm có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như sau : bản chất tăng về chất (sự thật cân đối của hiện tượng : chưa phát triển) – thực chất (thật hài hòa giữa sự vật và hiện tượng tồn tại : phát triển) – tính chất giảm về lượng (thật sự cân bằng của sự vật : không phát triển). Tức phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức "học thuật" (tri thức khoa học do học tập, nghiên cứu mà có) về sự cân đối, cân bằng, hài hòa giữa các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội.

Thực chất thật và phát triển là có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm thật sự phát triển hay phát triển thật sự. Tức thật sự phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức học thuật về sự cân đối, cân bằng, hài hòa thật sự giữa các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội.

Mô hình cấu trúc của thật sự phát triển có thể được biểu thị như sau : bản chất thật sự chưa phát triển (hiện tượng cân đối) – thực chất thật sự phát triển (tồn tại hài hòa) – tính chất thật sự không phát triển (sự vật cân bằng).

Pháp luật là gì ?

Từ các phân tích ở phần trên cho thấy rằng, pháp luật là khái niệm biểu hiện ở tính chất, bản chất và thực chất. Tính chất của pháp luật biểu hiện ở nguyên lý pháp quyền để bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển công bằng ; bản chất của pháp luật biểu hiện ở phương pháp phi bạo lực hay nguyên tắc luật để thực hiện mục tiêu chính sách phát triển bình đẳng ; thực chất của pháp luật biểu hiện ở nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển công bằng, bình đẳng, công lý.

Điều đó có nghĩa, pháp luật trong quốc gia có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất tri thức học thuật về nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền thực hiện, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển, tức bảo đảm "sự cân đối (bình đẳng), cân bằng (công bằng), hài hòa (công lý) về phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng" [2].

Mô hình cấu trúc của pháp luật có thể được biểu thị như sau : luật (bản chất : nguyên tắc luật thực hiện mục tiêu chính sách phát triển) – luật, pháp quyền (thực chất : xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển) – pháp quyền (tính chất : xây dựng nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển).

Dân chủ thật sự là gì ?

Từ các mô hình cấu trúc được phân tích ở trên cho thấy rằng, dân chủ trong quốc gia có thể được biểu thị theo mô hình cấu trúc như sau : dân chủ chưa thật sự (bản chất nhóm công dân của nhân dân làm chủ trực tiếp trong chính quyền) – "dân chủ thật sự" [3, t. 11, tr. 41] (thực chất nhân dân trong cộng đồng quốc gia vừa là chủ, vừa làm chủ trực tiếp, gián tiếp trong chính quyền, xã hội, quốc gia) – dân chủ không thật sự (tính chất cá nhân cư dân của nhóm công dân là chủ gián tiếp trong xã hội).

Từ mô hình cấu trúc này cho thấy, dân chủ thật sự là khái niệm biểu hiện tri thức học thuật về các cá nhân, nhóm, cộng đồng dân tộc trong quốc gia vừa là chủ, vừa làm chủ trực tiếp, gián tiếp trong chính quyền, xã hội, quốc gia. Dân chủ thật sự là nói về "dân chủ nhân dân" - tức "chính quyền của nhân dân" [3, t.9, tr. 38] - chứ không phải "dân chủ xã hội chủ nghĩa" [4]. Chính quyền của nhân dân tức là chính quyền của tất cả các cá nhân (công dân, cư dân), nhóm (đảng phái, hội đoàn), cộng đồng (dân tộc, tôn giáo) ; chính quyền do nhân dân tức là các cá nhân, nhóm, cộng đồng đều được quyền tự do bầu và cử ra những người đại diện cho mình trong chính quyền trung ương, địa phương ; chính quyền vì nhân dân tức là mọi đường lối, mục tiêu chính sách phát triển trong quốc gia đều phải bảo đảm đạt được sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi (quyền được sống), giá trị (quyền tự do), tinh thần (quyền mưu cầu hạnh phúc) của nhân dân.

Mối liên hệ giữa dân chủ, pháp luật, thật sự phát triển

Dân chủ, pháp luật, thật sự phát triển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên dân chủ pháp luật thật sự phát triển. Trong mối liên hệ này, thì thật sự phát triển được nhìn nhận là mục tiêu chính sách phát triển ; dân chủ được nhìn nhận là phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị thực hiện mục tiêu chính sách phát triển ; còn pháp luật được nhìn nhận là nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu chính sách phát triển.

Điều đó cho thấy rằng, pháp luật là gắn chặt với pháp quyền và "luật phát triển" [3, t. 7, tr. 41] ; không có luật đúng đắn, pháp quyền nhân nghĩa thì quốc gia không thể có dân chủ thật sự và phát triển bền vững.

Tức dân chủ pháp luật thật sự phát triển có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất các cư dân, công dân, nhân dân vừa là chủ gián tiếp trong xã hội, vừa làm chủ trực tiếp trong chính quyền bằng phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị, nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để thực hiện, bảo đảm đạt được sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.

Nguyên nhân nào làm cho dân chủ pháp luật thật sự phát triển chưa có ở Việt Nam ?

Tác giả bài viết này đưa ra ba nguyên nhân cơ bản sau đây :

Một là, do Đảng cộng sản đã nắm độc quyền tư tưởng, báo chí ; từ đó làm cho nhân dân mất quyền tự do về tư tưởng và ngôn luận, trong khi Hồ Chí Minh nói rõ rằng : "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do" [3, t. 10, tr. 378]. Tức nền tảng tư tưởng của Đảng đã sai lầm nghiêm trọng, do tư tưởng (quan điểm, chủ nghĩa) mắc phải căn bệnh "giáo điều" – tư tưởng "xã hội chủ nghĩa", "cộng sản chủ nghĩa" (tính chất hình thức của tư tưởng). Về thực chất, đây là hình thức tư tưởng biểu hiện tương tự tệ nạn "mù chữ" [5] – kẻ thù cực kỳ nguy hiểm trong quốc gia dân chủ và xã hội loài người. Tư tưởng đã mắc phải bệnh giáo điều thì hành động tất yếu sẽ lệch lạc ; hay nói cách khác : "Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm" [3, t. 7, tr. 114].

Hai là, do Đảng cộng sản đã đứng trên pháp luật ; hay Đảng tự coi mình là luật, không "tuân theo pháp luật của nhân dân" [3, t. 8, tr. 264], bởi vì đã "thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước" vào Hiến pháp Việt Nam năm 2013 một cách công khai [6, Lời nói đầu]. Tức Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng tương tự như "ông vua tập thể", Tổng bí thư, Bí thư Tỉnh ủy, Huyện ủy các địa phương tương tự như các "ông vua con" của thời đại mới ; còn nhân dân Việt Nam tương tự như "thần dân" thời nô lệ, phong kiến chỉ mong muốn được "sống làm người chứ không chịu làm nô lệ" [3, t. 13, tr. 190]. Nhân dân Việt Nam hiện nay không có pháp luật của mình, tức không có nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền của mình để bảo vệ công lý, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển con người, xã hội, quốc gia.

Ba là, do nhiều đảng viên trong Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản đã thiếu, hay vô "đạo đức" (tính chất : "làm cán bộ"), "tài năng" (bản chất : "làm việc") và "lương tâm" (thực chất : "làm người") ; tức họ đã không biết học lý luận là "để làm việc, làm người, làm cán bộ" [3, t. 6, tr. 208] thật sự, mà chỉ học để mong ra "làm quan", "phát tài", "cai trị" (quản lý, chỉ đạo), "dẫn dắt", "định hướng" nhân dân đi theo "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa" [5, Điều 2] – chế độ xã hội phản khoa học, phản tiến bộ của ‘nhà nước phong kiến kiểu mới’ trong thế kỷ XXI. Chính nhiều đảng viên cộng sản thiếu đạo đức, tài năng, lương tâm này đã làm cho quốc gia Việt Nam ngày càng mất dần chủ quyền lãnh thổ, "đất nước, biển đảo, khí trời" [7].

Tính chất cai trị về tư tưởng và hành động của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện rõ nét nhất qua vụ "xử lý điểm nóng" - điểm nóng xung đột do "khủng hoảng niềm tin" [8] vào Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chính quyền - ở xã Đồng Tâm, Huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 2020 (ngày rằm tháng 12 âm lịch năm 2020, ngày cận Tết cổ truyền của Dân tộc Việt Nam). Bởi vì, Đảng cộng sản đã mắc phải quá nhiều sai lầm từ trước đến nay trong quan hệ với nhân dân nói chung, nhân dân xã Đồng Tâm nói riêng.

Chẳng hạn, như :

1) Bắt buộc "quân đội trung với Đảng", tức trung với "nhóm lợi ích", nên đã dẫn đến "quân đội làm kinh tế" [9], bóc lột nhân dân, trở thành kẻ thù của nhân dân ;

2) Sai lầm khi áp dụng hình thức "sở hữu toàn dân" [10] về chính sách tài nguyên, đất đai trong bản Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật, nên đã không đáp ứng được "lòng dân" (đáp ứng "sự thực và công lý"), làm cho niềm tin chân thật của nhân dân nói chung, nhân dân xã Đồng Tâm nói riêng vào chế độ ngày càng mất dần ;

3) Nguyên tắc đối thoại công khai minh bạch trong giải quyết mâu thuẫn, xử lý điểm nóng, xung đột giữa nhân dân và doanh nghiệp, chính quyền đã không được tiến hành thỏa đáng ;

4) Áp dụng hình thức độc quyền thông tin truyền thông một chiều từ hệ thống báo chí của chính quyền ;

5) Lực lượng vũ trang đã cưỡng chế một cách vô nhân tính đối với các công dân chân thật buộc phải tìm cách tự vệ sau các hành vi đe dọa trước đó của chính quyền, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang ; đồng thời, chính quyền đã sử dụng biện pháp cưỡng chế vào thời điểm "mờ ám" khi trời còn tối, người dân đang ngủ, ngay giáp Tết cổ truyền của Dân tộc, v.v.

Kết luận

Con đường phát triển cách mạng dân tộc, xây dựng đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng, bình đẳng không chỉ là mong muốn trong tư tưởng Hồ Chí Minh – tư tưởng con người "biết nhận thức phải, trái", "có đúng, có sai" [3, t. 14, tr. 186] chứ không phải "kinh thánh" [3, t. 7, tr. 120] – mà còn là mong muốn của nhân dân Việt Nam. Con đường này tương tự như "sự thật của con đường hạnh phúc" [11] – con đường có mục tiêu "độc lập mang tính nhân quả (đầu - cuối), có phương pháp thực hiện mang tính đối lập "song hành" (phải - trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính độc lập, đối lập "trung gian" (ở giữa)" [12].

Để xây dựng đất nước dân chủ và giàu mạnh như nêu ở trên, giải pháp hàng đầu là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản, Quốc hội, Chính phủ cần phải triệt để đổi mới toàn diện thật sự cả về thể chế kinh tế, chính trị và văn hóa. Đây là yêu cầu cấp thiết nhất giai đoạn hiện nay nhằm xây dựng "khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam" [13], bảo vệ chủ quyền quốc gia trước hành động sai trái của chính quyền cộng sản Trung Quốc đang thực hiện chiến tranh xâm lược "mềm" (xâm lược mang tính phản văn hóa, kinh tế, pháp lý, thông tin) đối với Việt Nam và các quốc gia khác.

Thể chế kinh tế là khái niệm biểu hiện thực chất xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật để bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, cổ phần. Thể chế văn hóa là khái niệm biểu hiện thực chất xây dựng, thực hiện nguyên lý pháp quyền để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Thể chế chính trị - xã hội là khái niệm biểu hiện thực chất toàn diện của xây dựng, thực hiện nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền để bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, cổ phần ; bảo đảm về môi trường sống tồn tại trong tự nhiên và xã hội ; bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia.

Để thực hiện các giải pháp nêu trên, cần phải xây dựng "thể chế kinh tế thị trường đầy đủ" chứ không phải xây dựng thể chế "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [5, Điều 51] ; đồng thời xây dựng "thể chế chính trị pháp quyền" và "thể chế văn hóa đa dạng" [14] ở Việt Nam.

Đảng cộng sản muốn tồn tại cùng Dân tộc Việt Nam, thì giải pháp tiếp theo mang tính "quy luật phát triển của cách mạng" [3, t. 13, tr. 71] là cần phải sửa đổi ngay Hiến pháp năm 2013, thay đổi tên Đảng cộng sản hiện nay trở lại tên "Đảng Lao động" như Hồ Chí Minh đã thực hiện cách đây gần 70 năm, hoặc lấy tên mới là "Đảng Việt Nam Thống nhất" ; bởi vì, cụm từ "cộng sản" là không thật, phản khoa học ! Đồng thời, Đảng cần phải tôn trọng các quyền "là chủ", "làm chủ", "đi đúng đường lối của nhân dân" [3, t. 8, tr. 50], thật sự hòa giải dân tộc và xây dựng, thực hiện khối đại đoàn kết các dân tộc, cơ chế "tam quyền phân lập" – "Thần linh pháp quyền" ở Việt Nam [15]. Thực hiện các giải pháp nêu trên dẫn đến Đảng cộng sản mất đi quyền "cai trị", hay vai trò "lãnh đạo" (tiên phong) trong quốc gia có thể được trao vào tay một đảng chính trị tiến bộ khác, nhưng đây lại là "quy luật phát triển của xã hội" [3, t. 8, tr. 274], để Dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. Việt Nam trường tồn và phát triển bền vững mới thật sự là chân lý vĩnh hằng - cuộc sống - niềm tin của nhân dân.

Nguyễn Hữu Đổng

Nguồn : viet-studies, 12/01/2020

Tài liệu trích dẫn :

[1] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2651-doi-moi-tu-duy-nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html

[2] http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-phat-trien-o-viet-nam-123029

[3] CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

[4] Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiên Đại hội lần thứ XI, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 72.

[5] V.I.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va – 1978, t. 44, tr. 218.

[6] Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[7] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_BaoVeChuQuyen.html

[8] https://phapluatnet.vn/tin-trong-nuoc/dai-bieu-duong-trung-quoc-vu-o-dong-tam-la-khung-hoang-long-tin-14321.html

[9] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_TaiSaoQuanDoi.html

[10] https://boxitvn.blogspot.com/2017/05/ap-dung-hinh-thuc-so-huu-toan-dan-la.html

[11] https://vietnamnet.vn/vn/blog/khong-co-con-nguoi-hanh-phuc-khong-the-co-quoc-gia-hanh-phuc-436774.html

[12] tcnn.vn/news/detail/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Namall.html

[13] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ChongBaPhai.html

[14] https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/ngay-8-thang-3-ngay-phu-nu-nghi-ve-mo-rong-dan-chu-292756.html

[15] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ThanLinhPhapQuyen.html

Additional Info

  • Author Nguyễn Hữu Đổng
Published in Diễn đàn

Kinh tế, thị trường, xã hội là các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Các khái niệm này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm kinh tế thị trường xã hội. Phát triển kinh tế thị trường phụ thuộc vào thể chế kinh tế thị trường đúng đắn. Xã hội không thể phát triển nếu thiếu thể chế kinh tế thị trường. Khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và một số văn bản chính sách, pháp luật khác. Vậy tại sao kinh tế thị trường lại không thể định hướng xã hội chủ nghĩa ? Để trả lời câu hỏi này, trước hết, cần phải lý giải khái niệm "xã hội chủ nghĩa" và "kinh tế thị trường" là gì ?

theluc1

Phát triển kinh tế thị trường phụ thuộc vào thể chế kinh tế thị trường đúng đắn. Xã hội không thể phát triển nếu thiếu thể chế kinh tế thị trường.

Xã hội chủ nghĩa là gì ?

Xã hội chủ nghĩa là cụm từ gồm các khái niệm "xã hội" và "chủ nghĩa".

Khái niệm "xã hội" gồm các từ "xã" và "hội". Từ  là nói về bản chất hoạt động của các "nhóm" (tập thể) trong "cộng đồng" (xã hội) ; từ hội là nói về tính chất tổ chức của các "cá nhân" (tập thể) trong nhóm. Tức giữa xã (bản chất nhóm) và hội (tính chất cá nhân) là tồn tại thực chất cộng đồng (xã hội các loài sinh vật, thực vật, động vật, loài người).

Mô hình cấu trúc mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa các cá thể, tập thể, xã hội được biểu thị như sau : tập thể (bản chất : hoạt động của các nhóm) – xã hội (thực chất : tổ chức, hoạt động của các cá nhân, nhóm, cộng đồng các loài sinh vật, thực vật, động vật, loài người) – cá thể (tính chất : tổ chức của các cá nhân).

Tức xã hội là nói về cá nhân, nhóm, cộng đồng các xã hội loài vật (sinh vật, thực vật, động vật), loài người. Xã hội loài người là khác với xã hội loài vật. Xã hội loài người thì tự nó có thể bảo đảm được các mục tiêu "công bằng, bình đẳng, công lý" ; còn xã hội loài vật thì tự nó không thể bảo đảm được các mục tiêu như vậy.

Xã hội phát triển tức là loài vật, loài người đều phát triển. Loài vật không phát triển thì loài người cũng không thể phát triển. Xã hội loài người phát triển là khái niệm biểu hiện thực chất "sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân (cá thể), nhóm (tập thể), cộng đồng (xã hội)" [1]. Xã hội phát triển gắn với chế độ xã hội "tiến bộ" và "dân chủ" ; còn xã hội "không phát triển" (xã hội phản phát triển) là gắn với chế độ xã hội "không tiến bộ" (xã hội phản phát triển hay thoái bộ), chế độ xã hội "phản dân chủ" (chế độ phong kiến).

Khái niệm "chủ nghĩa" gồm có các từ "chủ" và "nghĩa". Từ chủ là nói về bản chất "bên trong" (bản chất : chủ thể) của khái niệm chủ nghĩa ; từ hội là nói về tính chất "bên ngoài" (tính chất : khách thể) của khái niệm chủ nghĩa. Giữa chủ và nghĩa là tồn tại "thực thể" (thực chất : thật) của khái niệm chủ nghĩa. Khái niệm chủ nghĩa được các nhà ngôn ngữ học nhìn nhận là "tư tưởng về triết học, chính trị" [2, tr. 174].

Tức là, khái niệm chủ nghĩa được biểu hiện ở ba hình thức tư tưởng cơ bản như sau : tư tưởng bên trong "tiến bộ" (bản chất : tư tưởng đúng) ; tư tưởng bên ngoài "phản tiến bộ" (tính chất : tư tưởng sai) ; và tư tưởng tiến bộ thật sự (thực chất : tư tưởng đúng thật) ở giữa. Do vậy, tư tưởng thì cần phải tiến bộ thật, còn chủ nghĩa thì cần phải đúng thật.

Khái niệm xã hội và chủ nghĩa là có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hình thành nên khái niệm "chủ nghĩa xã hội" (bản chất : tư tưởng đúng, nhưng chưa thật), "xã hội chủ nghĩa" (tính chất : tư tưởng sai, không thật). Điều đó có nghĩa, khi cụm từ ‘chủ nghĩa’ đứng sau cụm từ ‘xã hội’ thì chúng trở thành tính từ hay tính chất "xã hội chủ nghĩa" [2, tr. 1140] – tư tưởng sai ; tức xã hội chủ nghĩa là khái niệm đã "bị đánh tráo" [3] từ khái niệm "đúng" (bản chất : chủ nghĩa xã hội - chưa thật) thành khái niệm "sai" (tính chất : xã hội chủ nghĩa, không thật).

Xã hội chủ nghĩa là nói về tính chất của xã hội. Tính chất tốt đẹp của xã hội chỉ có thể là xã hội phát triển, tiến bộ, hay xã hội có mục tiêu dân chủ và giàu mạnh.

Do vậy, cụm từ xã hội chủ nghĩa được các đảng viên cộng sản nêu ra là không khoa học ; tức xã hội không thật (tính chất giả dối), hay xã hội "phản phát triển" (tính chất sai : phản tiến bộ, phản dân chủ). Nói cách khác, xã hội chủ nghĩa là không thể hướng tới các mục tiêu dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh.

Kinh tế thị trường là gì ?

Kinh tế thị trường là gắn với chế độ xã hội, hình thành nên kinh tế thị trường xã hội. Trong xã hội phong kiến thì không thể có kinh tế thị trường ; tức xã hội phong kiến thì không thể phát triển. Điều đó có nghĩa, thiếu kinh tế thị trường thì xã hội loài người không thể "phát triển" (sống thật). Bởi vậy, trong quốc gia dân chủ, kinh tế thị trường giữ vai trò "trung tâm" (ở giữa).

Mô hình cấu trúc của kinh tế thị trường hay phát triển có thể được biểu thị như sau : chưa phát triển (bản chất kinh tế tri thức : sự sống) – phát triển (thực chất kinh tế thị trường : sống thật) – không phát triển (tính chất kinh tế công nghiệp, nông nghiệp : cái chết).

Nếu so sánh kinh tế thị trường với các con số và bộ phận của thể trạng con người thì kinh tế thị trường tương tự như cái "cổ" gắn với thanh quản, khí quản, thực quản (số 3 - phần cổ) ; kinh tế nông nghiệp, công nghiệp tương tự như cái "dạ dày", "trái tim" gắn với các chi tay, chân (số 1 - phần thân) ; còn kinh tế tri thức tương tự như "bộ não" gắn với các giác quan (số 2 - phần đầu). Con người sống được là nhờ có ba bộ phận cơ bản này. Mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa chúng có thể được biểu thị ở mô hình cấu trúc như sau : số 2 (bản chất : phần đầu) – số 3 (thực chất : phần cổ) – số 1 (tính chất : phần thân).

Điều đó có nghĩa, kinh tế thị trường có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất tổ chức, hoạt động của các cá nhân (doanh nghiệp tư nhân : số 1) ; nhóm (doanh nghiệp liên doanh, cổ phần : số 2) ; cộng đồng (doanh nghiệp hoạt động công ích, tư nhân, liên doanh, cổ phần : số 3).

Trong một quốc gia, về hình thức, kinh tế thị trường được nhìn nhận ở "thể chế kinh tế thị trường". Thể chế kinh tế thị trường là khái niệm biểu hiện thực chất các cá nhân, nhóm, cộng đồng xây dựng, thực hiện nguyên tắc pháp luật, bảo đảm đạt được các mục tiêu chính sách phát triển, tức bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giữa các doanh nghiệp hoạt động công ích (doanh nghiệp gắn với "thể chế chính trị"), doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp gắn với "thể chế kinh tế"), doanh nghiệp liên doanh, cổ phần (doanh nghiệp gắn với "thể chế văn hóa" [4]).

Mô hình cấu trúc của thể chế kinh tế thị trường có thể được biểu thị như sau : thể chế kinh tế thị trường chưa đầy đủ (bản chất kinh doanh : pháp luật chưa đúng đắn ; kinh tế tăng trưởng về chất lượng) – thể chế kinh tế thị trường đầy đủ (thực chất sản xuất, kinh doanh, dịch vụ : pháp luật đúng đắn ; kinh tế phát triển) – thể chế kinh tế thị trường không đầy đủ (tính chất sản xuất : pháp luật không đúng đắn ; kinh tế tăng trưởng về số lượng).

Từ mô hình cấu trúc nêu trên cho thấy, ở Việt Nam là chỉ có thể chế kinh tế thị trường không đầy đủ ; bởi vì, pháp luật không đúng đắn, thể chế kinh tế thị trường "méo mó" (kinh tế thị trường đã không bảo đảm quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân). Hiện nay, kinh tế thị trường ở Việt Nam chưa được thế giới công nhận.

Nhìn về tính chất (hình thức mục tiêu), kinh tế Việt Nam mặc dù tăng trưởng có thể vượt chỉ tiêu "con số" đặt ra (7,02% năm 2019), nhưng nhìn về thực chất (nội dung, nguyên lý mục tiêu) thì con số đó là không thật (giả dối) ; tức đất nước không thể phát triển hay "không chịu phát triển" [5], nếu không chú trọng tăng trưởng kinh tế về chất lượng, mà chú trọng "tô hồng" các "con số" (số lượng).

Kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa liệu có dung hợp với nhau ?

Từ các phân tích ở trên cho thấy, kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa là không thể dung hợp với nhau. Nói một cách hình ảnh cho thấy rằng, kinh tế thị trường tương tự như "nước" (hình thành nên sự sống), còn xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xã hội thì như "lửa" (dẫn đến cái chết). Lửa (dương, nóng) và nước (âm, lạnh) là không dung hợp với nhau.

Xã hội loài vật, loài người chỉ có thể tồn tại khi con người biết bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống trong thế giới tự nhiên, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi, giá trị, tinh thần giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong xã hội loài người.

Xã hội phát triển chỉ gắn với thể chế kinh tế thị trường đầy đủ ; trong khi thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam lại định hướng "xã hội chủ nghĩa" (tính chất : sai trái) chứ không phải là hướng tới "xã hội dân chủ pháp quyền phát triển" [6].

Do vậy, về thực chất, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và một số văn bản chính sách, pháp luật khác là "một khái niệm chưa thật khoa học cả nội dung lẫn học thuật" [7]. Nói cách khác, kinh tế thị trường là không thể định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể được coi là tư tưởng giáo điều điển hình của những đảng viên cộng sản trung thành với chế độ xã hội phản tiến bộ.

Kết luận

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  được ghi nhận tại Điều 51 Hiến pháp Việt Nam và các văn bản pháp luật khác là một biểu hiện tư tưởng phản tiến bộ của Đảng cộng sản Việt Nam kể từ khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội của "Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", hay tư tưởng "Đảng cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội" [8] trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường đều là tư tưởng phản tiến bộ. Các tư tưởng này là trái với quy luật khách quan của thế giới tự nhiên và xã hội loài người, rất cần phải được loại bỏ khỏi Hiến pháp Việt Nam.

Hiện nay, tư tưởng của những người đảng viên cộng sản nói chung trên thế giới và ở Việt Nam nói riêng, về cơ bản là không thật. Tức tư tưởng giả dối (sai trái) là "chính" (sai nhiều) ; tư tưởng chân thật (đúng đắn) chỉ là "phụ" (đúng ít).

Các tư tưởng giả dối, trong đó có tư tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được xuất phát từ các tư tưởng sai lầm chủ yếu sau đây :

Một là , tư tưởng về "chủ nghĩa duy vật biện chứng" (chủ nghĩa nội dung, hình thức ; thiếu thực chất) của C. Mác, hay tư tưởng "ba phải" của nhiều đảng viên cộng sản - tư tưởng sai trái. Các tư tưởng này cần phải được loại bỏ bằng cuộc đấu tranh "chống chủ nghĩa hình thức" và "chống ba phải" [9].

Hai là , tư tưởng không chấp nhận cơ chế "tam quyền phân lập" [10] của "thần linh pháp quyền" (quyền lập pháp độc lập, hành pháp đối lập, tư pháp trung lập) trong nền kinh tế thị trường của "Bộ Chính trị" [3] (bộ không khoa học, không chân thật : bộ cai trị), Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Tư tưởng này cần phải được loại bỏ bằng cuộc đấu tranh tư tưởng của nhân dân để hình thành chế độ "đa đảng chính trị" (các đảng phái chân thật, tiến bộ) và cơ chế tam quyền phân lập trong quá trình xây dựng, thực hiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ ở Việt Nam.

Để có tư tưởng và hành động đúng đắn (thống nhất tư tưởng và hành động) trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường và bảo vệ Tổ quốc, cần phải thay đổi Hiến pháp ; đồng thời, loại bỏ "hệ tư tưởng phụ thuộc" (tư tưởng không độc lập, tự do) vào các loại hình "chủ nghĩa", như ‘chủ nghĩa duy vật’, ‘chủ nghĩa tư bản’, ‘chủ nghĩa xã hội’, ‘chủ nghĩa cộng sản’… của các đảng viên cộng sản ; bởi vì, khái niệm "chủ nghĩa" (bản chất : tư tưởng không khoa học, không chân thật) là đối lập với khái niệm "thật" (thực chất : tư tưởng khoa học, chân thật).

So sánh một cách hình ảnh tư tưởng của nhân dân Việt Nam với các con số và "Tết tây" (thật sự Tết : số 1), "Tết ta" (sự thật Tết : số 2), "Lễ Chúa Giáng sinh" (Tết thật : số 3) ở giữa Tết tây và Tết ta, có thể nhận thấy rằng :

Chỉ khi nhân dân Việt Nam được sống độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự về tư tưởng và hành động – tương tự nhân dân được mừng sự sống "năm mới" độc lập (tính chất kinh tế "hiệu quả" : số 1, Tết tây), mừng sức sống "năm cũ" tự do (bản chất văn hóa "tiết kiệm" : số 2, Tết ta), mừng cuộc sống "năm cũ, năm mới" độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự (thực chất chính trị xã hội "phát triển" : số 3, Lễ Chúa Giáng sinh) – thì kinh tế thị trường ở Việt Nam mới có thể phát triển nhanh và bền vững, thực hiện các mục tiêu xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nguyễn Hữu Đổng

Nguồn : viet-studies, 02/01/2019

Tài liệu trích dẫn :

[1] http://vienkhxhnv.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/seo/xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-phat-trien-o-viet-nam-93118

[2] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

[3] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_KhaiNiemDanhTrao.html

[4] http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/1736-van-hoa-chinh-tri.html

[5] https://infonet.vn/viet-nam-la-mo-hinh-ky-la-nhat-the-gioi-nuoc-khong-chiu-phat-trien-post171047.info

[6] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ViSaoCachMangNgaThatBai.html

[7] https://www.thesaigontimes.vn/142948/Mot-khai-niem-chua-that-khoa-hoc-ca-noi-dung-lan-hoc-thuat.html

[8] Điều 4 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[9] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ChongBaPhai.html

[10] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ThanLinhPhapQuyen.html

Additional Info

  • Author Nguyễn Hữu Đổng
Published in Diễn đàn

Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia (đất nước, nhân dân). Quân đội về hình thức, có "quân đội ta" (bản chất : quân đội mình), "quân đội nó" (tính chất : quân đội địch), "quân đội nhân dân" (thực chất : quân đội quốc gia). Quân đội nhân dân tức là quân đội "từ nhân dân mà ra", "vì nhân dân quên mình" chiến đấu với các loại kẻ thù "giặc ngoại xâm" (quân đội nó : kẻ thù ngoại xâm), "giặc nội xâm" (kẻ thù phản quốc), "giặc ở trong lòng" (kẻ thù hại dân). Tuy nhiên, tại sao quân đội trung với "Đảng" (Đảng cộng sản) lại trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân ?

Để trả lời được câu hỏi này, cần phải nhận thức được tính chất, bản chất, thực chất, mối liên hệ giữa các khái niệm nhân dân, quốc gia, đảng chính trị, Đảng cộng sản, kẻ thù, quân đội.

quandoi1

Quân đội là thủ phạm phá núi khai thác đá ở Vịnh Hạ Long - Ảnh Tuổi Trẻ

Thực chất khái niệm quốc gia, nhân dân Việt Nam, kẻ thù của nhân dân

Quốc gia là khái niệm nói tới "Nước" (nước nhà, đất nước, tổ quốc) [1, tr. 811]. Trong quốc gia có lãnh thổ (đất đai, biển đảo, khí trời), quốc dân và nhân dân.

Nhân dân là khái niệm có tính chất (bên ngoài), bản chất (bên trong) và thực chất (toàn diện) ở giữa. Về tính chất, nhân dân là nói tới công dân (cá nhân) yêu cha, mẹ - người đã sinh ra mình. Về bản chất, nhân dân là nói tới một số công dân (nhóm) yêu quê hương - nơi đã sinh ra dân tộc mình. Về thực chất, nhân dân là nói tới nhiều công dân (cộng đồng dân cư) yêu đất nước (nước, tổ quốc, quốc gia) - nơi đã hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam mình. Tức nhân nhân Việt Nam là nói về tất cả các cá nhân (cá thể), nhóm (tập thể), cộng đồng (xã hội) dân tộc có lòng yêu nước, thương nòi trong "nước" (nước nhà) hay quốc gia Việt Nam.

Theo đó, các công dân không yêu nước – những người "phản quốc" (làm hại đất nước), "hại dân" (làm hại nhân dân) - thì không phải là nhân dân, mà chỉ là "quốc dân" (đồng bào) ; bởi vì : "Nhân dân và quốc dân khác nhau…. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân" [2, t. 8, tr. 264].

Nói cách khác, những kẻ phản quốc, hại dân, như "giặc ngoại xâm" (kẻ thù ngoại xâm : quân đội nước ngoài xâm lược Việt Nam), "giặc nội xâm" (kẻ thù nội xâm : tư tưởng phong kiến, giáo điều, chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí), đều được coi là "kẻ thù của nhân dân" [2, t. 8, tr. 289]. Còn những người dân chân thật, dám thẳng thắn "phê bình chính quyền" [2, t. 7, tr. 114], tức những người dám "nói thẳng, nói thật" – những người chân thành chỉ ra sai lầm về đường lối (tư tưởng quan liêu), chính sách (hành vi tham nhũng, lãng phí) của các đảng viên Đảng cộng sản trong Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát tối cao, chính quyền các cấp – thì không phải là kẻ thù hay "lực lượng thù địch", như một số "tuyên truyền viên" (dư luận viên) của Đảng cộng sản đang cố tình đổi "trắng" (người dân chân thật : tương tự quân "tốt" - tốt đẹp) thành "đen" (người đảng viên cộng sản cai trị : tương tự quân "tướng, sĩ" - tinh tướng, kiêu căng) trong bàn cờ Tướng.

Những điều nói trên đã được Hồ Chí Minh nêu rất rõ như sau : "Nói thật tức là phê bình" [2, t. 7, tr. 113] ; "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này : dân rất tốt. Lúc đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ" [2, t. 5, tr. 245-246] ; "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và Chính phủ… là đồng minh của thực dân và phong kiến" [2, t. 7, tr. 357] ; "truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to" [2, t. 11, tr. 605] ; "Trộm cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ, cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hại hơn nữa" [2, t. 7, tr. 368].

Thực chất khái niệm đảng chính trị, Đảng cộng sản, quân đội

Chính trị được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện thực chất các chủ thể (công chức, viên chức, thẩm phán, đại biểu dân cử) trong "chính quyền dân sự" [3] của quốc gia đề ra phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị, xác định nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc để thực hiện, bảo đảm đạt được mục đích đường lối chính trị, mục tiêu chính sách phát triển đất nước - quốc gia. Khái niệm chính trị là đối lập với khái niệm cai trị theo mô hình cấu trúc như sau : quản trị (bản chất : nhóm, chưa thật, chưa đúng) - chính trị (thực chất : cộng đồng, chân thật, đúng) - cai trị (tính chất : cá nhân, không thật, sai).

Khái niệm "đảng" (đảng phái) là biểu hiện bản chất "nhóm", tính chất "cá nhân". Theo đó, đảng chính trị là khái niệm biểu hiện sự chân thật của nhóm (tập thể, các cá nhân) hoạt động chính trị trong cộng đồng quốc gia ; còn đảng cai trị là khái niệm biểu hiện sự giả dối, xấu xa (thủ đoạn) của các cá nhân, nhóm độc quyền (đảng thiếu chân thật) hoạt động cai trị trong quốc gia. Nói cách khác, đối lập với đảng chính trị (đảng có nhiều đảng viên chân thật "phục vụ nhân dân") là đảng cai trị (đảng có nhiều đảng viên không chân thật, quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm hại nhân dân, đất nước - phản quốc).

Từ phân tích ở trên cho thấy, Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một nhóm độc quyền cai trị trong quốc gia. Đảng cộng sản không phải là đảng chính trị (đảng chân thật - chân chính) ; bởi vì, trong Đảng còn nhiều đảng viên tham nhũng, ăn "hối lộ", hay nói cách khác là : "còn có thể hối lộ được, thì cũng không thể nói đến chính trị được" [4, tr. 218] ; hơn nữa, ngay tên gọi của đảng cũng đã biểu hiện tính chất phản khoa học (không chân thật). Cụm từ "cộng sản" (tính từ) chỉ là nói tới tính chất "góp vào, thêm vào" của từ "cộng" (dấu +) với từ "sản" (sinh ra) [1, tr. 212, 845]. Do vậy, về thực chất, cụm từ cộng sản là muốn nói về cộng đồng xã hội ; theo đó, Đảng cộng sản là muốn nói về "Đảng Cộng đồng", "Đảng Xã hội".

Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia (đất nước, nhân dân). Về hình thức, quân đội có "quân đội ta" (quân mình), "quân đội nó" (quân địch) và "quân đội nhân dân" (quân đội của quốc gia, quốc dân, đồng bào) ; chẳng hạn, như quân ta (quân đội Việt Nam) và quân địch (quân đội Trung Quốc) trong chiến tranh biên giới Việt - Trung (1979-1989), hay trong chiến tranh "mềm" (chiến tranh phi pháp, cướp biển đảo, khí trời : áp đặt đường "lưỡi bò", xây dựng đảo nhân tạo trái pháp luật quốc tế) do Trung Quốc gây chiến trên biển Đông giai đoạn hiện nay.

Quân đội ta là nói tới quân đội nhân dân Việt Nam ; bởi vì, quân đội ta "từ nhân dân mà ra" và "vì nhân dân quên mình" chiến đấu với quân thù là "giặc ngoại xâm" (kẻ xâm lược), "giặc nội xâm" (kẻ phản quốc), "giặc ở trong lòng" (kẻ làm hại dân) – các loại giặc hay kẻ địch không chân thật (gian dối) trong bầu cử, kẻ địch quan liêu (những người chủ quan, giáo điều, sai lầm về quan điểm, đường lối chính trị, mục tiêu chính sách), tham nhũng (những người có lòng tham lợi, tiền, danh, gian dối, nhũng nhiễu nhân dân để đạt được lòng tham), lãng phí (những người làm mất tài nguyên, giá trị, sức lao động, sự sống, sự thật, công lý - niềm tin của quốc gia).

Hồ Chí Minh đã từng nói về các mặt trận "quân sự" (chống giặc ngoại xâm), mặt trận "chính trị" (chống giặc nội xâm, giặc ở trong lòng) như sau : "Về mặt trận quân sự, thì các chiến sĩ dùng súng đạn mà chống quân thù. Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn" [2, t. 4, tr. 166].

Nguyên nhân do đâu quân đội trung với Đảng lại trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân ?

Từ các phân tích ở trên cho thấy, có 5 nguyên nhân cơ bản làm cho quân đội hay quân đội ta trung với Đảng lại trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân như sau :

Thứ nhất,  do trung (trung thành) với Đảng (Đảng cộng sản) nên quân đội đã trung với nhóm độc quyền cai trị, chứ không trung với nước (cộng đồng xã hội), như Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ về đạo đức mới của người cách mạng như sau : "Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào" [2, t. 4, tr. 170]. Do đó, trung với Đảng cộng sản chính là nguyên nhân làm cho quân đội ta trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân.

Thứ hai,  do trung với Đảng nên quân đội phụ thuộc vào sự "lãnh đạo" của Đảng cộng sản (Đảng lãnh đạo quân đội), hay quân đội là lực lượng do Đảng nắm giữ. Theo đó, Đảng cộng sản – tức các "công dân ưu tú" của nhân dân – đã và đang trở thành những người "làm đày tớ" cho quân đội ; bởi vì, "lãnh đạo là làm đày tớ" [2, t. 15, tr. 292]. Nói cách khác, Đảng lãnh đạo quân đội tức là nhân dân làm đày tớ cho quân đội, hay quân đội đã trở thành lực lượng "cai trị" (trấn áp) làm hại nhân dân. Điều này lại trái ngược với tư tưởng của Hồ Chí Minh như sau : quân đội phải "phục vụ nhân dân" (làm việc, chiến đấu quyên mình vì lợi ích của nhân dân) ; "người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn : - Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết" [2, t. 7, tr. 54]. Hơn nữa, Hồ Chí Minh cũng từng nói rõ : "Các đảng phái không được có quân đội riêng" [2, t. 4, tr. 173]. Điều đó cho thấy, quân đội trung với Đảng là trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân.

Thứ ba,  do trung với Đảng nên quân đội đã tuân theo đường lối của Đảng, không "theo đúng đường lối của nhân dân" [2, t. 8, tr. 423], từ đó, không xác định rõ mục đích đường lối chính trị, mục tiêu chính sách phát triển, chức năng, nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ Tổ quốc, nhân dân. Hiện nay, không ít đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam "làm kinh tế", nên đã quá chú trọng vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để kiếm "lợi" (lợi nhuận, lợi ích riêng cho cá nhân, nhóm, đơn vị). Chính do quân đội tìm kiếm lợi nhuận từ việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ; mắc tội "sai phạm trong quản lý sử dụng đất" [5] ; tham nhũng, sử dụng lãng phí tài lực, vật lực, nhân lực của quốc gia, nên đã làm cho quân đội trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân. Hồ Chí Minh đã từng phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của quân đội và của nhân dân như sau : "bộ đội làm phần của bộ đội, dân làm nhiệm vụ của dân" [2, t. 10, tr. 620] ; "bộ đội chỉ lo thi đua giết giặc lập công, bộ đội không phải là cơ quan sản xuất" [2, t. 7, tr. 353].

Thứ tư,  do trung với Đảng nên nhiều đảng viên trong quân đội đã mắc căn bệnh chủ quan, như "tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa" [4, tr. 217]. Tức nhiều đảng viên cộng sản trong quân đội có tính kiêu căng, xa tránh những người nói thẳng, phê bình thật ; chỉ thích "thắng" (lên quân hàm) mà không thích "thua" (xuống quân hàm) ; không phân biệt được đâu là "bạn" (đúng : đảng chính trị), đâu là "thù" (sai : đảng cai trị), và đâu là "nhân dân" (thật : quần chúng) ở giữa bạn và thù, theo mô hình câu trúc như sau : bạn (đúng : đảng chính trị) – nhân dân (thật : quần chúng) – thù (sai : đảng cai trị). Đây chính là nguyên nhân làm cho quân đội trung với Đảng đã trở thành kẻ thù phản quốc, "thoái bộ" (phản tiến bộ) làm hại nhân dân.

Hồ Chí Minh đã từng nói về "bệnh hiếu danh" – người "chỉ biết lên mà không biết xuống" [2, t.5, tr. 295] ; hay nói về đức tính khiêm tốn của người cựu chiến binh (người tham gia kháng chiến chống ngoại xâm), sự thiếu hiểu biết của đảng viên về quan hệ giữa Đảng và nhân dân, không biết phân biệt đâu là bạn, đâu là thù của quân đội như sau : "càng cựu, càng giỏi càng phải khiêm tốn" [2, t. 5, tr. 90] ; "có những đồng chí không biết Đảng khác quần chúng như thế nào" [2, t. 3, tr. 635] ; "chưa phân biệt rõ ràng ai là thù, ai là bạn (trên thế giới, trong nước và trong bản thân mình)" [2, t. 8, tr. 156].

Thứ năm , do trung với Đảng - tức trung thành (kiên định) với tư tưởng của một cá nhân nào đó, nên dẫn đến nhiều đảng viên cộng sản nói chung, đảng viên cộng sản trong quân đội nói riêng đã mắc phải "tệ sùng bái cá nhân", chỉ biết sống "luồn cúi", tôn thờ tư tưởng "cá nhân", "chủ nghĩa cá nhân", tâng bốc kẻ có "chức", "quyền", "tiền" chứ không thích người nói thật. Chính đội ngũ đảng viên cộng sản trong chính quyền mắc phải các tệ nạn này đã làm cho quân đội - lực lượng "dưới sự lãnh đạo của Đảng" - trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân. Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ tệ nạn này tồn tại ở Việt Nam như sau : "tệ sùng bái cá nhân cũng tồn tại ở Việt Nam, trong Đảng cũng như ngoài Đảng" [2, t. 10, tr. 402] ; đồng thời, Hồ Chí Minh đã kiên quyết "phản đối sùng bái cá nhân" [2, t. 10, tr. 312].

Giải pháp nào để quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ?

Từ các phân tích được nêu ra ở trên, theo tác giả bài viết, cần phải thực hiện 5 giải pháp chủ yếu sau đây :

Một là đổi mới tư duy khoa học về khái niệm nói chung, khái niệm đảng chính trị, nhân dân, quốc phòng, pháp luật, pháp quyền, hay chiến tranh, hòa bình nói riêng cho mỗi công dân, đặc biệt là công dân trong lực lượng vũ trang.

Hiện nay ở Việt Nam có nhiều cụm từ, khái niệm chưa khoa học, như : "nhà nước", "giai cấp" ; thậm chí phản khoa học, như cụm từ : "cộng sản", "xã hội chủ nghĩa". Đổi mới tư duy khoa học về khái niệm (tư duy về tính chất, bản chất, thực chất của khái niệm) tức là cần giáo dục cho mỗi công dân, bộ đội biết nhận thức rõ khái niệm khoa học, để từ đó xác định phương pháp (bản chất), nguyên tắc (thực chất) bảo vệ "chủ quyền quốc gia" (quyền làm chủ của nhân dân trong quốc gia), hay bảo vệ "nhân quyền" (quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân). Hiện nay, hầu hết mọi công dân, cán bộ "trong Đảng và ngoài Đảng" [2, t. 8, tr. 356] ở Việt Nam còn chưa nhận thức rõ mô hình cấu trúc khách quan của khái niệm khoa học như sau : "bản chất bên trong (động từ) - thực chất ở giữa (danh từ) - tính chất bên ngoài (tính từ)" [6].

Chẳng hạn, hiện nay còn nhiều bộ đội, ngay cả cán bộ cấp tướng, Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy trung ương cũng chưa nhận thức rõ thực chất, mối quan hệ giữa các khái niệm "hòa bình" (tính chất bên ngoài : hòa bình về hành động - tức chính quyền phải bảo đảm quyền sống về vật chất của người dân), "thái bình" (bản chất bên trong : hòa bình về tư tưởng - tức chính quyền phải bảo đảm quyền tự do về tư tưởng của công dân) và "hòa bình thật sự" (thực chất : hòa bình cả về tư tưởng và hành động - tức chính quyền phải bảo đảm quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân).

Tức về tính chất, hòa bình là đối lập với chiến tranh ; hòa bình chỉ là tạm thời, chiến tranh vẫn có thể xảy ra khi trong quốc gia Việt Nam còn tồn tại tư tưởng phong kiến chuyên chế, như : độc quyền về tư tưởng, cai trị của cá nhân (đảng viên cộng sản : Tổng bí thư trong Bộ Chính trị), nhóm (Đảng cộng sản : "vua tập thể" – Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương Đảng). Đất nước thái bình hay hòa bình thật sự là khi trong chính quyền không còn "tư tưởng phản tiến bộ" (tư tưởng "thoái bộ" - tư tưởng bị suy thoái), như tư tưởng "xã hội chủ nghĩa" - xã hội không có độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự, tức xã hội không có dân chủ, pháp quyền, phát triển.

Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ về tầm quan trọng của nguyên tắc "luật phát triển" (quy luật của phát triển xã hội) [2, t. 6, tr. 282] ; phương pháp "thực hành dân chủ rộng rãi" (dân chủ thật sự) [2, t. 15, tr. 622] ; nguyên lý "thần linh pháp quyền" - thực chất "cơ chế ‘tam quyền phân lập’ giữa các cơ quan lập pháp (độc lập), hành pháp (đối lập), tư pháp (trung lập)" [7] ; mục tiêu của "chủ nghĩa xã hội phát triển" [2, t. 11, tr. 158] ; hay sự sai lầm của quân đội khi không phân biệt rõ giữa hòa bình và thái bình như sau : "Chính vì lầm tưởng hòa bình là thái bình cho nên có những tư tưởng sai lầm" [2, t. 9, tr. 311] ; "Lầm tưởng hòa bình là thái bình mà không lo củng cố lực lượng quốc phòng, thế là sai lầm, mà lại là sai lầm to. Như thế không giữ gìn hòa bình, không giữ gìn được Tổ quốc" [2, t. 9, tr. 437]. 

Hai là đổi mới tư duy về quân đội, nhân dân. Tính chất của quân đội là "bộ đội" (cá nhân : quân nhân) - bộ đội vì nhân dân ; bản chất của quân đội là "đoàn quân" (nhóm : quân đoàn) - đoàn quân do nhân dân mà có ; thực chất của quân đội là "quân đội nhân dân" (cộng đồng : quốc dân, đồng bào) – quân đội của nhân dân ; tức quân đội là của quốc gia hay của "cộng đồng xã hội" (nước, đất nước), chứ không phải của "nhóm" (Đảng cộng sản).

Theo đó, đổi mới tư duy về quân đội, nhân dân, tức là cần xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu của quân đội không phải là trung với Đảng, bảo vệ Đảng cộng sản (nhóm), mà là trung với "nước" (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ; hay nước Cộng hòa Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa) và bảo vệ Tổ quốc ; đồng thời, quân đội là phải biết hiếu với "dân" (thương yêu quốc dân, đồng bào dân tộc Việt Nam ở trong và ngoài nước), tức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân (cộng đồng dân tộc Việt Nam). Do vậy, cần phải bảo đảm tính "trung lập" của lực lượng quân đội trong quốc gia ; tức đảng chính trị (Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam) không thể giữ vai trò lãnh đạo quân đội. Việc nắm giữ hay người "chỉ huy" cao nhất trong lực lượng quân đội cần phải là người đứng đầu Chính phủ của nhân dân, được Quốc hội thay mặt nhân dân Việt Nam trao cho. Hồ Chí Minh đã từng nói về điều này như sau : "Thống nhất các bộ đội vũ trang dưới quyền chỉ huy của Chính phủ" [2, t. 4, tr. 173].

Đồng thời, cùng với đổi mới tư duy về quân đội, nhân dân, cần phải xác định rõ nhiệm vụ của quân đội là không được làm kinh tế. Toàn bộ các đơn vị quân đội đang hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mang tính dân sự hiện nay cần phải được chuyển khỏi quân đội ; chỉ giữ lại một số đơn vị sản xuất, dịch vụ gắn với nhiệm vụ quân sự như nghiên cứu khoa học, sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự.

Ba là tất cả các kế hoạch, dự án, đạo luật, mục tiêu chiến lược về sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phát triển đất nước liên quan đến yếu tố nước ngoài đều cần phải được phản biện của xã hội, kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm an ninh quốc gia. Đặc biệt, các dự án liên quan đến doanh nghiệp "công" ("nhà nước") và "tư" (tư nhân) của Trung Quốc, thì cần phải kiểm soát chặt chẽ để loại bỏ các hình thức xâm lược "kiểu mới", như xâm phạm chủ quyền dạng "bất chấp pháp luật" nhằm chiếm biển đảo trong thời đại đã có pháp luật quốc tế ; xâm lược kiểu "đồng hóa" dân tộc Việt Nam vào dân tộc Trung Hoa, hay xâm lược bằng cách "vẽ ra" đường "lưỡi bò" phi pháp trong các sản phẩm tiêu dùng, rồi đưa vào Việt Nam và các nước khác.v.v...

Bốn là cần loại bỏ ý thức hệ "cộng sản chủ nghĩa","xã hội chủ nghĩa" - các tính từ phản khoa học - đang tồn tại ở Việt Nam. Bởi vì, chính ý thức hệ này là nguồn gốc đẻ ra tệ sùng bái cá nhân, hay căn bệnh "chủ nghĩa cá nhân" - căn bệnh "mẹ" sinh ra nhiều căn bệnh "con" khác ; đó là các căn bệnh : hiếu danh, kiêu ngạo, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tư duy ấu trĩ, đề ra nhiều khẩu hiệu sai lầm, dẫn tới không nhận rõ bạn, thù. Chính các căn bệnh này đã biến quân đội trở thành kẻ thù phản quốc, hại dân.

Hồ Chí Minh đã từng nói về những điều nêu trên như sau : "Kiêu ngạo là… Xa tránh những người chính trực nói thẳng… Kết quả của bệnh kiêu ngạo là : thoái bộ, xuống dốc" [2, t. 8, tr. 507] ; "không thể nào dung túng tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả tai hại của nó" [2, t. 10, tr. 399] ; "Khẩu hiệu chính trị đúng, thì toàn dân thấy rõ phương hướng, nhận rõ ai là bạn, ai là thù" [2, t. 8, tr. 278] ; "tự kiêu tự đại là thoái bộ. Bởi vậy, quân đội ta khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại" [2, t. 11, tr. 367].

Năm là cần thay đổi tên Đảng, tên nước (Nhà nước) để bảo đảm tri thức khoa học (tri thức "thật") về hình thức tên gọi của quốc gia, tính chính danh của đảng cầm quyền – chính quyền dân sự (chính quyền của nhân dân). Đây là giải pháp nhằm xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam ; xây dựng chính quyền thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ; tạo niềm tin trong nhân dân về chính quyền dân chủ do chính mình bầu ra, sự thân thiện của đảng cầm quyền, Chính phủ trong quan hệ với các nước dân chủ, lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Hiện nay, ngay tên đảng, tên nước ở Việt Nam đều phản khoa học, tức không liêm chính về học thuật. Đây là "sai lầm về tư tưởng" - căn nguyên có thể dẫn đến "cái chết" của quốc dân - quốc gia Việt Nam cả về mặt văn hóa (giá trị : quyền được tự do), chính trị (tinh thần : quyền được hạnh phúc) và kinh tế (quyền lợi : quyền được độc lập).

Nếu Đảng cộng sản vẫn "kiên định" xây dựng "chế độ xã hội chủ nghĩa" [8], phát triển "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", hay bắt nhân dân Việt Nam phải "bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa" [9] – xã hội phản khoa học cả về "hình thức" (tính chất : xã hội phản phát triển), "nội dung" (bản chất : xã hội phản dân chủ) và "nguyên lý" (thực chất : xã hội không có pháp quyền) – thì Đảng trở thành kẻ phản động, phản bội lại đất nước, nhân dân. Sự kiên định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa được coi là căn nguyên không chỉ dẫn đến sự "tồn vong của chế độ" [10] (cái chết của chế độ), mà còn dẫn đến sự "tồn vong" (cái chết) của ngay chính bản thân Đảng cộng sản theo đúng "quy luật phát triển của cách mạng" [2, t. 11, tr. 92].

Việc đổi tên Đảng, tên nước mà tác giả nêu ra trên đây cần phải được tiến hành đồng thời với xóa bỏ tư tưởng "hận thù" giữa những người Việt Nam (đồng bào cùng một "Mẹ Việt Nam" sinh ra) với nhau ; xây dựng quân đội trung lập, các đảng chính trị đối lập, tổ chức xã hội dân sự độc lập trong quốc gia, tôn trọng sự khác biệt, chính kiến giữa các đảng phái ; thực hiện sự hòa giải, hòa hợp dân tộc thật sự ; quy tụ ý kiến đóng góp sáng suốt của cộng đồng người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước, nhằm đề ra phương thức lãnh đạo, phương pháp quản trị, xác định nguyên tắc luật, nguyên lý pháp quyền đúng đắn, xây dựng "khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam" [11] để thực hiện, bảo đảm đạt được mục đích đường lối chính trị, mục tiêu chính sách phát triển đất nước bền vững, tức bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi (độc lập), giá trị (tự do), tinh thần (hạnh phúc) giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.

Nguyễn Hữu Đổng

Nguồn : viet-studies, 17/12/2019

Tài liệu trích dẫn :

[1] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng 2005.

[2] CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

[3] Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Anh-Việt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 1719.

[4] V.I.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 44.

[5] https://www.sggp.org.vn/xu-ly-cong-khai-tuong-linh-si-quan-quan-doi-co-sai-pham-dat-quoc-phong-595669.html

[6] http://vienkhxhnv.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/seo/xay-dung-chu-nghia-xa-hoi-phat-trien-o-viet-nam-93118

[7] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ThanLinhPhapQuyen.html

[8] Điều 65 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[9] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/cong-bo-sach-trang-quoc-phong-2019-gioi-thieu-vu-khi-hien-dai-cua-viet-nam-591774.html

[10] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 196.

[11] http://www.viet-studies.net/kinhte/NguyenHDong_ChongBaPhai.html

Additional Info

  • Author Nguyễn Hữu Đổng
Published in Diễn đàn

Bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam phụ thuộc trước hết vào các nhà cầm quyền phải có tư duy "thật" (tư duy khoa học, tư tưởng tiến bộ). Cũng như muốn đánh thắng kẻ thù xâm hại chủ quyền quốc gia thì cần phải hiểu biết thực chất thật của kẻ thù đó. Tức hiểu biết rõ và phòng chống kẻ thù "nội xâm" (bên trong : bản chất sự thật), kẻ thù "ngoại xâm" (bên ngoài : tính chất thật sự), kẻ thù "trong lòng" (toàn diện : thực chất thật) thì các nhà cầm quyền mới có thể quy tụ được sức mạnh đoàn kết của nhân dân để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

chuquyen1

Bãi Tư Chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (2/8/2019)

Chủ quyền quốc gia là gì ?

Quốc gia là khái niệm biểu hiện hệ thống tri thức "học thuật" (tri thức khoa học do học tập, nghiên cứu mà có) [1, tr. 454] về bản chất nhóm (tập thể), tính chất cá nhân (cá thể), thực chất cộng đồng người (xã hội) – quốc gia, nhân dân trong một "nước". Tức quốc gia là nói về "nhân dân" – lực lượng bao gồm tất cả các cá nhân, nhóm, cộng đồng, hay tất cả "công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước" [2, t. 8, tr. 264]. Cá nhân là khái niệm nói về công dân, người dân thường ; nhóm là khái niệm nói về tổ chức đảng phái, chính quyền, xã hội dân sự ; cộng đồng là khái niệm nói về dân tộc, giới, tôn giáo.

Chủ quyền là khái niệm nói về "quyền làm chủ của một nước trong các quan hệ đối nội và đối ngoại" [1, tr. 179]. Tức chủ quyền có thể được nhìn nhận là khái niệm biểu hiện hệ thống tri thức học thuật về bản chất chủ quyền lãnh hải (biển, khí trời), tính chất chủ quyền lãnh thổ (đất nước, đảo), thực chất chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải (đất nước, biển đảo, khí trời) của nhân dân. Tức chủ quyền quốc gia là khái niệm biểu hiện hệ thống tri thức học thuật về quyền "là chủ" (tính chất), làm chủ (bản chất), dân chủ (thực chất) của nhân dân – chủ quyền nhân dân trong quốc gia. Mô hình cấu trúc thực chất của chủ quyền quốc gia được biểu thị như sau : "công quyền" (bản chất : quyền hạn của đại biểu dân cử, nhân viên, thẩm phán trong chính quyền dân sự) – "nhân quyền" (thực chất : quyền lực của nhân dân trong quốc gia) – "dân quyền" (tính chất : quyền lợi của công dân, người dân trong xã hội dân sự).

Tư duy "thật" về chủ quyền quốc gia là gì ?

Thật là khái niệm "gốc" (nguồn gốc) hình thành nên các khái niệm "khoa học" – khái niệm "thật" (khái niệm hoàn chỉnh). Khái niệm thật có mô hình cấu trúc theo quy luật, hiện thực khách quan như sau : "bản chất sự thật – thực chất thật – tính chất thật sự" [3]. Bản chất sự thật là nói tới hiện tượng bên trong (chuyển động cân đối) ; tính chất thật sự là nói tới sự vật bên ngoài (bất động cân bằng) ; còn thực chất thật là nói tới sự vật, hiện tượng ở giữa (vận động hài hòa) phát triển trong thế giới tự nhiên và xã hội loài người.

Tức tư duy thật là khái niệm biểu hiện thực chất hệ thống tri thức học thuật về mối liên hệ theo quy luật, hiện thực khách quan giữa tính chất (mục tiêu phát triển), bản chất (phương pháp thực hiện mục tiêu phát triển) và thực chất (nguyên tắc bảo đảm đạt được mục tiêu phát triển) của tư duy phát triển. Con người tư duy thật sẽ nhận thức được thực chất "con đường dân chủ" [2, t. 4, tr. 471], "con đường phát triển" [2, t. 10, tr. 272] của quốc gia là phải có "mục tiêu hướng tới độc lập mang tính "nhân quả" (đầu - cuối), có phương pháp thực hiện mang tính đối lập "song hành" (phải - trái) và nguyên tắc thực hiện mang tính đối lập, độc lập "trung gian" (ở giữa)" [4]. Tức tư duy thật về chủ quyền quốc gia là công dân nói chung, nhà cầm quyền nói riêng biết nhận thức rõ về khái niệm nhân quyền hay "chủ quyền nhân dân" trong quốc gia.

Bảo vệ chủ quyền quốc gia được hiểu như thế nào ?

 Bảo vệ chủ quyền quốc gia là bảo vệ đất nước, biển đảo, khí trời ; bảo vệ công quyền, nhân quyền, dân quyền. Bảo vệ công quyền là bảo vệ chính quyền của nhân dân ; bảo vệ dân quyền là bảo vệ quyền con người ; bảo vệ nhân quyền là bảo vệ chủ quyền nhân dân, hay bảo đảm "quyền làm chủ của nhân dân" [2, t. 13, tr. 67]. Tuy nhiên, khi "chính phủ" (chính quyền trung ương) làm hại nhân dân, không bảo đảm thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì cần phải thay đổi chính quyền đó ; tức nhân dân "có quyền đuổi Chính phủ", thay bằng chính phủ khác để trong đó có "những người đày tớ" thật trung thành cho mình [2, t. 5, tr. 75].

Do vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia, trước hết, các nhà cầm quyền cần phải biết bảo vệ nhân quyền, tức bảo đảm "mọi quyền lực đều là của nhân dân" (quyền lực của cộng đồng các dân tộc, giới, tôn giáo) [2, t. 8, tr. 262]. Mối liên hệ giữa quyền hạn, quyền lợi, quyền lực trong quốc gia được biểu thị theo mô hình cấu trúc như sau : quyền hạn của chính quyền (nhóm : công quyền) – quyền lực của nhân dân (cộng đồng : nhân quyền) – quyền lợi của công dân, người dân (cá nhân : dân quyền).

Quyền lực là của nhân dân thì trong các văn bản pháp luật không thể sử dụng khái niệm "quyền lực nhà nước" (quyền lực của Nhà nước) như Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã xác định ; hay không thể tư duy phản khoa học, như : "nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp" [5] mà Tổng Bí thư – Chủ tịch nước đã có lần nêu ra. Tức là, cần phải tư duy đúng đắn khái niệm khoa học về "quyền lực" ; đồng thời tư duy lại cụm từ "nhà nước" đang được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật, chính sách của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền các cấp ở Việt Nam.

Nhà nước bao gồm các từ "nhà" và "nước". Từ nhà trong cụm từ nhà nước là nói tới "Tập hợp những vua cùng một dòng họ kế tiếp nhau trị vì" [1, tr. 699] ; từ nước trong cụm từ nhà nước là nói tới "quốc gia" (nước nhà, tổ quốc) [1, tr. 811]. Tức nhà nước là cụm từ gắn với chế độ phong kiến kiểu mới ; bởi vì vẫn còn từ "nhà" - khái niệm nói về "nhà vua" (dòng họ nhà vua truyền ngôi cho con, cháu để cai trị). Do vậy, nhà nước là một khái niệm không thật (giả dối - không khoa học). Về thực chất, cụm từ nhà nước (the State) là nói tới "chính quyền dân sự" của một nước (quốc gia) [6]. Chính quyền "dân sự" (chính quyền của nhân dân) là khác với chính quyền "quân sự" (chính quyền của một nhóm độc đoán cầm quyền). Điều đó có nghĩa là, không thể sử dụng các khái niệm có liên quan tới cụm từ nhà nước, như : "bí mật nhà nước", "kinh tế nhà nước", "doanh nghiệp nhà nước", "lợi ích nhà nước", "ngân sách nhà nước", hay "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" được ghi nhận trong các văn bản Luật, Hiến pháp Việt Nam.

Cụm từ liên quan tới nhà nước trong các văn bản pháp luật nêu trên là biểu hiện thực chất về khái niệm thiếu liêm chính học thuật, hay vấn nạn "đạo văn" (ăn cắp) tri thức của con người. Đây chính là một trong các nguyên nhân (thủ phạm) dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, như dẫn đến căn bệnh "quan liêu" (làm "quan cách mạng", tư tưởng chủ quan, "kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa"), làm cho văn hóa Việt Nam hiện nay "xuống cấp" [7] ; quốc nạn "tham nhũng" (quan tham, nhũng nhiễu để ăn cắp, chiếm đoạt đất, quyền lợi, giá trị, môi trường sống của người dân), làm cho kinh tế Việt Nam có tăng trưởng nhưng đất nước vẫn "không chịu phát triển" [8] ; tệ nạn "lãng phí" (mất đất, nước, biển, đảo, bầu trời, khí quyển, chủ quyền), làm mất niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào "sự thực và công lý" [2, t. 4, tr. 82]. Do vậy, các cụm từ liên quan tới nhà nước không khoa học nêu trên cần phải được thay đổi bằng các khái niệm, như : bí mật quốc gia, kinh tế quốc gia (kinh tế quốc dân), doanh nghiệp hoạt động công ích, lợi ích quốc gia, ngân sách quốc gia, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay quốc gia Việt Nam Cộng hòa.

Thực chất chủ quyền quốc gia Việt Nam hiện nay

Qua hàng nghìn năm, chủ quyền đất nước (quốc gia) Việt nam luôn được bảo vệ, giữ vững. Tuy nhiên, từ sau Hiệp định Giơneve (năm 1954) đến nay, chủ quyền quốc gia Việt Nam luôn bị đe dọa, xâm hại và đang bị mất (gặm nhấm) dần : Năm 1956 và năm 1974 toàn bộ quần đảo Hoàng sa của Việt Nam bị chính quyền Trung Quốc xâm chiếm (nhân dân Trung Quốc chỉ là nạn nhân bị bắt phải cầm vũ khí đi xâm chiếm). Năm 1979, chính quyền Trung Quốc mở đầu đợt xâm lược, lấn chiếm lãnh thổ đất liền ở các tỉnh biên giới phía bắc. Năm 1988, một số đảo chìm và đảo Gạc Ma bị chính quyền Trung Quốc cưỡng chiếm. Năm 2009, chính quyền Trung Quốc tuyên bố công khai với thế giới về sự xâm lược "mềm" đối với nước Việt Nam và một số nước trong khu vực bằng cách áp đặt chủ quyền phi pháp "đường chín đoạn" trên biển Đông. Năm 2014, chính quyền Trung Quốc chính thức gây chiến (chiến tranh kinh tế) bằng đưa Giàn khoan HD981 vào sâu trong thềm lục địa Việt Nam, tạo "hỏa mù" nhằm củng cố căn cứ quân sự (xây dựng các đảo nhân tạo) làm bàn đạp tiếp tục xâm chiếm toàn bộ biển Đông của Việt Nam và các nước trong khu vực. Năm 2019, chính quyền Trung Quốc mở đầu đợt xâm chiếm vùng biển Việt Nam bằng việc đưa các dàn khoan thăm dò vào bãi Tư chính sau khi xây dựng xong căn cứ quân sự tại các đảo nhân tạo.

Do vậy, về thực chất, chủ quyền quốc gia Việt Nam đã và đang bị chính quyền Trung Quốc xâm hại (gây chiến tranh) vừa theo kiểu cũ, vừa theo kiểu mới. Chiến tranh kiểu cũ (tính chất : truyền thống) là nói về chiến tranh bằng bạo lực (quân sự) của "đế chế" (vương quốc) này thực hiện giết người trên lãnh thổ, đất liền, hải đảo của vương quốc khác. Chiến tranh kiểu mới (bản chất : phi truyền thống) là nói về chiến tranh bằng phi bạo lực (chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp lý) của "chủ nghĩa bá quyền" (cường quốc xưng bá), tức chính quyền quốc gia này làm hại nhân dân quốc gia khác. Chiến tranh vừa kiểu cũ, vừa kiểu mới (thực chất : cai trị bằng sự ràng buộc ý thức hệ phản tiến bộ, uy hiếp bằng sức mạnh quân sự, tạo sự phụ thuộc về kinh tế, áp đặt lối sống) là nói về chiến tranh bằng "thực lực", như chiến tranh mềm (xâm phạm nước, biển, đảo), chiến tranh không gian (xâm phạm khí, trời), chiến tranh kinh tế (ăn cắp sở hữu trí tuệ, đất ở, bẫy nợ), chiến tranh tư tưởng (tôn thờ chủ nghĩa, tuyên truyền tư tưởng áp đặt, vu khống, bịa đặt, nói một đằng, làm một nẻo), chiến tranh pháp lý (tôn thờ sức mạnh của vũ khí, tiền bạc, quân đội nhằm răn đe đối phương, bất chấp luật pháp).

Chủ quyền quốc gia Việt Nam bị xâm hại thì quyền lực của nhân dân hay chủ quyền nhân dân (nhân quyền), quyền hạn, quyền lợi của công dân, người dân (dân quyền, công quyền) trong chính quyền, quốc gia Việt Nam cũng bị xâm hại. Hiện nay quyền lực ở Việt Nam là không thuộc về nhân dân (cộng đồng, xã hội) mà chủ yếu thuộc về cá nhân, nhóm (các thành viên có vị trí chủ chốt trong Đảng, Chính phủ, chính quyền các cấp), hay thuộc về "quyền lực nhà nước" – cụm từ tương tự như quyền lực của "nhà vua" được biến tướng thành quyền lực của "nhà quan" (ông quan, bà quan) thời phong kiến kiểu mới. Bởi thời phong kiến kiểu cũ, thì "con vua lại làm vua" (chỉ có vua ông) ; còn ngày nay, thì "con quan dễ được làm quan" (có cả quan ông, quan bà).

Hãy nhìn thẳng vào sự thật để thấy rằng, ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ gần đây, chính quyền đã chưa bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Càng tăng cường sự "lãnh đạo" (làm đày tớ, phục vụ) của Đảng đối với nhân dân trong quốc gia thì quyền làm chủ của nhân dân lại càng bị xâm hại ; niềm tin của nhân dân vào Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát, chính quyền các cấp càng bị mất dần. Vì sao như vậy ? Bởi vì : "Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ…. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế…. , cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình" [2, t. 5, tr. 283].

Cần thay đổi cách thức tư duy về bảo vệ chủ quyền quốc gia

Cách thức tư duy được biểu thị theo mô hình cấu trúc như sau : tư duy chưa thật, chưa khoa học (sai, chưa tiến bộ) – tư duy thật, khoa học (đúng, tiến bộ) – tư duy không thật, không khoa học (giả dối, phản tiến bộ). Hiện nay, các nhà cầm quyền ở Việt Nam đang tư duy không thật (không khoa học), tức có tư tưởng chủ quan, kiêu ngạo, phản tiến bộ, tư tưởng bị suy thoái hay "thoái bộ, xuống dốc" [2, t. 8, tr. 507]. Thực tế cho thấy rằng, nhiều năm qua các nhà cầm quyền đã chưa hiểu rõ thế nào là bản chất, tính chất, thực chất của tư duy, lý luận, lãnh đạo, cầm quyền, nên đã dẫn tới "mù chính trị" [2, t. 8, tr. 280]. Các nhà cầm quyền cấp cao nhất hiện nay cũng chủ yếu chỉ tư duy về mục tiêu (tính chất : nói) bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không coi trọng phương pháp dân chủ (bản chất : làm), nguyên tắc pháp quyền (thực chất : nói phải đi đôi với làm) để thực hiện, bảo đảm đạt được mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phương pháp dân chủ là nói tới thực hiện con đường dân chủ, tức nhân dân thật sự vừa là chủ (tính chất), vừa làm chủ (bản chất) theo nguyên tắc pháp quyền (thực chất) trong quốc gia. Pháp quyền trong quốc gia là nói tới các nhà cầm quyền sử dụng Hiến pháp, các đạo luật quốc gia để bảo đảm "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [2, t. 4, tr. 1] của mỗi cá nhân, nhóm, cộng đồng - nhân dân.

Điều đó có nghĩa, cần phải thay đổi cách thức tư duy nói chung và tư duy về bảo vệ chủ quyền quốc gia nói riêng. Tức là các nhà cầm quyền cần phải nhận thức rõ thực chất chủ quyền về đất, nước, biển, đảo, khí, trời ; chủ quyền quốc gia, công quyền, nhân quyền, dân quyền, quyền con người. Nói cách khác, các nhà cầm quyền cần phải thật sự bảo đảm dân quyền (quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân, người dân), công quyền (xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các dân biểu, nhân viên, thẩm phán trong chính quyền), và nhân quyền (bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân) – thực chất bảo đảm an ninh quốc gia (an ninh nhân dân). Theo đó, cần phải sửa đổi lại Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và nội dung chưa khoa học trong các đạo luật ; xây dựng và thực thi các đạo luật về biểu tình, lập hội, đảng chính trị phù hợp với quy luật và hiện thực khách quan. Chẳng hạn, pháp luật cần phải xác định rõ tính "trung lập", không được làm kinh tế của quân đội trong quốc gia ; bởi đảng chính trị (đảng chân chính) là khác với đảng "thống trị" (đảng thống lĩnh) – đảng nắm toàn diện, trong đó có quân đội. Đảng nắm quân đội là tư duy chính trị phản khoa học. Bởi về thực chất, chính quyền của nhân dân, thì : "Các đảng phái không được có quân đội riêng" [2, t. 4, tr. 173].

Kết luận

Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia thì trước hết, mỗi công dân nói chung, các nhà cầm quyền nói riêng ở Việt Nam cần phải biết tư duy khoa học, tôn trọng sự thật và công lý trong quốc gia, xã hội loài người. Xã hội loài người tồn tại lâu dài, bền vững không chỉ phụ thuộc vào vật chất sống (quyền lợi : công bằng), mà còn phụ thuộc vào phi vật chất sống (giá trị : bình đẳng) và ý thức sống (tinh thần : công lý) của con người trong cộng đồng các loài sinh vật, thực vật, động vật, trong đó có loài người. Tức là, cần phải nhận thức rằng : "vật chất không thể có trước ý thức", hay vật chất không thể "quyết định ý thức" như các nhà triết học duy vật đã nêu ra cách đây gần hai thế kỷ [9]. Mối liên hệ giữa vật chất, phi vật chất và ý thức của con người được biểu thị theo mô hình cấu trúc thực chất phát triển như sau : phi vật chất sống (giá trị : tự do) – ý thức sống (tinh thần : hạnh phúc) – vật chất sống (quyền lợi : độc lập). Trong mô hình phát triển này, vật chất sống là nói về mục tiêu phát triển (chế độ xã hội : phát triển) ; phi vật chất sống là nói về phương pháp dân chủ thực hiện mục tiêu phát triển (thiết chế chính quyền : dân chủ) ; còn ý thức sống là nói về nguyên tắc pháp quyền bảo đảm đạt được mục tiêu phát triển (chính thể quốc gia : cộng hòa). Điều đó có nghĩa là, cần phải thay đổi tên nước hiện nay trở lại tên nước đã được xác định trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946 : "nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa" [10].

Từ các phân tích nêu trên, tác giả bài viết nhận thấy rằng, chủ quyền quốc gia Việt Nam hiện nay chỉ có thể được bảo vệ vững chắc khi các nhà cầm quyền thực hiện ba giải pháp chủ yếu sau đây :

1. Thực hiện nguyên tắc pháp quyền quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Pháp quyền quốc tế được chính thức thực hiện sau khi trên thế giới hình thành Liên Hợp Quốc. Khái niệm này được bắt nguồn từ bản Hiến pháp của nước Mỹ. Pháp quyền quốc tế là nói về pháp luật quốc tế (Hiến chương, các công ước của Liên Hợp Quốc) bảo vệ quyền được độc lập, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Do vậy, việc khởi kiện chính quyền Trung Quốc ra Tòa án quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam là việc rất cần thiết, cấp bách nhất hiện nay.

2. Thực hành dân chủ rộng rãi để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây là nói về xây dựng "con đường dân chủ" - con đường của toàn thể nhân dân có lòng yêu nước thật sự, cùng nhau đoàn kết thành một khối vững chắc, thực hiện bảo vệ, giữ vững chủ quyền quốc gia, hướng tới một nước "Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" [2, t. 15, tr. 623]. Để xây dựng khối đại đoàn kết tất cả các dân tộc, cần phải thực hiện ba giải pháp cụ thể là :

Thứ nhất, thực hiện sự hòa giải giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng người Việt Nam có chính kiến (tư tưởng) khác nhau về con đường phát triển đất nước nhanh và bền vững. Theo đó, cần tôn trọng các chính kiến khác biệt, tìm ra "tư tưởng tiến bộ" (tư tưởng của đảng chính trị phù hợp với quy luật phát triển khách quan), xây dựng "con đường hòa bình", "con đường chính trị của chúng ta" đúng đắn [2, t. 4, tr. 158], nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển con người, xã hội, quốc gia.

Thứ hai, thay đổi chế độ từ mục tiêu "xã hội chủ nghĩa" (xã hội không dân chủ, không chịu phát triển) sang mục tiêu "xã hội phát triển" - xã hội dân chủ và giàu mạnh, công bằng, bình đẳng, văn minh ; bởi vì : "Cái gì phát triển thì nhất định thắng. Cái gì thoái bộ thì nhất định chết" [2, t. 6, tr. 281].

Thứ ba, thay đổi thiết chế chính quyền "quân sự" - chính quyền do Đảng thống lĩnh trong quốc gia bằng pháp luật chưa khoa học - sang thiết chế chính quyền "dân sự" (chính quyền của đảng chính trị tiên phong) thực hiện quản trị quốc gia bằng pháp luật khoa học, pháp quyền chân thật. Nói cách khác, các nhà cầm quyền cần phải xây dựng chính quyền thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ; thực hiện quản trị quốc gia bằng Hiến pháp, các đạo luật đúng đắn để bảo đảm quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, tức bảo đảm sự cân đối, cân bằng, hài hòa về môi trường sống tồn tại, sự công bằng, bình đẳng, công lý về quyền lợi (độc lập), giá trị (tự do), tinh thần (hạnh phúc) giữa các cá nhân, nhóm, cộng đồng.

3. Liên minh với các quốc gia dân chủ, lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Việt Nam là quốc gia chưa có dân chủ rộng rãi (dân chủ thật sự). Dân chủ thật sự có mô hình cấu trúc thực chất như sau : dân chủ trực tiếp (bản chất : nhân dân làm chủ chưa thật) - dân chủ thật sự (thực chất : dân chủ nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân) - dân chủ đại diện (tính chất : nhân dân là chủ không thật). Dân chủ nhân dân là dân chủ thật sự, tức mọi quyền lực "đều thuộc về nhân dân" [2, t. 12, tr. 375]. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, quyền lực lại không thuộc về nhân dân mà thuộc về "nhà nước" – chính quyền "quân sự" của các ông, bà "quan cách mạng" [2, t. 10, tr. 572] như đã được phân tích ở phần trên. Do vậy, cần phải thay đổi chế độ, thiết chế chính quyền, đồng thời liên minh với các quốc gia dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết với các dân tộc, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới để bảo vệ chủ quyền quốc gia khỏi bị chính quyền Trung Quốc không dân chủ chèn ép, xâm hại.

Nguyễn Hữu Đổng

Nguồn : viet-studies, 15/10/2019

……………

Tài liệu trích dẫn :

[1] Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

[2] CD-ROM Hồ Chí Minh, Toàn tập, Xuất bản lần thứ ba, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.

[3] lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2651-doi-moi-tu-duy-nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html

[4] tcnn.vn/news/detail/39680/Xay_dung_chinh_sach_quoc_gia_kien_tao_phat_trien_ben_vung_o_Viet_Namall.htm

[5] www.dangcongsan.vn/thoi-su/phai-nhot-quyen-luc-vao-trong-long-co-che-luat-phap-463763.html

[6] Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Anh-Việt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 1719.

[7] https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/vi-sao-van-hoa-viet-nam-hien-nay-xuong-cap.html

[8] https://vtc.vn/viet-nam-la-mo-hinh-ky-la-nhat-the-gioi-nuoc-khong-chiu-phat-trien-d218155.html

[9] https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/vi-sao-vat-chat-khong-the-co-truoc-y-thuc.html

[10] Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và năm 1992), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995.

Published in Diễn đàn