1. Ai mà chẳng biết, lãnh đạo của "Đảng ta", toàn một lũ tốt bụng. Tốt đến mức, chúng vắt óc thiết kế ra một cái thiên đường và đặt cho nó một cái tên thật mỹ miều : "xã hội chủ nghĩa". Sau đó, dùng vũ lực, để lùa tất cả chúng ta vào. Trong khi, cả lò - cả ổ nhà chúng dạt ra và chỉ dám đứng ở bên ngoài. Tận cùng của sự khốn nạn, chúng còn bảo nhau cài số lùi, để chạy ngược vào mà sống trong cái mô hình "địa ngục của trần gian" - vốn dĩ, là lãnh địa, chỉ dành riêng cho bọn Tư bản thối nát. Không nghe và không đi theo Đảng, cũng chẳng được. Chúng cho ăn, mới được ăn. Chúng cho nói, mới được mở miệng. Tệ nhất, chúng chưa cho làm, đố ai dám "bung ra" một cách xô bồ và lộn xộn như bây giờ.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong buổi tiếp xúc cử tri quận Tây Hồ, Hà Nội sáng 1/7. Ảnh: Nguyễn Khánh.
Thuở ấy, giữa các tòa nhà cao tầng, là những khoảng đất bằng phẳng và thoáng đãng. Đó là nơi yêu thích của bọn trẻ con. Nơi đó, chúng được tự do hò hét và thả cửa sút bóng vào các bức tường đầu hồi. Tội nghiệp cho cư dân ở đó. Lúc nào cũng giật mình thon thót và bị đinh tai - nhức óc suốt cả ngày. Thậm chí, nó trở thành nỗi kinh hoàng, mỗi khi gia đình có người ốm và trẻ sơ sinh. Đuổi kiểu gì, cũng không được. Tiếng kêu bi thảm của dân chúng, vọng đến tận thiên đình. Ngọc Hoàng phải mở Hội nghị Diên Hồng và cho mời bao nhiêu tướng tá, cùng các nhà, gọi là khoa học đến.
Bọn họ, nào có phải, toàn hạng cứt gà. Chiến công, anh nào cũng đầy mình - Huân chương, chị nào cũng đeo xệ rốn. Đánh Pháp, chống Mỹ và đuổi Tàu, đều không có ngán. Riêng vấn nạn này, tất cả, vẫn phải : "botay.com". Cùng bất đắc dĩ, Ngọc Hoàng phải đánh bài lờ. Thần dân của Ngài, ai khổ, ráng mà chịu.
Trăm dâu, cuối cùng đổ đầu Thổ địa : Một con bọ hung đã phải nứt ra từ trong lòng đất và được trao trọng trách giải quyết vấn nạn đó.
2. Thuở ấy, ở phủ Đông Anh - ngoại thành kinh kì, có một thày khóa. Gia thế, bần hàn. Óc, bằng quả nho. Nhưng chí hướng, to hơn quả đất. Học hành dốt nát, nên thi cử lận đận. Thày ghét - bạn khinh - vợ con coi thường. Đường công danh, tưởng chừng vĩnh viễn đóng sập ngay trước mũi. Chán đời, chàng chu du thiên hạ và học nghề cái bang, độ nhật. Lang thang trên giang hồ, chàng tiếp xúc với đủ các hạng người. Nhưng, "ngưu tầm ngưu - mã tầm mã" : chàng chỉ chơi được với những hạng đê tiện nhất và học được ở chúng, những điều bỉ ổi nhất.
Đầu óc, hơi ngắn. Bù lại, chàng có tư chất nổi trội của kẻ nô tài. Chuyên nghề bưng bô - đổ cứt và luồn trôn - chui háng quan thày. Cúc cung khuyển mã, cuối cùng, lay động được tâm can của bang chủ và được chân truyền :
- Đại phàm, sống trong vòng trời đất, muốn trèo được lên đầu - lên cổ người khác, phải biết cách tạo thế. Nghĩa là, phải khống chế được người ta. Muốn khống chế người ta, phải lấy sở trường của mình ra, để đấu với sở đoản của họ. Tuyệt đối, không làm cái điều ngược lại. Con ong kia tuy nhỏ, nhưng ai cũng nể. Vì họ sợ nọc độc của nó. Con rắn kia tuy mềm, nhưng ai cũng khiếp. Tất cả, bởi sợ cú đớp chết người của nó. Côn trùng - muông thú, còn biết cách làm như thế. Chẳng nhẽ, con không bằng chúng ? Sở trường của con, là sự ngu dốt. Nếu đọ trí khôn với thiên hạ, con thua là cái chắc. Hãy vắt óc ra, mà tìm sở đoản của họ. Sau đó, đem sự ngu dốt của con ra, mà đánh vào đó. Khi đối phương ung thủ và không chịu đựng được, là con thắng. Lần nào cũng thắng, việc lớn, ắt thành.
Chàng bừng tỉnh và từ đó, hốt nhiên ngộ đạo. Bí quyết để lưu danh với đời, bằng cách, đánh vào cái sở đoản : "lòng tự trọng dở hơi" của thiên hạ, đã dần được hình thành. Bắt đầu, từ việc chiêu binh - mãi mã. Bao nhiêu nam thanh - nữ tú thất học và thất nghiệp đến đầu quân, chàng thu hết. Bao nhiêu loại sơn mang màu máu, chàng mua sạch. Đi đến đâu, chàng và đám lâu la cũng tìm cách lùa dân chúng đến, để phun châu - nhả ngọc. Khi chàng và bầu đoàn thê tử dời đi, tường nhà nào cũng đỏ loét thơ chàng. Còn không gian, nồng nặc mùi phân bắc.
Nhẹ thì :
"Ai ơi chớ có ồn ào
Nói khe khẽ chứ, cho người ta ngủ trưa".
Chỉ có thế, mà bọn trẻ con khiếp vía. Chẳng đứa nào dám lại gần, để đọc. Trật tự, tự nhiên vãn hồi. Vấn nạn do bọn trẻ con gây ra, từ đó, được triệt tận gốc.
Tiến thêm bước nữa, muốn cướp đất khu nào, chàng chỉ việc để lại dòng chữ : "Đảng đã cho tôi sáng mắt - sáng lòng". Chốn ấy, đến cái cột đèn cũng còn xiêu vẹo muốn bỏ chạy. Lấy đâu ra, hình bóng của con người. Sự chống đối, không còn. Cướp bao nhiêu, tùy thích. Thừa thắng, xông lên. Khi Tập sư phụ ngỏ lời : thích mảnh đất vàng, ở chỗ thờ Thành Hoàng làng. Chàng đích thân đến tận nơi. Tay viết thư pháp lên hàng rào - miệng rên ư ử : "Đảng là cuộc sống của tôi, mãi mãi đi theo người". Hậu quả, đất ấy như có ma. Cỏ cây, chết rụi - chó mèo, tránh xa. Sư phụ, chỉ việc mang vật liệu đến và xây chùa của mình. Trước, để ở - sau, giải hạn cho chúng sinh. Bằng cách, "hóa kiếp này, cho chúng mày sang kiếp khác". Phúc đức, vô cùng.
Với cái chiêu "giở cong - giở cùn" và chuyên giở trò mèo, đi đến đâu, chàng cũng dùng bom thối, để rải thảm. Người trong thiên hạ, dạt hết. "Một mình - một chợ", chàng ung dung giành được cái ngôi Chánh Tổng của xứ Cù lần. Oai như cóc và chàng chỉ nhìn đời, bằng nửa con mắt.
3. Tuy vậy, "cái áo không làm nên ông thày tu". Tiền bạc và ngay cả địa vị, cũng chẳng thể làm thay đổi những thứ đã trở thành thâm căn - cố đế của chàng. Trong đó, có chỉ số IQ, có thói hoang tưởng và có cả cái khoản "ăn chằng - đéo bửa".
Trong một lần đi "khám điền thổ", chàng ngã vào một quán thanh lâu. Chủ quán phải cắn răng, mang "rượu nồng - dê béo - gái còn đang tơ" đến, để dâng cho chàng. Chơi chán, còn phải chuẩn bị phong bì khẳm, để đấm mõm. "Được ăn" và "được gói mang về", đối với chàng, là chưa đủ. Xưa nay, đã ai bịt được mõm của chàng. Bởi thế, gia chủ phải mang sơn đỏ đến. Học đòi cổ nhân, tay này chàng ôm gái, tay kia đề thơ của mình lên tường của nhà người ta :
Mỗi lần tuần thú "Phương Đông"
Ông đều tìm đến, để giải sầu ở lầu xanh
Cố lên, các chị các anh
Chúng mình chơi gái, cho sử xanh nó lưu truyền.
Và, đắc ý, ký tên Tổng Lú, cùng ngày tháng ị ra bài thơ đó. Dĩ nhiên, không thể thiếu lời đe dọa : "Thơ tao chiết, nhà mày diệt". Chưa hết nhố nhăng, trong trang phục của Adam và Eva, chúng còn ôm eo và tình tứ dìu nhau ra ngoài cửa. Tại đó, Lú kiêu căng chấm của quý của mình vào sơn và nguệch ngoạc viết tiếp lên kính : "Lầu thơ của trạng Lú".
Thị Nở, chủ của cái thanh lâu ấy, bị dồn vào tử địa : Nếu để nguyên bài thơ trên tường, khách khứa chạy sạch. Sập tiệm, vô nghi. Còn gỡ nó xuống, là "khi Quân - phạm Thượng". Tội ấy, đáng bị tùng xẻo. "Trở đi, mắc núi - quay lại, vướng sông", nó khóc như cha chết. Cuối cùng, đành mang lễ vật và lần mò tìm đến cái am nhỏ - nơi mà ông giáo Thứ đang ở ẩn. Tại đó, nó vừa sụt sịt khóc, vừa kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ông giáo kiên nhẫn lắng nghe nó trình bày, đoạn thong thả :
- Ta đây, đã nguội lạnh với cái sự đời. Dẫu có thương, cũng chẳng có cách gì, để giúp mày được. Ngoài kia, thiếu gì phù thủy cao tay. Sao mày không tìm đến họ mà xin bùa về, để hóa giải ?
- Lạy thày, Tổng Lú là ma của các loại ma - là quỷ của các loài quỷ. Hàng ngày - hàng giờ, nó và đồng bọn, đang tác yêu - tác quái, để hãm hại dân lành. Tất cả các phù thủy của xứ này, đều bị nó dùng công danh - lợi lộc và cả những thủ đoạn đê tiện nhất, để khống chế sạch cả rồi. Bùa của họ, từ lâu, đã trở thành mảnh giấy lộn. Có câu, "thật thà, là cha quỷ quái". Bởi thế, con mới tìm đến thày, với niềm tin rằng : Những người như thày, bản tính hiền lành - ăn ở lương thiện. Cả đời, thày chẳng muốn hại ai. Trái tim của thày, vì thế, không vướng bụi trần. Từ đó, luôn và chỉ phát ra một thứ nguồn sáng tinh khiết. Tác dụng của nó, giống như kính chiếu yêu. Thày mà vận công, chân tướng của lũ ma quỷ, sẽ bị phơi bày. Chân tướng phơi bày, lũ quỷ kia sẽ chết. Xin thày, hãy góp phần trừ hại cho chúng sinh. Trong đó, có chúng con. Chúng con, không bao giờ quên ơn thày.
- Lời hứa của mày, về giá trị, liệu có bằng lời hứa của cái thằng lý trưởng Hứa Đức Chung ở cái làng bên, hay không ?
Mới chỉ nghe có thế, Thị Nở đã khóc nức lên. Bao nhiêu uất ức dồn nén trong lòng, tuôn ra ào ạt :
- Thân phận chúng con, thấp hèn - thân thể chúng con, nhơ nhớp. Đó, là sự thực. Thày muốn chửi kiểu gì, chúng con cũng chịu. Chỉ xin thày một điều, đừng hạ nhục, để xếp chúng con cùng rọ với cái lũ con cái nhà Sản. Bởi lẽ :
Dẫu có tồi tệ đến đâu, chúng con cũng chỉ bán cái "vốn tự có" của mình. Lũ kia, "buôn dân - bán nước". Cùng là bán, nhưng hai thứ đó, so với nhau, như âm với dương - như nước với lửa. Đó, là lẽ thứ nhất.
Để kiếm được đồng tiền, chúng con phải đổ mồ hôi - sôi nước mắt. Thậm chí, phải đổ cả máu và đánh mất đi nhân phẩm của chính mình. Lũ kia, không làm gì cả. Chúng bảo kê và trấn lột những đồng tiền đó của chúng con. Không chỉ có vậy, chúng còn bóc lột đồng bào ta đến tận xương - tận tủy và tham lam vơ vét sạch sẽ mọi nguồn lợi của đất nước. Từ trước tới giờ, ai cũng nói : tồi tệ, chẳng ai bằng lũ thảo khấu. Dẫu có thế, khi cướp của, hãn hữu lắm, bọn thổ phỉ mới giết người. Lũ con nhà Sản, thì ngược lại. Trước khi cướp của, chúng đều giết người. Không những thế, còn giết người theo kiểu diệt chủng. Bọn con với chúng, không thể đồng hạng với nhau. Đó, là lẽ thứ 2.
Khi rúc đầu vào háng chúng con, chúng hành động như lũ ma quỷ. Nhưng chỉ cần đứng được trước thanh thiên - bạch nhật, đứa nào trong số chúng, cũng nói như những thiên thần. Tư cách bẩn thỉu ấy, không thể xếp ngang hàng với chúng con được. Đó, là lẽ thứ 3.
"Nước vỏ lựu, máu mào gà
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên".
Trong lúc hành nghề, công nhận, cũng có lúc, chúng con dùng chiêu ấy. Nhưng, đó chỉ là chuyện hy hữu. Trái lại, lừa lọc và lật lọng, luôn là bản chất của lũ con nhà Sản. Cứ gì, lý trưởng Hứa Đức Chung. Từ chánh tổng Lú, cho đến lũ lâu la, đều cùng một giuộc. Chúng thường xuyên dùng chiêu ấy, với đồng bào. Chúng thường xuyên dùng chiêu ấy, với đồng bọn và chúng thường xuyên dùng chiêu ấy, để đánh lừa chính cái bản thân mình. Không những thế, chúng còn dùng ở mọi nơi và dùng ở mọi lúc. Chúng con hết sức tủi thân, nếu bị thày xếp ngang hàng với cái lũ lưu manh - côn đồ đó. Đó, là lẽ thứ 4…
- Thôi, đủ rồi. Không ngờ, bọn mày ghê gớm đến thế. Mày đã nói vậy, ta sẽ gắng giúp bọn bay một lần. Nhưng, phải nói trước : Mày, có 2 thế mạnh. Đó là, tiền và gái. Cả 2 thứ đó, ta đều không khát. Đừng mang chúng ra, đặt trước mặt ta. Bây giờ, nghe ta nói đây : Thay vì than khóc trước những nhân tố bất lợi, hãy tìm cách biến nó thành lợi thế. Thay vì buông xuôi trước những nguy cơ, hãy khéo léo biến nó thành thời cơ.
- Vậy, con phải làm gì ?
- Trước mắt, cần tôn tạo và biến cái "lầu thơ" ấy, thành một bảo tàng mini. Đầu tiên, mua 1 tấm kính lớn, ép đè lên toàn bộ bài thơ của thằng Lú. Bốn góc, trang trí bằng 4 cái quần xịp màu máu, ở giữa có gắn nhụy vàng. Viền xung quanh, là những bao cao su đã được thổi phồng và nối liên hoàn với nhau. Dọi vào bài thơ ấy, nhiều ngọn đèn công suất lớn. Bề ngoài, cứ thơn thớt nói với mọi người : rất trân trọng và muốn bảo quản lâu dài bút tích của bài thơ quý ấy. Để, nó không có cớ gì, mà bắt bẻ. Chứ thực ra, tấm kính ấy, sẽ phản chiếu ánh sáng. Cố tình nhìn vào đó, chỉ tổ nhức mắt. Khi không ai đọc được, thơ của Lú, dẫu có còn sống trên tường, thì cũng coi như đã chết. Chăn, ga, gối, đệm trong phòng, kể cả bao cao su, "xích líp" và phụ tùng của chị em, không cần dọn. Cứ để nguyên xi - nhàu nhĩ và hôi hám như thế. Trên giường, đặt tượng sáp khỏa thân của đôi kia. Cửa phòng, lúc nào cũng mở toang, để đón du khách vào thăm quan và nhớ, đừng có tham lam mà đặt một cái trạm BOT ở đó.
Trên tấm biển đồng gắn ở cửa, phải khắc dòng chữ : "Vào ngày cùng - tháng tận của năm con Khỉ, lầu thơ này, đã từng vinh dự đón Tổng Lú đến an nghỉ, à quên, ăn nghỉ cùng cô Thị Mẹt. Sau khi hành sự, Thị Mẹt, mắt lim dim, đưa tay sờ nắn những chỗ cần sờ. Sờ đến đâu, miệng lầu bầu đến đó :
Trên đời, em chẳng yêu ai
Yêu anh Tổng Lú có hai quả mìn
Quả mìn với cái đèn pin…
Bây giờ, mày về đi và cứ y kế mà thi hành.
Thị Nở, tần ngần. Nó đưa tay gãi đầu và năn nỉ :
- Thày ơi, cái bài thơ của con Thị Mẹt : hay thì có hay, nhưng vẫn còn thiếu. Đã giúp con, thày hãy giúp cho chót. Xin thày, thả hết ra đi. Nửa đời - nửa đoạn thế này, ai mà chịu nổi.
- Ý của mày, là tao phải tả nốt bộ rễ của cái đèn pin ấy, phải không ?
- Vâng, con nghĩ, phải là như thế.
Người khôn ăn nói nửa chừng
Để cho người dại, nửa mừng - nửa lo".
Viết nửa chừng như thế, du khách mới tò mò. Tò mò, họ mới xúm lại, để đặt ra câu hỏi. Lúc đó, cái mồm của mày, mới có việc tiếp theo, để mà làm. Lên bổng - xuống trầm, mày đọc bài thơ vịnh ông quan võ của Hồ Xuân Hương :
Bác mẹ sinh ra, vốn chẳng hèn
Tối tuy không mắt, sáng hơn đèn
Đầu đội nón da, loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn, rủ thao đen
Thêm dấm - bớt ớt, mày diễn giải cái sự hèn hạ của Lú và đồng bọn : Được trang bị tất cả những vũ khí khủng và quyền lực siêu, nhưng chúng cũng chỉ dám dùng những thứ đó, để đè nén - áp bức đám đàn bà tay không tấc sắt, nói riêng và đám dân lành, nói chung. Chứ ra ngoài đường, cổ bọn này, rụt đến tận vai. Khách có hỏi, nên giải thích rõ : Tại sao là mìn, tại sao là đèn pin. Còn cái khoản kia, chỉ cần che miệng cười và xin khán - thính giả, tham quan thực tế.
- Con đã minh bạch cả rồi. Đội ơn thày và xin phép thày cho con về. Để thực thi những điều thày dạy.
Như có phép lạ, từ khi bài thơ của Thị Mẹt được trương lên, khách khứa chen nhau quay trở lại quán thanh lâu. Lâu lắm rồi, họ mới có cơ hội để được "tụ tập đông người", mà không cần xin phép. Họ đến, một phần để nghỉ ngơi và ăn uống. Phần khác, để chiêm ngưỡng cái chuồng lợn và cách sinh hoạt bệnh hoạn - phóng túng của cặp đôi Tổng Lú - Thị Mẹt. Trong lúc trà dư - tửu hậu, họ hả hê kể cho nhau nghe và bình phẩm về những giai thoại đáng xấu hổ của Tổng Lú. Việc kinh doanh, vì thế, trở nên phát đạt. Thanh lâu của thị Nở, thường xuyên cháy phòng và cháy bàn.
Cũng từ đó, Tổng Lú hết thiêng. Ra ngoài đường, y luôn cắm mặt để nhìn thẳng xuống đất và chỉ dám len lén, để đi ở một bên lề đường. Không có chuyện tay khuỳnh - chân dạng và ngông nghênh coi thiên hạ : "mục hạ, vô nhân".
Quá trình "xuống dốc không phanh" của y, đã bắt đầu. Và, không thể đảo ngược.
Nguyễn Tiến Dân
Tel : 0168-50-56-430
Địa chỉ : Vì tin vào cái lũ cộng sản đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây - mai đó, chưa có nơi ở cố định.
1
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn
Lời ru ấy đã thấm sâu vào tiềm thức của bao người và nó thôi thúc họ lên đường, khi đã đủ lông – đủ cánh. Trước, khám phá thiên hạ – sau, mở mang đầu óc. Khoác tay nải lên vai và bước chân ra khỏi cửa, họ giống nhau ở chỗ, đều mang thân phận lữ khách.
Đi cho biết đó biết đây - Ảnh minh họa
Tuy vậy, trình độ và mục đích, thiên hình – vạn trạng. Nào phải, ai cũng giống ai :
Người khôn, như con ong mật : Mắt, họ chỉ nhìn điều hay – tai, họ chỉ nghe lẽ phải. Tinh hoa của thiên hạ, được họ tiếp thu và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể của mình. Thế và lực của họ, nhờ đó, hưng khởi.
Thiên hoàng Minh Trị – một minh Quân của đất nước Mặt trời mọc, là 1 ví dụ. Không thỏa mãn với những thành tựu mà Nhật bản đã có được, Ngài chủ trương cách tân và phóng tầm mắt, nhìn ra năm Châu – bốn bể. Sau đó, du nhập có chọn lọc, những tinh hoa kĩ thuật của phương Tây. Cộng thêm, những ưu việt của nền Văn hóa khai phóng và nền Dân chủ tiến bộ của nó. "Lượng đổi – chất đổi". Những tiền đề đó, cộng với "nền Văn hóa đậm đà bản sắc Dân tộc", là điểm tựa vững chắc, đảm bảo cho Nhật bản không gục ngã, ngay cả trong những lúc : Đất nước, tưởng chừng đã kiệt quệ sau hoang tàn của chiến tranh hoặc sau những thảm họa kinh hoàng của Tự nhiên. Không những thế, còn ngạo nghễ vươn lên và phát triển hùng cường – thịnh vượng, như ngày hôm nay.
Loại thứ 2, khôn ngang bò. Loại này, dẫu có được dẫn sang tận La Mã để gặm cỏ, khi trở về, chúng vẫn chỉ là những con bò. Vô thưởng – vô phạt như thế, nhưng suy cho cùng, nó cũng chẳng làm hại ai. Trái lại, ăn cỏ của thiên hạ, còn chuyển hóa được nó thành thịt và sữa. Sau đó, hiến dâng những sản phẩm hữu ích đó, cho đời.
Viết đến đây, tự dưng chạnh lòng. Chợt nhớ tới thân phận của những lao nô và đĩ điếm của thời hiện tại. Vì họ, mà Cả Lú đã phải lao tâm – khổ tứ, suy nghĩ đến bạc cả lông đầu. Tam khoanh – tứ đốm, vẫn không ngoài cái chuyện : xuất khẩu họ (một cách nói khoa trương – mĩ miều của cái chuyện buôn người, ở thời @), đi đâu và cho thật nhiều. Để cuối cùng, y và đám đồng đảng, ngồi dạng tè he ra, hả hê mà đếm những đồng Obama đẫm mồ hôi – máu và nước mắt của họ.
– Những người cộng sản, ngay từ "thế hệ vàng F1", đã không được như hai loại kể trên. Cuộc sống đói cơm – rách áo, khiến họ phải tha phương cầu thực. Thân phận thấp hèn, để xuất dương, họ phải mang tính mạng của mình ra, đặt cược. Người thì đi rửa bát trên tàu thủy – kẻ lại đến quét tuyết ở Paris. Đêm đông giá lạnh, không có tiền, họ phải ngủ cùng "gạch nướng", ở những quán trọ tồi tàn (Lạy Thánh mớ bái, chỉ mong, đấy là những viên gạch thật, làm bằng đất sét. Chứ không phải loại gạch, làm bằng xác thịt của những loài đĩ bợm, nơi đầu đường – xó chợ). Đầu chày – đít thớt ; vặt mũi – đút miệng. Chạy ăn từng bữa, còn chẳng đủ. Tưởng, hơi đâu mà : "mơ thấy cưỡi rồng, lên thượng đế". Sự thực, không phải như thế. Chí của những vĩ nhân cộng sản đời F1 vĩ đại hơn nhiều và vượt quá sức tưởng tượng của đám đông dân chúng. Đũa mốc, nhưng họ vẫn cố chòi mâm son. Bởi vậy, lạy lục – cạy cục, xin vào học ở những trường danh tiếng của Mẫu quốc – nơi, chỉ "đào tạo tay sai cho chế độ Thực dân". Trình độ và cả văn hóa nữa, đều lùn. Hệ quả tất yếu, đơn từ của họ, sớm bị xếp vào cái tủ "Hồ sơ lưu" và chờ được bạch hóa, vào thời điểm thích hợp.
Bị thế giới văn minh ruồng rẫy, quẫn chí, họ đành chu du sang Nga la tư. Đập ngay vào mắt họ, là cái cảnh, bọn cầm quyền ở đó, rặt một lũ vô lại. Phẩm chất nổi trội nhất của chúng : tham lam – dốt nát – độc ác và cuồng tín. Thế mà, chỉ với cây súng và nhà tù trong tay, thoắt cái, chúng đã trở thành ông chủ nô với quyền hành tuyệt đối. Chúng được độc quyền Chân lý. Chúng được độc quyền cưỡng bức và mặc sức bóc lột dân chúng – đám lao nô thời hiện đại. Không phải làm lụng vất vả, lũ dòi bọ ấy, vẫn được vinh thân – phì gia. Ngẫm thấy, nó vô cùng thích hợp với mình. Bởi vậy, gắng công nghiên cứu và học hỏi cái chủ thuyết cộng sản. Đặng đem về và gieo rắc nó trên mảnh đất quê hương.
Tầm nhìn hạn hẹp, đã thế, lại chỉ nghĩ đến mình. Bởi vậy, họ không thấy được mặt trái của Chủ nghĩa cộng sản. Cái thứ, "chỉ là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của tất cả nhân loại" – Victor Hugo. Thậm chí, còn được diễn đạt một cách thậm tệ hơn, bởi một vị chân tu : "Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng đôc, sinh sôi nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời" – Đức Dalai Lama lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng.
Chủ thuyết cộng sản, được sinh ra, bởi băng đảng thảo khấu của bọn khủng bố – bởi lũ khát máu và bởi những kẻ độc tài. Tất cả, đều ở đẳng cấp bệnh hoạn. Bản thân cái Lý thuyết "đấu tranh giai cấp" hoang đường đó, đã đi ngược lại tất cả những quy luật của Tự nhiên và Xã hội. Lẽ ra, nó chẳng thể có chỗ đứng trong Xã hội của loài người. Tuy vậy, Lênin và sau này, cả Stalin nữa, đã lần lượt đem nước Nga và một phần của Đông Âu ra, để làm chuột bạch. Đi đến đâu, chúng gieo rắc kinh hoàng đến đó. Về mặt này, tuy có cùng gốc S, nhưng IS và ngay cả cái tổ chức SS khét tiếng của nước Đức Quốc xã, còn lâu mới bén được gót của cộng sản.
Sức chịu đựng của con người, là có giới hạn. Cuối cùng, chính những nạn nhân của chế độ cộng sản, đã phải vùng lên. Họ đã buộc phải ra tay và họ đã buộc phải lên tiếng. Bây giờ, chế độ cộng sản đã tuyệt chủng ở Châu Âu và đừng mơ, sẽ có ngày, nó được phục sinh tại đó.
Những thế hệ sau của những người cộng sản Việt Nam, chẳng phải, đều là lũ cặn bã bỏ đi. Do đó, không thể nói, họ không biết đến những điều đó. Chính vì biết rất rõ, nên chúng đã lặng lẽ quay đầu lại với cái chủ nghĩa cộng sản vô luân – vô thần. Xưa, họ kêu gào đánh đổ chế độ "người bóc lột người". Nay, chính chúng mở cửa, rước những ông chủ Tư bản vào. Để cùng họ, bóc lột công nhân Việt Nam. Sợ lợi nhuận khủng, còn chưa đủ đô, chúng nhẫn tâm, mang "con gái Việt Nam rất đẹp" ra, để mồi chài và khuyến mại.
Chúng đem cái chủ thuyết Mác – Lê khốn nạn về Việt Nam. Chúng bắt dân chúng phải thờ phụng và phải sống chung với nó. Trong khi, gia đình – của cải – con cái và ngay cả bản thân chúng nữa, hoặc cách li – hoặc tránh xa nó. Như, tránh hủi. Bằng chứng, những thứ quí giá nhất đó của chúng, đều đã lần lượt được gửi đi tị nạn ở những nước Tư bản giãy chết. Sự khốn khổ của Nhân dân Việt Nam – sự tan hoang của Đất nước Việt Nam, là vật thế chấp cho cuộc sống xa hoa – phè phỡn của bè lũ chóp bu cộng sản, ở nơi "Tây phương cực lạc". Ở đó, chúng hưởng thụ, ngay và luôn. Cần quái gì, phải đợi đến thì tương lai – Cần quái gì, phải đợi đến chết, mới đến được cái xứ "Tây phương cực lạc" (chắc gì đã có) của nhà Phật.
Thật là, tuyệt đỉnh của sự đểu cáng và ác độc.
Truyền thuyết Việt, kể rằng : Kết thúc quá trình lưu đày, Mai An Tiêm mang được giống Dưa hấu đỏ về cho quê hương. Xóm làng, nhờ đó, mà sung túc. Chuyện của chàng, nhờ đó, mà truyền tụng đến tận ngày nay. Ngược lại, những người cộng sản, sau khi xuất dương, đã du nhập cái chủ thuyết "đấu tranh giai cấp" đẫm máu về Việt Nam. Sự kiện này, quả thật, đã tạo ra một bước ngoặt vĩ đại – đã tạo ra một cơn địa chấn kinh hoàng trong Lịch sử của Dân tộc. Nó, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân – là căn nguyên của mọi loại tội lỗi, dẫn đến sự băng hoại toàn diện về mọi mặt của Đất nước Việt Nam hiện nay.
Ra ngoài đường, ăn đến mòn cả bát đĩa của thiên hạ, nhưng cái hay của họ, lại không học được. Cuối cùng, nhẹ thì nói là, chỉ tha được phân – xúc được cứt của họ về và đổ vào giữa nhà của mình. Nặng thì nói là, dắt được đám voi hoang về, để chúng "dày mả tổ".
Đó là cách thứ nhất, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.
2
Bây giờ, trừ những loại không còn tim – óc, tuyệt đại đa số đảng viên và ngay cả ông Đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng, cũng đã nhìn ra chân tướng của Chủ nghĩa cộng sản. Họ không còn niềm tin vào sự thành công của nó nữa. Bằng chứng, chính là lời thú nhận một cách công khai của ông Đảng trưởng : "đến hết thế kỉ này, chắc gì đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam". Ông ta, nói đúng. Nhưng, chưa đủ sức thuyết phục. Triết gia Trần Đức Thảo, mới xứng đáng là bậc thầy của vấn đề này, khi chỉ ra gốc rễ của nó : "Không có thứ lí luận biện chứng nào, có thể chứng minh rằng : một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá độc ác quỉ quyệt đầy hận thù tranh chấp đầy chia rẽ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật đoàn kết thương yêu tốt đẹp trong tương lai". Ngắn gọn và dễ hiểu, những lão nông quê tôi, dạy con cháu : "Gieo cỏ dại xuống ruộng, đừng có mơ, sẽ thu hoạch được ở đó, cả một cánh đồng lúa chín vàng".
Không tin vào chủ thuyết cộng sản, nhưng Cả Trọng và đám đồng đảng, đâu có thể dễ dàng từ bỏ nó. Trái lại, phải cố sống – cố chết, để duy trì và bám chặt lấy nó. Dễ hiểu, bởi rũ bỏ nó, lấy đâu ra đặc quyền – lấy đâu ra đặc lợi. Hơn ai hết, chúng biết rất rõ : "Bỏ điều 4, là tự sát".
Nước lã, chẳng dễ trộn với dầu hỏa. Đây, có thể nói, là một trong những nhiệm vụ bất khả thi của hệ thống Tuyên giáo cộng sản. Chúng chẳng có nhiều sự lựa chọn, ngoài chuyện nâng bi – thổi kèn và tô son – trát phấn cho cái thây ma cộng sản, đang trong quá trình phân hủy và thối rữa.
Đầu tiên, chúng ngụy biện một cách hết sức củ chuối rằng : Chủ nghĩa khủng bố cộng sản, kết hợp với lòng yêu nước, đã giúp Việt Nam đánh Pháp – đuổi Mỹ và cuối cùng, đã giành được Độc lập.
Quả là, có cái chuyện đánh được Pháp và đuổi được Mỹ. Nhưng, không có cái chuyện : "chúng ta làm chủ của mình, từ đây". Trước hết, hãy nghe lời thú nhận của Võ Văn Kiệt – một lãnh đạo chóp bu của cộng sản, qua xác nhận của tướng Trương Giang Long : "Khi nào mà đảng ta thực sự độc lập về đường lối, thì bấy giờ, Đất nước có những chuyển biến tích cực". Trên thực tế, Đất nước ta đã phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Phụ thuộc đến mức, không thể giãy ra được nữa. Từ Chính trị – Kinh tế – Ngoại giao – An ninh – Quốc phòng…, cho tới Văn hóa và lối sống. Chỉ xin, nêu một dẫn chứng : Khi Trung Quốc tỏ ý không thích lập trường chống họ một cách quá thái quá của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, ông này, ngay lập tức, đã bị Đảng cộng sản Việt Nam cách chức và cho về vườn.
Sinh ra ở trên đời, từ cá nhân cho tới quốc gia, ai cũng có khát vọng vươn lên – ai cũng có khát vọng làm chủ. Chuyện đó, thường tình. Ngặt nỗi, đâu có phải "muốn, là được". Ối kẻ, không tài giỏi – không có đầu óc tổ chức – không có vốn – không có mối quan hệ rộng… nhưng vẫn không lượng được sức mình. Chúng vẫn liều lĩnh, tranh bá với thiên hạ. Hậu quả, đau lòng. Bao nhiêu kẻ đâm đầu vào đá như thế – bấy nhiêu người, phải nhảy lầu tự tử. Khi không đủ trình độ, để làm "thày của thằng dại", người không quá ngu, ắt phải chọn "thằng khôn", để phò – để mà, được làm đầy tớ cho chúng.
Ảnh minh họa. Nguồn : internet
Đảng ta, à quên, Đảng cộng sản, mặt ngay – tay đờ và khôn hơn lợn. Họ thừa biết, với năng lực của mình, vĩnh viễn, họ không thể tranh bá với thiên hạ. Muốn ngồi được lên đầu – lên cổ Dân tộc Việt, bắt buộc, họ phải dẫn ngoại bang vào và chấp nhận thân phận làm tay sai cho chúng. Có điều, họ không chịu làm đầy tớ cho thằng khôn. Họ đã bắt chúng ta, đổ ra bao nhiêu máu xương và vô số tiền của. Mục đích, đuổi đi cho bằng được, 2 nền Văn minh của nhân loại. Đó là, Pháp và Mỹ. Sau đó, chúng "sáng suốt", quàng cái xích chó vào cổ và tình nguyện, làm nô lệ. Trước, cho Quốc tế cộng sản. Thông qua việc, xin được làm tên lính xung kích – xin được làm, cái gọi là "tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa". Đồng nghĩa với việc : mang giang sơn gấm vóc Việt ra, làm bãi chiến trường. Bây giờ, không thể rõ ràng hơn, đang xin nhận thân phận làm chư hầu, cho cái bọn man di – mọi rợ Tàu cộng.
Một sự lựa chọn, không hề đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Dân tộc Việt Nam.
Mang chủ thuyết "đấu tranh giai cấp" ra làm phương tiện, để giành Độc lập. Cho dù, có thành công, thì đó cũng chỉ là cách "dùng thuốc độc, để giải khát".
Sinh thời, Hồ Chí Minh, đã từng nói một câu rất chí lý : "Nếu nước Độc lập mà dân không hưởng Hạnh phúc – Tự do, thì Độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Ngặt nỗi, ông và những truyền nhân của mình, đến vế đầu còn chẳng thực hiện được, mong chi đến cái chuyện Hạnh phúc, với lại Tự do. Tệ hơn nữa, thuốc độc Mác – Lê, đã ngấm sâu vào cơ thể và đã đến lúc, nó phát tác dữ dội. Hậu quả, Thiên nhiên và cả Xã hội của chúng ta nữa, đã bị băng hoại đến mức, khó mà có thể phục hồi.
Đó là cách thứ 2, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.
3
Paul Doumer – Toàn quyền Đông Dương, thời kì 1897 – 1902, trong cuốn hồi kí "Xứ Đông dương" của mình, đã đánh giá rất cao về người Việt : "Người Annam, chắc chắn là tộc người ưu trội so với các tộc người xung quanh. Người Cao miên, Ai lao và Xiêm la đều không thể chống lại được họ. Không một quốc gia nào trong Đế quốc các xứ Ấn độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật bản, mới có tộc người có phẩm chất của người An nam và giống như người An nam. Người An nam và người Nhật bản, chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai, đều thông minh, cần cù và dũng cảm… So với các dân tộc khác ở Châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An nam, vẫn xếp cao hơn một bậc".
Cùng có phẩm chất ngang nhau vào đầu thế kỉ XX. Nhưng người Nhật, được những người thông minh – có tâm hồn cao thượng và giàu chất nhân văn lãnh đạo. Bởi thế, Dân tộc và Đất nước của họ, vươn lên không ngừng. Ngược lại, người An nam, bị Đảng cộng sản nô dịch. Cho nên, bị "lưu manh hóa" và đã trở thành một lũ mọi rợ. Luật pháp, không còn. Thế vào đó, là cái thứ Luật rừng của Đảng cộng sản. Hệ quả tất yếu : Luân thường – đạo lý, bị đảo lộn một cách hoàn toàn. Đồng tiền lên ngôi và thống trị Xã hội.
Dân tộc Việt, giờ đây, đã đánh mất đi truyền thống "thương người như thể thương thân". Họ chẳng còn thiết tha bao dung – yêu thương và đùm bọc lẫn nhau nữa. Thoắt cái, tất cả đã bị biến thành một lũ dối trá – đê tiện. Từ cái lời hiệu triệu : "Hãy tự cứu lấy mình, trước khi trời cứu" của cựu Tổng bí thư Nguyến Văn Linh, cả Xã hội, giật mình bừng tỉnh. Phát pháo lệnh đó, đã châm ngòi cho sự hỗn loạn và thói sống gấp. Ai cũng chỉ nghĩ đến mình và sống cho riêng mình. Trèo lên đầu – lên cổ đồng loại để sống, cũng không từ. Ai cũng vô cảm – độc ác – man rợ và rừng rú. Như cái thuở, còn mông muội và ăn lông – ở lỗ…
Tuy vậy, "trong họa – có phúc". Tiếng Việt của chúng ta, nhờ đó, mà trở thành ngôn ngữ Quốc tế. Đi đến đâu và ở khắp hang cùng – ngõ hẻm của Thế giới, cũng gặp những biển cảnh báo, ghi bằng tiếng Việt. Nội dung, "ăn cắp là phạm pháp và có thể bị phạt tù". Không phải ngẫu nhiên, mà Quốc tế ưu ái và chỉ cấp riêng cho chúng ta, những tấm "kim bài" đó. Từ cái cô mũi hếch – mắt trắng dã Kiều Trinh, chuyên liến thoắng dạy Đạo đức cho dân chúng trên đài Truyền hình Quốc gia, cho tới ông Đại sứ, thay mặt cho nước nhà tại Hoa kỳ, ai cũng thạo nghề… "sáu ngón".
Thực dân Pháp đến "khai hóa Văn minh" ở Việt Nam và họ đã đem đến cho xứ sở An Nam mít của chúng ta, một bộ mặt rất văn minh và hiện đại. Sự văn minh và hiện đại ấy, đã và đang theo đuổi chúng ta, cho đến tận bây giờ. Những thứ đó, không dễ gì, có thể thay thế được. Trước hết, đó là những tuyệt tác kiến trúc. Tỷ như, dinh Toàn quyền Đông dương – nhà hát lớn Hà nội – nhà thờ Đức bà Sài gòn – viện Viễn đông bác cổ – cầu Long biên… Nhưng, có lẽ, đóng góp lớn nhất vẫn là : sáng chế và truyền bá thành công chữ quốc ngữ, cho dân Việt. Ngoài ra, không thể không kể thêm tới một hệ thống hạ tầng giao thông hoàn chỉnh – hiện đại, so với khu vực Châu Á, thời bấy giờ. Hoàn chỉnh và hiện đại như thế, nhưng trên phạm vi cả nước, bói không ra một trạm thu phí giao thông.
Hà nội đẹp, do được những con người có tâm – có tầm, quy hoạch một cách khoa học và bài bản. Hà nội cũng rất hiện đại. Bằng chứng, nó là thành phố đầu tiên ở Châu Á, được chiếu sáng bằng điện. Còn Sài gòn, lung linh đến mức, được bạn bè Quốc tế, gọi nó là "Hòn Ngọc của Viễn đông".
Gần hơn nữa, vào những năm 60 của thế kỉ trước, người Mỹ kéo quân tới miền Nam Việt Nam. Sang thăm Sài gòn vào thời kì đó và chứng kiến sự phát triển kì diệu của nó, Thủ tướng Lý Quang Diệu, đã phải nuốt nước bọt, mà ao ước : "hy vọng, là một lúc nào đó, Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn".
Bây giờ, sau khi đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm toàn bộ Việt Nam : lũ qủy đỏ, căn bản, đã "băm nát Hà nội" (lời thú nhận của chính cái thằng lẻo mép Hứa Đức Chung). Hòn Ngọc của Viễn đông, thì bị đập đến biến dạng và bị quăng xuống bùn. Căn bệnh kinh niên của nó : nhầy nhụa – bẩn thỉu – lộn xộn – kẹt xe và tắc đường. Trên bình diện cả nước, sự vụ còn thê thảm hơn nhiều : ngài IL Houng Lee – Trưởng cơ quan Đại diện IMF tại Hà nội, đã từng rất "lạc quan", về cái "triển vọng tươi sáng" của Việt Nam. Ông ta, đã cặm cụi tính toán và trên cơ sở đó, đã đưa ra những cái mốc thời gian : Ngay cả khi, đã "chạy đến phọt cả cứt ra quần", phải có thêm 18 năm nữa, Việt Nam mới mong đuổi kịp được Indonesia – mất 34 năm nữa, để đuổi kịp Thái Lan và nhanh thôi, mất thêm197 năm nữa, sẽ sờ được vào cái "phao câu" của Singapore.
Thế giới, đã từng tổng kết : Người Hàn, nhập sách của Nhật về, để dạy cho trẻ con nước họ : 20 năm sau, hóa Rồng. Người Việt, nhập chủ nghĩa Mác – Lê về, để thờ : 87 năm sau, đội được đít của thiên hạ.
Thú hóa con dân Đất Việt và kéo lùi sự phát triển của Dân tộc. Đó là cách thứ 3, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.
4
Mở đầu cho Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã long trọng tuyên hứa : "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ngay sau đó, để chứng tỏ cho cái Chính nghĩa sáng ngời của mình, ông ta đã tuyên hứa tiếp : Sẽ đoạn tuyệt với bất cứ thể chế Chính trị man rợ nào, nếu chúng đi ngược với quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân :
"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta… Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn".
Bây giờ, ngồi điểm lại, hết sức dễ dàng thấy : Tất cả những lời nói đó, đã được đồng đảng của ông ta thực hiện một cách đầy đủ – trọn vẹn và trên cả mức tuyệt vời. Những quyền tối thiểu của một con người, cũng bị Đảng cộng sản tước đoạt sạch. Dân chúng, có quyền ăn đồ ôi thiu và độc hại của Tàu. Nhưng không có quyền mở mồm, để nói ra sự thực.
Đảng cộng sản, đã thiết lập ở Việt Nam, một chế độ Độc tài. Ở đó, mọi quyền lợi và quyền lực của Đất nước, không còn thuộc về Nhân dân. Nó cũng không thuộc về Đảng cộng sản – một cái thứ, về thực chất, chỉ đóng vai trò bung xung. Sự thực, tất cả những thứ đó, bị thâu tóm bởi một nhóm nhỏ những ông trùm Mafia đỏ. Dĩ nhiên, vẫn theo nếp xưa, "cha truyền – con nối". Tất cả bọn chúng : được độc quyền Chân lý – được độc quyền lãnh đạo và được độc quyền ban phát. Mọi nghị quyết của Đảng, do những thằng đần đưa ra, dù đúng – dù sai, chẳng phải chỉ đảng viên, mà tất cả mọi người dân, đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm, nhắm mắt mà thi hành.
Thằng mắt sáng, phải đi theo sự chỉ dẫn của những thằng mù – những thằng, cả đời, chỉ biết có ăn và phá hoại. Ăn một, chúng phá mười. Hậu quả, Dân tộc này, đi lạc lối. Nguyễn Phú Trọng, thằng trốn nghĩa vụ Quân sự trong những năm gian khổ – ác liệt nhất của Chiến tranh, giờ đây, ngoi lên làm Chính ủy của toàn Quân. Dưới sự lãnh đạo "toàn diện và tuyệt đối" của cái thằng nhát chết đó, chúng ta bị Tàu cộng ép, như ép giò. Việt Nam, rơi vào thế, mà sự tồn vong của Dân tộc, đang ở trong trạng thái "ngàn cân, treo sợi tóc".
Phân hóa giàu nghèo, cũng sắp đạt đến mức cực đỉnh. Từ đó, kéo theo những hệ lụy không dễ giải quyết trong ngày một – ngày hai. Bất công khủng khiếp trong Xã hội, cũng theo đó, mà phát sinh.
Tất cả tài nguyên của đất nước, từ của nổi – cho đến của chìm, từ lâu, đã không còn thuộc về Nhân dân nữa. Tất cả, đều bị băng nhóm Mafia đỏ đào bới – khai thác theo lối tận diệt. Dễ thấy nhất : Rừng già, về cơ bản, đã bị chúng đốn sạch. Đất đai của Tổ quốc, chỗ thì chúng tùy tiện sang nhượng cho ngoại bang – chỗ nào chưa thể, chúng đều dẫn ngoại bang vào, tống cổ dân bản địa đi, để cho lũ kia thuê với cái giá rẻ mạt… Tất cả những nguồn lợi đó, Đảng cộng sản đã thâu tóm sạch, để chia chác cho nhau. Chúng không cần, phải "hỏi ý kiến của Nhân dân" trên mọi lĩnh vực và chúng cũng không hề cho người dân, được hưởng tí sái nào. Không những thế, chúng còn bày đặt ra sưu cao – thuế nặng, khiến dân nghèo lụn bại. Đó, vẫn chưa phải là tận cùng của sự tham lam và ác độc. Chúng còn đi vay vô tội vạ, với lãi suất cắt cổ của Quốc tế về, để tiếp tục chia nhau và bổ đầu người dân, bắt họ phải gánh chịu.
Cái Chế độ mà Hồ Chí Minh đã cực lực lên án và đả phá, buồn thay, lại chính là Chế độ cộng sản. Trong cái chuyện tiên tri, ai dám bảo : "Hồ Chí Minh, kém Trạng Trình ?".
Đánh đổ chế độ Thực dân – Phong kiến thối nát. Thay vào đó, là một thể chế Độc tài, so độ thối nát và man rợ, còn kinh khủng hơn nhiều.
Đó là cách thứ 4, mà những người cộng sản đã làm, để tri ân đất Mẹ và cũng là cách, mà chúng đã dùng, để báo hiếu cho quê hương Việt Nam.
…
5
Này, Phú Trọng !
Từ thời thượng cổ, người nước Nam ta, chuộng cả "sư" lẫn "sĩ". Cho đến tận bây giờ, vẫn vậy và không hề thay đổi. Chưa ở đâu và chẳng bao giờ, trong các đền thờ – chùa chiền – miếu mạo, lại dựng tượng và đi thờ một gã hoạn lợn thất đức hoặc cái thằng lâm tặc dâm dê. Lão biết, chú không thuộc hai cái dạng kể trên. Trên cả "sư", chú còn là "giáo sư" – trên cả "sĩ", chú còn là "tiến sĩ". Cả đời, cái tăm, chú cũng không biết vót. Nghề thạo nhất của chú, là cạo giấy. Lì đến mức, "mắt, thong manh – đít, thâm xì". Sở học, ắt thuộc hàng thượng thặng – Bản lĩnh, ắt thuộc dạng phi thường. Nghe cái danh "sĩ phu Bắc hà" của chú, khác nào, bị đấm vào tai. À quên, như "sấm động bên tai". Lão già đây, ngưỡng mộ vô cùng. Cùng với nó, là nỗi khát khao, được "mắt thấy – tay sờ" vào cái đại danh ấy. Để xem, hư – thực của nó, như thế nào.
Dịp may ấy, cuối cùng, rồi cũng tự trên trời rơi xuống. Khi chính chú, chẳng biết có bị chập mạch hay không, mà ngứa mồm và cho Võ Văn Thưởng – cái loại "vắt mũi còn chưa sạch", mang loa đi rao khắp làng trên – xóm dưới, đòi khiêu chiến với cả thiên hạ. Thấy lạ, lão cũng mon men ra xem và có kí tên vào chiến thư của chú. Lão hẹn : "Ngày mai, quyết chiến". Xong xuôi, lão quay về lấy gậy và ra chiến địa, ngồi chờ. Ngày này, trôi qua – tháng khác, lại gần. Chim trời, có nhìn – cá nước, có thấy – riêng chú, bặt tăm. Chắc chú quên, chứ tầm như chú, sao lại có thể sợ lão Dân già đến mức, "sun cả chim lại", như thế.
Nếu chú quên, qua sứ giả Internet, lão tái gửi thư tới chú. Nếu có giỏi, hãy phê vào đó và mang cái mớ lí sự cùn Mác – Lê ra, mà thi đấu cho nó đàng hoàng. Đừng chỉ lèm bèm, đối thoại mãi với mấy ông/bà già cổ hủ và sắp chui xuống lỗ trong các cuộc tiếp xúc với cử tri nữa. Đừng nấp mãi trong đũng quần của mấy thím Công an nữa. Như thế, nhục nhã thay, cho các đấng nam nhi và hổ danh thay, cho các "sĩ phu Bắc hà". Nếu thấy, vẫn chưa đủ tự tin, hãy xua thêm bọn đầu lâu – xương chéo của chú ra và dùng phép "tiền pháo – hậu binh". Trước, nhốt lão Dân già vào đồn và đánh cho lão ấy mềm xương. Sau, mở phiên Tòa và kéo cả lò – cả ổ ra, để xem cái cách, mà lão đây hạ nhục cả chú, lẫn cái thể chế Chính trị của chú. Thê thảm lắm, Trọng ạ :
Thứ nhất, cái thể chế Chính trị của chú, đã lừa đảo và ăn cướp của lão Dân già. Nhân chứng – vật chứng, nhiều đến mức, quá dư thừa. Từ cổ – chí kim, từ Đông – sang Tây, người ta đều phải gọi các chú, là lũ tội phạm.
Là tổ chức tội phạm, liệu các chú có dám bất chấp tất cả, để làm cái chuyện "chó leo bàn thờ". Nghĩa là, ngồi vào cái ghế Quan tòa, để xét xử nạn nhân ? Chuyện này mà lộ ra, nói thật, đến chó nó cũng không ngửi được. Nếu chú ngửi được, đừng ngần ngại, hãy làm đi. Đó, là điểm yếu thứ 2 của các chú.
Thứ 3, với 2 nhân tố kể trên, khi xử lão, các chú không thể đem cái thứ, mà nhân gian vẫn gọi là Luật pháp ra, để sử dụng được. Bắt buôc, các chú phải dùng đến cái thứ, mà xưa – nay, các chú vẫn giấu, "như mèo giấu cứt". Đó chính là, Luật rừng của băng đảng cộng sản. "Chính nghĩa" của các chú, sẽ bị lão đây, cho "lộn mề gà".
Cuối cùng, quan trọng nhất, người đối diện và đối thoại với chú, bằng cấp chẳng đầy mình như chú. Nhưng cả lí luận lẫn thực tiến, chắc dư sức, để nhấn chìm xuống bùn, cả chú lẫn cái đám đồng đảng đểu của chú.
Đừng manh động và đừng có điên đến mức, phải làm theo cái kịch bản đó, Trọng nhé. Hãy nâng lão Dân già, như nâng trứng mỏng và hãy treo cổ bất cứ đứa nào muốn hại chú, thông qua việc, định sờ "phao câu" của lão Dân già.
Lão đây hẹn và rất muốn : bình tĩnh, ngồi đối thoại sòng phẳng với chú, về rất nhiều vấn đề. Trong đó, có cả cái mớ tiền, mà các chú đã lừa đảo và ăn cướp của lão. Nuốt không trôi được đâu, Trọng ạ. Bởi, lão đây, là Dân già. Lão không phải là Trịnh Văn Bô và cũng không phải là Trịnh Vĩnh Bình. Bắt nạt và ăn cướp của lão, đâu có dễ. Nhớ cho kĩ, điều đó.
Chào chú và lão sẽ chờ, để được đọc bài phản biện của chú.
Nguyễn Tiến Dân
Tel : 0168–50–56–430
Địa chỉ : Vì tin vào cái lũ cộng sản đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định.
Nguồn : Tiếng Dân, 04/12/2017