Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam trở nên tồi tệ hơn trong năm 2018. Theo bà Elaine Pearson Giám đốc Human Rights Watch Australia, có 28 nhà hoạt động bị bắt chỉ trong 8 tháng đầu của 2018. Tức là cao hơn con số 24 trong nguyên năm 2017.

nhanquyen1

Theo bà Elaine Pearson Giám đốc Human Rights Watch Australia, có 28 nhà hoạt động bị bắt chỉ trong 8 tháng đầu của 2018.

Trong tháng 4, một số tòa án nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam kiểm soát, ban hành nhiều bản án từ 7 đến 15 tù giam đối với các thành viên của Hội Anh Em Dân chủ gồm có Luật sư Nguyễn Văn Đài, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Nhà báo Trương Minh Đức, luật gia Nguyễn Bắc Truyển, Lê Thu Hà, Phạm Văn Trội, Nguyễn Văn Túc và Trần Thị Xuân.

Trong tháng 7 và tháng 8, nhà cầm quyền cũng tuyên án 16 năm tù cho Nhà hoạt động tôn giáo Đinh Diệm và 20 năm tù với Nhà hoạt động môi trường Lê Đình Lượng. Tới tháng 10 thì có 5 nhà vận động dân chủ bị tuyên phạt từ 1 đến 15 năm tù giam. Bản án nặng nhất 15 năm tù giành cho Lưu Văn Vịnh bị chế độ cáo buộc là "thường xuyên vào các trang mạng xã hội đọc các thông tin tiêu cực, sau đó kết nối với các thành phần chống đối chính trị, nhận định phiến diện cho rằng chế độ chính trị hiện nay đã lỗi thời nên sẽ bị đào thải".

Để đối phó với những lời phê bình, chỉ trích từ cộng đồng quốc tế, chế độ đã trả tự do và trục xuất LS Nguyễn Văn Đài cùng cộng sự và Lê Thu Hà sang Đức vào tháng 6 và gần đây hơn là Mẹ Nấm sang Mỹ trong tháng 10. Một phần là để giảm áp lực quốc tế. Mặt khác là chuẩn bị cho tiến trình hội nhập sau khi CPTPP có hiệu lực và thúc đẩy suôn sẻ việc phê chuẩn Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam Châu Âu (EVFTA).

CPTPP sẽ chính thức bắt đầu và có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 sau khi được Quốc hội Úc thông qua vào ngày 31/10/2018. Úc là quốc gia thành viên thứ sáu phê chuẩn sau Mexico, Nhật, Singapore, Tân Tây Lan và Canada. Sau khi Tổng thống Trump quyết định rút Mỹ ra khỏi TPP, Hiệp định này chết đi rồi sống lại khi 11 nước còn lại ký kết Hiệp định với cái tên mới là CPTPP vào ngày 8/3/2018 tại Chile. Toàn bộ 600 điều khoản trong 30 chương được giữ lại trừ 22 điều khoản liên quan tới sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ do Mỹ đòi hỏi bị tạm thời đình chỉ chờ ngày Mỹ quay trở lại. Quy định phê chuẩn ghi nhận là CPTPP sẽ bắt đấu có hiệu lực trong 60 ngày, sau khi 6/11 thành viên phê chuẩn.

Đúng ra, CPTPP đã được ký kết trong Hội nghị APEC tại Đà Nẵng vào tháng 11 năm 2017. Nhưng giờ chót Canada đổi ý. Theo lời của Jason Clair, Bộ trưởng Giao thương đối lập của Úc, lý do là vì Việt Nam muốn thương lương lại các điều khoản liên quan tới quyền lao động. Sau đó, các nhà đàm phán tương nhượng và cho Việt nam từ 3 tới 5 năm để thực thi các điều khoản liên quan tới quyền Lao động trong chương 19.

Trong ngày ký CPTPP, Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh đã trao đổi văn thư với ông Steve Ciobo, Bộ Trưởng Giao Thương, Du lịch và Đầu tư của Úc cũng như các bộ trưởng đồng cấp khác xác nhận điều kiện cho Việt Nam thời gian thực thi quyền lao động trong 5 năm. Trong thời gian này, Việt Nam phải tiến hành thực thi nhưng Úc và các đối tác cam kết là sẽ không áp dụng các biện pháp trừng phạt.

Vào ngày 17/10, Ủy ban Châu Âu cũng đã thông qua việc đệ trình Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư cho Hội đồng Châu Âu ký kết. Sau đó, EVFTA sẽ đi qua thủ tục phê chuẩn bởi Quốc hội liên Âu bao gồm dân biểu và nghị sĩ của 28 quốc gia thành viên.

Hiện nay, Việt Nam đang cố gắng thúc đẩy hoàn tất việc phê chuẩn đầu năm 2019 trước khi Quốc hội Châu Âu giải tán và bầu lại trong tháng 5 năm 2019. Sau khi phê chuẩn và có hiệu lực, EVFTA sẽ xóa bỏ 99% thuế quan cùng hàng loạt rào cản phi thuế quan khác. EVFTA cũng bảo đảm giao thương và đầu tư đi đôi với phát triển bền vững và đặt ra tiêu chuẩn cao về quyền lao động, bảo vệ môi trường và quyền lợi của người tiêu thụ.

Theo Daniela Sicurelli (The EU as a promoter of Human Rights in Bilateral Trade Agreements : the case of the negotiations with Vietnam 2015) thì từ năm 2000, chiến lược của Liên Âu là kèm theo các đểu khoản nhân quyền trong các Hiệp định Thương mại Tự do song phương. Hiệp ước Lisbon có hiệu lực vào năm 2009 yêu cầu Liên Âu đặt vấn đề nhân quyền trong giao thương. Chiến lược khung về Dân chủ và Nhân quyền (Strategic Framework on Human Rights and Democracy) chính thức được áp dụng từ ngày 25/6/2012 nhấn mạnh mục tiêu thúc đẩy nhân quyền trong mọi lãnh vực ngoại giao của Liên Âu.

Đàm phán EVFTA bắt đầu vào ngày 26/6/2012, tức chỉ một ngày sau khi Chiến lược khung về Dân chủ và Nhân quyền bắt đầu áp dụng. Nhiều tổ chức xã hội dân sự lần lượt nêu quan ngại với các vị dân biểu Châu Âu về tình trạng xâm phạm nhân quyền tại Việt nam đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và quyền lao động căn bản chẳng hạn như quyền tự do lập hội hoặc công đoàn.

Liên Âu có vị thế để thúc đẩy quyền con người tại Việt nam. Trước hết, Liên Âu là đối tác đầu tiên yêu cầu gắn kết quyền con người và quyền lao động quốc tế trong tiến trình đàm phán hiệp định thương mại song phương. Quan trọng hơn là Liên Âu có thể dựa vào sức mạnh thương lượng tập thể đại diện cho 28 quốc gia thành viên với hơn 700 triệu dân và có tổng GDP gần 19,000 tỷ Mỹ kim xấp xỉ tương đương với Mỹ. Kinh tế Việt Nam lệ thuộc khá nhiều vào Châu Âu là thị trường xuất cảng thứ nhì chỉ sau Trung Quốc.

Tuy vậy, Liên Âu lại theo đuổi một chính sách không rõ ràng về vấn đề nhân quyền đối với Việt Nam. Ví dụ như Liên Âu đòi hỏi điều khoản đình chỉ hiệp định trong trường hợp xâm phạm nhân quyền nhưng không nói rõ là quyền hạn và trách nhiệm giao thương cũng sẽ bị đình chỉ. Thứ hai, EU kêu gọi đối tác thực thi các Công ước Lao động quốc tế (ILO) nhưng chỉ khi nào các tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với hoàn cảnh nội địa. Thứ ba, trong chương phát triển bền vững của EVFTA có đề cập tới quyền lao động nhưng không nhấn mạnh về quyền con người liên quan tới lãnh vực lao động ví dụ như quyền tự do lập hội hoặc tự do hội họp.

Nguyên nhân chính là vì trách nhiệm đàm phán thương mại thuộc về Ủy hội Châu Âu (European Commission). Trong khi đó, các vấn đề nhân quyền thì thuộc lãnh vực của Cơ quan Đối ngoại Châu Âu (European External Service Action Services). Cánh tay phải không biết cánh tay trái làm gì. Doanh nghiệp và các nhóm lợi ích vận động và có nhiều ảnh hưởng đối với Ủy hội là cơ chế đàm phán trực tiếp với Việt Nam. Trong khi đó, các tổ chức nhân quyền và xã hội dân sự phải đi qua Cơ quan đối ngoại và nêu ra quan ngại sau khi các điều khoản đã được thương thảo.

Nhưng nỗ lực vận động của các tổ chức và nhà hoạt động nhân quyền không phải là không có hiệu quả. Vào ngày 17/9/2018, 32 Dân biểu Quốc hội Châu Âu đã ký tên chung một lá thư gửi đến bà Cecilia Malmstrom, Cao Ủy Giao Thương, ghi rõ là, nếu tình trạng nhân quyền Việt Nam không được cải thiện thì EVFTA khó có cơ hội được Quốc hội Châu Âu phê chuẩn.

Bức thư nhấn mạnh, Việt nam nên thực thi một số việc cụ thể gồm có hủy bỏ các điều luật hình sự mơ hồ ví dụ như "gây chia rẽ giữa các tầng lớn nhân dân, phá hoại chính sách đoàn lết quốc tế, phát tán thông tin có nội dung phỉ báng chính quyền nhân dân, hoặc lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước".

Thứ hai, Việt Nam cần phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm gồm có Hòa thượng Thích Quảng Độ, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thị Nga, Hoàng Đức Bình và các thành viên của Hội Anh Em Dân chủ như Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển…

Thứ ba là sửa đổi Luật Tín ngưỡng và Luật an ninh mạng cho phù hợp với luật quốc tế nhân quyền mà Việt Nam cam kết khi tham gia Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị.

Thứ tư là phê chuẩn Công ước 87, 98 và 105 của Tổ chức Lao động Quốc tế liên quan tới tự do thành lập nghiệp đoàn, quyền thương lượng tập thể và xóa bỏ lạo động cưỡng bức. Phần lớn nội dung của lá thư ngỏ này đã được Quốc hội Châu Âu xác nhận qua Nghị quyết 2018/2925 vào ngày 15/11/2018.

Trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 23/3/2018, ông Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam cho biết là các hiệp định thương mại tự do gồm có CPTPP đòi hỏi các nước tham gia phải thực thi 8 công ước căn bản của Tổ chức Lao động quốc tế ILO gồm có tự do liên kết thành lập nghiệp đoàn và công nhận quyền thương lượng tập thể (Công ước 87 và 980), loại bỏ tất cả mọi hình thức lao động cưỡng bức (Công ước 29 và 105), xóa bỏ lao động trẻ em (Công ước và 182) và xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước 100 và 101). Tuy nhiên cho đến bây giờ, Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn 3 công ước căn bản là Công ước 87, 98 và 105 liên quan đến tự do thành lập nghiệp đoàn, thương lượng tập thể và xóa bỏ lao động cưỡng bức.

Ông Lee cho biết Chương 19 của CPTPP về Lao động dựa trên tuyên bố năm 1998 của ILO. Từ năm 1990 thì tại Việt Nam đã có hơn 6,000 cuộc đình công mà tất cả đều là tự phát không do công đoàn nhà nước khởi xướng. Đây là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy công nhân không được công đoàn nhà nước quan tâm tới quyền lợi của họ.

Tại Việt Nam lại có trường hợp nghịch lý và không thể chấp nhận được ở mọi nơi khác trên thế giới là lãnh đạo công đoàn cũng là quản lý cấp cao của doanh nghiệp. Có nghĩa là vừa đá bóng vừa thổi còi. Theo Nhà báo Phạm Chí Dũng, tổ chức công đoàn nhà nước được các công ty trả 2% quỹ lương. Có nghĩa là công đoàn lãnh lương như công nhân. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên là công đoàn nhà nước không có động lực tranh đấu bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

Ông Lee cũng đề nghị, Việt Nam nên xem đây là một cơ hội để hiện đại hóa luật lao động nhằm bảo vệ cho quyền lợi của chính công nhân và công dân của mình. Chẳng những thế, cải cách luật lao động cũng như hệ thống luật pháp nói chung là một điều kiện tiên quyết nếu Việt Nam muốn bước lên con tàu cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên nền tảng tăng trưởng năng suất và chia sẻ lợi ích kinh tế một cách công bằng giữa người lao động và giới chủ nhân.

Theo Trần Văn Hưng (Trường Đại học Tài chính – Marketing), hầu hết công nhân Việt Nam trong các khu vực công nghiệp có trình độ học vấn thấp, chỉ tốt nghiệp tới lớp 9. Đa số không có đủ kiến thức đúng đắn về luật lao động nên dễ bị bóc lột, chèn ép. Vì vậy, họ cũng có khuynh hướng phản đối bằng cách biểu tình tự phát dẫn đến nguy cơ là không những không đòi hỏi được quyền lợi chính đáng cho mình, mà còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nhân.

Ông Hưng cũng cho biết, nhà nước cần thực hiện một số giải pháp gồm có hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để bảo đảm những quyền lao động căn bản theo tuyên bố ILO, bao gồm xây dựng cơ chế trung gian, hòa giải, trọng tài và xét xử các vụ tranh chấp lao động. Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về việc thành lập công đoàn có tư cách pháp nhân có thể đại diện cho công nhân thương lượng tập thể với chủ nhân. Thứ ba, cung cấp thông tin rộng rãi đến quần chúng về luật lao động, gồm có luật và tiêu chuẩn lao động quốc tế ILO.

Vào ngày 2/11, ông Nguyễn Phú Trọng, tân Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam trình bày nghị trình Quốc hội khóa 6 và yêu cầu Quốc hội sớm thông qua CPTPP. Trong cùng ngày, bà Trương Thị Mai Trưởng ban Dân vận Trung ương phát biểu rằng, khi Việt Nam tham gia hiệp định CPTPP thì "phải chấp nhận không còn duy nhất một tổ chức công đoàn. Người lao động tham gia công đoàn hay tổ chức ngoài công đoàn đều được hưởng quyền bình đẳng như nhau".

Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng cho biết, trong quá trình đàm phán tham gia hiệp định CPTPP, điều kiện cho phép công đoàn độc lập đã được Bộ Chính trị thông qua nhưng việc liên kết giữa các công đoàn thì sẽ có "quy định về việc đăng ký thành lập và phải đáp ứng các tiêu chí".

Vào ngày 12/11/2018, Việt Nam trở thành quốc gia thứ 7 phê chuẩn CPTPP với 100% đại biểu Quốc hội hiện diện biểu quyết thông qua. GDP ước lượng sẽ tăng thêm 1.3% sau khi CPTPP chính thức có hiệu lực tại Việt Nam vào ngày 14/1/2019.

Trước diễn tiến mới này, có người kỳ vọng là xã hội dân sự sẽ sớm ra đời và "một tiến trình dân chủ đã hình thành ở Việt Nam". Họ lập luận rằng, tự do thành lập nghiệp đoàn sẽ tất yếu dẫn đến quyền tự do lập hội và hội họp cũng như các quyền con người căn bản khác. Người khác thì không lạc quan như vậy, vì họ cho rằng người dân đã bị Đảng lừa gạt quá nhiều và không loại bỏ tình huống là nhà nước sẽ cho thành lập công đoàn độc lập "cuội" để qua mắt cả thế giới.

Đại biểu Bùi Văn Cường, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, sẽ có ít nhất 3 dạng công đoàn độc lập có thể hình thành. Thứ nhất là tổ chức do chính công nhân tự nguyện thành lập và điều này thì không có gì. Thứ hai là do chủ nhân dựng ra để thao túng và chi phối. Thứ ba và nguy hiểm nhất là, các ‘’phần tử phản động núp bóng’’ để thực hiện ý đồ chính trị.

Thật ra, con đường xã hội dân sự và dân chủ hóa tại Việt Nam vẫn còn rất dài. Đa số các đối tác CPTPP như Úc, Canada và Tân Tây Lan đã có một hệ thống và cơ chế pháp lý tương đối hoàn thiện về luật lao động và ILO. Việt Nam bây giờ mới đi học và có tới 5 năm để trả bài.

Vào ngày 9/11/2018. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và Tổ chức Lao động quốc tế ILO tổ chức lễ ký kết và ra mắt dự án "Thúc đẩy xây dựng khung khổ quan hệ lao động mới, bảo đảm tôn trọng tuyên bố ILO’’. Dự án này trị giá 4.3 triệu và do Bộ Lao động Mỹ và Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật cùng tài trợ dưới hình thức viện trợ không hoàn lại. Có nghĩa là thế giới tự do sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào cộng đồng quốc tế văn minh và phồn thịnh để cải thiện đời sống của người lao động, công nhân và công dân Việt Nam. Vấn đề là Đảng cộng sản Việt Nam có vượt qua được bản chất gian trá để thật sự thực thi cam kết lao động trong Chương 19 của CPTPP hay không ?

Người Việt hải ngoại có thể làm được gì ?

Thứ nhất là vận động với chính quyền sở tại là thành viên đối tác của CPTPP như Úc, Tân Tây Lan, Canada đặt áp lực và giám sát chặt chẽ tiến trình thực thi của Việt Nam chẳng hạn như yêu cầu Bộ Ngoại Giao cung cấp báo cáo thường niên về diễn tiến thực thi cũng như những trường hợp vi phạm quyền lao động dưới Chương 19.

Thứ hai là kết nối và vận động với Tổng Liên đoàn Lao động Quốc gia, ví dụ như tổ chức ACTU tại Úc để thực thi báo cáo các trường hợp vi phạm của Việt Nam hầu bảo đảm cạnh tranh công bằng và công nhân Úc không bị thiệt thòi. ACTU cũng có thể giúp huấn luyện đoàn viên cung cấp kiến thức và kỹ năng thành lập và điều hành công đoàn một cách hiệu quả.

Thứ ba, yểm trợ các dự án hoặc công tác thành lập công đoàn độc lập trong nước. Trong thời gian qua, một vài nhà hoạt động lao động nhắm tới bảo vệ quyền lợi công nhân như Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng đã phải trả một cái giá rất đắt. Hầu hết họ đều trải qua các bản án tù khắc nghiệt. Nhưng sự hy sinh của họ đã đóng góp một phần đáng kể trong công cuộc đấu tranh cho giai cấp công nhân tại Việt Nam.

Dĩ nhiên quyền lao động chỉ là một khía cạnh của quyền con người. So với quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo thì quyền lao động gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân nên có nhiều hy vọng là chính những người lao động sẽ tranh đấu hết mình cho quyền lợi thiết thực của họ. Trong hoàn cảnh hiện nay, cán cân vẫn nghiêng về giai cấp thống trị qua cơ quan ngoại vi của Đảng cộng sản Việt Nam là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Cần phải có một thời gian để nghiệp đoàn tư nhân có thể hình thành và phát triển cạnh tranh với công đoàn quốc doanh.

Có điều đáng lưu ý là khi người Việt hải ngoại tại Canada, Úc và Tân Tây Lan góp phần tranh đấu cho quyền lao động tại Việt Nam thì họ cũng đang đấu tranh bảo vệ quyền lợi của chính mình vì nếu Việt Nam không thực thi tiêu chuẩn lao động ILO thì sẽ tạo ra tình trạng cạnh tranh không công bằng, có thể gây thiệt hại kinh tế và dẫn đến nạn thất nghiệp. Do đó, ý nghĩa của việc làm này không chỉ là để biểu lộ tinh thần nước ngoài giúp đỡ đồng bào trong nước, mà còn bày tỏ thái độ trách nhiệm đối với đời sống kinh tế của chính bản thân và gia đình của người Việt tại hải ngoại.

Luật sư Nguyễn Văn Thân

Nguồn : Tiếng Dân, 13/01/2019

Published in Diễn đàn

Vào đầu tháng 10 năm 2017, ông Nguyễn Trung Cựu Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan và Đức đã công bố một bản "kiến nghị tâm huyết" kèm theo 4 Phụ lục kêu gọi Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành một cuộc cải cách chính trị toàn diện mà theo đó, Đảng cộng sản Việt Nam sẽ đổi tên và lấy lại tên cũ là Đảng Lao Động Việt Nam, chuyển hóa thành một đảng của dân tộc, thực thi thể chế đa đảng, đa nguyên với tam quyền phân lập và góp phần xây dựng đất nước theo mô hình của các quốc gia dân chủ, tiến bộ trên thế giới dựa trên 3 trụ cột là kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.

lotrinh1

Hiến pháp và các bộ luật liên quan cần được thiết kế sao cho bảo đảm nghiêm túc yêu cầu : thực hiện đa nguyên, nhưng bảo đảm không quá ba đảng tham chính trong tranh cử và bầu cử

Nội dung của kiến nghị này thật ra không có gì mới mẻ nhưng đây có lẽ là lần đầu tiên kiến nghị xuất phát từ một đảng viên cộng sản có hơn 50 tuổi Đảng và đã từng là cộng tác viên của Ban Nghiên cứu của Thủ tướng chính phủ Việt Nam thời ông Phan Văn Khải. Bản kiến nghị được đúc kết một cách khoa học và có hệ thống trước thềm Hội nghị trung ương 6 mà nghị trình gồm có tập trung thảo luận các vấn đề cấp bách và nhạy cảm gồm có sắp đặt lại hệ thống chính trị và các bộ nghành.

Lập tức đã có một vài bài viết nặc danh (hoặc núp dưới bút hiệu) ví dụ như các bài của Gió làng, Thành Vinh, Công Lý, Vọng Đức… phổ biến trên các tờ báo trong nước do Đảng kiểm soát sặc mùi đấu tố, chụp mũ, đả kích và tấn công cá nhân ông Nguyễn Trung. Các bài viết này thật ra thật ra chỉ giúp khẳng định bản chất côn đồ của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Bất cứ những lời đóng góp ý kiến hoặc kiến nghị chân thành nào liên quan đến việc xây dựng và phát triển đất nước của giới trí thức hoặc đảng viên phản tỉnh đều bị gắn cho cái mũ là "phản động" hoặc là của "thế lực thù địch".

Trong bản kiến nghị, ông Nguyễn Trung kêu gọi đích danh Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ra quyết định tiến hành một cuộc cải cách toàn diện dựa vào mô hình thể chế chính trị của Singapore, Nhật và Hàn Quốc. Ông cũng đề nghị thành lập một nhóm đảng viên gồm có Bùi Quang Vinh (cựu Bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư), Vũ Đức Đam (Phó Thủ tướng) và Phạm Bình Minh (Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao và Ủy viên Bộ chính trị) giúp soạn thảo lộ trình cải cách đa đảng. Nguyễn Trung cũng cho rằng tại Việt Nam thì "hợp lý nhất chỉ nên hình hành thêm hai đảng tham chính mới như đã từng có trong thời đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – đó là Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội… Nếu có nhiều đảng nữa sẽ rối và không cần thiết… Hiến pháp và các bộ luật liên quan cần được thiết kế sao cho bảo đảm nghiêm túc yêu cầu : thực hiện đa nguyên, nhưng bảo đảm không quá ba đảng tham chính trong tranh cử và bầu cử".

Tới đây thì kiến nghị của ông Nguyễn Trung đánh mất tính khoa học. Không biết ông dựa vào dữ kiện lịch sử hoặc thực tế hoặc lập luận khoa nào để cho con số "3" một vị trí đặc biệt như vậy ? Tại Anh Quốc, có 16 chính đảng đăng ký chính thức và đưa đảng viên ra tranh cử. Chỉ có 6 đảng là có đảng viên đắc cử dân biểu hoặc nghị sĩ hiện diện tại Quốc hội. Nhưng tất cả 16 đảng đều có đảng viên trúng cử là nghị viên Hội đồng Thành phố đại diện cho đảng tại chính quyền địa phương. 16 đảng này được chia thành 7 loại là hữu, tả, trung, trung hữu, trung tả, cực hữu và cực tả.

Tương tự như vậy, tại Pháp có hơn 20 chính đảng hoạt động trên toàn quốc và chưa kể đến hàng chục đảng nhỏ sinh hoạt tại địa phương. Tại Đức cũng vậy. Có 14 chính đảng có mặt trong Quốc hội. Không có ai cho rằng hệ thống chính trị của Anh, Pháp và Đức là "rối" cả.

Tại Mỹ, tuy cũng có một vài đảng nhỏ khác như Đảng Xanh, Đảng Tự Do (Libertarian Party), và Đảng Hiến Pháp (Constitution Party) nhưng quyền lực chính trị căn bản nằm trong tay của hai đảng lớn là Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa. Từ 1949 đến nay, chỉ có 6 dân biểu độc lập đắc cử vào Quốc hội. Tất cả đều là đảng viên của Đảng Dân Chủ hoặc Cộng Hòa. Không có cơ sở gì để kết luận rằng độc quyền lưỡng đảng hoặc tam đảng sẽ dân chủ hơn hoặc tốt hơn khi so với hệ thống nhiều đảng tại Châu Âu.

Tại Singapore, một trong 3 mô hình mà ông Nguyễn Trung đề cập tới thì tuy chỉ có hai đảng thắng ghế Quốc hội nhưng cũng có có tới 9 đảng đưa ứng viên ra tranh cử. Tại Nhật thì có 11 đảng phái hiện diện hoặc có tiếng nói trong Quốc hội. Trong Quốc hội Hàn Quốc có dân biểu của 7 đảng phái và 2 dân biểu độc lập. Tóm lại, lập luận ấn định trước là chỉ cần có 3 chính đảng trong một thể chế Việt Nam dân chủ của ông Nguyễn Trung là một đề nghị không có cơ sở khoa học nếu không muốn nói là phản lại tinh thần dân chủ đa nguyên mà ông kêu gọi thực thi.

Nhưng có lẽ khiếm khuyết lớn nhất là ông đặt quá nhiều kỳ vọng vào Đảng cộng sản Việt Nam và cá nhân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không có một đảng phái chính trị hoặc thế lực hoặc nhóm lợi ích nào nào tự động từ bỏ quyền lợi đặc quyền hoặc độc quyền sẵn có. Nhất là với ông Nguyễn Phú Trọng thì đó là một chuyện không có thực tế. Vào tháng 2 năm 2013, truyền hình Việt Nam chiếu cảnh ông Trọng phát biểu cho rằng người nào muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập hoặc phi chính trị hóa quân đội là "suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống". Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên lên tiếng phản đối thì bị đuổi việc ngay. Vào tháng 11 năm 2016, ông Trọng trong chuyến viếng thăm Phật Tích, Bắc Ninh nói rằng "Mặc dù bây giờ ra đường lắm chuyện khó chịu, nghe báo chí nói rất nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày, rất là bực mình. Tệ nạn tham nhũng, cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không ?" Rõ ràng là trong cương vị Tổng bí thư, bảo vệ quyền độc tôn cai trị của Đảng là ưu tiên chính của ông Trọng. Quyền lợi chung của đất nước là chuyện phụ. Cả đời ông chỉ biết học và u mê với lý thuyết Mác – Lênin thứ mà nơi sinh ra nó người đã vứt vào thùng rác.

Trông chờ vào ông Trọng hoặc bất cứ một lãnh tụ cộng sản nào tự lột xác trở thành một nhà yêu nước chân chính tiến hành công cuộc dân chủ hóa để phát triển đất nước là một điều không có thực tế. Vậy thì lộ trình dân chủ cho Việt Nam sẽ diễn ra thế nào ? Trong vài thập niên qua, nhân loại đã chứng kiến một vài sự kiện lịch sử đánh dấu sự chuyển đổi từ độc tài hoặc cộng sản đến dân chủ chẳng hạn như sự sup đổ của bức tường Bá Linh, cuộc Cách Mạng Nhung tại Đông Âu, mùa xuân Ả rập và gần đây nhất là trường hợp của Miến điện. Hai nhà nghiên cứu của Hội đồng Quan hệ ngoại giao (Council on Foreign Relations) Isobel Coleman và Terra Lawson-Remer đã rút ra một vài bài học quan trọng như sau :

1. Tận dụng cơ hội từ một cuộc khủng hoảng kinh tế

Một số người cho rằng phát triển kinh tế sẽ dẫn đến đòi hỏi dân chủ. Đa số các quốc gia dân chủ tương đối giàu có so với các nước độc tài hoặc cộng sản. Nhưng cũng có một vài nước chẳng hạn như Trung Quốc và Saudi Arabia có tỷ lệ tăng trưởng cao trong vài thập niên qua nhưng dân chủ hoặc tự do chính trị không phát triển tới đâu. Các cuộc nghiên cứu đều đưa đến nhận định là không phải tăng trưởng mà là khủng hoảng kinh tế mới dẫn đến sự thay đổi chế độ. Trong những năm qua, sự sụp đổ của các chế độ độc tài đều bắt đầu từ các cuộc khủng hoảng kinh tế hoặc tài chánh vượt quá vòng kiểm soát của chế độ cầm quyền.

Một ví dụ cụ thể là Nam Dương. Cuộc khủng hoảng tài chánh Châu Á 1997 dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Suharto. Nhờ vào những bước cải cách dân chủ mà Nam Dương đang trên đà phát triển ngoạn mục. Từ GDP mỗi đầu người khoảng 1.000 Mỹ kim vào năm 1997 đã tăng gấp đôi đến gần 2.000 Mỹ kim vào năm 2007 và nay gấp bốn lần tới 4.000 Mỹ kim vào năm 2017.

Chính quyền quân phiệt tại Brazil và Mexico ra đi trong thập niên 80 sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và nhường chỗ cho một nhà nước dân chủ. Vào năm 2010, mùa xuân Ả rập xuất phát tại Tunisia khi một người đàn ông bán trái cây đốt lửa tự thiêu để phản đối việc bị cấm bán hàng trên đường phố. Gần đây nhất là tại Miến điện. Cơn bão Nargis vào năm 2008 cướp đi sinh mạng của hơn 130.000 người dân Miến và gây thiệt hại hơn 10 tỷ Mỹ kim. Aung San Suu Kyi được trả tự do vào năm 2010 và Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ tham gia vào cuộc bầu cử bổ túc trong tháng 4 năm 2012. Trong cuộc tổng tuyển cử vào năm 2015, đảng của bà Suu Kyi đã thắng cử vẻ vang và thành lập chính quyền mở ra một trang sử mới cho dân tộc Miến.

2. Bầu cử : từ giả đến thiệt

Kết quả nghiên cứu cho thấy là các cuộc bầu cử ngay cả giả tạo có tác động tốt đến tiến trình dân chủ. Chế độ độc tài thường hay tổ chức bầu cử dỏm để chứng minh rằng ta đây cũng dân chủ ra phết. Chắc chắn là các cuộc bầu cử dỏm này sẽ bị các nhà quan sát và cộng đồng quốc tế lên án. Dần dần cử tri sẽ ngộ ra và đòi hỏi bầu cử phải thật và công bằng.

Một ví dụ là Mexico. Trong thập niên 70, đảng Cách mạng Thế chế (Institutional Revolutionary Party) cai trị Mexico hơn 70 năm (1929 – 2000) tổ chức bầu cử với mục đích là cho đảng đối lập thắng được một vài ghế cho có vẻ dân chủ. Nhưng khi kinh tế bị khủng hoảng thì dưới áp lực của dân chúng chế độ bắt buộc phải cải cách và tổ chức cuộc bầu cử kế tiếp công bằng và minh bạch hơn. Tương tự như vậy tại Brazil, chế độ quân phiệt tổ chức bầu cử gian lận và cho rằng sẽ thắng dễ dàng. Nhưng sự sụp đổ kinh tế làm cử tri tức giận và dồn phiếu cho đối lập.

Tại Miến điện, Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ tẩy chay hàng loạt các cuộc bầu cử gian lận do chính quyền quân phiệt tổ chức trong thập niên 90. Nhưng khi quyết định tham gia thì lại thắng vẻ vang. Có thể nói, dân chủ giả làm người dân thèm dân chủ thiệt. Hiến pháp 2008 ban đặc ân cho quân độ được nắm 1/4 số ghế Quốc hội. Dĩ nhiên là điều này phi lý và không công bằng nhưng nó cũng là điều kiện cho quân đội tự tin tiến hành cải cách vì họ có một phần trách nhiệm và quyền lợi. Tóm lại, đừng để cái hoàn hảo đánh mất đi cái tốt hơn trong giai đoạn đầu của sự chuyển hóa.

3- Ủng hộ quần chúng biểu tình ôn hòa

Các cuộc cách mạng bạo động thường không dẫn đến chuyển hóa dân chủ. Lịch sử chứa đầy ví dụ của các cuộc đảo chánh để rồi chỉ thay thế một chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác. Nhưng các cuộc biểu tình ôn hòa là một hình thức đấu tranh thành công nhất. Nó nói lên ý nguyện thật sự của người dân và thể hiện đúng bản chất của dân chủ đó là chính người dân phải bắt tay vào cuộc làm chủ đời sống của họ bằng cách đòi hỏi một thể chế đáp ứng đúng nguyện vọng và nhu cầu của cử tri. Phong trào Công đoàn Đoàn kết là một ví dụ nổi bật khi thành viên của phong trào lên tới 25% dân số Ba lan thời đó. Phong trào chống apartheid tại Nam Phi là một trường hợp tương tự. Tổ chức National African Congress được đông đảo quần chúng ủng hộ dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela. Phong trào dân chủ tại Nam Dương và Ukraine cũng có những nét tương tự.

Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng nhất là xây dựng ý thức và văn hóa dân chủ sâu rộng trong xã hội và gia đình. Truyền thông và giới trí thức có trách nhiệm chuyển tải và cung cấp thông tin, kiến thức cũng như lập luật có cơ sở khoa học để xây dựng nền móng cho văn hóa và ý thức dân chủ. Kẻ thù lớn nhất của phong trào dân chủ là thái độ thờ ơ, vô cảm của quần chúng.

4. Mô hình dân chủ nào cho Việt Nam

Một số người cho rằng hãy lật đổ chế độ cộng sản trước rồi mới bàn về mô hình dân chủ sau. Lập luận này không có tính thuyết phục nếu không muốn nói là nguy hiểm. Người dân có quyền được biết là mô hình dân chủ nào sẽ thay thế chế độ độc tài toàn trị để đặt niềm tin và ủng hộ thể chế mới. Do đó, vấn đề tuy hai mà một. Trong ba mô hình mà ông Nguyễn Trung đưa ra thì Nhật và Singapore căn bản là thuộc hệ thống đại nghị trong khi Hàn Quốc theo tổng thống chế. Hai nền Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) phỏng theo mô hình tổng thổng chế trong giai đoạn phôi thai có nhiều mặt hạn chế trong hoàn cảnh chiến tranh. Hàn Quốc cũng theo mô hình tổng thống chế. Các vị tổng thống gồm có trường hợp gần đây nhất là Phác Cận Huệ trong hoặc sau khi mãn nhiệm đều dính líu tới các vụ bê bối tham nhũng hoặc lạm dụng quyền lực liên quan tới người thân. Còn nhìn vào Tổng thống Duterte của Phi Luật Tân thì đã thấy chán ngấy rồi. Liệu mô hình tổng thống chế có phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hay không ?

Bất cứ một lộ trình dân chủ nào cũng nên bắt đầu bằng việc trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm vì đó là nền tảng cho một cuộc đối thoại dân tộc. Tiếp theo là ban hành luật cho phép mọi đảng phái hoạt động và tham gia tranh cử vào Quốc hội. Dưới mô hình đại nghị, đảng hoặc liên minh chiếm đa số ghế tại Quốc hội sẽ thành lập chính quyền. Nhóm thiểu số đóng vai đối lập, giám sát và cạnh tranh quyền bính với Đảng cầm quyền. Tùy theo thể thức đầu phiếu, thông thường thì chỉ có các đảng có sự ủng hộ của số lượng cử tri đáng kể mới có cơ hội thắng ghế vào Quốc hội. Tự điều này cũng là một hình thức sàng lọc những đảng li ti làm phân tán Quốc hội là điều mà có lẽ ông Nguyễn Trung lo ngại.

Phong trào dân chủ tại Châu Á có vẻ như đang trên đà suy thoái. Chính quyền quân phiệt vẫn cai trị tại thái Lan. Duterte hành xử như một tên đồ tể tại Phi Luật Tân. Tại Cam Bốt, Hunsen vừa giải thể Đảng Đối Lập để "tranh cử một mình". Tóm lại, ông Nguyễn Trung đã có công đáng kể khi đưa ra vấn đề một cách nghiêm túc. Bước kế tiếp là trách nhiệm của tất cả mọi người nhưng đặc biệt là của giới trí thức ở trong và ngoài nước cùng góp phần tham gia vào cuộc thảo luận để đạt được đồng thuận căn bản nào đó về lộ trình và mô hinh dân chủ cho Việt Nam.

Theo báo cáo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ thì nợ công Việt Nam đã lên tới 62,6% GDP và 25% GDP được dùng để trả nợ. Nếu tiếp tục tăng theo tốc độ 5% hàng năm như hiện nay thì không bao lâu sẽ vượt qua mức trần 65% GDP. Nếu chế độ cộng sản Việt Nam bất ngờ tan rã vì vỡ nợ thì phong trào dân chủ đã sẵn sàng có mô hình thay thế hay chưa ? Do đó, việc mà mọi người có thể làm được ngay là bắt tay vào một cuộc thảo luận về lộ trình và mô hình dân chủ cho Việt Nam ngay từ bây giờ.

Luật sư Nguyễn Văn Thân

Nguồn : Tiếng Dân, 28/01/2018

Published in Diễn đàn