Chuyện hồi đầu năm nay, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền "không nghe, không thấy" và "không làm gì cả", bỏ thí hàng chục ngàn gia đình nông dân ở Long An, Tiền Giang từng dốc tất cả mọi thứ họ có...
Nông dân tập trung tại Hà Nội để phản đối nạn tịch thu đất đai bừa bãi. Những vụ tranh chấp đất đai với chính quyền địa phương là một vấn đề ngày càng trở nên căng thẳng ở Việt Nam. Hình minh họa.
Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn (Nông nghiệp và phát triển nông thôn) vừa công bố thêm một số dữ liệu tích cực liên quan đến nông sản, chẳng hạn : Tháng này, xuất cảng rau trái của Việt Nam thu về khoảng 340 triệu Mỹ kim, tăng khoảng 31% so với cùng kỳ năm ngoái. Trước đó, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn loan báo đã phê duyệt "Quyết định phát triển cây ăn trái chủ lực đến năm 2025 và 2030". Theo quyết định này, Việt Nam sẽ tập trung phát triển 14 loại cây ăn trái có kim ngạch xuất cảng cao (thanh long, xoài, chuối, vải, nhãn, cam, bưởi, dứa - khóm, chôm chôm, sầu riêng, mít, chanh dây, bơ và mãng cầu - na)[1].
Những dữ liệu như vừa đề cập dễ tạo cảm giác lạc quan về tương lai dường như sẽ tươi sáng của nông nghiệp – nông dân – nông thôn song nếu để ý kỹ hơn thì những dữ liệu dường như nhuốm hồng ấy không đủ để che khoảng tối do nhiều dữ liệu khác tạo ra : Trong 11 tháng vừa qua. Việt Nam – quốc gia đã chi vài trăm ngàn tỉ cho chính sách tam nông (hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn cùng phát triển) và đang còn chi nhiều hơn nữa – chi 1,87 tỉ Mỹ kim để nhập cảng rau trái của Mỹ, Úc, Trung Quốc… So với cùng kỳ năm ngoái, năm nay, nhập cảng rau trái từ Mỹ tăng 13,6%, từ Úc tăng 17%, và riêng từ Trung Quốc tăng 83%.
Khi trò chuyện với tờ Tiền Phong, ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, giải thích, sở dĩ nhập cảng rau trái từ Trung Quốc tăng đến mức gây ấn tượng sâu đậm như vậy là vì : "Điều kiện thông quan vào nước ta dễ dàng. Đặc biệt, nhờ giá rẻ và chất lượng có sự cải thiện, các loại trái cây như lựu, nho, lê, táo…hay rau củ như cà rốt, hành tây, hành, tỏi… của Trung Quốc đang được bày bán nhiều trên thị trường" [2]. Chúc mừng nông dân Trung Quốc vì sự nghiệp của họ ổn định hơn nông dân Việt Nam, không phải vừa trồng vừa hồi hộp không rõ xuất cảng có bị nghẽn hay không và tất nhiên không phải vừa gạt nước mắt, vừa thi nhau đổ bỏ rau trái vì nông sản đột nhiên bị chặn đường sang Trung Quốc[3] !
Thỉnh thoảng, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam lại bày tỏ sự sung sướng như hóa rồ khi qua cuộc khảo sát này, chỗ xếp hạng kia xác nhận "chỉ số hạnh phúc" ở Việt Nam nằm trong nhóm "dẫn đầu thế giới", tuy nhiên đó không phải là chuyện để bàn vào lúc này. Nếu nhìn "hạnh phúc" ở góc độ nông dân - nông sản không mất giá, đầu ra không chỉ ổn định mà còn tăng không ngừng – thì nông dân Campuchia cũng "hạnh phúc" hơn nông dân Việt Nam. Những dữ liệu thống kê mới nhất do Hải quan Việt Nam công bố cho thấy, năm nay, Việt Nam đã chi cả tỉ Mỹ kim để nhập cảng nông sản Campuchia (gạo bắp, tiêu điều, khoai mì, cao su...)[4].
Khi nhập cảng nông sản vừa nhiều, vừa đa dạng như thế thì nông dân Việt Nam làm gì sau vài thập niên thực hiện "chính sách tam nông" ? Cứ nhìn vào thực tế ắt sẽ thấy nông dân Việt Nam có nhiều lựa chọn : Ly nông, ly hương để làm công nhân hoặc bán ruộng, bán vườn để đi làm thuê ở ngoại quốc. Từ xưa đến nay, dưới gầm trời này, có lẽ Việt Nam là quốc gia duy nhất vừa liên tục chi hết chục ngàn tỉ này đến chục ngàn tỉ khác để thực hiện "chính sách tam nông", hoàn tất mục tiêu "xây dựng nông thôn mới", vừa khẳng định "xuất khẩu lao động" – đưa nông dân và con cháu đi làm thuê ở nước ngoài là phương thức đúng đắn, hiệu quả để "góp phần phát triển kinh tế, xã hội địa phương" !
***
Các viên chức hữu trách trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang huyên thuyên về triển vọng xuất cảng nông sản bởi đã tìm ra con đường "xuất khẩu chính ngạch vào những thị trường khó tính" và "dư địa" cho rau trái Việt Nam còn rất lớn nếu làm thế này, đạt yêu cầu kia(5). Cứ lấy từng loại trái cây trong danh sách 14 loại cây ăn trái được xác định là có "kim ngạch xuất cảng cao" trong "Quyết định phát triển cây ăn trái chủ lực đến năm 2025 và 2030" mà Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công bố tháng trước rồi gõ vào Google kèm thêm hai chữ "đổ bỏ" hoặc "mất giá", tự nhiên sẽ thấy kết quả tổng hợp về chuyện nông dân khốn khổ, khốn nạn thế nào khi từng thi nhau trồng chúng !
Chuyện hồi đầu năm nay, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền "không nghe, không thấy" và "không làm gì cả", bỏ thí hàng chục ngàn gia đình nông dân ở Long An, Tiền Giang từng dốc tất cả mọi thứ họ có (sức lực, vốn liếng) vào 20 héc ta thanh long, cuối cùng thanh long "chín đỏ đồng" nhưng không bán được, phải cho bò ăn(6) hoàn toàn không mới ! Xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khiến "chính sách tam nông" và "nông sản" ửng hồng nhưng đã có bao giờ sắc thái đó trở thành màu chủ đạo cho nông nghiệp – nông dân – nông thôn ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 01/12/2022
Chú thích
(2) https://tienphong.vn/rau-qua-trung-quoc-my-o-at-vao-viet-nam-post1490707.tpo
(4) https://thesaigontimes.vn/trai-cay-chu-luc-cua-viet-nam-thi-truong-la-yeu-to-quyet-dinh/
Việt Nam ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RCEP tại hội nghị cấp cao ASEAN 37 ở Hà Nội hôm 15/11/2020.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tại Thượng đỉnh RCEP lần thứ 4 ở Hà Nội hôm 25/11/2020 - AFP
Việt Nam ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RCEP tại hội nghị cấp cao ASEAN 37 ở Hà Nội hôm 15/11/2020.
Đây là hiệp định giao thương tự do lớn nhất thế giới do Trung Quốc hậu thuẫn, bao gồm 10 quốc gia ASEAN cộng thêm Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Australia và New Zealand, với GDP toàn bộ 15 nước hơn 26 nghìn tỷ USD, chiếm gần 30% GDP toàn thế giới, chưa kể bao phủ 1/3 dân số toàn cầu.
Ngay khi đó Tiến sĩ Vũ Đình Ánh, chuyên gia về giá cả thị trường, đưa ra nhận định ban đầu:
"Việt Nam mở ra với RCEP mà người chơi chính ở đây là Trung Quốc.Chắc chắn khi tham gia một thị trường rất lớn sẽ giúp Việt Nam cân bằng kinh tế đối ngoại, giảm thiểu rủi ro vào khi độ mở kinh tế của Việt Nam đang quá lớn".
Vào ngày 24/2 vừa qua, trang mạng TheStar có bài thể hiện ý kiến các hiệp hội nông nghiệp trong nước, cho rằng RCEP là cơ hội quá tốt cho lúa gạo, hoa quả, rau trái… những mặt hàng nông sản xuất khẩu chính của Việt Nam.
Trang mạng TheStar trích dẫn lời ông Lê Duy Minh, Chủ tịch Hiệp Hội Canh Tác Việt Nam, rằng RCEP là động lực cho đất nước bước vào thị trường rộng lớn nhất thế giới, cũng là cơ hội để Việt Nam thăng tiến năng lực cạnh tranh.
Ông nói, với 29% GDP toàn cầu, bên cạnh 2,2 tỷ dân số tham gia, RCEP là viễn cảnh hứa hẹn của nông sản xuất khẩu Việt Nam do mức cầu nông sản lẫn thực phẩm chế biến từ nông sản ngày càng tăng cao phía các nước thành viên trong khối.
Những quốc gia này, theo ông Lê Duy Minh, có qui định và tiêu chuẩn xuất nhập khẩu giống nhau, chưa kể giá biểu thuế quan hạ, mở ra cơ hội buôn bán với Trung Quốc qua các lãnh vực mới về giao dịch, tài chính, cung ứng và thương mại điện tử.
Người thứ hai, ông Nguyễn Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Trái cây và Rau quả Việt Nam, được trang TheStar trích dẫn rằng RCEP sẽ làm tăng lượng nông sản xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc, vốn đã và đang là thị trường tầm cỡ của Việt Nam.
Ông nói RCEP sẽ giảm mức thuế đánh trên ít nhất 64 mặt hàng nông sản, và trong vòng 15 đến 20 năm tới, Việt Nam cũng sẽ xóa 89,6% giá biểu thuế quan, đổi lại, các nước lân bang trong RCEP giảm đến 92% thuế đối với nông sản nhập từ Việt Nam.
Vải thiều Bắc Giang được chất lên xe tải hôm 12/6/2020. Đây là một trong những mặt hàng nông sản được Việt Nam xuất sang Trung Quốc. Reuters
Người thứ ba, Tổng giám đốc công ty xuất nhập khẩu VinaT&T, ông Nguyễn Đình Tùng, tin rằng RCEP là cầu nối các nước liên quan đến nông sản xuất khẩu của mình.
Với doanh nhân này, phải nhìn RCEP như cơ hội để nông dân nâng cấp chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cung ứng, duy trì sức cạnh tranh. Đây là thách thức đáng kể không chỉ đối với thị trường bên ngoài mà cả thị trường nội địa.
Dưới mắt chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, nông dân Việt chưa học được gì từ RCEP như đã học được từ Hiệp định Tự do Thương mại với EU (EVFTA), vì thế không nên quá lạc quan về hiệp định thương mại mới ký này :
"Việt Nam hiện vẫn còn vướng "đèn vàng" với Châu Âu về đánh bắt thủy sản. Khi mà RCEP chưa phát huy được tác dụng, chưa chứng minh được gì nhiều thì chưa thể lường trước được kể cả những thuận lợi cũng như những khó khăn, đặc biệt đối với các thị trường không có gì là quá mới mẻ đối với Việt Nam".
Còn theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, chuyên gia cao cấp Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ISEAS của Singapore, cũng là chuyên gia về Việt Nam, dù RCEP đã được ký nhưng phải chờ Quốc Hội các nước thông qua và khi đó mới có thể nhận định một cách cụ thể :
"Phê chuẩn lâu nhất là mấy nước trong ASEAN này. Người ta nói khoảng 3 năm, tôi cũng thấy là khoảng 3 năm, Quốc Hội các nước mới phê chuẩn hết thì sẽ thấy cái lạc quan của những người này không đúng".
"Nội dung của RCEP cho thấy giảm thuế, mở cửa thị trường của các nước, nhưng nhìn vào thì Trung Quốc là thị trường lớn nhất. Trung Quốc nhập ít mà xuất nhiều, thế nên các nước trong đó có Việt Nam phải hết sức cẩn thận, nhập nhiều hơn xuất thì khổ".
Một điểm không hay khác của RCEP được tiến sĩ Hà Hoàng Hợp chỉ ra :
"RCEP này là một hiệp định mở rộng thương mại theo kiểu cũ, không chú ý đến các điều kiện để từng nước một khi tham gia phải tự đổi mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Việt Nam hoặc những nước khác phải có chính sách của chính phủ để giúp nông dân và những nhà sản xuất có thể làm tốt hơn. Tóm lại không nên dựa vào những lời lạc quan tếu và không có cơ sở".
"Tham gia RCEP cũng tốt nhưng Việt Nam còn tham gia nhiều cái khác. Quan trọng nhất gần đây là CPTPP, không có Trung Quốc trong đó mà nó đòi hỏi Việt Nam phải sửa lại thị trường, sửa đổi năng lực sản xuất cũng như qui chuẩn về thuế quan. Cái nữa là EVFTA và thứ ba là UKVFTA (Hiệp định tự do thương mại với Anh) Việt Nam đã ký với Anh Quốc".
Đó là những động lực giúp Việt Nam tự cải tiến, chuyên gia Hà Hoàng Hợp nói tiếp, không thể chỉ chăm bẵm vào RCEP dù rằng tham gia hiệp định này cũng có mặt tốt của nó.
Không thể dựa vào lượng nông sản xuất khẩu tăng cao để dự kiến một cách lạc quan khi vào RCEP, là khẳng định của chuyên gia nông nghiệp Võ Tòng Xuân, Đại Học Nam Cần Thơ :
"Đại dịch COVID-19 đưa tới việc nhiều nước không sản xuất đủ nông sản hay lương thực mà họ cần. Phải nói thiếu nhiều nhất là Trung Quốc vì dân của họ nhiều quá. Kế đó là Philippines, Indonesia, Malaysia. Việc tăng lượng xuất khẩu lương thực là do nhu cầu của các nước tăng lên".
"Việt Nam dù có bị biến đổi khí hậu nhưng cái may mắn là những lúc mình cần mưa thì có mưa, những lúc lúa đã trổ rồi và mình không cần mưa thì không có mưa, thành ra lúa của mình có sản lượng cao và chất lượng tốt, thỏa mãn được nhu cầu trong nước và còn dư trên 6,2 triệu tấn gạo để xuất khẩu. Trái cây cũng thế, con tôm con cá cũng thế, đều tăng lượng xuất khẩu hết".
Các container chở hàng xuất khẩu xếp hàng ở cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn, trên biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc hôm 20/2/2020. Reuters
Về dự báo là RCEP Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Khu Vực sẽ giúp nâng lượng nông sản xuất sang Trung Quốc, rằng lợi tức của nông dân và doanh nghiệp sẽ theo đó mà tăng lên, giáo sư Võ Tòng Xuân cho rằng đừng vội mừng vì Trung Quốc trước giờ là một thị trường khó gỡ đối với nông sản nhập từ Việt Nam :
"Thực sự mình xuất hàng cho Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Châu Âu. Xuất cho Trung Quốc thì vừa không nhiều vừa không được giá cao. Trung Quốc khi muốn mua thì mở cửa, khi không mua thì viện lý do nọ kia để đóng cửa, cả ngàn xe container nông sản ra tới biên giới cứ nằm đó mà chờ. Cách đây 3 ngày, thủ tướng Việt Nam phải kêu gọi thì Trung Quốc mới mở cửa biên giới".
Vẫn lời Giáo sư Võ Tòng Xuân, FAO tức Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc, từng cảnh báo là lương thực, thực phẩm trên toàn thế giới có dấu hiệu giảm sút đáng ngại, nhờ đó sản lương nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tăng cao là thực tế hiển nhiên chứ không phải nhờ RCEP, đặc biệt khi hiệp định mới ký này chưa tác động và chưa mang lợi ích cho nông dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam :
"Tác động lớn nhất và thấy rõ nhất là EVFTA. Từ khi có EVFTA thì rõ ràng nông dân và doanh nghiệp phải hết sức chú ý truy nguyên nguồn gốc và chất lượng sạch, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, không dùng hoặc rất ít dùng phân bón hóa học hoặc thuốc bảo vệ thực vật".
"Với cách làm đó thì bên Châu Âu bằng lòng mua giá cao hơn, nhưng trong thực tế người tiêu dùng Việt Nam hưởng lợi. Thay vì trước kia cứ ăn đồ không sạch thì bây giờ sản xuất không sạch bớt trên 50% rồi. Tuy đầu tư thấp hơn vì không dùng nhiều chất hóa học nhưng sản phẩm làm ra thì giá cao hơn, do đó nông dân giàu hơn".
"Doanh nghiệp thì rất sợ hàng xuất đi mà bị trả về, cho nên chính doanh nghiệp cũng như nông dân phải đảm bảo qui trình sạch, để khi giao hàng thì doanh nghiệp có thể sản xuất hàng có chất lượng và không có hóa chất".
Kỳ vọng về RCEP mà doanh nhân điều hành các hiệp hội nông sản xuất khẩu đưa ra trên mạng báo TheStar là không thực tế.
Có chăng nếu RCEP hứa hẹn mua nhiều sản phẩm của Việt Nam, thúc đẩy Việt Nam sản xuất theo qui trình sạch, an toàn và chất lượng, lúc đó mới có thể nói Việt Nam được hưởng lợi từ RCEP như thế nào, Giáo sư Võ Tòng Xuân kết luận.
Thanh Trúc
Nguồn : RFA, 26/02/2021
Hiệp định thương mại tự do sẽ mở rộng cửa thị trường Liên Hiệp Châu Âu (EU) cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là nông sản. Nhưng vấn đề là các doanh nghiệp và nông gia Việt Nam có đáp ứng được các tiêu chuẩn rất gắt gao của các nước Châu Âu hay không.
Gạo Việt Nam xuất khẩu vào Liên Hiệp Châu Âu sẽ bị canh tranh ráo riết - Ảnh minh họa
Trong cuộc họp toàn thể ngày 12/02/2020 tại Strasbourg, Nghị Viện Châu Âu đã thông qua Hiệp định tự do thương mại Việt Nam – Liên Hiệp Châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – Liên Hiệp Châu Âu (EVIPA), vốn đã được hai bên chính thức ký kết ngày 30/06/2019.
Được Nghị Viện Châu Âu phê chuẩn, EVFTA sẽ có hiệu lực một tháng sau khi hai bên thông báo cho nhau đã kết thúc quá trình thủ tục về pháp lý. Riêng hiệp định EVIPA thì cần phải được Quốc hội của từng nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu thông qua.
Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU tại Đông Nam Á, chỉ sau Singapore, với kim ngạch trao đổi mậu dịch lên đến 50 tỷ euro/năm về hàng hóa và 4 tỷ euro về dịch vụ. EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 thế giới và là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, tuy vậy, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang EU hiện mới chỉ chiếm khoảng 2%.
Ngay sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, 65% hàng xuất khẩu của EU sang Việt Nam sẽ được miễn thuế ngay lập tức, phần còn lại sẽ dần dần được miễn thuế hết trong vòng 10 năm. Ở chiều ngược lại, 71% thuế quan hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được loại bỏ ngay, trong khi số còn lại sẽ được loại bỏ dần trong 7 năm. Tuy nhiên, riêng về nông phẩm, xuất khẩu miễn thuế các mặt hàng "nhạy cảm" của Việt Nam như gạo, tỏi và trứng sẽ bị hạn chế. Về các chỉ dẫn địa lí đối với sản phẩm, 169 mặt hàng đặc trưng của EU sẽ được bảo vệ tại Việt Nam. Ngược lại, 39 sản phẩm của Việt Nam sẽ được bảo vệ tại EU.
Nhưng để tận dụng được hiệp định EVFTA để chinh phục thị trường EU, nông dân, doanh nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải phải tập trung đầu tư nâng cao chất lượng để đáp ứng những tiêu chuẩn gắt gao của thị trường này. Thị trường EU là một trong những thị trường có yêu cầu chất lượng, kỹ thuật cao nhất thế giới hiện nay. Đặc biệt với nông sản, thủy sản, EU không chỉ đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe về an toàn thực phẩm, dư lượng hóa chất mà còn chú trọng đến yếu tố môi trường, phát triển bền vững, an sinh động vật. Trong khi đó, việc kiểm soát sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn có nhiều vấn đề.
Chính vì vậy, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, chuyên gia nông nghiệp, nghe tin hiệp định EVFTA sắp được phê chuẩn, nông dân lẫn doanh nghiệp Việt Nam vừa mừng, vừa lo :
"Các doanh nghiệp phấn khởi, người nông dân lại càng phấn khởi hơn, bởi vì đây là dịp để xuất khẩu hàng của Việt Nam sang Châu Âu với một cái giá phải chăng, đồng thời được ưu tiên. Nhưng bà con nông dân mình cũng rất lo, và các doanh nghiệp Việt Nam thì càng lo hơn, bởi vì mình không thể sản xuất như từ trước đến giờ, vốn đã quen sử dụng rất nhiều phân bón. Từ chỗ sử dụng nhiều phân bón như thế, sâu bệnh lại càng được "quyến rũ" để tấn công các nông sản của mình, từ hạt lúa cho đến trái cây các loại.
Tôi đã nói chuyện với nhiều doanh nghiệp, và cũng đã xuống nông thôn nói chuyện với bà con nông dân, để nói là không thể nào tiếp tục sản xuất như trước. Trước đây thì chúng ta cố gắng làm thế nào để có năng suất tốt để bán đi, còn bây giờ, tăng năng suất là một chuyện, nhưng làm sao phải sản xuất được sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm mới là vấn đề khó.
Tôi có nói với bà con nông dân là tôi đã tiếp xúc rất nhiều khách hàng bên Châu Âu sang Việt Nam làm việc. Họ đều nói rất mừng là Châu Âu dừng nhập khẩu từ Campuchia và từ Myanmar, cho nên Việt Nam được mời vào hiệp định thương mại tự do này. Nhưng tất cả các khách hàng của Châu Âu đều biết là sản phẩm của Việt Nam chứa rất nhiều hóa chất, nhất là những hóa chất cấm mới nhất của Châu Âu, thành ra Việt Nam đừng có tưởng muốn xuất cái gì là xuất.
Bà con nông dân nghe như vậy thì họ rất lo, bởi vì tập quán từ 40 năm nay là đã quen bón rất nhiều phân để có năng suất cao, nhưng bón phân thì rất mất cân đối, phần lớn là chỉ bón phân đạm. Đất của đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và đất của Việt Nam nói chung khi chỉ được bón phần lớn là phân đạm, thì các chất khác phải được cung cấp cho cây trồng, cho nên cây trồng phải hút các chất khác từ trong đất ra. Năm này sang năm kia thì những chất khác đó, nhất là những chất dư lượng, không còn nữa, dẫn đến hiện tượng đất bị "chai". Bà con nông dân càng bón nhiều phân đạm, thì càng thấy là sâu bệnh xuất hiện rất nhiều, cho nên họ lại phải sử dụng rất nhiều thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là sử dụng nhiều loại kháng sinh, là những chất mà các nước khác trên thế giới không muốn hiện diện, tồn dư trên nông sản của họ.
Ở Việt Nam bây giờ chúng tôi đang dấy lên một phong trào để bà con nông dân hiểu cách bón phân thế nào nhằm khôi phục tình trạng nguyên thủy của đất của mình, tức là làm cho nó không chai như hiện nay nữa. Muốn như thế thì không được sử dụng phân hóa học, và từ đó thì sẽ không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các chất kháng sinh. Bà con nông dân phải từ bỏ tập quán "ghiền" chất hóa học, chuyển sang một phương pháp mới, sử dụng các loại phân vi sinh, phân sinh học.
Bà con nông dân nay đã ý thức được vấn đề này. Vấn đề bây giờ là phải sử dụng những phân vi sinh nào có hiệu quả nhất, mà ít tốn kém nhất, đem đến giá thành sản xuất thấp hơn, và các loài sâu bệnh cũng sẽ không còn nữa, để mà bà con nông dân không sử dụng nhiều chất hóa học trên đồng ruộng".
Hàng xuất khẩu sang EU còn phải đáp ứng quy tắc về xuất xứ. Vấn đề là nguồn nguyên liệu cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu được nhập từ Trung Quốc và ASEAN. Nếu không đảm bảo được quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức thuế đãi ngộ tối huệ quốc chứ không phải là mức thuế suất 0% trong EVFTA. Mặt khác, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải thay đổi cách làm việc, không thể tiếp tục thu mua nguyên liệu nông sản mà không quan tâm đến khả năng truy được nguồn gốc :
"Đây là một thách thức rất lớn đối với bà con nông dân Việt Nam, đồng thời là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam, thường thường là mua nguyên liệu từ nông dân một cách trôi nổi, thông qua các trung gian, mà không có việc kiểm soát ngay tại đồng ruộng, và vì thế không thể truy nguyên nguồn gốc nguyên liệu mà mình sử dụng.
Về mặt khoa học, chúng tôi cùng với các chuyên viên của bộ Nông Nghiệp phải hết sức ráo riết, một mặt khuyến cáo các doanh nghiệp phải hợp tác, liên kết với bà con nông dân để nắm được nguồn gốc của nguyên liệu đưa vào dây chuyền chế biến sản phẩm. Đồng thời chúng tôi nói bà con nông dân cũng phải hợp tác với nhau để làm theo những quy trình khoa học do các nhà khoa học đưa ra, từ việc sử dụng các phân bón vi sinh, phân bón sinh học, cho đến việc quản lý đồng ruộng, giảm bớt áp lực của sâu bệnh".
Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, sau khi gặp khách hàng Châu Âu, biết được là họ sẵn sàng mua bao nhiêu khối lượng sản phẩm, doanh nghiệp mới trở về vùng nguyên liệu của mình để ký hợp đồng với nông dân và phải kết hợp chặt chẽ với ngành nông nghiệp địa phương, để giúp nông dân, từ khâu đưa giống mới về, cho đến xác định quy trình kỹ thuật, bón loại phân nào, bón lúc nào, liều lượng bao nhiêu. Nhưng nông dân cũng phải liên kết với nhau :
"Nông dân bây giờ phải là những nông dân đổi mới, phải liên kết với nhau thành các hợp tác xã, để có những diện tích lớn và doanh nghiệp có thể vào để giúp họ canh tác có hiệu quả cao hơn và với giá thành giảm đi. Từ đó, nông dân sẽ giàu hơn và doanh nghiệp thì bảo đảm có nguyên liệu rất tốt, có thể truy nguyên được nguồn gốc. Doanh nghiệp không thể tiếp tục làm việc theo kiểu ký hợp đồng rồi đi mất tiêu, đợi đến lúc có sản phẩm rồi mới lại thu mua.
Có nhiều doanh nghiệp cũng nói là họ không có lực lượng cán bộ kỹ thuật để theo sát bà con nông dân, can thiệp để bảo đảm đồng lúa, vườn cây ăn trái đó sạch các loại côn trùng bệnh. Như vậy họ phải hợp đồng với một số thương lái, khuyến khích các thương lái này không chỉ thu mua một cách đơn thuần, mà cũng phải quản lý bà con nông dân và cũng phải ký hợp đồng với doanh nghiệp để làm hợp tác xã cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp. Các thương lái bây giờ cũng phải tập hợp lại để hướng dẫn cho bà con nông dân, để làm trọn nhiệm vụ của một hợp tác xã cung ứng nguyên liệu cho doanh nghiệp. Đây là kế hoạch sẽ được thực hiện rõ nét hơn trong vòng vài tháng tới đây, khi các khách hàng từ Châu Âu qua tìm sản phẩm. Có thể là trong quá trình gặp nhau, họ sẽ bàn bạc, để các doanh nghiệp Việt Nam nắm được nhu cầu về một sản phẩm nào đó. Kế đến các doanh nghiệp này sẽ xuống đồng ruộng, ở các tỉnh, các huyện, để bàn cụ thể kế hoạch sản xuất nguyên liệu".
Như vậy, theo giáo sư Võ Tòng Xuân, doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình đổi mới này. Trước đây lãnh đạo các cấp từ trung ương cho đến địa phương đều hô hào là nông dân trồng cây gì, nuôi con gì, mà không cần biết có ai mua hay không. Còn bây giờ, các doanh nghiệp nắm được đầu ra như thế nào, rồi từ đó mới tổ chức lại cho nông dân sản xuất theo đúng kế hoạch đề ra. Nếu Nhà nước nhiệt tình giúp nông dân và doanh nghiệp hoạt động, thì hành trình của nông sản xuất khẩu sang Châu Âu sẽ rất suôn sẻ.
Thanh Phương
Nguồn : RFI, 17/02/2020