Ngày 19/02/2019, Genie Nguyễn của Voice of Vietnamese Americans phỏng vấn Dr. Patrick Cronin về tình hình Biển Đông sau khi ông tham dự cuộc họp với các nước ASEAN tuần trước đó.
Tiến sĩ Patrick Cronin – Asia Pacific Security Chair, Hudson Institute. (Photo courtesy of Doanh Vu)
Genie Nguyễn : Thưa Tiến sĩ, được biết ông vừa tham dự hội nghị tại Đông Nam Á. Xin ông vui lòng chia sẻ nhận định về tình hình Biển Đông, các khó khăn Trung Quốc gây ra cho Đông Nam Á và Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc.
Patrick Cronin : Tôi đã có cuộc thảo luận sâu rộng cả ở Phi Luật Tân và Nam Dương. Tại Nam Dương, chúng tôi tham dự một cuộc Hội Thảo với tất cả các thành viên của ASEAN – Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á. Thật khó tóm tắt tất cả các điều thảo luận trong vài phút .
Tôi nghĩ vấn đề Biển Đông là đề tài chính. Và an ninh hàng hải. Cả hai liên quan đến kinh tế, sự quan trọng của tất cả mọi thứ từ cá đến tài nguyên biển, đến sự giao thương, nhưng cũng tối quan yếu cho sự độc lập và chủ quyền của các nước Đông Nam Á.
Tiến sĩ Dewi Fortuna Anwar, một trong những trí thức được kính trọng nhất tại Nam Dương, và là một trong những người sáng suốt nhất tôi biết, diễn tả rất đúng sự thách thức các nước Đông Nam Á phải đối mặt để bảo vệ quyền tự chủ về chiến lược của mình trong tương lai. Phải có sự hợp tác với các nước bên ngoài, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, nếu Đông Nam Á không muốn bị ép buộc phải chấp nhận một bản Quy tắc ứng xử Biển Đông ngược với quyền lợi của họ .
Một trong những quan tâm tại Đông Nam Á hiện nay là Trung Quốc đã thay đổi chiến thuật đối với Quy tắc ứng xử tại Biển Đông. Sau nhiều năm cố tình kéo dài thời gian thương thảo về Bộ Quy tắc ứng xử, bây giờ Bắc Kinh lại hối hả thúc đẩy một Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông thuận lợi cho mình và theo luật lệ của mình.
Trung Quốc cho thấy hai ưu tiên then chốt của họ trong bản nháp Quy tắc ứng xử :
1. Trung Quốc muốn có quyền phủ quyết các tập dượt quân sự hay chuyển binh của các lực lượng quân đội bên ngoài khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là quân đội Hoa Kỳ, như các cuộc diễn tập tự do hàng hải của Hoa Kỳ. Chúng tôi đã thực tập 15 cuộc cuộc diễn tập tự do hàng hải này từ năm 2015. Các cuộc diễn tập này được chia đều ra giữa các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với một lần tại Scarborough Shoal. Nhưng nếu Trung Quốc có thể ngăn cản các cuộc cuộc diễn tập tự do hàng hải này, thì họ có thể uy hiếp các lực lượng Hải Quân của các quốc gia Đông Nam Á một cách dễ dàng, tùy tiện, và họ biết chắc như vậy .
2. Trung Quốc muốn kiểm soát sự khai thác tài nguyên và phát triển. Việt Nam có kinh nghiệm này đầu tiên, năm 2014 với giàn khoan dầu Hải Dương 981 mà Trung Quốc đã ngang ngược đặt trong hải phận Việt Nam. Việt Nam đã bị Trung Quốc bắt nạt. Họ sử dụng chiến thuật đâm tàu. Tôi còn nhớ đã từng thăm một chiếc tàu cá Việt Nam bị đâm bởi Trung Quốc, với "chiến lược bắp cải", khi họ sử dụng nhiều vòng vây hàng hàng lớp lớp, bắt đầu là những tàu biển có trang bị, giả dạng làm ngư dân, nhưng không hề có lưới hay dây câu vì họ không thực tâm câu cá. Họ là những lực lượng bán quân sự, bao quanh họ là lực lượng tuần dương, mà dưới quyền Tập Cận Bình trực thuộc quyền chỉ huy quân sự, không phải dân sự, và rồi sau cùng là lực lượng hải quân chính quy của Trung Quốc. Như vậy đây chính là một cách uy hiếp, dọa nạt, một cách kiểm soát mà Trung Quốc thực thi.
Tôi vừa ở Phi Luật Tân, và chúng tôi thấy tận mắt họ sử dụng chiến thuật này hôm nay, tại Phi Luật Tân, tại Thitu và Pegasa, hai đảo nhỏ của quần đảo Trường Sa. Người Phi đang tìm cách sửa lại đường bay của họ trên rặng Pegasa. Trung Quốc đã bồi cát với mức độ chưa từng thấy, rồi quân sự hóa các đảo nhân tạo này, gồm cả 3 đường bay quân sự vĩ đại tại Trường Sa, mỗi sân bay dài bằng phi trường Changi của Singapore, phi trường hiện đại nhất Đông Nam Á. Đáng lẽ để yên cho Phi Luật Tân sửa lại đường bay của họ, Trung Quốc phát động chiến dịch "vòng vây bắp cải" này, hàng hàng lớp lớp, dân quân ở 2 dặm sát bờ biển, rồi lính tuần dương, rồi hải quân Trung Quốc, 95 chiến thuyền tụ lại trong tháng 12. 95 chiến thuyền đối với những người Phi Luật Tân nhỏ bé trên đảo, đó có phải là dọa nạt và uy hiếp không ?
Rồi Trung Quốc nói : "Chúng tôi muốn viết lại luật lệ". Đó là những điều họ muốn viết trong Bộ Quy Luật Ứng Xử. Họ không muốn bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào có thể bảo vệ chủ quyền, độc lập, và được thịnh vượng. Họ muốn các nước Đông Nam Á phải van lạy Bắc Kinh.
Việt Nam đã luôn đi đầu trong việc phản đối Trung Quốc, và điều tôi lo sợ, đây là điều đúc kết chính trong cuộc thảo luận về Biển Đông vừa qua, là Việt Nam sẽ bị cô lập bởi các nước Đông Nam Á khác, các thành viên của ASEAN - Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Bởi vì Tổng thống Duterte tại Manila đã bị mua chuộc bởi Trung Quốc, và ông ta là người thực tế, do đó ông ta sẽ cân nhắc các lựa chọn của mình, và nếu thấy không thể đánh lại Trung Quốc, thì ông ta sẽ theo Trung Quốc, sẽ bị kéo theo.
Trong khi ấy, thì Thái Lan – một đồng minh khác của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á lại đang nhận nhiều đầu tư lớn từ Trung Quốc, và đang sắp có cuộc bầu cử năm nay. Thái Lan cũng đang giữ chức Chủ tịch ASEAN năm 2019. Việt Nam sẽ là Chủ tịch ASEAN năm tới. Như vậy mọi chuyện có thể được sắp xếp cho năm nay, hay năm tới, và Việt Nam sẽ ở trong thế vô cùng khó xử, hoặc chấp nhận Bộ Quy tắc ứng xử mà tất cả các thành viên khác đều đồng ý trừ Việt Nam, hay sẽ bị thất bại trong vai trò Chủ tịch ASEAN.
Chính vì thế mà chúng ta cần bảo đảm rằng Việt Nam không bị cô lập và bị rơi vào thế khó xử kia.
Tôi xin đổi đề tài. Tổng thống Trump vừa đến Hà Nội. Ông đã thăm Việt Nam hai lần, trong hai năm, nhiều hơn bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào. Tổng thống Trump đã chứng tỏ sự hỗ trợ của ông cho một bang giao Việt – Mỹ đang phát triển mạnh mẽ, xây dựng từ chính quyền trước đến chính quyền này. Đây là một khuynh hướng rất tốt, rất tích cực và quan trọng cho quan hệ Việt – Mỹ.
Nói chung, tại Đông Nam Á, tôi nghĩ Hoa Kỳ có thể làm nhiều hơn, có nhiều cơ hội lắm. Chúng ta cần có một vị thứ trưởng ngoại giao đặc trách Á Châu, một đại sứ tại Singapore, một đại sứ tại ASEAN… Nhưng đó chỉ là những điều nhỏ. Tôi nghĩ điều chính là chúng ta đang đi đúng hướng, và chúng ta cần cùng làm việc với khối dân Đông Nam Á trẻ trung đầy sức sống này, vì họ chính là trung tâm của một khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở.
Genie Nguyễn : Ông có nghĩ rằng chính quyền Việt Nam đã hợp tác đúng mức với Hoa Kỳ trên các lãnh vực an ninh quốc phòng, hay họ vẫn nghiêng về Trung Quốc nhiều hơn ?
Patrick Cronin : Tôi nghĩ Việt Nam có chính sách đối nội khác với chính sách đối ngoại.
Về đối ngoại và an ninh, chính sách của chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục đi sát hơn với Hoa Kỳ, làm việc với Nhật Bản, làm việc với các nước bên ngoài. Thực ra, họ tiếp tục chính sách cân bằng các thế lực với rất nhiều nước khác, để Trung Quốc không thể có quá nhiều ưu thế.
Về chính sách đối nội thì phức tạp hơn. Chúng ta rất mong được thấy Việt Nam cải thiện một cách nghiêm túc. Tôi nghĩ chúng ta cũng cần phải thực tế hơn về sự thay đổi ấy sẽ diễn ra thế nào. Tôi không nghĩ rằng bất cứ ai tại Hoa Kỳ muốn thúc giục Việt Nam thay đổi, nhưng chúng ta thực lòng muốn thấy dân Việt được thịnh vượng, có tự do, và không bị đẩy vào sự áp đặt như ở Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc đang gia tăng sự đàn áp lên dân chúng, không chỉ ở Tân Cương, mà nói thẳng ra là những trí thức, luật sư nhân quyền, đủ thứ người tại Trung Quốc bị đàn áp. Chúng ta muốn thấy Việt Nam chuyển đổi ngược với hướng đi của Trung Quốc. Bởi vì dân chúng Việt Nam rất kỳ diêu. Như chúng ta nghe thấy Tom Rose nói hôm nay, những người tỵ nạn Mỹ gốc Việt đã đóng góp rất nhiều vào xã hội Hoa Kỳ.
Chúng ta đã chia sẻ một lịch sử chuyển từ chiến tranh sang bình thường hóa quan hệ rồi trở thành bạn thân. Chúng ta có thể tiếp tục phát triển tương quan này lên đến mức độ chiến lược. Việt Nam cần Hoa Kỳ. Hoa Kỳ rất muốn xây dựng quan hệ chiến lược với Việt Nam. Do đó tôi hy vọng rằng chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam sẽ dần dần tương hợp với sự phát triển quan hệ này.
Genie Giao Nguyen
Nguồn : Voice of Vietnamese Americans, 13/03/2019
Bộ Quy Tắc Ứng Xử Của Các Bên Tại Biển Đông- COC được nhiều phía cho là giải pháp đối với các tranh chấp tại khu vực có tuyến đường hàng hải quan trọng ngày.
Tuy nhiên theo tướng Daniel Schaeffer, nguyên tuỳ viên quân sự đầu tiên của Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, học giả cao cấp về tranh chấp trên Biển Đông của tổ chức tư vấn Asie21 (Pháp) thì cần thận trọng vì có thể CoC sẽ bất lợi cho những nước nhỏ trong tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại khu vực Biển Đông.
Tranh chấp lãnh hải giữa các quốc gia trên Biển Đông - AFP
Phóng viên Mỹ Lan của RFA có cuộc trao đổi với tướng Daniel Schaeffer xung quanh vấn đề này cũng như vụ việc liên quan.
****************
Mỹ Lan : Thưa ông, trong một báo cáo được đăng tải trên Diplomaweb vào năm ngoái, ông đã từng đề cập đến những rủi ro của các nước Đông Nam Á khi tham gia ký kết các điều khoản trong Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC). Ông có thể giải thích rõ hơn về điều này ?
Daniel Schaeffer : Điều đầu tiên, tôi cho rằng các nước ASEAN cần phải tính đến những nguy cơ có thể xảy ra khi ký kết các điều khoản hiện đang được thương lượng tại Bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).
Thứ nhất, các nước như Việt Nam, Singapore, Brunei, Malaysia, Philippines hiện nay đều có vùng đặc quyền kinh tế riêng (EEZ) mở rộng đến 200 hải lý tương đương 370 km từ đất liền ra tới Biển Đông và đều có chủ quyền trên vùng biển này. Điều này đồng nghĩa với việc họ có quyền khai thác, đánh bắt và đặc biệt là quyền thăm dò và khai thác khí đốt tại đây. Tuy nhiên, kể từ khi Trung Quốc tuyên bố về bản đồ có in hình "đường lưỡi bò" thì một phần vùng biển chủ quyền của các nước này lại nằm bên trong đường 9/10 đoạn mà Trung Quốc cho là thuộc lãnh hải của mình. Và thực tế là Trung Quốc đã đe doạ việc Philippines khai thác dầu tại Bãi Cỏ Rong cũng như mới đây ép buộc Việt Nam ngừng thăm dò dầu khí tại khu vực Bãi Tư chính, vốn những vùng biển thuộc chủ quyền của Philippines và Việt Nam.
Do đó, nếu như không vô hiệu hóa được ‘đường 9/10 đoạn’ phi pháp, mà đã vội vàng ký kết một COC có tính ràng buộc pháp lý, thì nếu tiếp tục thực hiện hoạt động khai thác tại khu vực này, Việt Nam sẽ là nước chính thức vi phạm. Cụ thể, nếu như Tổng công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) lựa chọn được nhà thầu khai thác 9 lô nhiên liêu hoá thạch mà họ đã xác định được và mặc dù là những lô nhiên liệu này nằm trong EEZ của Việt Nam nhưng Trung quốc lại cho rằng chúng nằm trọn trong đường 9/10 đoạn thì khi đó, việc Việt Nam tiếp tục khai thác dầu khí tại đây sẽ là vi phạm luật pháp quốc tế theo tuyên bố của Trung Quốc.
Điều này cũng tương tự như việc Trung Quốc phản đối Indonesia đổi tên vùng biển ngoài khơi phía Đông Bắc của quần đảo Natuna là biển Natuna hay việc Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của Brunei và Philippines nằm trong đường 9/10 đoạn của Trung Quốc và buộc tội các nước này khai thác trái phép trong vùng biển của Trung Quốc.
Mỹ Lan : Ngoài thâm ý như vừa nêu của Trung Quốc, theo ông Bắc Kinh còn đang có những động thái gì nhằm đạt được ý đồ trên biển của họ ?
Daniel Schaeffer : Ngoài việc sẽ dùng "công cụ pháp lý" được ký kết trong COC để chống lại các nước ASEAN thì với việc trở nên ngày càng mạnh hơn về sức mạnh quân sự và an ninh hàng hải, Trung Quốc sẽ càng có cớ để gây áp lực cũng như có quyền can thiệp quân sự đối với các quốc gia Đông Nam Á, một khi các nước này tiến hành những hoạt động mà Trung Quốc cho là vi phạm vùng biển của mình.
Trên thực tế là mặc dù Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế-PCA đã ra phán quyết cho rằng đường 9/10 đoạn của Trung Quốc không có bất kỳ giá trị về mặt pháp lý thì Trung Quốc vẫn không tôn trọng quyết định này bởi vẫn chưa có một biện pháp trừng phạt nào đối với việc không tuân thủ của Trung Quốc trong vấn đề này. Và dường như luật pháp quốc tế đang đứng về phía Trung Quốc bởi vì cách đây khoảng 2,3 năm đã xảy ra một vụ đụng độ giữa một tàu của Nicaragua và một tàu của Trung Quốc ngoài khơi quần đảo Điếu Ngư, vốn là vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
Tuy nhiên, việc xét xử lại diễn ra ở Trung Quốc chứ không phải là ở Nhật Bản và điều này cho thấy là luật pháp dường như đang ngầm công nhận quần đảo Điếu Ngư là thuộc về Trung Quốc chứ không phải Nhật Bản.
Đặc biệt, từ hai năm nay, Trung Quốc đang nghiên cứu việc thành lập những tòa án quốc tế riêng cho những yêu sách về hàng hải của mình. Mặc dù lúc này họ còn rất thận trọng khi tuyên bố chưa phải lúc để thành lập những tòa án quy mô quốc tế nhưng rõ ràng là họ luôn là nước đi trước trong việc tạo ra những ràng buộc pháp lý có lợi cho họ và rất có khả năng, một ngày nào đó nếu như COC chính thức được thông qua, Trung Quốc sẽ chính là nước đại diện cho Tòa án quốc tế để ra phán quyết đối với những quốc gia mà họ buộc tội là vi phạm.
Mỹ Lan : Thưa ông, vì sao Tòa trọng tài thường trực quốc tế (PCA), mặc dù là một tổ chức quốc tế nhưng những phán quyết của tòa án này lại không đủ mạnh để gây áp lực đối với Trung Quốc trong những tranh chấp nói trên ?
Daniel Schaeffer : PCA đã thực hiện nhiệm vụ của mình là đưa ra những phán quyết trong các vụ tranh chấp quy mô quốc tế. Tuy nhiên, họ không thể can thiệp và ép buộc để Trung Quốc phải thực hiện những phán quyết. PCA đã đưa ra phán quyết của mình trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc vào năm 2013 nhưng theo Công ước luật biển của Liên hợp quốc thì nếu một phán quyết như vậy được đưa ra thì kết quả của nó cũng sẽ được áp dụng đối với tất cả các nước có liên quan khác.
Ví dụ như phán quyết trong vụ Philippines kiện Trung Quốc cũng sẽ có thể được áp dụng đối với các nước khác trong khu vực. Đó là một trong những hạn chế của PCA. Bên cạnh đó là việc Liên Hiệp Quốc bao gồm cả Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã không lên án mạnh mẽ và yêu cầu Trung Quốc tuân thủ những phán quyết mà PCA đưa ra.
Ngoài ra, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cũng không thể can thiệp trong trường hợp này bởi Trung Quốc là thành viên thường trực thứ 5 trong trong cơ quan này do đó Trung Quốc hoàn toàn có thể phủ nhận phán quyết trên nếu muốn.
Hoa Kỳ, đối trọng trong nhiều lĩnh vực của Trung Quốc lại tỏ ra thận trọng và không tỏ rõ thái độ ủng hộ hay phản đối phán quyết trên của PCA nên cho đến thời điểm này Trung Quốc đang là một quốc gia rất quyền lực trong những tranh chấp về lãnh hải với các quốc gia có liên quan.
Mỹ Lan : Vậy theo ông các nước Đông Nam Á và cụ thể là Việt Nam cần phải hành động như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay ?
Daniel Schaeffer : Trong trường hợp này các nước Đông Nam Á nên hợp tác với Trung Quốc trên chính những vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tôi nghĩ rằng đây là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với tất cả các quốc gia có liên quan.
Ví dụ như Việt Nam hoàn toàn có thể mời Tổng công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) tham gia khai thác những mỏ dầu mà Việt Nam chưa tiến hành khai thác và thỏa thuận hợp tác sẽ được soạn thảo theo hướng để Trung Quốc thừa nhận tiến hành thực hiện khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ không phải là của Trung Quốc. Đây cũng là việc mà Philippines đang thực hiện.
Mặc dù đã có rất nhiều tranh luận liên quan đến quan điểm chính trị tại Philippines liên quan đến đề xuất này, nhưng trên thực tế việc Tập đoàn dầu khí Philippines và Trung Quốc ký kết với nhau là ở cấp độ hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp chứ không phải ở cấp quốc gia. Do đó Philippines hoàn toàn có thể hợp tác cùng CNOCC khai thác khí đốt tại bãi Cỏ Rong cho dù đây là vùng biển tranh chấp của hai quốc gia này. Và Việt Nam cũng hoàn toàn có thể học tập Philiippines theo hình thức này.
Bên cạnh đó, Việt Nam nên giữ mối quan hệ chặt chẽ với Nga vì mặc dù Nga là đồng minh của Trung Quốc trong cuộc chạy đua với Mỹ, nhưng Nga lại là đối tác trung thành với Việt Nam và nếu tôi nhớ không nhầm đã có lần Nga hứa giúp Việt Nam khai thác các mỏ khí đốt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Chính vì vậy, VietSoPetro có thể đề xuất với Tập đoàn dầu khí Việt Nam trở lại thăm dò và khai thác Mỏ Cá Rồng Đỏ để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước Trung Quốc, trong trường hợp công ty khoan dầu Repsol của Tây Ban Nha bị buộc phải rời khỏi khu vực này.
Mỹ Lan : Xin cảm ơn ông.
Mỹ Lan
Nguồn : RFA, 04/04/2018