Các hãng thông tấn của Mỹ, Anh, Pháp cho đến các tờ báo lớn trên thế giới đều đưa tin về sự ra đi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và nhấn mạnh đến vai trò của ông trong việc truyền bá chánh niệm đến phương Tây cũng như vai trò phản chiến của ông trong cuộc chiến Việt Nam – điều khiến ông phải trả giá là bị cả hai chính quyền của Việt Nam Cộng hòa và Cộng sản cấm cửa.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập Làng Mai tại Pháp năm 1982
Trong thông điệp chia buồn,Đức Đạt Lai Lạt Ma viết : "Tôi đau buồn biết tin người bạn và là người huynh đệ trong Chánh pháp của tôi – Hòa thượng Thích Nhất Hạnh đã viên tịch. Tôi gửi lời chia buồn đến các môn đệ của Ngài ở Việt Nam và trên toàn thế giới.
Bằng thái độ phản đối ôn hòa đối với cuộc chiến Việt Nam, sự ủng hộ đối với Martin Luther King và trên hết là tâm huyết của Ngài khi truyền đạt đến mọi người không chỉ làm sao mà chánh niệm và từ bi giúp đem đến an lạc mà còn làm sao mà mỗi cá nhân nuôi dưỡng sự an lạc thân tâm có thể đóng góp cho nền hòa bình thật sự trên thế giới, Hòa thượng đã sống một cuộc đời thật sự có ý nghĩa".
Trang web củaĐại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đăng thông cáo của bà Marie Damour, Đại biện lâm thời, Phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ tại Việt Nam, về sự ra đi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thông cáo viết : "Trong hơn 60 năm qua, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy, nhà lãnh đạo tinh thần được yêu mến và là người tranh đấu không mệt mỏi cho hòa bình của đất nước ông và khắp thế giới. Những bài giảng của ông, nhất là đưa chánh niệm vào cuộc sống thường nhật, đã làm giàu thêm cuộc sống của vô số người dân Mỹ.
Nhiều quan chức Mỹ, trong đó có Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương Daniel Kritenbrink, đã vinh dự được gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Lòng từ bi và tâm huyết của ông về đa nguyên tôn giáo đã để lại ấn tượng sâu sắc cho những người từng gặp ông. Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ được nhớ đến như là một trong những nhà lãnh đạo tôn giáo nổi bật và có sức ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. Bằng những lời dạy và các tác phẩm thơ văn, di sản của ông sẽ sống mãi đến các thế hệ mai sau".
Thượng nghị sĩ Mỹ Mazie Hirono, đại diện bang Hawaii, viết trên Twitter : Tôi có vinh dự được gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Việt Nam hồi năm 2019. Những lời giảng của Ngài về Từ bi và Chánh niệm sẽ tiếp tục soi sáng thế giới. Mong Ngài yên nghỉ.
Tài khoản Twitter củaTrung tâm Martin Luther King Junior đăng tấm ảnh chụp nhà hoạt động dân quyền nổi tiếng của Mỹ ngồi cạnh Thiền sư Thích Nhất Hạnh với dòng chữ : "Chúng tôi tôn vinh cuộc đời và ảnh hưởng nhân bản, toàn cầu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một đồng minh của Mục sư King, người qua đời hôm thứ Bảy. Đây là tấm ảnh chụp hai người tại một cuộc họp báo ở Chicago vào năm 1966. Martin Luther King đã đề cử Thiền sư cho giải Nobel Hòa bình năm sau đó".
Con gái Martin Luther King, bà Bernice King cũng đăng trên Twitter tấm ảnh cha bà chụp chung với Thiền sư Thích Nhất Hạnh và viết : "Cha tôi cùng với người bạn và đồng minh của ông ấy, Thích Nhất Hạnh, người qua đời trong tuần này. Tôi tôn vinh và vinh danh cuộc đời và ảnh hưởng toàn cầu vì hòa bình của ông".
Hãng tin Mỹ AP có một bản tin dài điểm lại thân thế và sự nghiệp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, gọi ông là ‘thiền sư được tôn kính vốn đã giúp khai phá khái niệm Chánh niệm ở phương Tây và Phật giáo dấn thân ở phương Đông’.
AP dẫn lại lời trần tình của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho Mục sư Martin Luther King về các vụ tự thiêu của tăng ni Phật tử miền Nam chống chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm : "Tôi đã nói rằng đó không phải là tự sát, bởi vì trong hoàn cảnh khó khăn như ở Việt Nam, rất khó để cất lên tiếng nói. Do đó, đôi khi chúng tôi phải tự thiêu để người ta lắng nghe tiếng nói của mình cho nên làm như vậy là hành động bi mẫn, hành động yêu thương chứ không phải hành động tuyệt vọng".
Hãng tin này dẫn lời một học giả Thái Lan có tên là Sulak Sivaraksa nhận xét rằng ở xã hội Việt Nam trong những năm 1950 và 1960 ‘hỗn loạn và khủng hoảng’ cho nên ‘Thiền sư ở trong hoàn cảnh khó khăn – ma chướng một bên và biển sâu thăm thẳm một bên – Cộng sản một bên, CIA một bên. Trong hoàn cảnh đó, Ngài đã rất chân thật với tư cách một nhà hoạt động, một hòa thượng tham thiền, một nhà thơ, và một ngòi bút sáng rõ’.
"Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Phật giáo có nghĩa là tỉnh thức – ý thức được những gì xảy ra trong thân, tâm và thế giới xung quanh. Nếu anh tỉnh thức, anh không thể làm gì khác hơn là hành động một cách đầy tình thương để giúp xoa dịu nỗi đau mà anh nhìn thấy xung quanh," Sulak Sivaraksa nói thêm.
Hãng tin này lưu ý rằng cả chính quyền Bắc Việt, từ sau 1975, và Việt Nam Cộng hòa, vào năm 1966, đều cấm Thiền sư về nước, khiến ông trở thành ‘chim mất tổ’.
Nhắc lại hoạt động phản chiến của Thiền sư,hãng tin Anh Reuters dẫn lại những gì ông viết vào năm 1975 : "Tôi đã nhìn thấy quân cộng sản và quân chống cộng bắn giết, tàn hại lẫn nhau chỉ vì bên nào cũng tin rằng mình nắm chân lý".
"Tiếng nói của tôi đã bị chìm trong tiếng bom đạn, súng cối và tiếng la hét".
Reuters dẫn lời hòa thượng người Hàn Quốc Haenim Sunim, người từng làm phiên dịch cho Thiền sư khi ông đến thăm Hàn Quốc, mô tả Thiền sư là người ‘trầm tĩnh, tập trung và bác ái’.
"Ngài giống như một cây thông lớn để che chở cho nhiều người dưới những tán cây với những bài giảng vi diệu của Ngài về Chánh niệm và Từ bi. Ngài là một trong những người đáng kinh ngạc nhất mà tôi đã từng gặp".
Theo Reuters thì trong bối cảnh thế giới đang chao đảo vì đại dịch COVID-19, quan niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về Tỉnh thức và Thiền định có thêm sức hút mới. Hãng tin này dẫn lại câu nói của Thiền sư : "Nếu chúng ta tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn, chúng ta mới có thể chịu được những thống khổ ngày nay".
Hãng tin Pháp AFP nhắc lại rằng chính vì phản chiến mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh phải sống lưu vong ở Pháp gần 40 năm. Đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, ông đã giúp đỡ những đồng bào ông vượt biển tìm đường tị nạn. "Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cứu được trên 800 thuyền nhân sau khi ông thuê hai con tàu lớn," AFP viết.
Hành động đó nằm trong khái niệm ‘Phật giáo dấn thân’ mà ông sáng tạo ra, bởi vì ông tin rằng ‘ngồi trên bồ đoàn để thiền định không là không đủ’, và khái niệm này ‘đã trở thành hòn đá tảng của nhiều trường phái Phật giáo hiện đại’.
Hãng tin này dẫn lời Giáo sư Anjali Vats giảng dạy tại Khoa Luật, Đại học Pittsburgh, Hoa Kỳ, rằng Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời bà và giúp bà ‘trở thành được như ngày nay’.
Trong bản tin về sự viên tịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh,New York Times đã mô tả ông là ‘một trong những thiền sư có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới, truyền bá thông điệp về chánh niệm, từ bi và bất bạo động’ ; ‘cây bút, nhà thơ sung sức, nhà giáo và nhà hoạt động hòa bình’.
Tờ báo này dẫn lại những gì ông từng viết : "Sinh và diệt chỉ là những khái niệm. Chúng không thực sự tồn tại. Đức Phật đã dạy rằng không có sinh, không có diệt, không có đến, không có đi… không có bản ngã thường trụ - đó là do chúng ta nghĩ như vậy mà thôi. Nếu hiểu như vậy thì chúng ta không còn bị sợ hãi nữa và có thể tận hưởng cuộc sống".
Theo New York Times, sau năm 1975, ông vẫn tiếp tục thái độ phản chiến. Trong một bài giảng ở Hà Nội hồi năm 2008, ông nói về cuộc chiến Iraq như sau : "Chúng ta biết rằng máy bay, súng đạn không thể loại bỏ được những suy nghĩ sai lầm. Chỉ có ái ngữ và lắng nghe thấu cảm mới có thể giúp con người sửa chữa sai lầm. Nhưng các nhà lãnh đạo không được học như vậy, họ chỉ dựa vào duy nhất sức mạnh quân sự để diệt trừ khủng bố".
Tờ báo này nhắc lại hồi năm 2013 ông được hãng khổng lồ công nghệ Google mời đến trụ sở của họ ở Thung lũng Silicon để thuyết giảng. Khi đó, ông đã đem thông điệp về suy ngẫm tĩnh lặng ra nơi tuyến đầu của kỷ nguyên công nghệ.
"Chúng ta có cảm giác rằng chúng ta bị ngộp với thông tin," ông nói với các nhân viên Google. "Chúng ta không cần nhiều thông tin như vậy".
Và ông nói : "Đừng có tìm kiếm giải pháp bằng cái đầu đang suy nghĩ. Không suy nghĩ mới chính là chìa khóa thành công. Đó là lý do tại sao những lúc mà chúng ta không làm việc lại là lúc làm việc rất hiệu quả nếu chúng ta biết cách sống trong từng khoảnh khắc".
Hãng truyền thông Anh BBCnói rằng Thiền sư Thích Nhất Hạnh thường được gọi là ‘người cha của phép chánh niệm’.
BBC lưu ý ông đã viết trên 100 cuốn sách được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và cuốn sách mới nhất của ông được xuất bản hồi tháng 10 năm 2021.
Một trong những tờ nhật báo hàng đầu của Pháp là Le Figaro gọi Thiền sư Thích Nhất Hạnh là ‘một trong những nhà sư có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới’. Tờ báo này cho rằng chính nhờ có 40 năm phải sống lưu vong mà ông đã có thể phổ biến khái niệm ‘Chánh niệm’ đến với thế giới phương Tây và nó đã có sức hút đối với những ngôi sao như Oprah Winfrey hay Gwyneth Paltrow và có sức ảnh hưởng đối với nhiều ông chủ các hãng công nghệ ở Silicon Valley.
Đài Phát thanh quốc tế Pháp RFIcó bài tường thuật của thông tín viên Frédéric Noir từ thành phố Hồ Chí Minh với tựa đề ‘Việt Nam khóc thương sự ra đi của Hòa thượng có tầm ảnh hưởng Thích Nhất Hạnh’.
Đài này đã phỏng vấn một người dân ở thành phố Hồ Chí Minh và một người dân ở Hà Nội. Hai người này đều bày tỏ sự đau buồn trước sự ra đi của Thiền sư, cho rằng ông đại diện cho những giá trị phổ quá như sự khiêm nhường, sự rộng lượng và lòng thấu cảm và rằng nhờ học theo ông mà họ có được cuộc sống an lạc, hạnh phúc.
Nguồn : VOA, 23/01/2022
Đài BBC ngày 30/8/2017 cho biết Thiền sư Nhất Hạnh đã về thăm quê hương sau một thập niên xa cách. Chuyến bay đưa Thiền sư đã hạ cánh tại Đà Nẵng vào trưa hôm thứ Ba 29/08. Trong chuyến về Việt Nam lần này, "Sư Ông" sẽ về thăm Tổ đình Từ Hiếu, Huế - nơi "Sư Ông" bắt đầu con đường xuất gia tu học vào năm 1942.
Báo Tuổi Trẻ trong nước ngày 29/8 cho biết "tham gia đoàn đón thiền sư tại Đà Nẵng có Thượng tọa Thích Thanh Phong, Trưởng ban kinh tế tài chính trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm Thành phố Hồ Chí Minh".
Thiền sư Nhất Hạnh về đến Đà Nẵng
Thượng tọa Thích Thanh Phong là một sư quốc doanh, hay nói rõ hơn, một sư công an, có tên thật là Phạm Đức Phong, sinh năm 1968 tại Hưng Yên, được đưa từ chùa Quán Sứ Hà Nội vào Sài Gòn năm 2000, Ủy viên Thường trực Hội đồng trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo nhà nước, Ủy viên Đoàn Chủ tịch trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, được nhiều bằng khen và giấy khen. Nhiệm vụ của ông là theo dõi các hoạt động của Thiền sư Nhất Hạnh.
Một câu hỏi được đặt ra là ngoài việc thăm tổ đình Từ Hiếu, Thiền sư Nhất Hạnh còn có sứ mạng nào khác không ? Trước khi tìm câu trả lời, chúng tôi xin nhắc lại vài nét về Thiền sư Nhất Hạnh.
Vài nét về Thiền sư Nhất Hạnh
Lý lịch của Thiền sư Nhất Hạnh vẫn không được công bố như các vị tăng sĩ nổi danh khác, có lẽ vì có nhiều điều không muốn nói ra. Sau khi sưu tra tại Thừa Thiên, chúng tôi được biết Thiền sư Nhất Hạnh có tên thật là Nguyễn Đình Bảo sinh ngày 11/10/1926 tại làng Thành Trung, xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Khi viết sử, ông lấy bút hiệu là Nguyễn Lang. Thân phụ là người gốc Thanh Hóa, mẹ người làng Lệ Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông là con thứ trong một gia đình 5 con. Ông có người em là Nguyễn Đình An dạy học ở Nha Trang trước 1975. Hiện ở Long Điền còn có tổ đình dòng họ Nguyễn Đình của ông, nên chúng tôi xác định được ông tên là Nguyễn Đình Bảo chứ không phải Nguyễn Xuân Bảo.
1. Bị Hòa thượng Trí Thủ đuổi ra khỏi chùa
Năm 1942, ông vào tu ở chùa Từ Hiếu, thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, Huế, do Hòa thượng Huệ Minh trụ trì. Chùa này lúc đầu là "Thảo Am An Dưỡng" do Hòa thượng Thích Nhất Định lập và về sau được vua Tự Đức ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Vì sư tổ của Tổ đình Từ Hiếu là Hòa thượng Thích Nhất Định, nên khi đặt Pháp danh cho các tăng sinh tại đây, các vị chủ trì thường dùng chữ "Nhất" để làm chữ đệm. Có lẽ cũng vì thế, Nguyễn Đình Bảo đã được ban cho Pháp danh là Nhất Hạnh.
Cuối năm 1947, Phật học đường Trung Việt được lập tại chùa Báo Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện. Tăng sinh Nhất Hạnh được đến học tại đây, nhưng không hiểu vì lý do gì sau một thời gian ông bị thầy Trí Thủ đuổi ra.
Ông Võ Văn Ái, người thường sát cánh với Thiền sư Nhất Hạnh đã tiết lộ :
"Việc thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc, Huế. Chẳng biết phạm lỗi gì rất nặng nên bị đuổi ra khỏi chùa. Cố Hòa thượng T.T. (Trí Thủ) gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời. Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, phải chăng là một cách "trả thù" sự ép chế trước kia ?".
(Lê Thị Huệ, Phỏng vấn nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền Thi Vũ Võ Văn Ái, Câu hỏi và trả lời, 43).
Thiền sư Nhất Hạnh không bao giờ tự nhận mình là Đại đức, Thượng tọa hay Hòa thượng. Những danh xưng này do người khác gán cho ông mà thôi. Ông không phải là tăng sĩ.
2. Được đi du học Hoa Kỳ
Cuối năm 1948, ông rời Huế và lên Đà Lạt cư trú ở chùa Linh Dơn do Hòa thượng Thích Từ Mãn trụ trì. Ông và Đại đức Thích Thiện Minh mở lớp Sơ đẳng Phật học dạy về Phật giáo. Sau đó ông xuống Nha Trang học trung học. Năm 1956, ông vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và cư ngụ ở Phật học đường Nam Việt, số 243 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Sài Gòn. Từ năm 1964, Phật Học Đường này trở thành chùa Ấn Quang. Sau khi tốt nghiệp Đại học Văn khoa, ông xin đi du học Mỹ.
Ông Huỳnh Văn Lang, hiện ở Orange County, lúc đó là Tổng giám đốc Viện Hối Đoái, cho biết năm 1961 có hai sinh viên Phật giáo được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho đặc cách đi du học không phải qua Hội Đồng Du Học, đó là Đại đức Thích Trí Không (Trần Quang Thuận) và Thiền sư Nhất Hạnh.
Tôi biết Trần Quang Thuận được đi là nhờ ông Tôn Thất Hối, bạn đồng liêu với ông Diệm giới thiệu. Sau này ông Hối là bố vợ của Trần Quan Thuận. Thích Trí Không được đi du học Sri Lanka, rồi sau qua Anh. Sau khi xuất, Trần Quang Thuận làm việc cho CIA nhưng bị sa thải năm 1963 sau khi tổ chức vụ thiêu sống Thích Quảng Đức bị bại lộ.
Thiền sư Nhất Hạnh được ông Tôn Thất Thiết, Chánh văn phòng của ông Diệm giới thiệu. Thiền sư đã học về môn tôn giáo đối chiếu (comparative religion) tại Princeton University ở tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ, và tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại đây.
3. Trở thành Thiền sư Đại vọng ngữ
Để tạo uy thế cho chính mình, năm 1964, Thượng tọa Thích Trí Quang đã mời Thiền sư Nhất Hạnh về nước để làm Viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh mới thành lập và giúp ông thống nhất Phật giáo. Nhưng Hòa thượng Trí Thủ, lúc đó là Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đã bác bỏ, viện lý do Nhất Hạnh không phải là tăng sĩ vì đã bị ông đuổi năm 1948. Ông đòi đưa Thích Minh Châu từ Ấn Độ về. Cơ quan an ninh nói Thích Minh Châu là một đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam và đang hoạt động cho Hà Nội tại Ấn Độ với hồ sơ đầy đủ, nhưng Viện Hóa Đạo nhất quyết xin đưa ông về và cam kết không cho ông hoạt động cho cộng Sản nữa. Lâm vào thế kẹt, Thủ tướng Nguyễn Khánh đã phê vào hồ sơ : "Cứ cho về và theo dõi" !
Không được làm Viện trưởng Đại Học Vạn Hạnh, tháng 9 năm 1965 ông đi lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (School of Youth for Social Service), lúc đầu tại chùa Từ Nghiêm. Mục tiêu của trường được ghi rõ là "Lớp học giáo lý và các buổi hội thảo về chấm dứt cốt nhục tương tàn", tức tuyên truyền phản chiến với những câu hát như "Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai ?...". Tại đây ông đã gặp cô Fleurette Cao Ngọc Phượng, người Bến Tre, sinh năm 1938, và cô ta trở thành "Sư cô" của ông. Sau đó ông đi làm phản chiến.
Trong bài "Ngày em hai mươi tuổi", Thiền sư Nhất Hạnh có ghi lại : "Tôi rời đất nước năm 1966, vào tháng năm. Lúc đó chiến tranh Việt Nam đã đi tới mức khủng khiếp. Tôi nghĩ rằng mình phải ra đi để cất lên tiếng kêu gọi hòa bình...". Ông đến Pháp.
Cuối tháng 5 năm 1966, khi đang thuyết trình ở Pháp thì ông được tổ chức Fellowship for Reconciliation và Cornell University ở New York, hai tổ chức phản chiến của Mỹ, mời qua thăm Mỹ. Ngày 1/6/1966, ông đã được đưa ra trước diễn đàn Quốc hội Mỹ đọc một bản tuyên cáo nói về lập trương 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang giống 5 điểm đòi hỏi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Từ đó ông bắt đầu sử dụng vọng ngữ một cách trắng trợn để mô tả cuộc chiến của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa chống lại cộng sản. Mọi người có thể tìm thấy các lời vọng ngữ này tràn ngập trong cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, một đề nghị hòa bình của Phật Giáo), trong tuyên bố của Giáo Hội Ấn Quang tại Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Kyoto từ 16 đến 22/10/1970, trong bài diễn văn về vụ Mỹ tàn sát tại Bến Tre…
Sau vụ 911 tại New York, ngày 25/9/2001 một nhóm phản chiến Mỹ đã đưa Thiền sư Nhất Hạnh đến nói chuyện về sự tàn ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tại nhà thờ Riverside Church trước hàng ngàn cử tọa người Hoa Kỳ. Bài thuyết trình láo phét của ông về vụ Mỹ dội bom xuống Bến Tre trước năm 1975 khiến 300.000 người chết, đã làm nhiều người Việt phẫn nộ, biểu tình chống ông. Dân số Bên Tre lúc đó chỉ có khoảng 80.000, nhưng ông dám nói Mỹ đã giết tại đây tới 300.000 người ! Khi biết rõ sự thật, ông không hề đính chánh hay xin lỗi. Từ đó ông được gọi là "Thiền sư Đại vọng ngữ".
Kinh Pháp Cú, ở Phẩm Thế Gian, câu 176, có nói : "Những ai vi phạm đạo nhất thừa, những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào họ không làm được".
Tham vọng của Thiền sư Nhất Hạnh
Thiền sư Nhất Hạnh là một cư sĩ, không phải là tăng sĩ nên ông theo Pháp môn Tịnh độ, nhưng ông biến cải pháp môn này lại thành "Pháp môn Tiếp hiện", thường được gọi là "Pháp môn Làng Mai", áp dụng cho cả tăng sĩ lẫn cư sĩ.
Trong Thông điệp đầu năm 2002, dưới đầu để "Phật giáo dân tộc - Đạo Bụt hiện đại", ông nói rõ mục đích của Pháp môn Tiếp hiện của ông là : "tất cả các chùa, viện, niệm Phật đường và tư gia thuộc môn phái thực hiện được những bước tiến sau đây trong đường hướng xây dựng một nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại". Ông mơ tưởng đưa Phật giáo Việt Nam trở lại thời nhà Lý, chính quyền và giáo quyền là một.
Phương pháp của ông là khởi đầu từ hỗn hợp giữa Yoga, Thái cực và Pháp luân công để tiến tới Thiền định rồi Thanh tâm tịnh. Pháp môn này sẽ dần dần thay thế các pháp môn khác ở trong và ngoài nước để biến Phật giáo Việt Nam thành một tổ chức thống nhất. Đây là phương pháp Mỹ cũng đang tìm cách áp dụng tại Trung Quốc để làm thay đổi xã hội ở đó.
Xóa bỏ Giáo hội Ấn Quang : sứ mạng không thành !
Xóa bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, thường đươc gọi là Phật Giáo Ấn Quang, ở trong nước là chủ trương và kế hoạch của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Thiền sư Nhất Hạnh chỉ "tương kế tựu kế" vì nó phù hợp với mục tiêu và chủ trương của ông. Điều kiện : Nhà cầm quyền cho phép Thiền sư Nhất Hạnh thiết lập Làng Mai Bát Nhã tại Lâm Đồng với điều kiện ông thuyết phục được Hòa thượng Quảng Độ và các chức sắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất giải tán giáo hội này và sát nhập vào Giáo hội Phật Giáo nhà nước. Ông hy vọng với hạt mầm gieo được ở Lâm Đồng, ông sẽ làm cho Pháp môn Làng Mai lan ra cả nước, 400 thành 800, 800 thành 1.600... Chúng tôi gọi đó là "Chiến thuật vết dầu loang".
1. Một kế hoạch chu đáo
Để chuẩn bị cho việc khai thác Thiền sư Nhất Hạnh, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã cho Sư cô Thích Đàm Lan và Thượng tọa Đức Nghi qua Làng Mai ở Pháp "thọ giáo" với Thiền sư Nhất Hạnh, và mời Đoàn Thiền sư Nhất Hạnh và Sư cô Chân Không về thăm Việt Nam.
Thượng tọa Đức Nghi đã đến San Diego, nam California, thăm tu viện Lộc Uyển của Thiền sư Nhất Hạnh. Thượng tọa còn hứa sẽ khôi phục lại trường Thanh niên phụng sự xã hội do Thiền sư Nhất Hạnh lập năm 1964 và dâng tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng cho Thiền sư Nhất Hạnh. Tu viện này đã được đổi tên thành tu viện Làng Mai Bát Nhã.
Ngày 7/7/2006, Ban Tôn giáo chính phủ đã ban hành công văn số 525-TGCP-PG chấp thuận cho phép Làng Mai Bát Nhã tu học theo Pháp môn Làng Mai.
Thiền sư Nhất Hạnh thăm và tặng hoa Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2007
Với những sự "nới lỏng" như trên, Làng Mai tưởng mình đã "trúng mối" nên giúp thầy Đức Nghi phát triển Làng Mai Bát Nhã với hy vọng từ đó sẽ phát triển "Pháp môn Làng Mai" ở trong nước. Tăng thân Làng Mai kêu gọi Phật tử trong và ngoài nước giúp đỡ 2,8 tỉ VND để thầy Đức Nghi đứng tên mua 8 mẫu đất nhằm mở rộng cơ sở Làng Mai Bát Nhã, cấp cho thầy Đức Nghi 12,509 tỷ VND để xây dựng tăng xá, ni xá và các loại thiền đường, và 90.000 USD để xây dựng nhà dưỡng lão trên khuôn viên tu viện Bát Nhã, v.v. Thấy "thời cơ đã đến", Thiền sư Nhất Hạnh quyết định về Việt Nam thực hiện "diệu kế" của mình.
2. Thi hành "sứ mạng" thất bại
Đoàn Thiền sư Nhất Mạnh đã được nhà cầm quyền cho về thăm Việt Nam hai lần để thi hành "sứ mạng" :
Lần thứ nhất vào đầu năm 2005, dưới hình thức một đoàn múa lân đi trình diễn để hấp dẫn Phật tử. Ngày 11/1/2005, ông Phạm Thế Doanh, Phó Trưởng ban Tôn giáo chính phủ khẳng định : "Giáo hội Phật giáo sẽ tạo mọi điều kiện, cũng như đảm bảo an ninh cho đoàn trong thời gian ở Việt Nam".
Trong chuyến đi này, Thiền sư Nhất Hạnh đã thất bại trong việc xin tiếp kiến Hòa thượng Quảng Độ và gặp Thượng tọa Tuệ Sỹ, nhưng ông đã thuyết phục được các tăng sĩ và Phật tử của hai giáo hội ở Huế cùng "bồ tát" chung, với hy vọng sẽ dần dần tiến tới sáp nhập. Tuy nhiên, khi ông đi rồi, mỗi bên ai về nhà nấy.
Thất bại trong lần thứ nhất. Đoàn trở lại Việt Nam đầu năm 2007 dưới hình thức "Trai đoàn giải oan". Thiền sư Nhất Hạnh hy vọng rằng với danh nghĩa "cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh…", các tăng sĩ và Phật tử thuộc hai giáo hội sẽ cùng đến và ông sẽ CỘT cả hai bên lại với nhau. Nhưng phe Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất cũng không đến.
3. Làng Mai bị trắng tay
Vì Thiền sư Nhất Hạnh không thực hiện được sứ mạng giao phó, ngày 29/10/2008 ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn giáo chính phủ đã công bố văn thư số 1329/TGCP-PG lên án các hoạt động của các tăng thân Làng Mai :
"Ba lần về Việt Nam, tăng thân Làng Mai (nước Pháp) đã thực hiện một số việc như : tấn phong giáo phẩm không thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đề cập sai lệch những vấn đề chính trị của đất nước, đưa lên internet (website Làng Mai) một số thông tin sai sự thực và thực tế ở Việt Nam. Những việc làm ấy là vi phạm pháp luật Việt Nam".
Thiền hành cuối cùng tại tu viện Bát Nhã ngày 27/09/2009
Ngày 13/11/2008, công an xã Đambri, Lâm Đồng, đã áp dụng biện pháp cưỡng hành để trục xuất 400 đệ tử xuất gia và tăng sinh tu học theo pháp môn Làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhã. Trong số này, có 40 ni cô đến từ Huế và một số tu sĩ từ nước ngoài vào.
Nhất Hạnh trở về Việt Nam làm gì ?
Mục tiêu chuyến đi Việt Nam lần này của Thiền sư Nhất Hạnh đươc nói là về thăm Tổ đình Từ Hiếu, nhưng nhiều người tin rằng mục tiêu của ông là thử tìm xem có con đường nào khác để đưa Pháp môn Làng Mai xâm nhập vào Việt Nam trước khi ông từ bỏ cuộc đời này. Đó là ước vọng của ông. Nhưng đa số không tin ông có thể làm được chuyện đó vì cả nhà cầm quyền lẫn các chức sắc Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất đều biết rất rõ mục tiêu và chiến thuật của ông.
Ngoài ra, có nhiều dấu hiệu cho thấy người Mỹ đã nhận ra rằng Thiền sư Nhất Hạnh khó hoàn thành được sứ mạng trước khi qua đời, vì mục tiêu và chiến thuật của ông đã bị bại lộ. Trong thập niên gần đây, một số tăng sĩ Phật giáo Việt Nam khác đã được giúp đỡ để tiến hành kế hoạch mà họ muốn ông làm trước đây. Lá bài Nhất Hạnh không còn là lá bài duy nhất nữa.
Ngày 7/9/2017
Lữ Giang