Sau 44 năm cưởng chiếm Miền Nam, chế độ độc tài đảng trị đã dùng pháp luật là công cụ trấn áp áp người dân, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của hệ thống quan chức tham nhũng và những nhóm lợi ích thân hữu.
Cư dân ở vườn rau Lộc Hưng, ở phường 6, quận Tân Bình bị chính quyền địa phương phá hủy nhà trong những ngày giáp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi tiếp tục đấu tranh đòi công lý vì những khuất tất trong việc san ủi khu đất mà cha ông và họ cùng con cháu sinh sống từ những thập niên 1950.
Hệ thống tư pháp, hoạt động tố tụng của Việt Nam ngày càng bất công thối nát, tình trạng án oan sai tràn lan, người chết bất thường trong các trại giam ngày càng nhiều, tình trạng án oan sai ngày càng phô biến. Đắc biệt nhiều bản án tử hình oan đã bị vạch mặt như vụ Hàng Đức Long (Bắc Giang), Huỳnh Văn Nén (Bình Thuận)…. Hiện nay, thân nhân các tử tù Hồ Duy Hải (Long An), Lê Văn Mạnh (Thanh Hóa) vẫn đang tiếp tục hành trình kêu oan hàng chục năm trời.
Nhiều bản án bao che, bênh vực tội phạm kết án nạn nhân như vụ Đặng Văn Hiến vì chống cường quyền bảo vệ đất đai, đã ra tự thú mà vẫn bị kết án giết người ; bác sĩ Hoàng Công Lương thực hiện trách nhiệm thầy thuốc trị bệnh cứu người lại bị kết tội trong khi kẻ tham nhũng gây hậu quả chết người lại được bao che… Tòa án như màn diễn công khai để công khai hóa toan tính của thế lực cầm quyền. Các luật sư được khoác bộ đồng phục làm bình phong cho bức tranh hài công lý. Những lời bào chữa của luật sư dù hợp lý, sắc sảo đến mấy vẫn như nước đổ đầu vịt.
Chính sự bất công tàn bạo, cách hành xử hung ác đó làm tình trạng bạo lực ngày càng tràn lan đến mọi môi trường ngay cả những quan hệ từng xem là cao quý, nền nhã nhất trong các chế độ trước đây : nữ sinh bạo lực với nhau, cô giáo đánh học trò, thầy giáo dâm ô với học sinh cả nam lẫn nữ. Càng bức xúc hơn nữa là thái độ thờ ơ, vô cảm thậm chí là bao che cho sai phạm của những người có trách nhiệm khi vụ việc được phanh phui hoặc cáo giác của nạn nhân. Vụ cựu giám đốc ngân hàng nhà nước Bà Ria Vũng Tàu xâm hại nhiều em bé gia đình, dư luận tố cáo dai dẳng hai năm trời mới được xử lý. Vụ Nguyễn Mạnh Hùng tấn công một thiếu nữ trong thang máy chỉ bị xử phạt 200.000 đồng. Vụ thầy hiệu trưởng dâm ô hàng chục nam sinh diễn ra nhiều tháng nhiều năm, cả trường đều biết nhưng tất cả đều làm ngơ. Trong lúc ấy theo đại biểu quốc hội Lưu Bình Nhưỡng thống kê thì thiết chế bộ máy nhà nước, đoàn thể chính trị của đảng có từ 17-22 tổ chức bảo vệ trẻ em.
Ở mức độ lớn hơn những hành vi gây ô nhiểm, tàn phá môi trường, gây ngộ độc thực phẩm của Formosa của nhiệt điện Vĩnh Tân vẫn được chính quyền ngụy biện bao che thậm chí các quan chức cao cấp tầm Bộ trưởng còn tham gia những vỡ diễn sống sượng tắm biển, ăn cá để guồng máy tuyên truyền tăng âm tuyên truyền lừa mị người dân. Hệ thống BOT bẩn mọc lên dày đặt khắp cả nước rút máu người dân để làm giàu.
Những bất công ấy đã vượt qua khỏi sức chịu đựng của người dân. Biểu tình phản kháng đã diễn ra và bị đàn áp bắt bớ quy chụp. Nhiều người đã bị truy tố, bắt giam về những tội danh gây rối trật tự, chống người thi hành công vụ, âm mưu lật đổ chính quyền.
Thế nhưng, duy trì quyền cai trị bằng bạo lực, cường quyền, nuôi dưỡng tham nhũng, lợi ích nhóm bằng bạo lực độc tài, độc đoán là xây tường thành trên cát. Sự đàn áp tù đày của chế độ không thể đè nén, xói mòn lòng căm phẩn mà càng nung nấu cho nó ngày một mạnh mẽ hơn. Những thủ đoạn bao che, lấp liếm và cả guồng máy tuyên truyền công khai lẫn bí mật không thể bịt tai bịt mắt người dân và càng không thể trói buộc người dân xuôi thuận theo ác quỷ.
Một hiện tượng mới đang bùng phát trong điều kiện thế giới phẳng, công nghệ thông tin hiện đại ngày nay và người dân đã sáng tạo, hợp sức với nhau tự xác lập công lý cho mình bằng nhiều hình thức dộc đáo mà hệ thống cường quyền ở Việt Nam không thể bao che né tránh. Đã xuất hiện "những phiên tòa công bằng, công lý" thật sự của dân, do dân thực hiện và đặc biệt là án có hiệu lực thi hành ngay, trừng phạt đích đáng kẻ gian mà dù cho chính quyền có cố ngăn che cũng không làm được.
Mới đây nhất, phản ứng mạnh mẽ của cộng đồng đối với tên cựu Viện Phó Viện kiểm sát Đà Nẵng Nguyễn Hữu Linh "nựng" em bé trong thang máy chung cư ở quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh là điển hình cho hiện tượng này. Từ một clip của camera an ninh được đưa lên mạng, cộng đồng đã nhận diện, xác định danh tính hung thủ. Khi quyền lực nhà nước cứ chập chờn, lấp liếm thì quyền lực, công lý của xã hội đã thực thi. Nhà riêng của Linh thành điểm tham quan, tôi danh ấu dâm của Linh được sơn trên vách. Hình ảnh của Linh được đưa lên miếu thơ trên mạng. Thời hạn khởi tố điều tra Linh được tính từng ngày theo cách đồng hồ đếm ngược… Cuối cùng, các thế lực bao che phải buông tay. Linh bị khởi tố muộn màng và chắc sẽ được xử bằng bản án nặng hơn mức 200.000 đồng một chút nhưng bản án thích đáng của xã hội dành cho Linh đã quá đủ. Việc vợ Linh phải công bố bức tâm thư xin lỗi, nộp đơn kiện rồi rút đơn chứng minh kết quả này. Họ đã biết sức mạnh cường quyền nhà nước không thể trấn áp được lòng căm phẫn.
Sự kiện tập đoàn cá mập Masan mua chuộc các quan chức ra tiêu chuẩn nước mắm kiểu nước muối pha hóa chất của Masan và định dùng ngòi bút bẩn của truyền thông để tiêu diệt hệ thống nước mắm truyền thống ủ chượp từ cá đã bị bật bài. Dư luận lề trái đã phát hiện sự phi lý và nguy hiểm của tiêu chuẩn nước chấm Masan, chỉ thẳng ra những thủ đoạn và cả những cá nhân trong bộ máy chính quyền từ bô y tế, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ngậm miệng, mở miệng ăn tiền của Masan. Những con hạm quan chức tẽn tò nhưng điều quan trọng là chỉ trong một thời gian ngắn, giá cổ phiếu Masan tuột dốc không phanh. Tài sản của Nguyễn Đăng Quang bốc hơi hơn 3000 tỉ và còn có thể bốc hơi nhiều hơn nữa. Masan bối rối chống chỏi đến mức phải lấy lăng Hồ Chí Minh ra rao bán khuyến mãi và lại bị truyền thông lề trái phát hiện. Trớ trêu thay, trước việc phạm thượng đem rao bán vật thiêng của chế độ, hệ thống cầm quyền từ trung ương tới địa phương lại ngậm miệng nhắm mắt làm ngơ không một ai lên tiếng bảo vệ danh dự cho cha già dân tộc. Phải chăng Masan đã có phù phép nào đó bịt miệng nhà nước cường quyền.
Hiện tương thứ ba là cuộc chiến chống BOT bẩn kéo dài hai năm nay. Bắt đầu từ BOT đường tránh Cai Lậy, chỉ thi công một đoạn đường tránh hơn 10 km lại lập BOT trên quốc lộ chặn đường thu tiền như kẻ cướp bất chấp xe cộ có đi qua đường mới hay không. Phản ứng không mua vé, mua bằng tiền lẻ của giới lái xe và người dân nói chung đã lan ra cả nước. Ông thủ tướng chính phủ kiến tạo lẽ ra phải cám ơn người dân phát hiện và ra tay mạnh mẽ xử lý những con sâu khổng lồ đang hút máu dân, vắt kiệt sức nền kinh tế, xóa bỏ, thậm chí truy tố những kẻ trục lợi bất chánh bằng BOT lại ỡm ờ dùng công an dọa nạt người dân. Một số người dân bị bắt nhưng đến nay, BOT Cai Lậy vẫn chưa dám tái khởi động thu dù đã gia hạn nhiều lần, một số BOT khác như Thăng Long - Nội Bài phải vỡ trận hoặc giảm giá vì sự chống dối của giới lái xe. Cuộc chiến chống BOT bẩn của người dăng dẳng còn đang tiếp diễn.
Đấu tranh thực thi công lý, không van xin, không cúi đầu trước chính quyền bạo ngược, đó là tín hiệu mới của mùa xuân thứ 44 sau tháng tư đen.
Gió Bấc
Nguồn : RFA, 29/04/2019 (Gió Bấc's blog)
Thấm thoát mà đã 44 năm (1975-2019), cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã chấm dứt nhanh gọn, phi lý và bất ngờ cho cả hai bên nội thù tham chiến, sau 21 năm diễn ra khốc liệt (1954-1975). Thế nhưng theo phân định của chúng tôi, đó mới chỉ là sự kết thúc một giai đoạn của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài nhiều thập niên qua.
Một buổi tưởng niệm biến cố 30 tháng Tư tại Westminster, California.
Cuộc nội chiến ấy vẫn tiếp diễn từ sau ngày 30/04/1975 đến nay và vẫn đang tiếp tục, là vì cuộc chiến ấy vẫn chưa phân thắng bại theo nghĩa chưa bên nào thành đạt mục tiêu tối hậu của mình : Việt cộng chưa thành đạt mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ; Việt quốc chưa thành đạt mụ ctieâu dân chủ hóa đất nước. Và vì vậy hàng năm cứ đến ngày 30-4, bên "Việt cộng" (những người Việt Nam cộng sản) thì ăn mừng như một "ngày đại thắng" ; còn bên "Việt quốc" (những người Việt Nam quốc gia ) thì tưởng niệm như một "ngày quốc hận" và coi cả Tháng 4 là "Tháng Tư đen". Vì sao ?
I. Ý nghĩa từ ngữ "Ngày Quốc hận" và 'Tháng Tư đen"
Chúng tôi không biết cá nhân hay đoàn thể Việt quốc nào ở hải ngoại lần đầu tiên đã dùng từ ngữ"Quốc hận" để gọi ngày 30/04/1975 và "Tháng Tư đen" để chỉ tháng 4/1975. Nhưng điều đó không quan trọng bằng ý nghĩa của từ ngữ này đã nói lên được điều gì ?
Theo suy luận của chúng tôi thì cụm từ"Ngày Quốc hận 30-4" diễn tả nỗi đau uất hận của những người Việt quốc gia từng sống ở Miền Nam Việt Nam trước 30/04/1975, dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa. Vì ngày ấy đánh dấu chế độ tự do dân chủ non trẻ ở Miền Nam Việt Nam bị cưỡng tử, khiến cho gần 20 triệu dân quân Miền Nam Việt Nam lúc đó mất hẳn vùng đất tự do, rơi vào ách thống trị chế độ độc tài toàn trị Việt cộng.
Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử, có nghĩa là đã bị bắt buộc phải "chết bất đắc kỳ tử", khi mà chế độ ấy cơ thể như còn khỏe mạnh, không thể chết được hay ít ra chưa thể chết ngay được, còn có thể cứu vãn được tình hình để hồi phục và tồn tại. Bị cưỡng tử vì chính quyền, quân, dân của chế độ có chính nghĩa ấy vẫn còn thừa khả năng chiến đấu để tự tồn, trước một đối phương Việt cộng phi chính nghĩa, ngụy dân tộc lúc đó đang ở thế cùng lực kiệt, thực sự không có khả năng để có được một chiến thắng như"trên trời rớt xuống" nhanh như vậy.
Thế nhưng, đối phương ấy đã được các thế lực khuynh đảo quốc tế sắp xếp cho đóng vai "Bên thắng cuộc", trong một cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), chỉ vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực. Thật là điều bất công, phi lý khi họ đã cho phe "Tà cộng" thắng "Chính quốc". Quốc tế và đồng minh Hoa Kỳ đã làm ngơ bỏ mặc Việt Nam Cộng Hòa, trước hành động xâm lăng của Việt cộng, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình choViệt Nam ngày 27/01/1973, dù có những cam kết đa phương và bảo đảm quốc tế.
Như thế bảo sao người Việt quốc gia ở Miền Nam Việt Nam không uất hận. Chính vì vậy ngày 30/04/1975 đã là "Ngày Quốc hận" và Tháng Tư năm 1975 đã là "Tháng Tư đen" đối với người Việt quốc gia ở hải ngoại cũng như trong nước. Bởi vì ngày ấy, tháng ấy đã diễn ra những sự kiện đen tối cho Việt quốc và là ngày tháng khởi điểm đưa toàn cõi Việt Nam vào một giai đoạn "Đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời cận đại" : Giai đoạn cộng sản hóa cả nước !
Vậy thì :
II. Việt quốc hận ai, hận cái gì và hận để làm gì ?
1. Trước hết Việt quốc hận ai và hận cái gì ?
Về mặt khách quan, Việt quốc hận đối phương Việt cộng đã đành, mà còn hận cả người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, nay đã và đang trở thành là đối tác làm ăn với cựu thù Việt cộng từ sau 1995, bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà cầm quyền Việt cộng…
Về mặt chủ quan, người Việt quốc gia hận những người lãnh đạo hàng đầu về chính trị cũng như quân sự có trách nhiệm trước sự sụp đổ nhanh chóng chế độ Việt Nam Cộng Hòa và có thể hận với chính mình nữa.
Thật vậy, người Việt quốc gia ở hải ngoại 44 năm qua và có thể cho đến lúc chết vẫn mang trong lòng mối hận người, hận mình, với tính chất và cường độ hận khác nhau.
- Mối hận hàng đầu là đối với đối phương Việt cộng. Với đối tượng này, tính chất và cường độ mối hận phải được diễn đạt bằng ngôn từ "căm hận"hay "căm thù". Căm hận hay căm thù Việt cộng là điều tất nhiên, vì là đối phương, kẻ thù chính trong một cuộc chiến phi nghĩa do họ phát động, tiến hành đã gây nhiều hận thù trong chiến tranh. Và sau cuộc chiến tiếp tục gây nhiều thù hận vì đã xích hóa nhân dân cả nước dưới chế độ độc tài cộng sản hà khắc, tàn bạo, phi nhân.
Trong chế độ này, Việt cộng đã sử dụng "Chuyên chính vô sản" cướp đoạt mọi tài sản của nhân dân Miền Nam (bị miệt thị là "ngụy"), đầy ải hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù "Tập trung cải tạo". Trong khi cha, mẹ, vợ con họ ở nhà bị Việt cộng phân biệt đối xử như những công dân hạng hai, bị bạc đãi, xua đuổi khỏi các thành thị hay các vùng đất mầu mỡ, đẩy đến các vùng kinh tế mới nơi đèo heo hút gió, đồi núi khô cằn hay bùn lầy nước đọng ; phải bỏ lại tất cả nhà cửa, đất đai tài sản và các tiện nghi khác nơi các thành thị hay nông thôn, nhường lại tất cả cho "Bên thắng cuộc" mà trên hết và trước hết là cho giai cấp mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức có quyền thụ hưởng.
Không căm hận và thù hận sao được, khi khởi đi từ Tháng Tư đen 1975, Việt cộng đã đưa cả đất nước và dân tộc vào một thời kỳ bi thảm và đen tối nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Bởi vì từ đó, Việt cộng đã phá nát tài sản quốc gia, của nổi cũng như của chìm, nhượng đất, nhượng biển cho ngoại bang, làm băng hoại toàn diện đất nước về vật chất cũng như tinh thần. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nền đạo đức luân lý xã hội cổ truyền đã bị đảo lộn, phá hủy, thay vào đó cái gọi là "Nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa" vô luân, vô thần. Mọi tôn giáo, tín ngưỡng của người dân đều bị bài bác và tìm cách tiêu diệt qua các hành động chống phá các giáo hội và đàn áp, khủng bố các chức sắc giáo hội và tín đồ dưới nhiều hình thức tinh vi, thâm độc.
Mọi tầng lớp nhân dân bị bác đoạt các dân quyền và nhân quyền cơ bản. Đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân bị đói khổ lầm than và sự cách biệt giầu nghèo giữa thiểu số giai cấp thống trị cán bộ đảng viên cộng sản với tuyệt đại đa số nhân dân ngày một sâu sắc. Hệ quả là sau nhiều năm cầm quyền, Việt cộng đã làm tan hoang đất nước, lòng người ly tán, hận thù và đói nghèo, di hại toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ Việt Nam tương lai phải gánh chịu… Nếu như vào năm 1995, không được cựu thù "Đế quốc Mỹ" mở rộng vòng tay tạo cơ hội thoát hiểm để có bộ mặt "phồn vinh" như hôm nay (1).
Hận kẻ nội thù Việt cộng là như thế, còn đối với người bạn Hoa Kỳ đồng minh năm xưa thì sao, Việt quốc hận gì ?
Tất nhiên là có hận, nhưng mối hận có khác về tính chất và cường độ được diễn đạt bằng ngôn từ"oán hận" hay "uất hận". Nó tương tự như mối hận của một người tình bị phụ bạc sau những năm chăn gối mặn nồng tưởng như chung thủy. Vì sao hận và hận cái gì ?
Câu trả lời chi tiết thì đã được nhiều người đưa ra, còn câu trả lời tổng quát thì đã được tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tổng thống dân cử cuối cùng nền Đệ nhị chế độ Việt Nam Cộng Hòa đưa ra trong bài diễn văn từ nhiệm ngày 21/04/1975 trước khi kịp "lưu vong", rằng "Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Thật vậy, họ đã phản bội chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với một nước đồng minh nhỏ…". Đây là những lời tố cáo muộn màng của người lãnh đạo cao nhất chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau 9 năm cầm quyền, chẳng thay đổi được gì, chỉ bầy tỏ nỗi uất hận của cá nhân và cũng là mối uất hận chung của quân, dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa trước sự "phản bội" của Hoa Kỳ.
Sự bầy tỏ uất hận trên đây của cố Tổng thống Thiệu có tính đổ lỗi cho Hoa Kỳ, song vẫn không tránh khỏi mối hận thứ ba của người Việt quốc gia đối với cá nhân ông Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Vì chính họ đã là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30/04/1975, đã tạo tiền đề cho ngoại bang để cho Việt cộng đóng vai "Bên thắng cuộc" trong cuộc chiến, dù chỉ là chiến thắng giả tạo (Chiến thắng biểu kiến như chúng tôi phân tích trình bầy trong tài liệu nghiên cứu lý luận "Việt Nam trong thế chiến lược quốc tế mới") song thực tế đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước Việt Nam, như mọi người đã biết.
Oán hận và uất hận, vì với trách nhiệm lãnh đạo, họ đã để mất Miền Nam Việt Nam vào tay Việt cộng một cách dễ dàng, chóng vánh và hầu hết trong số họ đã kịp cao bay xa chạy di tản ra hải ngoại trước khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử, để lại sau lưng hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính cho đối phương Việt cộng hành hạ, sỉ nhục trong các trại tù "cải tạo" nhiều năm sau đó. Nhất là đã đẩy gần 20 triệu nhân dân Miền Nam Tự do rơi vào ách thống trị cộng sản độc tài và độc ác, cùng chia khổ và bị xích hóa với nhân dân Miền Bắc trong gông cùm của cái gọi là "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" kéo dài ít nhất là hơn 20 năm (1975-1995) và sau đó cho đến hôm nay (2019) Việt Nam đã có nhiều đổi thay theo hướng tích cực khởi đi từ 1995, khi Hoa kỳ bãi bỏ cấm vận, tạo thuận lợi cho chính sách "Mở cửa"đưa Việt nam từng bước hội nhập với thế giới văn minh.
Trên đây là những mối "hận người", còn với "chính mình" thì sao ?
Có lẽ người Việt quốc gia cũng phải xét mình để tự"hận mình", song với tính chất và cường độ có khác, được diễn tả bằng từ "ân hận". Tùy vị trí trong xã hội Miền Nam, trong tương quan với cuộc chiến để có "mối ân hận khác nhau". Ân hận rằng nếu như ngày ấy, ở vị trí ấy mình nên làm thế này, không nên làm thế kia thì có thể đã góp phần xây dựng và củng cố chế độ, chính quyền, quân đội, xã hội ở Miền Nam ngày một vững mạnh, để không thể xẩy ra "Ngày Quốc hận 30/04/1975", ngày cuối cùng của một "Tháng Tư đen" ?
Chẳng hạn là người chỉ huy lãnh đạo các cấp chính quyền, quân đội "ân hận" vì đã không quan tâm đúng mức và dồn hết tâm lực cho cuộc chiến chống cộng bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa và phần đất Miền Nam tự do. "Ân hận" vì đã lợi dụng vị trí lãnh đạo, chức quyền mua quan bán chức, nuôi dưỡng lính ma lính kiểng để thủ lợi, tham nhũng, đục khoét của công để làm giầu bất chính ; tập trung vào các hoạt động hưởng thụ, ăn chơi trong lối sống tương phản với cuộc chiến đấu gian nguy của những người lính tham chiến trực tiếp với Việt cộng và đời sống thiếu thốn của gia đình họ ? "Ân hận" vì đã cấu kết bè phái để tranh danh đoạt lợi, ám hại những người công chính, coi lợi ích cá nhân và phe nhóm cao hơn lợi ích chống cộng ; khoán trắng việc chống cộng cho Hoa Kỳ và coi việc chống cộng thắng bại là trách nhiệm của Hoa Kỳ, do Hoa Kỳ hoạch định, tài trợ mọi mặt ?
Chẳng hạn là những thương gia ân hận vì đã chạy theo lợi nhuận, móc ngoặc, mua chuộc hủ hóa các viên chức chính quyền quân sự cũng như dân sự, môi giới buôn bán vũ khí và cung cấp lương thực cho Việt cộng… ?
Chẳng hạn, là bậc cha mẹ đã ân hận vì đã tìm cách chạy chọt cho con làm lính ma, lính kiển, để được về phục vụ hậu phương xa chiến trường lửa đạn. Là thanh niên ân hận vì đã hèn nhát, tham sống sợ chết, tìm cách trốn lính khi đến tuổi thi hành nghĩa vụ trai thời loạn.
Chẳng hạn là những người gốc Việt cộng, hay ngưỡng vọng Việt cộng, hay "nằm vùng", "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" sớm muộn nay đã "phản tỉnh" thì ân hận vì những nhận thức, hành động sai lầm trong quá khứ làm lợi cho Việt cộng, hại cho quốc gia ngày ấy….
2. Đến đây, Việt quốc mang mối "hận" để làm gì ?
Theo suy luận của chúng tôi, đối với Việt cộng, Việt quốc "căm hận" không phải nuôi chí phục thù rửa hận theo kiểu "răng đền răng, mắt đền mắt" thời Trung Cổ ở Tây phương ; cũng không phải tìm cách diệt đến người Việt cộng cuối cùng. Vì điều này không phù hợp với bản chất nhân đạo và lý tưởng chiến đấu của Việt quốc (mà dù ai đó vì "căm thù Việt cộng" có muốn thế cũng không thể làm được).
Nhưng điều Việt quốc có thể, đã và đang làm và chắc chắn làm được để"phục thù" Việt cộng là kiên trì đấu tranh vương đạo như đã kiên trì đấu tranh 44 năm qua nhằm làm tiêu vong toàn bộ chế độ độc tài toàn trị Việt cộng để thiết lập chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Thắng lợi sau cùng này của cuộc đấu tranh sẽ khẳng định sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia và như thế là Việt quốc đã rửa được mối "Quốc hận 30/04/1975" ?
Đối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ năm xưa, từng là đối thủ trong chiến tranh, nay lại là "Đối tác" làm ăn với Việt cộng, song cũng vẫn đang là đồng minh với Việt quốc về mục tiêu hiện thực lý tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Mối "oán hận" chỉ nên coi là bài học kinh nghiệm để có cách ứng xử thận trọng và khôn ngoan hơn trong tương lai sao cho có lợi cho sự nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam. Đó là bài học kinh nghiệm về tinh thần độc lập tự chủ, sức mạnh đoàn kết và luôn chủ động trong tổ chức, chiến lược, chiến thuật đấu tranh chính trị, ngoại giao, truyền thông, để huy động được sức mạnh nội lực (trong nước) cũng như ngoại lực (quốc tế), nhưng luôn dựa trên sức mình là chính để chống cộng và thắng cộng.
Đối với những người lãnh đạo có trách nhiệm đã để chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, mối hận của Việt quốc đến nay sau 44 năm dường như đã được cảm thông và tha thứ phần nào đối với những người còn sống hay đã khuất. Có lẽ vì ghĩ lại, trong bối cảnh Miền Nam vào những năm tháng cuối cùng trước khi rơi vào tay Việt cộng, Hoa kỳ đã có ý định bỏ cuộc và cố tình tạo tiền đề thuận lợi cho Việt cộng cưỡng tử Việt Nam Cộng Hòa càng nhanh càng tốt, để khỏi phải dính líu thêm nữa, rút ngắn thời gian đi vào thế chiến lược quốc tế mới ; thì cá nhân cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn lãnh đạo chính trị cũng như quân sự chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cũng chẳng làm được gì hơn là trốn chạy để bảo toàn tính mạng ; trừ khi họ dám chọn cái chết hào hùng để trở thành anh hùng bất tử như các vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ... Tiếc rằng phần đông họ đã không chọn con đường như vậy. Thôi thì công tội của họ xin hãy đề lịch sử mai này phán định công minh.
Riêng mối hận mình, mỗi người trong bên Việt quốc hãy tự xét mình xem có điều gì "ân hận" về những gì nên làm đã không làm hay không nên làm mà đã làm có lợi hay có hại cho Việt quốc, có lợi cho Việt cộng trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng hôm qua ?- "Ân hận" để tự rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng vào cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam hôm nay, để chỉ nên làm những gì có lợi , tránh làm những gì có hại cho sự nghiệp chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước.
Có như vậy Việt quốc mới rửa được "Quốc hận 30/04/1975", ngày cuối cùng của "Tháng Tư đen", để đưa cất những ngày, tháng, năm này đi vào những trang lịch sử đen tối nhất của dân tộc, đất nước, mở ra những trang sử mới tươi sáng cho Tổ Quốc Việt Nam.
Houston, tháng Tư năm 2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 09/04/2019
(1) Xin "Bên thắng cuộc" Việt cộng đừng vì tự ái mà vội phủ nhận và ngụy biện về thực tế này
Lịch sử Miền Nam Việt Nam thật kỳ lạ : hai cái mốc lịch sử ấy lại cách nhau đúng 20 năm - đánh dấu lúc khai sinh và lúc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Tổng thống Ngô Đình Diệm trong một hình tư liệu. Bên phải là cố vấn Ngô Đình Nhu, em trai ông
'Tháng Tư Đen' thứ nhất : năm 1955
Sau khi ông Ngô Đình Diệm nhận chức Thủ tướng vào Hè 1954, Sài Gòn dần dần chìm đắm vào cảnh nội loạn. Lý do chính yếu là Pháp nhất quyết dẹp Thủ tướng Diệm để thành lập một chính phủ thân Pháp và bảo vệ quyền lợi của Pháp.
Tình hình chính trị khó khăn tại Miền Nam từ năm 1954 kéo dài sang năm 1955.
Tư lệnh quân đội Pháp Paul Ély thuyết phục được Đại sứ Mỹ Lawton Collins rằng ông Diệm không thể lãnh đạo Miền Nam Tự Do.
Ông đề nghị năm bước để thay thế Thủ tướng Diệm (chỉ mới chấp chính được mười tháng). Collins đích thân bay về Washington để áp lực cả tổng thống lẫn ngoại trưởng.
Sau cùng cả Tổng thống Eisenhower lẫn Ngoại trưởng Dulles đã phải nghe theo - dù hết sức lưỡng lự.
Washington gửi điện mật tới Sài Gòn đồng ý cho đảo chính vào lúc Pháp đang bí mật yễm trợ lực lượng Bình Xuyên lật đổ Tổng thống Diệm.
Vào mùa xuân 1955, ngoài đối phó với Pháp, ông Diệm còn có vấn đề lớn lao nữa là việc định cư gần một triệu dân di cư từ ngoài Bắc vào Nam, bất chợt làm tăng dân số Miền Nam lên 7%.
Khi đưa một số dân lên khai khẩn các khu dinh điền trên cao nguyên, ông Diệm bị chỉ trích là mang người Kinh lên chiếm đất của người Thượng. Nhiều người còn dị nghị là chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị Bắc Nam và thiên vị người Công giáo.
Không những tình hình chính trị mà tôn giáo tại Miền Nam thật rối ren. Vào tháng 3, các giáo phái thành lập "Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia".
Quốc trưởng Bảo Đại ủng hộ Mặt trận và thông báo cho Mỹ là ông Diệm không còn hữu hiệu nữa. Ngày 21 tháng 3, 1950 Mặt trận tống đạt một tối hậu thư, đòi ông Diệm trong vòng năm ngày phải thành lập chính phủ mới, gồm đại diện của các lực lượng dân chủ đối lập nếu không họ sẽ biểu tình.
Thành lập xong, đại diện Mặt trận liên lạc ngay với phía Mỹ để yêu cầu ủng hộ việc đòi ông Diệm phải thành lập chính phủ mới. Tại Sài Gòn, Đại sứ Collins tuy là chống biểu tình nhưng khuyên ông Diệm phải thương thuyết để dung hòa với Mặt trận, như vậy "có thể đổi thù thành bạn".
Thoạt đầu ông Diệm đồng ý, nhưng khi các giáo phái nói là không thể điều đình về những yêu sách của họ, ông Diệm cho ông Collins biết là sẽ dùng vũ lực để giải quyết. Collins không đồng ý, trả lời rằng quân đội sẽ không ủng hộ việc dùng vũ lực và tiếp tục khuyên ông Diệm phải tìm giải pháp ôn hòa.
Một quyết định táo bạo
Cuối tháng 3, 1955 bầu không khí Sài Gòn trở nên ngột ngạt sau khi ông Diệm ban hành sắc lệnh tách Cảnh sát Biệt khu Thủ đô ra khỏi hệ thống chỉ huy của Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia Lại Văn Sang. Không thông báo cho Đại sứ Mỹ, ông Diệm bắt đầu xúc tiến kế hoạch truất chức ông Sang và tấn chiếm Trung tâm Cảnh sát, dự định cả hai việc sẽ được thi hành vào ngày 29 tháng 3.
Thế nhưng chỉ mấy giờ trước khi kế hoạch bắt đầu, Pháp biết được tin này nên gấp rút can ngăn ông Diệm, hứa sẽ tìm cách đưa quân đội Bình Xuyên ra khỏi lực luợng cảnh sát.
Đại sứ Collins cũng đến gặp ông Diệm để phản đối việc dùng vũ lực.
"Nếu ngài giải quyết vấn đề bằng cách này, chúng tôi sẽ bị áp lực mạnh mẽ phải ủng hộ việc thay đổi chính phủ ngài".
Đêm 29 rạng 30 tháng 3, giao tranh giữa Bình Xuyên và quân đội quốc gia đã xảy ra, nhưng vào lúc 3g15 sáng, tướng Ely áp đặt ngay lệnh ngưng chiến.
Để biểu dương lực lượng, ông cho xe thiết giáp quần trên đường phố Sài Gòn. Vì đã có giao tranh đem đến đổ máu và chết chóc, Pháp nhân cơ hội này sắp xếp một kế hoạch toàn bộ để dẹp ông Diệm.
Một mặt thì thuyết phục Đại sứ Collins (cũng là cựu chiến hữu với Ély trong Thế Chiến II) về ông Diệm không đủ tài năng và uy tín, mặt khác thì đề với nghị Quốc trưởng Bảo Đại ở Cannes phải có hành động quyết liệt như cất chức ông Diệm, đồng thời ngấm ngầm yểm trợ lực lượng Bình Xuyên.
Tổng thống Ngô Đình Diệm trong một ảnh chụp cuối tháng 11/1955
Tháng 4/1955 : năm bước để loại bỏ Thủ tướng Diệm
Pháp đã thành công trong việc thuyết phục được Đại sứ Mỹ Collins. Ngày 9 tháng 4, 1955 ông Collins gửi Ngoại trưởng Dulles một điện văn dài, đề nghị toàn bộ cách giải quyết cuộc khủng hoảng tại Sài Gòn. Đề nghị này gồm hai phần : sắp xếp việc ông Diệm 'từ chức,' và thẩm định hậu quả của việc từ chức. Tóm tắt phần một như sau :
Hãy xem công điện số 4448
Ngày 9 tháng 4, 1955
Việc sắp xếp cho ông Diệm từ chức gồm 5 bước đi :
1. Giải quyết vấn đề rút Cảnh sát và Công an ra khỏi tay Bình Xuyên ;
2. Thuyết phục ông Diệm từ chức ;
3. Tìm người thay thế ông Diệm làm Thủ tướng ;
4. Đi tới một thỏa thuận về giải pháp đối với các giáo phái ; và
5. Vận động để các giáo phái chấp nhận giải pháp trên.
Nửa đêm ngày 28 tháng 4
Khuyến cáo của Đại sứ rõ ràng, mạch lạc là như vậy, nhưng tại Washington phản ứng về vụ Bình Xuyên nổ súng thì lại khác.
Ngay trước khi kim đồng hồ chỉ nửa đêm ngày 28 tháng 4, 1955 ở Sài Gòn tức là trưa ngày 29 tháng 4 ở Washington, Ngoại trưởng Dulles nhận được tin "giao tranh đã bắt đầu giữa Quân đội Quốc gia và Bình Xuyên" khi ông đang ăn trưa với một số dân biểu lưỡng đảng tại Tòa Bạch Ốc :
"Đây là cơ hội chúng ta đã chờ đợi để tìm hiểu xem ông Diệm có đủ can đảm và quyết tâm hành động không, và cũng để biết được Quân đội Việt Nam có trung thành với ông ta hay không", ông Dulles nói với các dân biểu, "Nếu chứng tỏ được hai điều này thì ta hết lo (we are over the hump) ; còn nếu như ông thất bại về một trong hai điểm thì bắt buộc ông ta phải từ chức. Dù sao chúng ta cũng sẽ có câu trả lời".
Tổng thống Eisenhower chỉ thị :
"Nếu như ông ta thất bại thì thật là bết bát, nhưng ta cần phải tìm hiểu ngay bây giờ hơn là để muộn về sau, xem Quân đội Quốc gia mà ta tốn phí quá nhiều để phát triển liệu có trung thành với ông ta hay không".
Trong hoàn cảnh xáo trộn và trước sự chống đối ông Diệm của Đại sứ Collins, Tổng thống Eisenhower gọi ông Collins về Washington để tham khảo. Trước khi đi, ông Collins còn gửi đề nghị cho Tổng thống Eisenhower (19/04/1955) là vẫn phải thay thế ông Diệm.
Rồi Collins còn đến gặp ông Diệm một lần nữa và báo cáo về Washington là ông đã nói thẳng với ông Diệm rằng chính phủ của ông ta sẽ không thể tồn tại nổi được ba tháng nữa, và nếu cứ tiếp tục như thế này thì loạn lạc là điều trông thấy.
Và vì vậy, "Tôi thêm rằng bắt buộc tôi phải báo cáo cho chính phủ tôi rằng hành động của ông Diệm sẽ dẫn tới một cuộc nội chiến".
Theo Collins, ông Diệm đã trả lời rằng mỗi khi ông nhân nhượng và thỏa hiệp thì vấn đề lại trở nên khó khăn hơn.
Vì sợ ông Diệm lợi dụng lúc Collins không có mặt ở Sài Gòn để tấn công Bình Xuyên và đặt Mỹ vào một việc đã rồi nên Collins còn căn dặn ông Diệm là "Ngài nên làm bất cứ điều gì có thể để tránh xảy ra một cuộc xung đột trong khi tôi đi vắng".
Cao ủy Pháp, tướng Paul Ely (giữa) cùng ông Ngô Đình Diệm, lúc đó mang chức Thủ tướng, tại một chùa ở Chợ Lớn trong lễ Phật giáo tưởng niệm chiến sĩ trận vong Pháp - Việt tháng 1/1955
Ông Diệm nói lảng đi, phàn nàn rằng nếu như ông đã cất chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Lại Văn Sang ngay từ đầu thì bây giờ tình hình tại Sài Gòn đã có thể kiểm soát được rồi.
Chào tạm biệt, ông Collins cho ông Diệm hay là chính Quốc trưởng Bảo Đại sẽ giải nhiệm ông nếu tình hình này cứ kéo dài. Kết thúc bản báo cáo gửi Washington, Collins đề nghị :
"Tôi không thấy, nhắc lại là không thấy, một giải pháp nào khác ngoài việc thay thế ông Diệm cho sớm".
Bên bờ vực thẳm
Đại sứ Collins về tới Washington ngày thứ Năm, 21/04.
Ngày 22 tháng 4, ông dùng bữa ăn trưa với Tổng thống Eisenhower, và sau đó gặp Ngoại trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc phòng và Trung ương Tình báo để 'lobby' chống ông Diệm. Ông nhắc lại quan điểm của ông một cách mãnh liệt và cứng rắn hơn trước là Mỹ phải thay thế ông Diệm và có kế hoạch hành động ngay tức khắc.
Trước áp lực mạnh mẽ của Collins, vừa là đặc ủy của Tổng thống, vừa là đại sứ, lại là chứng nhân có mặt tại chỗ để nhận xét, nên sau cùng ông ta đã thắng thế. Ngày 27 tháng 4, ông Dulles đã đồng ý một cách lưỡng lự.
Ông chấp thuận một mật điện do Bộ Ngoại giao soạn thảo ra lệnh thay thế Thủ tướng Diệm. Ông Young viết lại rằng :
"Chẳng một ai trong chúng tôi thật sự tin tưởng vào bức điện đó, nhưng chúng tôi phải đối diện với những đề nghị mạnh mẽ của Collins và ưu thế của ông là ông ta đã đến Tòa Bạch Ốc ngay hôm sau ngày ông từ Sàigon về tới Washington".
Mật điện lịch sử ngày 27/04/1955 : thay thế Thủ tướng Diệm
Bức điện ngày 27 tháng 4, 1955 cho phép sắp xếp thay thế Thủ tướng Diệm trích dẫn ở phần Phụ Lục là một văn kiện lịch sử hết sức quan trọng. Nó giống như mật điện ngày 24 tháng 8, 1963 vào lúc sắp xếp việc đảo chánh.
Sau đây là tóm tắt :
Bộ Ngoại giao
Ngày 27/04/1955
"Tướng Collins và Ely phải thông báo cho Thủ tướng Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chinh phủ mới nào được chỉ định…
"Chúng tôi tạm đề nghị một tân chính phủ như sau :
1. Nội các : quyền hành pháp đầy đủ trao cho [Trần Văn] Đỗ hoặc [Phan Huy] Quát làm thủ tướng và phó thủ tướng…
2. Hội Đồng Tư Vấn khoảng từ 25 đến 35 đại diện các phe nhóm, gồm cả các giáo phái…và
3. Quốc hội Lâm thời : một cơ chế gần như một Quốc Hội Lập Pháp, gồm những người đã trù liệu được bầu ra hay chỉ định theo lịch trình…".
Dulles
Bộ Ngoại giao gửi mật điện đi vào lúc 6 giờ chiều ngày 27/04 giờ Washington nhưng khi chỉ thị vừa được gửi đi là tin tức này đã lọt ra ngoài nên ông Diệm biết được và đã hành động kịp thời.
Những giờ phút quyết liệt cuối tháng 4/1955
Theo tác giả Mark Moyar trong cuốn Triumph Foresaken (xuất bản năm 2006) thì :
"Trong mấy giờ đồng hồ hết sức cam go sau khi gửi mật điện này, Washington nhận được rất nhiều điện văn dồn dập do Đại tá Landsdale gửi.
Rồi ngay trước khi kim đồng hồ chỉ nữa đêm giờ Washington (Sài Gòn là trưa) Landsdale báo cáo là "giao tranh đã bắt đầu giữa Quân đội Quốc Gia và Bình Xuyên".
Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles nghe vậy giật mình, quyết định hủy bỏ kế hoạch Collins nhằm dẹp ông Diệm, đồng thời ra lệnh cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Paris và Sài gòn phải gấp rút đốt hết các mật điện nói về việc này.
Về thời điểm này, tác giả nổi tiếng về lịch sử Việt Nam Joseph Buttinger trong cuốn "Vietnam, A Dragon Embattled" nhận xét :
"Trong sự tranh đấu để thu hồi và bảo vệ được quyền bính, ông Diệm đã trải qua nhiều giai đoạn bất trắc và khổ cực. Tuy nhiên, cho dù cả trong những tuần lễ trước cuộc đảo chánh và ám sát ông năm 1963, ông Diệm cũng đã không bị gian lao, cay đắng bằng trong tháng 4, 1955".
May mắn cho kế hoạch khai sinh Việt Nam Cộng Hòa
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm trong một chuyến thăm Hoa Kỳ
Trước khi rời Sài Gòn về Washington (ngày 20/04), theo tác giả Mark Moyar trong sách đã viện dẫn, Đại sứ Collins có nói với Cao ủy Pháp Ely rằng :
"Hoa Kỳ đã quyết định ông Diệm phải từ chức".
Theo sự thỏa thuận này, ngày 30 tháng 4, Ely tới gặp Quyền Đại sứ Mỹ Randolph Kidder để yêu cầu Hoa Kỳ cộng tác với Pháp trong việc dẹp ông Diệm.
Lúc ấy, Kidder không biết chính sách của Washington diễn biến ra sao vì trước khi rời Sài Gòn, Collins chỉ nói với Kidder là "thượng cấp còn đang bàn định về những kế hoạch mới của Hoa Kỳ tại Việt Nam", và lúc này Collins còn đang bàn bạc, vận động tại Washington.
Thế nhưng, vì đã tận mắt thấy ông Diệm đang thành công, Kidder trả lời thẳng thừng cho Ely là "Không, Hoa Kỳ sẽ không cộng tác trong việc dẹp ông Diệm".
Về sau, Kidder kể lại "Lúc ấy tôi thực không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tự quyết định lấy về chính sách của Hoa Kỳ, vì nếu trả lời là "tôi không biết" thì thật là buồn cười".
Tướng Ely vô cùng giận dữ và phản đối, cho rằng Hoa Kỳ đã bội ước, vì chính ông đã nhận được sự đồng ý của tướng Collins về việc thay thế ông Diệm. Thái độ phẫn nộ của Ely cũng giống như lúc ông đã hết sức bất mãn về sự hứa hẹn của tướng Radford là sẽ can thiệp vào Điện Biên Phủ, rồi không làm như vậy.
Dù Ely phản kháng, Kidder vẫn giữ nguyên lập trường là Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm chứ không bắt tay với Pháp để dẹp ông đi.
Rất may cho Thủ tướng Diệm và còn may hơn nữa cho việc khai sinh nền Cộng Hòa Việt Nam : cũng theo Moyar, nếu như trong buổi họp ngày 30 tháng 4, ông Kidder đã nói thật với tướng Ely rằng : Tòa Đại sứ thực sự chưa nhận được những hướng dẫn về chính sách của Hoa kỳ đối với ông Diệm vào lúc ấy (ngoài lệnh hủy công điện ngày 27 tháng 4) thì rất có thể ông Ely đã có những biện pháp mạnh mẽ để dẹp ông Diệm hơn là đã nhân nhượng ông ta.
Ngoài ra, giả như Đại sứ Collins không về Washington và có mặt tại buổi họp với Ely hôm ấy thì rất có thể là Collins đã đồng ý với Ely rồi. (Sự việc này cho ta một bài học : hành động của đại sứ Mỹ có mặt tại chỗ là hết sức quan trọng).
Năm năm sau, trong một bức thư gửi Tổng thống Diệm (1960), Tổng thống Eisenhower còn nhắc tới sự cương quyết và thành công của Thủ tướng Diệm năm 1955 :
"Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ thật nhanh chóng".
Nền Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã vượt qua và tồn tại đến ngày 1/11/1963.
Nguyễn Tiến Hưng
Nguồn : BBC, 01/11/2018
Bài lấy từ trích dẫn trong cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Ông là cựu Tổng trưởng Kế hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh Tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh Nhảy vào (2016).