Phước Bửu Tự tọa lạc tại xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ngày Mùng 6 Tết vừa qua, trong nỗi tiếc thương phát đi tang báo : Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Tịnh vừa viên tịch (kèm chương trình tang lễ, do chùa này chủ trì).
Bức ảnh đăng kèm bài viết này, ghép chung từ 3 bức ảnh, đều có liên quan đến Hòa thượng Thích Thanh Tịnh. Photo : RFA
Phước Bửu Tự là một trong rất hiếm những ngôi chùa của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, còn tỏa khói hương, còn thanh âm tiếng chuông ngân vang mỗi sáng tinh sương, mà chưa bị chính quyền triệt hạ, như rất nhiều chùa chiền ở Việt Nam, phải chịu cảnh bi đát, kể từ sau ngày 30/4/1975. Đặc biệt, là cái gai trong mắt chính quyền, nên Phước Bửu Tự từng bị "kẻ xấu", lén lút phóng hỏa thiêu rụi, thời điểm nhiều năm về trước.
Năm 1981, là thời điểm Đảng cộng sản Việt Nam thành lập một tổ chức trá hình Phật giáo, với danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhằm biến một đạo giáo từng là quốc giáo (ở Việt Nam), thành công cụ chính trị. Thời điểm này, họ bằng mọi thủ đoạn, đã gia tăng việc triệt hạ những chùa chiền, mà những Tăng, Ni trụ trì không chịu ước thúc, vẫn kiên định là tu sĩ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất.
Hẳn nhiên, triệt hạ chùa chiền, đi kèm với bách (giết) hại Tăng, Ni không tu theo đảng. Trong hằng hà bi án thương tâm, mà Tăng, Ni chịu khổ nạn, cho đến tận hôm nay (và chưa có dấu hiệu ngừng lại), thì Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, người vừa viên tịch, là một trong những nhân chứng sống cho tội ác đàn áp tôn giáo nói chung của chính quyền cộng sản Việt Nam.
Bức ảnh đăng kèm bài viết này, ghép chung từ 3 bức ảnh, đều có liên quan đến Hòa thượng Thích Thanh Tịnh. Phía trước, bên trái là hình chân dung của Hòa thượng. Bên phải là "Bản Vinh Danh", được Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Hoa Kỳ) vinh danh công đức của Hòa thượng, trong công cuộc vì tương lai một Việt Nam có dân chủ, nhân quyền.
Người sư mặc áo vàng, ở trung tâm, ngồi xe lăn, chính là Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, chụp cùng trụ trì Phước Bửu Tự, Thượng tọa Thích Vĩnh Phước (trái), tác giả (giữa), và nhạc sỹ Triệu Mây, hồi tháng 9/201. Trong một lần khi chúng tôi viếng chùa Phước Bửu, vấn an sức khỏe Hòa thượng, cũng như được Hòa thượng xác nhận bằng cách gật đầu, khi tất cả cùng nghe Thượng tọa Vĩnh Phước lược kể những khổ nạn mà Hòa thượng Thanh Tịnh đã trải qua.
Chúng tôi với tâm niệm, sẽ góp nhặt những vỡ đau trên đường tu hướng Phật tích thiện của Hòa thượng, biên tập cùng với những biến cố của Phật giáo. Nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng có dự định tương tự, nhưng chúng tôi thật có lỗi, khi công việc biên soạn chủ quan trễ nải, thì hôm nay, vị sư chân tu đức độ Hòa thượng Thanh Tịnh đã thâu thần viên tịch.
Bên cạnh lược kể của Thượng tọa Thích Vĩnh Phước, chúng tôi còn may mắn được một người bạn tri kỷ của Hòa thượng Thanh Tịnh, tường minh thêm về vị sư này. Chúng tôi nay xin ghi lại, như nén tâm hương kính viếng anh linh Hòa thượng. (Và cho tất cả chúng ta cùng được biết, mà thành kính mặc niệm cho người vừa mất).
Nhà thơ Trương Hùng Thái (còn có bút danh Nguyễn Trì, Lều Gió), là bạn tri kỷ, đồng thời, đồng quan, thì nhà thơ Lều Gió còn là bạn đồng tù khổ sai cộng sản với Hòa thượng Thanh Tịnh, trong cùng chung vụ án, mà rất nhiều thành phần tinh hoa trí thức, bao gồm tu sĩ nhiều tôn giáo ở miền Nam Việt Nam, bị chính quyền cộng sản Việt Nam tiến hành đàn áp, bắt bớ, tù đày vô tội vạ, hồi cuối thập niên 70, thế kỷ trước.
Sau ngày chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử bởi cộng sản Bắc Việt, thì số phận của hầu hết người dân ở phía Nam vĩ tuyến 17, vô cùng bi đát, hoặc tù tội, hoặc tan nhà nát cửa, hoặc cả hai. Là một tu sĩ thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, nhưng Hòa thượng Thanh Tịnh vẫn bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt giam, tù ngục đến 2 lần.
Trong chốn lao tù cộng sản, ông đã bị tra tấn đến mù lòa đôi mắt, bằng cách bị trói đứng, mắt ngang tầm chói nóng của bóng đèn cao áp, trong lần thứ 2, khi cộng sản tống ngục ông, trong vụ án với cáo buộc mơ hồ "lật đổ chính quyền nhân dân" vào năm 1981, mà câu chuyện trở thành cáo buộc ấy, toàn bộ do người cộng sản tạo dựng mà thôi.
Trước năm 1975, khi chưa xuất gia, Hòa thượng Thích Thanh Tịnh có tên thật là Hoàng Văn Giang. Quảng Trị là quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của ông, với địa danh cụ thể, được nhắc đến trong ca khúc "Trên bốn vùng chiến thuật" của Trúc Phương : "Gio Linh đón thây giặc về làm phân xanh lá…". Ông từng giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Thông Tin của chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Bên cạnh đó, ông còn là chủ bút của tờ báo Đông Phương, một thời.
Khi ông bị tống tù lần hai, họ giam ông ở Chí Hòa, rồi đưa về trại Đồng Hòa, hướng ngã ba Bình Long đi vào gần sát biên giới Việt - Cam (thuộc tỉnh Sông Bé cũ - nay là tỉnh Bình Phước). Sau cùng, ông bị đưa về trại tù A20, ở Xuân Phước, tỉnh Phú Yên.
Trại tù A20 còn có tên gọi "Trại Trừng Giới", "Trại Kiên Giam" nằm trong mật khu Kỳ Lộ. Những địa danh do người tù bởi cộng sản, đặt cho nơi này như đồi Vĩnh Biệt, Thung Lũng Tử Thần,... đã lột tả mức độ sự khắc nghiệt, sự ngược đãi, sự hành hạ mà chính quyền thông qua bọn cai tù bất lương, đã trút lên thân thể những người tù chính trị nhưng vô tội này. Những thân thể vốn đã ốm yếu bởi bệnh tật, bởi đói khát, mà trường hợp Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, là một trong những nhân chứng sống tố cáo tội ác kinh hoàng ấy.
Cùng vụ án với ông, có rất nhiều Tăng sĩ, Cha xứ, hay thành phần trí thức khác, ở miền Nam cũng bị từ đày, đến hơn 100 nhân mạng. Điển hình như thầy Thích Tuệ Sỹ và thầy Lê Mạnh Thát (kêu án tử hình, sau giảm án chúng thân, và phóng thích - theo cách gọi bởi chính quyền cộng sản Việt Nam) ; thầy Thích Nhật Ban, thầy Thích Đức Nhuận, nhà thơ Trương Hùng Thái (Nguyễn Trì),...
Có trường hợp Tăng sĩ còn bị tra tấn đến chết, trong nhà tù, như Hòa thượng Thích Thiện Minh, vào thời điểm cuối năm 1978, Giáo hội xin nhận thi hài làm lễ an táng, cũng bị từ chối.
Bản tin của đài BBC London phát ngày 18/10/1978, như sau : "Hòa Thượng Thích Thiện Minh, chiến lược gia của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, người đã từng ở tù trong cả ba chế độ, hôm 17/10 năm 1978 đã bỏ mình trong một nhà tù, của cộng sản, tại thành phố Hồ Chí Minh".
Lao tù tra tấn hơn mười năm, vẫn không lay động được tâm thế của bậc chân tu, một lòng vì Phật pháp, phổ độ chúng sinh, nguyện hiến dâng sự sống còn tại thế cho một Việt Nam thật sự có độc lập, cho dân tộc của ông thật sự có tự do, dân chủ. Cho nên, Hòa thượng Thanh Tịnh buộc được phóng thích bởi bàn cờ chính trị của chính quyền cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, sức khỏe của Hòa thượng bị tra tấn suy sụp hoàn toàn, với hàng chục bệnh tình đặc biệt nghiêm trọng, như tiểu đường đã biến chứng, cao huyết áp,... Nên chọn phóng thích một "tu sĩ bị tra tấn thành phế nhân", sẽ được tiếng "nhân đạo", theo cách nghĩ của họ, trong đường lối tuyên truyền và đối ngoại, vốn dĩ, hơn là để chết trong ngục tù.
Sau khi được thả ra, Hòa thượng Thanh Tịnh không còn bất kỳ giấy tờ tùy thân nào, như một người vô tổ quốc. (Đây là cách mà chính quyền vẫn hành xử với tù nhân chính trị lâu nay, để gây khó dễ, nhằm quản thúc khéo, hạn chế, tước đoạt quyền tự do đi lại của người dân). Đầu tiên, ông tìm về, xin tá túc ở Phước Huệ Tự (Thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng) do thầy Thích Thái Thuận trụ trì.
Tuy nhiên, không muốn vì sự hiện diện của ông, khiến cho trụ trì Phước Huệ Tự và tăng chúng phải chịu sự sách nhiễu bởi chính quyền sở tại. Cũng như, có lẽ ông gieo "PHƯỚC" vừa đủ tạo thành "duyên", với những chùa tự bắt đầu bằng chữ "PHƯỚC" chăng, nên Hòa thượng gặp được trụ trì Phước Bửu Tự, nên được Thượng tọa Thích Vĩnh Phước cung thỉnh ông về Xuyên Mộc, cùng tăng chúng nơi này, hết lòng chăm lo, phụng dưỡng ông, tính ra cũng đà 20 năm có lẻ... !
Trước thực trạng Phật pháp nước nhà, ngày càng suy vi, băng hoại, lạc vào ma đạo, bởi cái tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, núp bóng Đức Phật, đã không xiển dương Phật pháp, mà còn làm điều tác tệ, mị hoặc tham nhũng, bòn rút đức tin tín đồ, phục vụ cho đảng phái cai trị nhân dân, tổ quốc Việt Nam. (Nhưng lại chịu sự lệ thuộc hoàn toàn vào đảng cộng sản Trung Quốc, dưới mỹ từ trí trá : "thắt chặt tình hữu nghị với bạn 16 chữ vàng 4 tốt"), thì với những khổ nạn đường tu vừa lược kể, nhưng chẳng thể lay chuyển được tâm thế của Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, với duy thức kiên định đức tin Phật pháp chiếu rọi, sẳn sàng xả thân cho một tổ quốc Việt Nam, cho đồng bào của ông thật sự có độc lập, tự do, dân chủ thật sự trong tương lai. Cho nên, sẽ không quá nếu có gọi Hòa thượng Thích Thanh Tịnh là một trong những vị chân sư, có tâm Phật sáng thiên thu, dù cá nhân ông mù lòa bởi chính quyền cộng sản giam cầm tra tấn thành tàn phế.
Giờ thì, mọi khổ đau trần thế thôi ở lại, đã bái biệt nhà sư trên đường về cõi Phật. Xin được kết thúc bài viết, bằng tứ thơ "Nam Kha Mộng", được viết bởi Sadi Du Huyền ở Phước Bửu Tự, để kính tiễn đưa Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, một dặm trường :
"Thịnh suy suy thịnh Nam Kha mộng
Danh lợi tiền tài cũng về không
Cửa tùng áo vải rau dưa mặn
Tỏa Đức yêu thương tựa trăng rằm".
Đàm Ngọc Tuyên
Nguồn : RFA, 03/02/2020
Hòa thượng Thích Thanh Tịnh viên tịch ngày 30/1/2020, mang theo mình một phần lịch sử của Phật giáo chân chính Việt Nam, cũng như mang theo một phần đời biểu trưng cho rất nhiều người, trước một bước ngoặt trầm luân của người dân miền Nam Việt Nam. Tại ngôi chùa Phước Bửu tại Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi mà ngài đã tìm đển để nương náu, chọn cho mình một cuộc sống lặng lẽ từ năm 2002 đến nay, ngài chống chọi với đủ các vết tích hằn thù trên thân thể mình, và cả những âm mưu hiểm độc của một thời kỳ đen tối sau năm 1975 mà nhà nước cộng sản Việt Nam nhắm vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và các nhân sĩ, tăng sĩ Phật giáo.
Hòa thượng Thích Thanh Tịnh viên tịch ngày 30/1/2020
Lần cuối cùng mà hòa thượng Thích Thanh Tịnh lên tiếng, xuất hiện trước truyền thông đại chúng là vào năm 2006, lúc đó, chùa Phước Bửu, một trong những chùa hiếm hoi còn lại, trung kiên và sừng sững với danh hiệu cơ sở thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất. Sự tồn tại của nơi này, và cả việc cho hòa thượng Thích Thanh Tịnh nương nhờ đã là cái gai trong mắt nhiều người có quyền thế. Hai lần trong đêm của năm 2006, chùa Phước Bửu bị đốt nhưng may sao cứu được. Là người luôn thức từ 2 giờ sáng để tụng kinh, hòa thượng Thích Thanh Tịnh nhận biết rõ sự kiện nên đã tham gia lên tiếng tố cáo âm mưu này, thành một trong những hồ sơ quan trọng được chuyển ra thế giới.
Cũng như nhiều tu sĩ, trí thức, thương gia… của miền Nam, mà cho đến nay vẫn chưa ai giải thích được là vì sao mình phải chịu kiếp nạn, phải chịu tù đày, hòa thượng Thích Thanh Tịnh cũng đã bị biệt giam nhiều năm, rồi bị kết án 15 năm tù vì tội danh chống chính quyền. Nhưng năm 2000 rồi ông được thả ra sớm vì lúc đó ngài sống như đã chết, thương tật và yếu ớt. Nhưng may sau, ông lại hồi sinh với đời.
Năm 1981, sau khi Giáo hội Phật giáo nhà nước, hay được người dân gọi là Phật giáo quốc doanh, được thành lập, các chuỗi kế hoạch nhằm xóa sổ các nhân sĩ, tăng già diễn ra quyết liệt. Trước tháng 9/1988, ngày mà nhà nước cộng sản Việt Nam kết án tử hình với các ngài Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát… đã có hàng loạt các cuộc bắt bớ, tra tấn và ép cung để ngụy tạo chứng cứ Giáo hội Phật giáo Thống nhất âm mưu lật đổ chính quyền. Hòa thượng Thích Thanh Tịnh là một trong những đích ngắm cho việc tra tấn, ép cung như vậy. Có lẽ những kẻ chủ mưu thấy sự hiền lành và cam chịu của ngài là một yếu tố dễ hoàn thành hồ sơ. Thế nhưng nhiều tháng liền, với hình thức tra tấn hàng đêm, treo đèn cao áp cách đầu có vài mươi phân, đánh đập để buộc nhận rằng Giáo hội Phật giáo Thống nhất có tàng trữ vũ khí, âm mưu liên kết các nhóm phục quốc để lật đổ chính quyền cộng sản, hòa thượng Thích Thanh Tịnh vẫn nhất định không chịu khai gian. Dẫn đến khi ngài được trả tự do, mắt đã lòa, mọi hoạt động cần đến hệ thống thần kinh đều khó khăn.
Chỉ mới mùa thu năm ngoái, khi ngồi nắm tay Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, hỏi về chuyện xưa, ông gật, và nói bằng tiếng nói đã bị vặn vẹo không rõ do trải qua quá nhiều cơn thập tử nhất sinh "Đúng rồi, con". Ông hướng đôi mắt nhìn về một khoảng xa xăm nào đó của ký ức, rồi nói "buồn lắm". Một giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt đầy những vết hằn, mà tôi tự hỏi không biết là tuổi già hay những khổ nạn đã khắc dấu muôn lối trên mặt ông.
Chỉ thị số 20 của ông Lê Duẩn, dù được ký từ năm 1960, với sự thù ghét tôn giáo và chủ trương tiêu diệt tín ngưỡng, nhưng vẫn là tinh thần nòng cốt của các hoạt động thanh trừng, tiêu diệt sau 1975. Chùa chiền bị tịch thu, kinh sách bị đốt, các hòa thượng như Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ bị bắt giam, những người bất phục như Tuệ Sỹ thì bị tuyên án tử hình. Tương tự như hòa thượng Thích Thanh Tịnh, nhưng kém may mắn hơn là hòa thượng Thích Thiện Minh, đã bị tra tấn đến chết Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, nay là Bộ Công An. Ông Đỗ Trung Hiếu, người nhận nhiệm vụ giải quyết số phận của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, theo lệnh của Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận, vì không chịu nổi gánh nặng này nên về sau, năm 1994, đã kể lại mọi thứ trong cuốn "Thống nhất Phật Giáo" của ông ta.
Như các hòa thượng Thích Quảng Độ hay Thích Không Tánh, việc không có một mảnh giấy tờ tùy thân nào để chứng minh mình là một công dân trên đất Việt, cũng là tình trạng của hòa thượng Thích Thanh Tịnh. Viện vào các chi tiết pháp lý để gây khó, để không cấp cho bất kỳ loại giấy tờ nào cho việc an sinh, vốn vẫn thường thấy ở các hệ thống chính quyền địa phương lẫn trung ương, như một cách trả thù hèn mọn luôn dành cho các vị hòa thượng của Phật giáo không muốn bị thế quyền giam cầm tinh thần. Ngày hòa thượng Thích Thanh Tịnh viên tịch, việc chứng tử cho ngài khởi đầu đã gặp không ít khó khăn do toàn bộ chính quyền địa phương nơi chùa Phước Bửu từ chối, bởi ngài không được cấp bất kỳ giấy tờ tùy thân nào khi bị đẩy ra khỏi nhà giam với tình trạng thoi thóp.
Những lúc ngồi hầu chuyện hòa thượng Thích Thanh Tịnh, ông hay rơi nước mắt, và cười khi nghe kể về bạn bè, ngày xưa, và cuộc đời khi chưa phải qua kiếp nạn cộng sản. Tôi cứ hay nghĩ về một con người dễ mềm lòng và yếu đuối như vậy, sao lại có thể chịu đựng ngày qua ngày, vô vọng với những đòn tra tấn tàn bạo như vậy mà không ngã quỵ. Buổi chiều lần cuối cùng gặp ngài, sau khi ngồi một lúc lâu im lặng ngắm nhìn, tôi từ biệt ra về. Chợt ông nắm tay tôi, hỏi "cộng sản còn ác với dân không con ?". Không phải ông, mà tôi, nước mắt cứ chảy xuống, mà tôi sợ ông biết.
Tôi cứ định viết về ông, và những lần gặp mặt hữu duyên đó, nhưng không kịp. Khi nghe tin ông mất, thì chỉ còn biết viết vài dòng, kể lại những gì mình biết về hòa thượng Thích Thanh Tịnh như một lạy chào. Mà không chỉ lạy riêng ông, còn là lạy một phần lịch sử và khổ nạn của đất Việt, người Việt đã bước qua những chương bất khả tư nghị không bao giờ cũ.
Tuấn Khanh
Nguồn : RFA, 31/01/2020 (tuankhanh's blog)