Trước tiên là nhà báo Kiều Hải. Ông dựạ trên một số từ điển mới biên sọn gần đây để cho là có thành ngữ "chôn rau cắt rốn" và "chôn nhau cắt rốn". Tưởng thế là đủ tóm ý của nhà báo rồi, nhưng ông lại phát biểu thêm : "Sợ rằng, trong Nam và trước đây quen dùng "nhau" thay cho "rau", tôi lại thử tra tiếp thì thấy "chôn rau cắt rốn" cũng xuất hiện cả trong cuốn "Việt Nam tự điển" của Lê Văn Đức cùng một nhóm văn hữu soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, xuất bản ở Sài Gòn lần đầu năm 1970". Nhà báo dường như có ý bảo rằng quyển từ điển Lê Văn Đức là cơ sở vững chắc để bảo rằng trong Nam trước kia cũng dùng "chôn rau cắt rốn" ! Nếu đã chắc như thế rồi thì ý phát biểu sau cùng của nhà báo mà trang báo VietnamNet nhắc lại (không biết có đúng ý người nói chăng) trở nên bất nhất, khó hiểu : Theo anh Hải, phụ huynh nhìn nhận thì có thể theo cảm tính ; nhưng thầy giáo thì lại sơ suất, không có thói quen tra cứu từ điển trước khi góp ý là điều "chưa khoa học" !
Sau đó là ông Nguyễn Văn Tùng, Phó Tổng biên tập nhà xuất bản Giáo Dục lên tiếng. Ông Tùng khẳng định chắc nịch là trong tiếng Việt, rau hoặc nhau là hai cách phát âm (hai biến thể ngữ âm) của cùng một từ chỉ bộ phận nối thai nhi với thành tử cung của mẹ qua dây rốn để cung cấp dinh dưỡng, bài tiết chất thải và trao đổi khí qua máu cho thai nhi. Ông Tùng đưa dẫn chứng : Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2005) có cả hai mục từ rau và nhau, nhưng cho rằng rau là cách phát âm của phương ngữ (tr, 706, 822). Ở cương vị một phó giám đốc, chắc trình độ của ông Nguyễn Văn Tùng phải đủ chắc để cho công chúng biết hai biến thể của một từ hẳn phải phát xuất từ một từ gốc nào đó. Vậy trong trường hợp hai từ này, hai biến thể kia đi từ từ gốc nào của tiếng Việt phổ thông ? Ông không nói. Vậy thì những điều gọi là lí giải của ông chưa đủ "khoa học", chưa thuyết phục. Có lẽ vì vậy, ông Tùng phải viện dẫn thêm ba chứng lí nữa, một từ cuốn sách y khoa, một từ quyển Thành ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành, một câu thơ của Tố Hữu để đi đến kết luận là sách giáo khoa đã viết đúng. Tưởng thế là mọi lí giải đã ổn thỏa, nhưng ông phó giám đốc lại đưa ra một phát biểu làm lung lay những khẳng định chắc nịch trên đây, khiến nó không còn chắc nịch chút nào : "Ở những địa phương quen gọi rau là nhau, các thầy, cô giáo có thể giải thích cho học sinh hiểu và học sinh cũng có thể sử dụng cách gọi nào quen thuộc hơn với mình" (VietnamNet, ngày 3/11/2017). Thế là thế nào ?
Cuối cùng bài báo đưa ra ý kiến của một nhà ngôn ngữ cấp hàn lâm, ông Phó giáo sư tiến sĩ Phạm Văn Tình, tổng thư kí hội ngôn ngữ học Việt Nam, rằng : "Chôn nhau cắt rốn" và "Chôn rau cắt rốn" là hai biến thể, mỗi nơi dùng một kiểu, và cả hai đều có thể dùng được !
Một bài báo phổ thông thì khó đòi hỏi nhà báo giải quyết rốt ráo vấn đề. Vả chăng, vấn đề bàn ở đây đòi hỏi mộ trình độ chuyên ngành chứ phát biểu kiểu cả vú lấp miệng em như ông Phó tổng biên tập nhà xuất bản Giáo Dục, hay kiểu nước đôi như ông hàn lâm Tình thì một người đường phố cũng thường làm rồi.
Sự thật thì từ ông Tùng đến ông Tình không hiểu biến thể trong ngôn ngữ phải là biến thể từ một thể gốc. Không có ngoại lệ. Nếu chưa tìm thấy cái gốc của các biến thể thì các ông hoặc là lười biếng hoặc là dốt. Ở trường hợp chữ nhau đang bàn ở đây, bộ Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, đã cho biết từ rau là biến thể trong phương ngữ tiếng Việt ; vì vậy các soạn giả bộ từ điển đã bảo người đọc tìm về từ nhau, và có giải nghĩa tường tận. Người bình thường khi xem đến thế thì đã hiểu rằng từ rau là biến thể của từ nhau.
Những người soạn sách giáo khoa đã lười biếng để chỉ dựa theo kiến thức cục bộ địa phương của mình ; nhưng những người biên tập ở đâu mà không làm việc chỉnh đốn lại ? Đến ông phó tổng cũng lại lười biếng (hay dốt ?) và chỉ dùng lối nói trịch thượng để bao biện cho thuộc hạ của mình. Về mặt giáo dục, nhà xuất bản Giáo Dục đã phạm một nguyên tắc cơ bản của sách giáo khoa là cung cấp cho học sinh phổ thông những kiến thức xác thực, nền tảng. Khi thầy cô giáo phải diễn giảng theo địa phương mình thì tính nhất quán, tính xác thực ổn định của sách giáo khoa phổ thông không còn nữa.
Cách giải quyết vấn đề từ nhà báo Kiều Hải đến ông Tùng và ông Tình, thiếu thuyết phục vì những ý kiến nêu ra nhằm biện hộ cho cái sai hiển nhiên của sách giáo khoa đều có tính cách nói suông, chẳng có chứng lí gì chống đỡ cho những phát biểu của quý vị. Đem ba pho từ điển ra chỉ để nói vo mà không lí gì nội dung của chúng thì đem chúng ra chẳng thêm chút lí chứng nào. Dựa vào một câu thơ của một cá nhân, hoặc một chứng từ công trình sưu tập cũng không thể làm tăng giá trị lời phát biểu của quý ông.
Các vị có trong tay hơn một quyển từ điển, trong đó có hẳn một bộ biên soạn đứng đắn, có phương pháp nghiêm túc. Tuy vậy, chỉ lật qua lại trang nào có từ theo ý chủ quan của mình thì chưa thể gọi là tra cứu, cùng lắm thì chỉ là tra thôi chứ chưa có cứu tí nào cả. Đòi hỏi nhà báo phải tra cứu cẩn thận thì cũng quá đáng, nhưng hai ông Tùng và Tình thì phải tra cứu từ điển nghiêm túc hơn chứ !
Ở đây cần nói ngay một sai lầm nghiêm trọng của hai ông Tùng và Tình là các ông khá hời hợt trong việc tra cứu. Chỉ riêng bộ từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học đáng ra đã đủ cho ông Tùng phủ định giá trị của trang sách giáo khoa kia.
Nếu đi chuyên sâu thêm trong việc tra cứu thì ông Tình còn có thể nhìn ra nhiều điều hay hơn, giá trị hơn lời phát biểu hời hợt không hơn một người ngoài đường phố. Là một người nghiên cứu ngôn ngữ, hẳn ông Tình phải hiểu rằng kiến thức chúng ta có hôm nay là một công phu kế thừa và phát triển trong dọc dài tích lũy tri thức chuyên ngành. Đối với những thành ngữ như chúng ta đang bàn đây, một dúm từ điển ra đời khá mới về sau này, trong điều kiện học tập lệch lạc, khó có thể giúp người học hỏi tìm ra giềng mối để định đúng sai.
Trong số các từ điển mới, chúng ta đã biết là bộ Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học công nhiên xem từ rau chỉ là biến thể thuộc phương ngữ của từ nhau. Bộ từ điển này giảng nghĩa từ nhau rõ và đủ như sau : "nhau, d.: Bộ phận đặc biệt ở dạ con, có chức năng trao đổi chất dinh dưỡng giữa cơ thể mẹ và thai. Cuống nhau. (Nơi) chôn nhau cắt rốn" (tr. 706).
Định nghĩa này hoàn toàn ăn khớp với bộ Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội, 1931) mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị về trình độ tiếng Việt, về phương pháp soạn từ điển. Từ điển Khai Trí Tiến Đức ghi mục từ nhau như sau : "Nhau. Đoạn ruột nối tử cung mẹ với cái thai khi ở trong bụng : Cắt nhau, chôn nhau" (tr. 404). Những ai quan tâm đến quá trình biên soạn pho từ điển của Hội Khai Tiến Đức đều thấy Ban Văn Học của Hội đã thu thập các mục từ một cách sâu rộng và sắp đặt có phương pháp chặt chẽ đúng quy cách một bộ từ điển tiêu chuẩn.
Ngoài ra, cũng xin mách thêm một bộ từ điển Dictionnaire Annamite-Français của J.F.M. Génibrel (1898) cũng có từ nhau, giải nghĩa là Cordon ombilical (cuống rốn), và có hai ví dụ : Người nhau rún, Chỗ nhau rún.
Cần lưu ý là ở hai bộ từ điển trên đây, mục từ rau là một từ khác hẳn, không lẫn lộn với từ nhau bàn ở đây.
Đến đây chúng ta có thể nhận thấy từ nhau là một từ phổ thông trong tiếng Việt đã lâu đời. Cha ông chúng ta không lẫn lộn từ địa phương và từ chuẩn. Tại sao đến thời này tiếng Việt trở nên rối loạn như thế ? Một từ địa phương bị đem ra thay một từ phổ thông mà một phó giáo sư tiến sĩ như ông Tình không thấy xốn xang hay sao ?
Đến đây có thể nói thêm gì về hiện tượng rau ∞ nhau khiến cho một ông phó tổng biên tập nhà xuất bản Giáo Dục và một ông hàn lâm phó giáo sư tiến sĩ cũng lúng túng rồi phát biểu như một người ngoài đường phố ?
Sở dĩ có hiện tượng nói rau (ở vùng Nam Định, Ninh Bình rõ nhất) để chỉ cái nhau là vì người mình ở một số địa phương xa xôi có lối chuyển âm đầu tại các vùng từ Quảng Bình Quảng Trị ra tới Nam Định : nh ∞ d ∞ r (nhờ -> dờ -> rờ).
Vài thí dụ : người Quảng Bình nói : "đi về dà" (nhà), người ở vùng Nam Định-Ninh Bình hay nói : Nhà ta năm nay rư rả (dư dả)... Những biến thể như vậy có rất nhiều, nhưng đối với nhà ngữ học thì chúng chỉ là biến thể. Điều cần thiết là phải biết những biến thể ấy là của những từ nào trong tiếng Việt phổ thông. Nhà ngữ học có làm tròn phần việc của mình thì nhà giáo dục mới có cơ sỡ vững chắc cho việc giảng dạy, biên soạn sách giáo khoa.
Hiện nay có tình hình đáng buồn là sách giáo khoa vẫn độc quyền trong tay một nhóm giáo chức thư lại mà hiểu biết chuyên ngành rất đáng ngờ. Công luận liên tục vạch ra những bất cập của hệ thống sách giáo khoa các cấp. Những phát biểu vô trách nhiệm của một phó tổng biên tập nhà xuất bản Giáo Dục cộng thêm với phát biểu hời hợt của một phó giáo sư tiến sĩ ngôn ngữ học phản ảnh tình trạng đáng báo động về thói thư lại lười biếng trong xã hội hiện nay.
London, 05/11/20147
Đoàn Xuân Kiên
---------------------
(1) Đọc thêm :
"Chôn rau cắt rốn" hay "chôn nhau cắt rốn" ?
VietnamNet, 03/11/2017
Một phụ huynh có con học tiểu học tại Hà Nội cho rằng sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 sử dụng sai thành ngữ "Chôn rau cắt rốn" và cho rằng phải là "chôn nhau cắt rốn" mới đúng.
Cụ thể, trong phần Luyện từ chủ đề Mở rộng vốn từ : Tổ quốc nằm ở trang 18 Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1 có câu 4 với yêu cầu :
Đặt câu với một trong những từ ngữ dưới đây :
a) Quê hương
b) Quê mẹ
c) Quê cha đất tổ
d) Nơi chôn rau cắt rốn
Tuy nhiên, vị phụ huynh này cho rằng phải là "Nơi chôn nhau cắt rốn", chứ không phải "Nơi chôn rau cắt rốn".
Trước đó, một thầy giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh khi góp ý cho cuốn sách này cũng cho rằng thành ngữ "chôn rau cắt rốn" là sai, đúng ra phải là "chôn nhau cắt rốn".
Phần nội dung trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1 khiến phụ huynh băn khoăn. Ảnh : Thanh Hùng.
Trong khi đó, anh Kiều Hải, một nhà báo ở Hà Nội nhận xét : "Chôn rau cắt rốn" là một thành ngữ quá phổ biến, thậm chí còn được sử dụng nhiều hơn cả "chôn nhau cắt rốn", vì "rau" đi với "rốn" thì thuận miệng lẫn thuận tai hơn.
Anh cho biết, thành ngữ này được ghi nhận và giải nghĩa trong rất nhiều cuốn từ điển, chẳng hạn như :
- Đại từ điển tiếng Việt (Bộ Giáo dục và đào tạo và Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam), do Nguyễn Như Ý chủ biên.
- Từ điển tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học Vietlex), bản in năm 2014.
- Thành ngữ tiếng Việt, của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang, với sự cộng tác của Nguyễn Đăng Châu, Phạm Văn Thứ, Bùi Duy Tân, bản in năm 1978 và 2009. Bản 2009 còn bổ sung cách nói ngược là "cắt rốn chôn rau".
Thành ngữ "chôn rau cắt rốn" được giải thích trong một cuốn từ điển
Anh Hải cho biết thêm :
"Sợ rằng, trong Nam và trước đây quen dùng "nhau" thay cho "rau", tôi lại thử tra tiếp thì thấy "chôn rau cắt rốn" cũng xuất hiện cả trong cuốn "Việt Nam tự điển" của Lê Văn Đức cùng một nhóm văn hữu soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, xuất bản ở Sài Gòn lần đầu năm 1970.
Theo anh Hải, phụ huynh nhìn nhận thì có thể theo cảm tính ; nhưng thầy giáo thì lại sơ suất, không có thói quen tra cứu từ điển trước khi góp ý là điều "chưa khoa học".
VietNamNet đã liên hệ tới Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam để làm rõ điều này.
Ông Nguyễn Văn Tùng, Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam khẳng định câu này không sai.
Ông Tùng lý giải, trong tiếng Việt, rau hoặc nhau là hai cách phát âm (hai biến thể ngữ âm) của cùng một từ chỉ bộ phận nối thai nhi với thành tử cung của mẹ qua dây rốn để cung cấp dinh dưỡng, bài tiết chất thải và trao đổi khí qua máu cho thai nhi.
Ông Tùng đưa dẫn chứng : Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 2005) có cả hai mục từ rau và nhau, nhưng cho rằng rau là cách phát âm của phương ngữ (tr, 706, 822).
Tuy nhiên, cuốn Giải phẫu sinh lý, tập 2 của Bộ Y tế (Nhà xuất bản Y học, 1986) gọi bộ phận nêu trên là rau : "Thai phát triển do các tác động phối hợp của buồng trứng, của rau và của thùy trước tuyến yên" (tr. 93) ; "Bản thân rau thai cũng tiết ra progesteron và estrogen" (tr.94).
Cuốn Thành ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2015) chấp nhận cả hai thành ngữ Chôn rau cắt rốn và Chôn nhau cắt rốn.
Còn Tố Hữu, nhà thơ bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ dân gian thì viết :
"Ai về thăm bưng biền Đồng Tháp,
Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp
Nơi chôn rau cắt rốn của ta !"
(Tố Hữu toàn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2009, tr. 224)
Như vậy, ông Tùng khẳng định thành ngữ nơi chôn rau cắt rốn mà sách giáo khoa Tiếng Việt 5 cung cấp là đúng. "Ở những địa phương quen gọi rau là nhau, các thầy, cô giáo có thể giải thích cho học sinh hiểu và học sinh cũng có thể sử dụng cách gọi nào quen thuộc hơn với mình", ông Tùng nói.
Đồng quan điểm, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Văn Tình (Tổng thư ký hội ngôn ngữ học Việt Nam) cũng cho rằng "Chôn nhau cắt rốn" và "Chôn rau cắt rốn" là 2 biến thế mỗi nơi dùng 1 kiểu và cả 2 đều có thể dùng được.
Thanh Hùng
Bà Nguyễn Ngọc Yến, năm nay 83 tuổi, đến Mỹ vào năm 1984, ngoài việc lo cho con cháu bà còn theo học đại học và kết quả bà đậu hai bằng Master, một bằng về văn chương Pháp và một về giáo dục. Đến năm 1998 bà được Bộ Ngoại giao Mỹ nhận vào dạy tiếng Việt cho các giới chức Mỹ sắp được bổ nhiệm phục vụ tại tòa đại sứ hay các tòa lãnh sự Mỹ ở Việt Nam.
Bà Yến giải thích lý do tại sao bà soạn bộ sách dạy tiếng Việt này.
"Vì những người Mỹ nói ngọng quá và thấy tiếng Việt khó nên tôi cố tìm cách để họ có thể học một cách dễ dàng. Mò mò riết từ năm 1998, 1999, nhưng đến năm 2000 tôi có thể nắm vững tất cả những gì học viên kém cõi nhất, tôi đo được hết rồi và năm 2000 tôi bắt đầu viết bản thảo".
Bà Yến sau đó mang phương pháp mới của bà đến các trường dạy tiếng Việt trong vùng nhưng không ai áp dụng. Bà Yến nói :
"Tôi đề nghị dạy phương pháp của tôi không ai muốn hết, hoàn toàn ai cũng thủ cựu hết. Thành ra tôi chỉ biết lo tôi dạy. Thấy ai cần thì tôi dạy thôi".
Tuy nhiên vẫn có một số thầy cô giáo áp dụng phương pháp giảng dạy mới của bà Yến.
Bà Lý Kim Hà, cựu nhân viên sở xã hội quận Fairfax đã áp dụng phương pháp của bà Yến giải thích về phương pháp này :
"Ngày xưa khi mình học theo lối cũ, tức mình phải đọc theo vần a b c đ, nói theo tiếng Việt bây giờ là a bờ cờ gì đó còn phương pháp của cô Yến là có một cái bắt buộc phải học là thuộc lòng các nguyên âm như như a á à ả, e é è ẻ, i í ì ị vân vân. Cái đó phải học thuộc lòng. Ví dụ như chữ 'tua' không dọc tờ u nhưng đọc liền tu, rồi chữ a mình không có làm thành một âm chánh mà gần như thành một âm lặng tu a tu a là nó ra liền. Thành ra đối với những học trò như những người Mỹ khi học là họ hân hoan. Vì sao ? Vì họ học, họ nói, họ đọc được liền".
Cô Hà một giáo viên tiếng Việt khác áp dụng thành công phương pháp của bà Ngọc Yến để dạy cho người Mỹ và người Nhật học tiếng Việt nói rõ thêm :
"Cái đặc biệt của phương pháp của cô Yến có tên là 'đánh vần bằng phương pháp nhóm âm', gọi tắt là 'phương pháp nhóm âm' là điều căn bản đầu tiên khác với những phương pháp trước đây trong việc dạy tiếng Việt. Và mọi người chúng ta thường hay quan niệm tiếng Việt là tiếng đơn âm. Thực ra quan niệm như vậy làm cho việc dạy đánh vần rất khó khăn và khó nhớ, nhưng nếu quan niệm tiếng Việt đa âm tiết như tiếng Anh tiếng Pháp thì mình thấy nó dễ hơn. Khi mình nghĩ là đa âm tiết thì mình tách một chữ ra sau đó nhóm lại theo những âm khác nhau".
Cô Hà đưa ra ví dụ :
"Sau khi họ biết được các nguyên âm và các phụ âm thì mình cho họ ráp lại và cho bỏ dấu thì họ phải rành rẽ 6 dấu giọng trước là sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Ví dụ khi họ thấy chữ Việt thì có dấu chấm ở dưới là dấu nặng thì giọng phải đi xuống. Khi nhìn thấy chữ v và chữ i thì họ phải biết đọc là vi còn chữ ê thì họ cũng đã học rồi, chữ ê có dấu chấm họ phải đọc là ệ và chữ t ở đằng sau. Như vậy ráp lại họ sẽ đọc là việt"
Bà Yến cho biết là vào ngày 5 tháng 8 năm 2007, Đại học Xã hội và Nhân văn Sài-Gòn có tổ chức một cuộc hội thảo Khoa học Quốc tế tại Phan Rang với sự tham gia của những người dạy tiếng Việt ở hải ngoại để bàn về chuyện dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ. Tại Việt Nam bà gặp rất nhiều người về Việt Nam họp, thuyết trình về các phương pháp của họ. Bà nhận xét về những phương pháp này :
"Thực ra không có ai có phương pháp dạy nhanh như tôi hết, chỉ có cách dạy như thế nào thôi. Tất cả những người bên Việt Nam rất quý, họ nể lắm. Họ thấy chúng mình hơn họ nhiều".
Anh Hoàng Vi Kha, một thầy giáo tại trường Việt ngữ Thăng Long ở thành phố Falls Church, Bắc Virginia có nhận xét :
"Nói chung cách của cô đưa vào là một trong những phương pháp rất hữu ích cho những người lớn tuổi và những người không phải là người Việt Nam như người Mỹ có thể học rất nhanh và rất dễ".
Tuy nhiên theo anh Kha việc đánh giá phương pháp này còn phải có thời gian :
"Đồng ý theo cách đó hay không còn phải có sự bàn cải của những người trong ngành, phải áp dụng thử rồi tháng 7 tháng 8 này sẽ có một ngày để tất cả mọi người ngồi xuống góp ý và đưa ra những nhận xét".
Bà Yến cho biết trong tương lai bà viết thêm nữa để bổ túc cho bộ sách hiện nay :
"Có lẽ tôi sẽ viết nhiều cuốn sách về đàm thoại, những câu chuyện thường ngày chúng ta nói, để các em đã biết đọc rồi cứ theo đó học để nói chuyện".
Bà Yến quyết định số tiền khoảng 2.300 đô la sẽ được dùng để lập một quỹ tiếng Việt nhằm giảng dạy tiếng Việt cho thế hệ thứ hai, thứ ba người Việt hải ngoại
Người Việt tại hải ngoại lúc nào cũng mong muốn cho con cháu không quên tiếng mẹ đẻ nên ở nơi nào có người Việt là ở đó có các trường Việt Ngữ. Vào ngày Lễ Mẹ 14 tháng 5 vừa qua, tại thủ đô người Việt tị nạn ở California, giáo sư Trần Ngọc Ninh, nguyên Tổng trưởng giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra mắt ba cuốn sách "Dạy Ðọc Dạy Viết Tiếng Việt", "Ngữ Vựng Tiếng Việt Ðầu Tiên Cho Tuổi 5 Năm-15 Năm", và "Ngữ Pháp Việt Nam" tại Viện Việt Học, Westminster. Ngoài ra nữ hướng đạo sinh Phạm Mê Linh cũng đã phát hành CD dạy các em học tiếng Việt có tên là 'học tiếng Việt qua bài hát.
Học giả Phạm Quỳnh từng nói : "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn". Và người Việt ở hải ngoại đã theo phương châm này để nỗ lực dạy tiếng Việt cho các em.
Hà Vũ
Nguồn : VOA, 07/06/2017