Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Phòng trà Sài Gòn trước 1975 - Ảnh minh họa
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Trước tiên, di sản lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương diệt tận gốc rễ của chính quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay thì hình như không có lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc Bolero, hay còn được gọi là "nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, chính trị hành chính và xã hội.
Tự hào tuổi trẻ và nền giáo dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh hay thoát ra khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của "giấc mơ xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở Sài Gòn từ đầu thập niên 2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục, tuy mang tiếng "từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-1963 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Sau này, khi có dịp về sống ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố -Trụ sở Hạ nghị viện Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Giới trẻ Việt Nam đang hướng về tương lai
Họ la hét ầm ĩ, có vài cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng Thái Lan hay Malaysia. Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là "non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ ít nghĩ xa như vậy.
Những người lớn tuổi xưa cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm, Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời Việt Nam Cộng Hòa, cũng phải tâm sự lên tiếng khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài Gòn, được hưởng nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa : Biết đâu sẽ có một ngày ?
Di sản cộng hòa cho Việt Nam nay là gì ?
A. Việt Nam Cộng Hòa và thành công kinh tế thị trường
Dù chưa được quen thuộc nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản lớn, Việt Nam Cộng Hòa đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn toàn với nền kinh tế Việt Nam bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý thuyết "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989 đã giúp Việt Nam có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách thể chế song hành với cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm dưới Việt Nam Cộng Hòa với thời gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước Việt Nam thống nhất, hai di sản kinh tế nổi bật của Việt Nam Cộng Hòa là :
Cách mạng Xanh
Đặc biệt là chính sách "Cải Cách Điền Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi "Người Cày Có Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới "Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích kinh tế đáng kể của Việt Nam Cộng Hòa khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt nhất.
Nước Việt Nam thống nhất sau tháng 4/1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm 1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang vùng thiếu, đã làm lại cuộc "cách mạng xanh" nói trên của Việt Nam Cộng Hòa, khởi đầu toàn chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền kinh tế trong ba thập niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần Nông" đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau Việt Nam đang từ thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
Khai thác dầu khí
Việt Nam Cộng Hòa đã tìm ra vài "túi dầu" đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư ngần ngại.
Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận chính trị sau này đã tiếc cho Việt Nam Cộng Hòa là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh Henry Kissinger ký kết bán đứng Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước Việt Nam thống nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế Việt Nam bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra.
Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng một phần di sản của Việt Nam Cộng Hòa là đây ?
B. Nền dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa
Nền dân chủ phôi thai của Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình v.v…vẫn được thực thi.
Một ngôi chùa của người Hoa trong Chợ Lớn
Chủ trương pháp trị, hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc hội và Tổng Thống tương đối tự do ; nền hành chánh trung ương và địa phương được điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam thống nhất bây giờ mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam bây giờ mới bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa và cử chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây giờ mới sửa soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc áp dụng những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C. Các tổ chức xã hội dân sự
Các tổ chức này dưới thời Việt Nam Cộng Hòa được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và tài chính. Ví dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà nước tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không được quyền ra báo, như đã duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở Điều 25 Hiến pháp 2013 viết :
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định".
Sinh viên biểu tình chống chính phủ Nguyễn Khánh, tháng 8/1964 ở Sài Gòn
Như nói ở trên, những dòng viết ngắn của tôi nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con dân Việt Nam Cộng hòa cũ.
Với thời gian hơn 50 năm từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ" trong 12 năm để tò mò xem xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Tôi tự cho mình trên nguyên tắc là người thuộc "Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ nhất Cộng hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn "đồng minh" Hoa Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng sản.
Lời hứa bằng giấy trắng mực đen của Tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa bằng văn thư với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành chấp nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền Nam thân yêu, nhưng chúng ta, những người miền Nam đã để lại di sản Việt Nam Cộng Hòa đáng kể cho cả đất nước và dân tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp xúc của tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng, chúng ta cũng phải nhìn nhận về "legacy" của "Bên Thắng Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại "chiến thắng" của họ năm 1975 nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp lực chính trị ngay từ trong lòng Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như "món quà chuộc" lấy lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được chiến thắng quân sự sau cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền hành chính trị, xét cho cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ biết "góp vốn" bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai dân chủ và văn minh trong tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ là công lao lớn cho dân tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo hiện nay chỉ biết nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh quang" của chiến thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi nhanh chóng.
Đã trải qua thời Việt Nam Cộng Hòa, cuộc sống ở hải ngoại và có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin vào lẽ tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ : "Cùng tắc biến, biến tắc thông…"
Nhiều người lãnh đạo cũ của Việt Nam Cộng Hòa ở tuổi 35-50 lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80 tuổi của Việt Nam bây giờ cũng phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp của thế hệ lãnh đạo cộng sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ đang thành quá khứ, và không phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang trưởng thành, chỉ chưa có quyền được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể "tắc" mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG" mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ 25-55, lớp người quyết định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, sẽ nối tiếp bó đuốc lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ để lại tên tuổi trong lịch sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường trong vùng Đông Nam Á.
Vũ Thăng Long
Nguồn : BBC, 23/04/2019
Tác giả Vũ Thăng Long, gửi bài tới Diễn đàn BBC News Tiếng Việt từ California, Hoa Kỳ.
Ban ngày bên Mỹ vặn được YouTube xem buổi tối Saigon, ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê sữa giống như các lần ngồi ở quán Continental, nơi nổi tiếng của những lần họp mặt bạn bè xưa, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng chung quanh Nhà hát Thành phố của những người trẻ tuổi bây giờ.
Sài Gòn sau chiến thắng giải AFF Cup, từng đoàn xe máy phóng chung quanh Nhà hát Thành phố của những người trẻ tuổi bây giờ
Họ đang diễn hành, la hét ầm ĩ, ngay cả vài cô ăn mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy đắt tiền hiệu SH hay Honda kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn bán kết lượt về thắng Phi luật Tân, để sửa soạn trận chung kết với Malaysia tuần tới mong tái chiếm cúp vàng đã chờ từ 10 năm nay, sau lần đoạt cúp Suzuki năm 2008.
Họ hét to "Việt nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là "non trẻ" này khi tuổi trung bình của các nhóm trẻ chỉ là 24 tuổi.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó.
Đội tuyển Việt Nam đang chơi cực kỳ thăng hoa tại AFF Cup 2018
Tôi chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận đá bóng chung kết SEA Game hay Cúp vô địch Đông Nam Á thắng "kẻ địch truyền kiếp" thường là đội bóng Thái Lan, và tuần tới là đội Malaysia.
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể thao.
Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng.
Tôi ngồi xa cả nửa trái đất mà cũng được hưởng cái thú ngồi quán café quen Sài Gòn, thả hồn vào một số ý nghĩ cũ.
Từ lâu với nhiều kỷ niệm êm đẹp của thời mới lớn ở Sài Gòn, tôi ấp ủ cho mình ý nghĩ sẽ viết một quyển bút ký nhỏ đã có tựa đề chọn sẵn từ nhiều năm "Sài gòn Như Một Tình Nhân".
Và quyển đó phải được bắt đầu từ những ý nghĩ vụn như hôm nay.
Tôi thành thật mến mộ những tác giả chỉ hơn mình 5-10 tuổi, viết lại những chuyện thuộc loại "Đêm Trước" một biến cố lớn nào đó, tường thuật đầy đủ bối cảnh Việt Nam thời chiến tranh, chẳng hạn trước ngày 30/4 một năm nào, và nói hộ hết tâm tư của cả một thế hệ thanh niên ngày đó. Và cho mình tìm lại niềm tự hào của một thuở thiếu niên, đã ôm ấp bao lý tưởng mộng mị phục vụ đất nước.
Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh phải có trong giấc mơ.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi vẫn chưa tỉnh hay ra khỏi được "NÓ", chưa giải tỏa được cái ấm ức của một "giấc mơ không trọn vẹn", của một thời thanh niên đầy nhiệt huyết tự tin mà suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ lý tưởng tuổi nhỏ.
Đã từng về sống lại ở thành phố này suốt 12 năm, lúc tóc đã hoa râm, rút cục đã chỉ mang lại nỗi u hoài cố tìm khoảng thời gian đã mất, tìm về khoảng không gian cũ, tìm về cái lý tưởng một thời nung nấu.
Trong những năm tháng đó, nhìn lại hàng ngày thấy rõ sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi lớn lên trong cùng thành phố này.
Những ý nghĩ bên tách cà phê làm sống lại hình ảnh những con đường phố thân yêu vắng hơn thuở tôi còn cắp sách đi học cấp 2 và 3 (trung học đệ nhất và đệ nhị cấp ngày trước), gò lưng mỗi ngày trên chiếc mobylette vàng của một thằng học trò lớp Đệ nhất (lớp 12 bây giờ) phóng từ ngôi nhà đường Duy Tân, qua trường Luật, qua khu Bàn cờ lên Ngã Sáu, rồi qua nhà thờ Cha Tam đến ngôi trường trung học Chu Văn An thân yêu, học hành đôi chữ cũng có nhưng phần lớn là những ngày "bát học" đi làm báo trường dịp Tết hay tham gia các hoạt động văn nghệ học trò.
Rồi những ngày mới lớn học đòi lớp đàn anh tập ra ngồi uống cà phê phin ở Givral, Brodard hay La Pagode, hóng nghe "chuyện người lớn" và những lời đồn thổi về chính trị của "Radio Catinat" bàn về các thay đổi trong Chính phủ hay diễn tiến cuộc chiến tàn phá hàng ngày, những dàn xếp của thời cuộc chính trị miền Nam, và sau cùng là những lo âu thi cử có thể quyết định chuyện phải rời hẳn ghế học đường để nhập ngũ.
Đó là những ngày lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một xã hội rối loạn, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục mang tiếng "từ chương" (lý thuyết) nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được chứng tỏ sau này lúc đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-63 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng. Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Châu Á khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc.
Nhưng sau này trưởng thành, chúng tôi nhận ra rất sớm là chúng tôi chưa từng có một đất nước yên bình như Singapore hay Hàn Quốc để có thể đóng góp xây dựng đất nước qua ý nghĩ đơn giản đó. Thực tế phức tạp và khó khăn của miền Nam Việt Nam những năm 1960 đã đòi hỏi tuổi trẻ chúng tôi nhiều hơn thế !
Sau 30/4/1975, chúng tôi đã phải thành thật nhìn nhận một giả thử căn bản sai lầm cho tuổi trẻ của mình. Sống trong một ngôi nhà đổ nát bị mưa dột triền miên, việc sửa chữa đáng nhẽ phải khởi đầu từ mái nhà và những cột chống.
Các cố gắng vá víu những chỗ hở nhỏ hay che dột tạm thời là một thái độ tiêu cực, và trách nhiệm đã được thấy rõ cho lứa tuổi chúng tôi ở lúc cuối của một xã hội tan rã vào tháng 4/1975.
Tuy nhiên, những ý nghĩ vụn này cũng tạo dịp cho tôi sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài gòn với lý tưởng mộng mị muốn phục vụ một Việt Nam hùng mạnh tương lai, rồi ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc, ở nhiều nơi trên thế giới trong nhiều năm tháng, vẫn mang trái tim tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Vẫn bừng lên sức sống với giấc mơ xưa : Biết đâu sẽ có một ngày ?
Nhân xem hình ảnh các thanh thiếu niên Saigon tràn ra đường mừng hội tuyển bóng tròn xứ nhà thắng Philippines hôm 6/12 để vào chung kết với Malaysia trong mong chờ mang về chiếc cúp AFF Suzuki 2018 lần nữa, tôi thấy mình có bổn phận của một người tuổi 20 từ thành phố này hơn bốn mươi năm trước, nói lại với lớp tuổi 20 ngày hôm nay những tâm tình của chúng tôi ngày trước và chia sẻ một "giấc mơ chưa mất", cũng như truyền tay cho các bạn bó đuốc phải được tiếp tục, không bao giờ tắt cho một Vận Hội Mới Việt Nam.
Là chúng tôi ngày xưa đã không phô diễn sức sống tuổi trẻ hay hành xử tự do bằng những buổi đua xe máy nguy hiểm, hay diễn tả trầm cảm thất vọng do những tiêu cực hay bất cập trong xã hội bằng những điếu cần sa hay thuốc lắc.
Liệu đội Việt Nam có đem về chiếc cúp AFF Cup như thời điểm 10 năm về trước
Ngày xưa khoảng năm 1966-67, Việt Nam cũng đã từng đoạt cúp bóng tròn Merdeka (vô địch Đông Nam Á) tổ chức ở Malaysia, tôi cũng đã có cảm giác chiến thắng tuyệt vời như các bạn bây giờ nhưng chỉ biết tỏ lòng yêu nước đơn giản bằng la hét trò chuyện với bạn bè quanh ly cà phê đá, chứ không có được những cuộc xuống đường "đi bão" ban đêm hay với bia rượu tràn ly sau mỗi trận đá thắng của đội tuyển Việt Nam. Nhưng vẫn nhớ lại được hoàn toàn các cảm giác ngọt ngào của lòng yêu nước tràn dâng cùng nhóm bạn bè thân ái.
Phải chăng chúng ta cần đóng góp nhiều hơn bằng sự học hay việc làm đơn giản hàng ngày, bằng những trau dồi kiến thức mà không chỉ vị bằng cấp, hay bằng tài trí cho một Việt Nam phát triển và dân chủ mai hậu, và nhất là bớt đi lòng vô cảm như hiện tại với xã hội và đất nước ?
Trong tình trạng phức tạp của thế giới hiện tại với những tham vọng bành trướng trực chờ, sự chậm tiến tụt hậu về kinh tế cũng nhục nhã không kém việc mất chủ quyền nếu tuổi trẻ chúng ta không ý thức và sửa soạn đầy đủ từ bây giờ.
Vũ Thăng Long
Nguồn : BBC, 11/12/2018
Việc cho phép dùng nhân dân tệ ở Việt Nam : Hiểm họa khôn lường
Việt Nam có lẽ đã có những tính toán trong việc Ngân hàng nhà nước ban hành Thông tư 19 cho phép dùng tiền nhân dân tệ (CNY) tại bảy tỉnh biên giới Việt Trung.
Theo Thông tư 19 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, từ ngày 12/10, nhân dân tệ sẽ được phép sử dụng để thanh toán ở bảy tỉnh biên giới phía Bắc bên cạnh đồng Việt Nam.
Hai cái lợi ngắn hạn trước mắt được dẫn chứng qua thông tin "đại chúng" hay trong vài tài liệu dẫn đến Thông tư 19 là sẽ "giúp thương nhân Việt Nam sản xuất và buôn bán dễ dàng hơn ở các tỉnh biên giới", và hy vọng "giúp giới sản xuất và đầu tư Trung Quốc di chuyển một số hãng xưởng sản xuất và dự án đầu tư sang Việt Nam".
Một vài chuyên gia ở Việt Nam đã phát biểu phần nào ủng hộ cho Thông tư 19 trên, cho rằng đã nghiên cứu kỹ và "tìm ra các văn bản pháp quy bảo đảm chặt chẽ cho Thông tư 19 về giới hạn phạm vi áp dụng và cơ chế giám sát thực hiện" để không có việc dùng lan tràn tiền Trung Quốc trong lãnh thổ Việt Nam, gây ra lo ngại của cả nước về hiểm họa Trung hóa cả nền tiền tệ trong tương lai gần, và cả nền kinh tế đất nước trong tương lai không xa.
Để phân tích kỹ hơn các yếu tố sâu xa cả trong ngắn hạn và dài hạn, bài thảo luận ngắn này trình bày các mối hại lớn hơn nhiều cho guồng máy sản xuất Việt Nam và cả nền kinh tế Việt Nam trong 2-3 năm tới, làm Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế và chính trị.
Trong ngắn hạn, Thông tư 19 sẽ tác động tai hại lên chính sách tiền tệ độc lập của Việt Nam, làm suy yếu tiền VND và sẽ gây ra các biến động tiền tệ và tâm lý khó lường trong vòng từ 3-6 tháng, nhất là việc đầu cơ tiền tệ có thể làm tan biến khối dự trữ ngoại tệ 65-70 tỷ đô la của Ngân hàng nhà nước một cách nhanh chóng nếu muốn dùng dự trữ đó để bảo vệ tỷ giá sau này.
Sau khi phân tích các điểm này, thì kết luận rõ ràng là LỢI BẤP CẬP HẠI như sau, trong tóm tắt các điểm chính cho một cuộc thảo luận cần có gấp rút.
Trụ sở chính Ngân hàng nhà nước Việt Nam tại Hà Nội
1. Vấn đề vi hiến :
- Chủ quyền kinh tế, chủ quyền tiền tệ là những cấu thành đặc biệt của chủ quyền chính trị, chủ quyền quốc gia ; mất chủ quyền tiền tệ này là mất chủ quyền quốc gia, như Tiến sĩ Lê Đăng Doanh ở Hà Nội đã từng nêu.
- Thông tư 19 của Ngân hàng nhà nước cho phép đồng nhân dân tệ được lưu hành tại bảy tỉnh biên giới Trung Quốc-Việt Nam, sẽ không có cơ chế nào hữu hiệu để ngăn chặn những đồng nhân dân tệ được sử dụng ở những nơi khác ngoài bảy tỉnh đó ; và mặc nhiên nhân dân tệ trở thành một loại tiền tệ chính thức (legal tender) ở Việt Nam.
2. Có sự hiểu nhầm hay cố ý không hiểu khác biệt giữa chấp nhận nhân dân tệ trong giỏ tiền tệ của IMF và dùng nhân dân tệ như một loại tiền tệ của quốc gia :
- Giỏ tiền tệ chỉ dùng làm mốc cho việc xác định tỷ giá của tiền trong nước và không có liên quan gì đến việc dùng tiền tệ của một quốc gia. Một số đông người có thể hiểu lầm rằng nhân dân tệ có trong giỏ tiền SDR (Special Drawing Right là đơn vị tiền tệ quốc tế) của IMF (một sự thực) là coi như nhân dân tệ là đồng tiền chuyển đổi tự do, là có thể được các nước chấp nhận làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch quốc tế.
Thí dụ dễ hiểu về khái niệm của đồng tiền chính thức (legal tender) và giỏ tiền tệ (currency basket) : Thái Lan dùng tiền Baht (THB) như là đồng tiền chính thức duy nhất trong nước họ nhưng lại dùng SDR (giỏ tiền tệ nổi tiếng của IMF với nhiều tiền "lớn" khác kể cả nhân dân tệ) làm tiêu chuẩn ấn định tỷ giá của họ. Nếu có cả USD và CNY, ảnh hưởng chuyển động trái ngược của tỷ giá hai đồng tiền này trong giỏ chọn lựa sẽ có tác động trung hòa với tiền THB nếu Ngân hàng trung ương Thái Lan không quyết định tăng hay giảm ảnh hưởng của một thứ tiền trong giỏ đó.
- Thông tư 19 mặc dù không công nhận nhân dân tệ là đồng tiền chính thức của Việt nam nhưng việc Ngân hàng nhà nước cho phép lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam tức là công nhận CNY là đồng tiền chính thức thứ hai (dual currency), lưu hành song song với VND.
Hàng Trung Quốc giá rẻ tràn ngập ở Việt Nam. Trong ảnh, một phụ nữ bán hàng chủ yếu là nhập từ Trung Quốc tại chợ Đông Kinh, tỉnh Lạng Sơn.
3. Tác động quan trọng nhất là lên tỷ giá VND và chính sách tiền tệ độc lập của Ngân hàng nhà nước ở Việt Nam
- Thông tư 19 của Ngân hàng nhà nước cho phép 95 triệu dân ở Vân Nam và Quảng Tây cùng với vài triệu dân Việt Nam, hay gần 100 triệu người tức hơn toàn bộ dân số Việt Nam hiện nay, được dùng nhân dân tệ cho chi thu thương mại và đầu cơ tiền tệ ở trên lãnh thổ Việt Nam.
- Tuy gọi là biên mậu, mậu dịch ở biên giới, nhưng ở phía Trung Quốc cũng như ở Việt Nam liệu có quy định nào giới hạn phạm vi trao đổi chỉ của các tỉnh biên giới. Thực tế ở Việt Nam là lâu nay các tỉnh miền Nam vẫn đưa hàng lên biên giới bán cho Trung Quốc và được coi là biên mậu đấy. Điều này cho thấy nguy cơ Ngân hàng nhà nước không kiểm soát được chính sách tiền tệ, khả năng phụ thuộc vào đồng tiền Trung Quốc là rất lớn.
- Tùy số tiền nhân dân tệ của Trung Quốc được nới rộng hay thu hẹp ở Việt Nam, Ngân hàng nhà nước sẽ không kiểm soát được khối tiền tệ lưu hành ở Việt Nam, và ngay cả không có số đo chính xác về khối tiền đó trong nước, như từ trước đến nay. Quan trọng nhất, Ngân hàng nhà nước mất cả khả năng ấn định chính sách tín dụng rộng hay thắt chặt một cách độc lập.
- Ngoài ra, tỷ giá VND sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi tỷ giá CNY. Đây là vấn đề rất quan trọng hiện nay, vì trong cuộc thương chiến Mỹ - Trung hiện tại, tiền CNY đã mất giá 8% từ tháng 4, trong khi VND chỉ mới mất giá 3% so với USD.
Trong cuộc thương chiến Mỹ - Trung, đồng CNY đã mất giá chừng 8% so với đồng USD.
- Sự lan truyền mạnh của nhân dân tệ ở Việt Nam sang hai trung tâm tiền tệ lớn là Hà Nội và Sài Gòn sẽ có thể làm VND mất giá thêm 4-5% trong thời gian ngắn do đầu cơ tiền tệ, ngay cả lúc chưa có tác động nào khác của các yếu tố thương mại giữa tay ba Mỹ-Trung Quốc-Việt Nam (như bàn dưới đây).
- Tương lai cuộc thương chiến Mỹ - Trung đang có đà sẽ bộc phát mạnh mẽ hơn để "thị uy" nhằm mục đích chiến tranh tâm lý trước khi thương nghị chính thức trở lại giữa hai quốc gia và với các đối tác khác. Trong tháng 9, gần như có thể là Mỹ sẽ tuyên bố áp thêm thuế 25% lên 200 tỷ đô hàng nhập từ Trung Quốc. Để trả đũa, Trung Quốc chỉ có thể áp lên cùng thuế này trên số hàng nhập còn lại từ Mỹ trị giá 80 tỷ đô (tổng số hàng nhập từ Mỹ là 130 tỷ năm 2017). Điểm yếu huyết mạch của Trung Quốc là chỗ này. Dân chúng và giới thương gia Trung Quốc nhất định sẽ phải "phòng thủ" bằng cách trốn khỏi tiền nhân dân tệ qua dự trữ USD, tiền Yen, Euro, và có thể là vàng (nơi ẩn trú tiền để dành quan trọng của dân Á đông).
- Việt Nam sẽ mất nguồn ngân sách quan trọng trong kinh tế học gọi là "seignorage" khi không chủ động được chính sách tiền tệ của quốc gia.
- Nếu tiền nhân dân tệ xuống quá mức 7,0 - 7,2 ăn 1 USD, hệ thống tiền tệ Trung Quốc sẽ rối loạn toàn bộ. Và ảnh hưởng lên tỷ giá VND do một mình yếu tố đầu cơ tiền tệ này thôi sẽ có thể dễ dàng đẩy tỷ giá VND tới mức 24.000-24.500/1 USD.
4. Tác động gia tăng của thương chiến Mỹ-Trung Quốc lên kinh tế và tỷ giá VND
- Theo kinh nghiệm về tiền tệ thế giới, đồng tiền mạnh bao giờ cũng lấn át đồng tiền yếu. Nếu như đồng nhân dân tệ với số lượng hàng hóa ở đằng sau và với việc họ phá giá tiền của họ, giá thành của hàng Trung Quốc rẻ đi, sẽ tạo ra một ưu thế rất lớn với hàng hóa của Việt Nam. Nhiều kỹ nghệ của Việt Nam sẽ bị bóp nghẹt.
- Việc ai cũng e ngại là Trung Quốc sẽ tuồn hàng sang Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh áp thuế cao. Mỹ đã sẵn sàng với việc này và sẽ áp thuế lên hàng nhập từ Việt Nam và ngay cả ngăn chặn hàng Việt Nam có "gốc Trung Quốc" được nhận biết khá dễ dàng qua hệ thống tin tức thương mại của Mỹ.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung gây e ngại rằng Trung Quốc sẽ tuồn hàng qua Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh áp thuế cao.
Vài câu kết ngắn :
- Theo vài chuyên gia, Việt Nam có thể do tính toán lo ngại bị lôi vào vùng khủng hoảng tiền tệ, như đã và đang xảy ra ở các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Argentine… Nếu Việt Nam có ý muốn "dựa" vào đồng nhân dân tệ để "tránh bão", đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm lúc này.
- Ngân hàng nhà nước cần xét lại Thông tư 19, tính toán lại các dự định trong việc cho nhân dân tệ lưu hành trước hết ở bảy tỉnh biên giới, sau đó lan rộng đến Hà Nội và Sài Gòn, sẽ là việc rất khó kiểm soát.
- Một nghịch lý trớ trêu cho chính sách Ngân hàng nhà nước là cố chống việc đô la hóa trong quá khứ nay lại chính thức hóa và hỗ trợ việc nhân dân tệ hóa tiền đồng Việt Nam. Hơn nữa, Trung Quốc đang là nước có liên hệ thương mại cao nhất với Việt Nam và đứng đầu trong danh sách nhập siêu của Việt Nam. Nay Thông tư 19 lại giúp cho việc nhập khẩu hàng Trung Quốc dễ dàng hơn nữa, gồm cả nhập khẩu "chính ngạch" và "tiểu ngạch--lên đến 30 tỷ đô". Liệu ai có thể giải thích rõ thêm về mục tiêu chính sách của Ngân hàng nhà nước ?
- Không cần nói thêm, việc ban hành và áp dụng Thông tư 19 cùng lúc với việc tiếp tục cứu xét thiết lập 3 đặc khu kinh tế ở những vùng nhậy cảm cho an ninh quốc gia, sẽ gây hiểm họa trầm trọng cho đất nước.
Tác giả là kinh tế gia ở California, Hoa Kỳ.