Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Thư gởi nước Đức

Pearl S. Buck, Trần Quốc Việt dịch 

Sáng nay khi tôi ngồi ở bàn giấy thì một người đàn ông bước vào và nhờ tôi viết gì đấy cho người dân ở Đức. Ông ta là một người tốt cũng như là một người Mỹ tốt, cho nên tôi không muốn khước từ. Tuy nhiên tôi thấy ông nhờ một chuyện không thể nào làm được. Đối với tôi viết gì đấy đặc biệt cho người dân ở Đức là điều tưởng chừng như quá khó, quá khó vì một lý do rất đơn giản. Tôi không biết nước Đức. Có lần, cách đây nhiều năm, khi tôi chỉ mười bảy tuổi, tôi ở Berlin vài ngày. Tôi dành thêm một vài ngày nữa để đi thăm thú khắp miền quê xinh đẹp ở Đức. Nhưng tôi không biết nói hay thậm chí đọc được tiếng Đức, cho nên tôi không hiểu người ta nói gì hay hỏi họ được gì. Du lịch ở một nước mà ta không biết nói chuyện với người ở nước ấy thì khác gì bị liệt và gần như mù. Ta chỉ thấy, nhưng chỉ thấy thôi là không đủ.

tudo1

Pearl S. Buck (1892-1973) là nữ văn sĩ Mỹ đầu tiên được trao giải Nobel văn chương vào năm 1932

Tất nhiên, giống như nhiều người khác không phải là người Đức, trong suốt nhiều năm trước cuộc chiến tranh này tôi đã đọc tất cả những gì tôi có thể tìm thấy về người Đức. Nhiều người trong chúng ta đều ý thức điều gì đấy diễn ra ở Đức mà chúng ta đã không thể hiểu, nhưng đấy chính là điều chúng ta sợ vì chúng ta thấy đó là ác và nguy hiểm. Chúng ta đã nghĩ về điều này không phải vì điều này thuộc về nước Đức, mà vì chúng ta biết nước nào cũng có thể ác, chính vì ác là thuộc về bản chất của nhân loại. Hôm nọ tôi nói chuyện với một người Mỹ vừa từ Đức trở về, và ông đã đến nhiều nơi mà con người đã bị giết một cách tàn nhẫn vô cớ. Ông nói, "Mỗi lần tôi nhìn những cảnh tàn ác ghê sợ này tôi đều nghĩ đến chuyện hoàn toàn giống như thế cũng có thể xảy ra ở ngay chính nước chúng ta nếu như chúng ta để cho bọn cướp trong nước lên nắm quyền. Nếu như họ hiện diện ở Washington và trong tòa Bạch Ốc thì họ cũng sẽ giết những người Do Thái và người da đen ở Mỹ và tất cả những ai chống lại họ. Nhưng ngược lại chúng ta bỏ tù họ".

Nhưng lý do họ ở tù thay vì cầm quyền là chính vì nhiều người tốt đã bền bỉ chống lại họ và cương quyết ngăn không cho họ lên nắm quyền. Nếu như những người tốt này vẫn thụ động thì nước chúng tôi biết đâu cũng có thể rất khác.

Chính vì vậy với tất cả lòng khiêm tốn sâu sắc tôi viết cho những người ở Đức. Chúng tôi may mắn là chúng tôi có thể ngăn cản những người ác có ở trong nước chúng tôi. Nhưng theo như những gì chúng tôi đã đạt được, chúng tôi làm được điều này chỉ nhờ vào cuộc đấu tranh kiên trì nhất từ những người tốt. Tôi chắc chắn điều này cũng đúng cho mọi quốc gia. Chính một phần ác ở người ác là họ muốn có quyền lực đối với người khác để họ tự do làm những chuyện ác, và chính một phần thiện ở người tốt là họ không muốn quyền lực cho mình. Chính những bản năng mà sinh thành nên cái thiện, ước muốn tất cả mọi người đều nên có tự do và độc lập, mong muốn bình an, sẵn sàng tin những gì người ta nói, hy vọng con người trở nên hướng thiện hơn, chính những bản năng này là những bản năng khiến cho người ác dễ dàng nắm quyền hơn.

Người tốt không thích đấu tranh. Họ ghét xung đột và chiến tranh. Họ muốn tất cả mọi người đều sống bình an trong tình thân ái. Nhưng người tốt bây giờ phải nhận thức một điều là tuy thế giới mà họ mong muốn ấy hoàn toàn có thể có, nhưng thế giới ấy chỉ có thể có với cái giá của cuộc đấu tranh và cảnh giác không ngừng. Hiện nay cái thiện vẫn chưa được xác lập trên thế giới. Chẳng một ai an toàn, chẳng một ai có thể sống thanh thản khi cái thiện vẫn chưa xác lập ở tất cả các dân tộc.

Khi tôi nghe về cách những người ác lên nắm quyền ở Đức, tôi cảm thấy tôi có thể hiểu chính xác tại sao chuyện ấy lại xảy ra. Chuyện ấy có thể xảy ra rất dễ dàng là đằng khác. Hầu hết mọi người đều không thích phải bận tâm đến chính quyền. Có chính quyền rất mạnh tưởng cũng thú vị thật, nếu như người ta có thể tin tưởng chính quyền ấy cũng rất tốt và rất công bằng. Nhưng, than ôi, người trong chính quyền cũng chỉ là con người thôi, cho nên chính chính quyền cũng nguy hiểm cho bất kỳ ai ở trong chính quyền. Chỉ những người rất tốt và vĩ đại mới có thể chống lại ảnh hưởng của quyền lực, nhưng rất ít ai mà lại không thay đổi trước ảnh hưởng này.

Vì lý do này, chúng tôi ở Mỹ tin người ta không nên nắm giữ quyền lực quá lâu. Nhiệm kỳ chức vụ của họ phải ngắn, để cho họ lúc nào cũng ở địa vị người làm thuê được nhân dân thuê mướn chứ không phải lúc nào cũng có quyền lực đối với nhân dân. Không ai đủ mạnh hay đủ tốt để cai trị người khác suốt đời cả.

Tôi đã sống ở những nước dưới sự cai trị của các nhà độc tài, và tôi cũng đã sống ở nước tôi nơi chúng tôi không có nhà độc tài. Không có sự nghi ngờ, không thể có sự nghi ngờ ở những ai trung thực, về nơi nào nhân dân sống hạnh phúc hơn. Không ai có thể an toàn dưới chế độ độc tài, ngay cả dưới chế độ độc tài nhân từ- nếu như có thể có chuyện như thế. Chỉ có kẻ ngu đần mới có thể bằng lòng khi biết mình hoàn toàn lệ thuộc. Người bình thường có lý trí, biết suy nghĩ, biết nhận thức, siêng năng không thể chịu đựng lâu chính quyền bên trên mình mà mình không có tiếng nói. Với tất cả các giác quan của mình họ cảm giác và ngửi thấy nguy hiểm, khi họ biết số phận của họ nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Thật ra, nếu nhà độc tài tốt thì dân chúng trong khoảng thời gian ngắn ngủi có thể vui hưởng cảnh thái bình, ai ai cũng có công ăn việc làm, cuộc sống được an bài. Nhưng tất yếu những điều này phải kết thúc, vì nhà độc tài không thể nào tốt mãi. Trong suốt lịch sử, nhà độc tài đã không tốt mãi trong bất kỳ nước nào. Nhưng hơn thế nữa, dưới chế độ độc tài con người tất yếu suy đồi. Họ trở nên bạc nhược và vô cảm, hay họ trở nên bất mãn và bi quan, như thể chính quyền họ thuộc về ngoại bang. Và quả thật chính quyền như vậy là xa lạ, xa lạ như chế độ cai trị của đế quốc đối với thần dân. Vì con người cần tự trị. Chỉ dưới chế độ tự trị con người mới phát triển khả năng sáng tạo, phát minh và biểu đạt. Không ai sáng tạo ra nghệ thuật vĩ đại trừ phi họ là người tự do, tự do thể hiện ý muốn của họ qua chính quyền họ. Phát triển là nền tảng cho hạnh phúc của con người, và tự do là cần thiết cho phát triển.

Nhưng tự do đi kèm với trách nhiệm. Trong bất kỳ nước tự do nào cũng không thể có hy vọng sống nếu không có đấu tranh. Cuộc đấu tranh ấy về cơ bản là cuộc đấu tranh giữa người tốt và người xấu. Sẽ có nhiều sắc thái và nhiều ý kiến khác nhau, nhiều mong muốn và nhiều mơ ước xung đột nhau. Nhưng luật đa số, cùng với sự hoàn toàn công nhận thiểu số, có thể cho phép thể hiện ý dân bất chấp ý kiến khác nhau. Không, cuộc xung đột căn bản trong bất kỳ nước dân chủ nào không phải là giữa đảng và đảng, tôn giáo và tôn giáo, màu da và màu da. Cuộc xung đột ấy là giữa người tốt và người ác.

Ngày nay khi tôi nghĩ về người dân Đức trong hoàn cảnh hiện nay của họ, tôi cảm thấy tất cả những gì tôi phải nói có thể tóm tắt trong câu này. Cuộc đấu tranh chủ yếu trên thế giới trong thời đại này, hay có lẽ trong mọi thời đại, là giữa người tốt và người ác, mà hai người này thì dân tộc nào cũng có. Lực lượng tàn ác của chủ nghĩa Quốc xã đã củng cố cái ác tiềm tàng trong con người ở khắp nơi. Chuyện những người ác có thể lên nắm quyền ở một nước đã khiến cho tất cả những người ác càng thêm hy vọng, càng thêm bày mưu tính kế. Chuyện những người tốt ở Đức đã không ngăn cản những người ác lên nắm quyền ở nước họ đã khiến cho cuộc đấu tranh chống lại người ác ở tất cả các nước càng thêm dữ dội. Tại Mỹ này người tốt đang phải hoạt động vất vả hơn, phải hăng hái hơn, mạnh mẽ hơn, tích cực hơn vì người tốt ở Đức đã để cho quyền lực chuyển từ tay họ sang tay người ác.

Vì người ác ở Đức đã giết hàng ngàn người Do Thái, cho nên người ác mới dám đối xử độc ác với người Do Thái ở các nước khác. Vì người ác ở Đức tuyên bố rằng người da trắng là chủng tộc thượng đẳng, cho nên người ác ở khắp nơi mới đối xử rất ngạo mạn và tàn nhẫn với người da màu. Vì ở Đức khoa học được dùng vào việc giết người kinh hoàng thay vì dùng vào việc gìn giữ và cải thiện cuộc sống, cho nên người ác khắp nơi mới tàn bạo hơn và sẵn sàng dùng khoa học để giết những người vô tội.

Tôi nói những lời này không ác ý gì, mà chỉ để nghiêm khắc tự nhắc nhở chính mình. Khi người tốt ở bất kỳ nước nào ngừng cảnh giác và đấu tranh, thì người ác thắng thế. Khi người ác thắng thế ở bất kỳ nước nào thì những người giống như họ ở khắp nơi trên thế giới sẽ trở nên mạnh hơn. Trách nhiệm này thuộc về người tốt ở mọi nước.

Tôi nói những lời này không phải để tự hào hay khoe khoang ở nước tôi mọi thứ thảy đều tốt đẹp. Cuộc đấu tranh ở đây giữa thiện và ác cũng rất khốc liệt. Cuộc đấu tranh này diễn ra trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, trong chính quyền địa phương ở những thị xã, thành phố, quận hạt chúng tôi cũng như trong sinh hoạt quốc gia và trong quan hệ quốc tế của chúng tôi. Nếu như tôi phải biểu thị đặc trưng của cuộc sống Mỹ ngày nay, thì chỉ cần một câu là đủ, đó là cuộc đấu tranh giữa người tốt và người ác.

Nhưng dân chúng chúng tôi may mắn ở hai điểm. Với tư cách quốc gia, chúng tôi vẫn còn tin tưởng vào lý tưởng tự do và bình đẳng giữa người với người, mặc dù chúng tôi vẫn còn xa mới đạt đến, và chúng tôi vẫn còn có phương tiện của chính quyền dân chủ. Nghĩa là, thiện vẫn còn được tin là cứu cánh và mục đích của cuộc đời chúng tôi, và chúng tôi vẫn còn tự do để cố gắng hết sức mình áp dụng vào thực tiễn điều chúng tôi tin tưởng.

Quả thật người Mỹ chúng tôi may mắn ở hai điểm này. Chúng tôi biết điều chúng muốn là điều thiện mà là cuộc sống tốt đẹp cho tất cả mọi người, và chúng tôi có phương tiện đạt được điều chúng tôi muốn, vì chúng tôi tự do nói và tự do hành động với tư cách cá nhân. Cũng đúng là có nhiều người ở nước chúng tôi không quan tâm gì đến ai ngoại trừ bản thân, và dùng tự do để chỉ làm lợi cho riêng mình. Nhưng điều tuyệt vời về Mỹ là người tốt tự do tin vào công lý và công chính, và tự do hành động theo những cách mà sẽ làm cho công lý và công chính thắng thế-tức là, để chắc chắn rằng những luật tốt được ban hành và người tốt được bầu lên nắm quyền và người ác bị kiềm chế. Phương tiện đạt đến thiện và công lý đã có ở đây, sẵn sàng để cho người tốt dùng.

Nhưng phương tiện phải được dùng đến, và điều này đòi hỏi nghị lực, cảnh giác, và thường xuyên hành động. Không thể nào có sự nghỉ ngơi và bình an cho người tốt trong thế giới hiện nay. Họ phải tỉnh thức và hành động, không chỉ trong những nước riêng lẻ, mà cùng với nhau trên toàn thế giới.

Một trong những sự thật rất khích lệ về nhân loại là chúng ta về cơ bản đều có chung sự đánh giá về những đức tính tạo nên người tốt. Người tốt ở Đức cũng là người tốt ở Mỹ, và người tốt ở Trung Hoa cũng giống như người tốt ở Nhật. Như vậy người tốt ở đâu cũng đều giống nhau cả. Những người tốt ở tất cả các dân tộc tự nhiên đều là anh em với nhau, vì đạo lý của lòng tốt vốn đơn giản. Trung thực trong lòng và tâm hồn, nói lên sự thật, coi tất cả mọi người ai ai cũng đều xứng đáng được hưởng hạnh phúc, làm việc để cuộc đời có ích lợi cho nhân loại chứ không phải bị nguyền rủa-lòng tốt chỉ là vài điều này thôi. Có những người như thế trong tất cả các quốc gia, và trong tất cả các giai cấp, trong tất cả những người uyên bác lẫn người vô học.

Chúng ta những người tin vào thiện, vì thế, không thể là kẻ thù với nhau, cho dù tiếng nói, quốc tịch và chủng tộc chúng ta là gì chăng nữa. Không thể lên án cả một dân tộc nào, vì những người tốt đều có ở tất cả các dân tộc. Điều có thể bị lên án và phải bị lên án ở bất kỳ nước nào là việc người tốt không cảnh giác và không đấu tranh chống lại cái ác. Khi người tốt, vì mong muốn sống bình an, hay vì trung thành sai lầm của lòng yêu nước, mà để cho người ác lên nắm quyền ở bất kỳ nơi nào trên địa cầu, thì như thế họ cũng phủ nhận niềm tin của họ. Vì sự tận tâm của tất cả những người tốt dành cho niềm tin chung của họ nên và phải thành thật để cho họ báo cho nhau biết cái ác đang trỗi dậy, ngay cả ở trong nước họ, để cho người tốt ở nơi khác có thể dồn sức lại để tác động đến cái ác ở địa phương, bất kể nó ở đâu.

Thế giới đã trở thành hàng xóm-bây giờ chúng ta biết điều ấy. Một cái ác diễn ra trong xóm ảnh hưởng đến cả xóm. Cuộc sống cộng đồng lệ thuộc vào sức mạnh mà người tốt có thể dùng đến để tấn công vào cái ác, ở tại bất kỳ nước nào cái ác nổi lên. Ngày nay một người tốt tất yếu cũng là một công dân tốt của thế giới. Người tốt không thể nào là người Mỹ tốt hay người Đức tốt trừ phi họ cũng là công dân tốt của thế giới, vì những gì họ làm với tư cách người tốt ở nước họ cũng thay đổi thế giới. Còn khi người tốt thất bại ở nước họ, khi họ để cho người ác chiến thắng, cho dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, thì thế giới rơi vào cảnh chiến tranh và tàn phá.

Vì thế hôm nay tôi không viết cho những người tốt mà cũng là người Đức tốt với tư cách là người Mỹ. Tôi viết như một người viết cho một người. Chúng ta những người tin vào thiện và công lý cho tất cả mọi người phải cùng nhau tham gia vào bổn phận công dân mà sẽ cảnh giác cho nước này cũng như cho nước khác, bổn phận ấy là canh chừng vì hạnh phúc của mọi người.

Tôi biết có nhiều người Mỹ mà tin, như tôi tin, có nhiều người ở Đức mà mặc dù họ buộc lòng phải im lặng trong suốt những năm tàn ác này, nhưng trong lòng mình họ vẫn còn ấp ủ niềm tin về sự cần thiết của cái thiện mà là nền tảng cho tất cả cuộc sống của con người.

Biết điều này là đúng, cho nên ta tốt hơn nên xem xét cách thử con người về thiện và ác. Rõ ràng là ở Đức Hitler lên nắm quyền với những lời hứa hẹn và những thành tựu mà ít ra trong một thời gian đã đánh lừa những người Đức tốt. Ở đây trong nước chúng tôi một nhà tiểu độc tài, mà chính ông cũng có những tham vọng nguy hiểm như những tham vọng của Hitler, đã nói trước khi chết, " Chủ nghĩa Phát-xít biết đâu có thể đến đây nhân danh chống chủ nghĩa Phát-xít". Người ác không ngu đến mức tuyên bố những mục đích và cứu cánh độc ác của họ. Họ luôn luôn tuyên bố ra rả rằng những mục đích và cứu cánh của họ đều là tốt. Vì vậy chính phương tiện họ dùng mà chúng ta phải coi chừng.

Trọng tâm trước tiên và quan trọng nhất của sự cảnh giác bất tận mà phải thường xuyên được duy trì là vấn đề tự do ngôn luận. Điều này tất yếu bao gồm tự do báo chí và truyền thanh và tất cả các phương tiện biểu đạt hiện đại. Khi quyền tự do nói thẳng của tất cả công dân càng bị hạn chế chừng nào thì những người ác càng củng cố quyền lực chừng ấy ở bất kỳ nước nào. Việc đốt sách ở Đức đã hắt bóng tối lên toàn bộ thế giới văn minh. Chẳng phải vì đống sách có ý nghĩa rất nhiều. Nhưng khi tin tức rất xấu ấy lan truyền ra khắp các châu lục thì chúng ta biết rằng người ác thực sự đã lên nắm quyền ở Đức rồi. Chẳng phải chuyện đốt sách chỉ xảy ra ở Đức. Chính vì chuyện đốt sách có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào, như từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, ở tại nhiều nước, và chuyện đốt sách đều luôn luôn mang ý nghĩa như nhau- nghĩa là người ác đã vươn tới tận trung tâm quyền lực, và người tốt có thể không còn lên tiếng nữa.

Vì người tốt không muốn bắt người khác phải im lặng. Họ muốn tất cả mọi người đều được hưởng tự do. Họ đều hoàn toàn không tự tin rằng chỉ có họ mới có toàn bộ sự thật. Bất kỳ khi nào một người hay một nhóm người nào xác quyết, hay tuyên bố con đường của họ là con đường duy nhất, thì những người này là cuồng tín hay tàn ác, và người ta phải coi chừng họ, sợ rằng chủ nghĩa cuồng tín và cái ác lên nắm quyền.

Nhưng thật kỳ lạ là ngay cả những người tốt, tha thiết khao khát cái thiện chiến thắng, lại có thể quên rằng tự do ngôn luận là nền tảng của một xã hội tốt. Tại Mỹ ở đây bây giờ chúng tôi thấy những người như thế, và họ có thể gây nguy hiểm cho chúng tôi. Nhiều người trong họ là người Đức, những người chống Phát-xít, nhiệt tình làm tất cả mọi thứ họ có thể làm để ngăn cản những người ác lên nắm quyền ở đây trong nước chúng tôi. Nhưng chính vì nhiệt tình này mà họ đôi khi tán thành những cách phòng ngừa mà chỉ có thể học được ở nước Phát-xít. Không ý thức rằng nọc độc đã ngấm vào mạch máu mình, họ thuyết phục chúng tôi như thế này : "Quý vị không sống qua thời gian Hitler lên nắm chính quyền ở Đức nên không thể hiểu thời ấy tưởng như vô hại mà nguy hiểm biết bao. Quý vị không biết rằng nhiều điều bây giờ đang được nói và viết ở Mỹ cũng chính là những điều đã được nói và viết ở Đức, và chúng tôi tin tưởng chúng. Quý vị không nhận thức rằng chính cái gọi là những người cấp tiến, những trí thức, những nhà đại tư bản kỹ nghệ mới là những kẻ giúp Hitler thành công. Chúng ta nên cấm họ phát biểu ở đây. Chính quyền nên mạnh mẽ và cấm họ xuất hiện trên các diễn đàn công cộng và các bài báo của họ không nên được phép đăng. Họ nên bị kiểm soát và cấm đoán".

Chúng tôi đáp "Nhưng ở Mỹ không làm theo cách này được. Anh phải biết rằng chúng tôi tin vào tự do ngôn luận".

Nhưng những người này đã sống hầu như suốt đời trong bầu không khí Phát-xít, mặc dù họ chống Phát-xít, nhưng họ không thể hiểu rằng tự do là không khí Mỹ, và những công dân Mỹ bình thường muốn tất cả các quan điểm đều được cho phép, để chính họ có thể có tự do để nói và để chọn lựa cho mình. Họ không muốn quan điểm tinh thần của họ bị hạn chế hay thậm chí được bảo vệ. Họ coi như thế là độc tài, và như thế quả thật là độc tài.

Tất nhiên điều này khiến cho trách nhiệm người tốt ở đây gánh vác quả thật quá nặng nề. Nơi nào tất cả mọi người được phép nói thì người ác cũng sẽ nói, cho nên tiếng nói của người tốt phải thường xuyên hơn và rõ ràng hơn tiếng nói của người ác. Người tốt phải chấp nhận điều này là nghĩa vụ của họ, vì tự do nếu là tự do đích thực thì không thể nào là tự do mà người này thì được hưởng còn người khác thì không.

Và tôi coi trọng tâm quan trọng nhất kế tiếp cần cảnh giác là quyền được xét xử công minh của tất cả mọi người, và người ta không thể nào bị giam cầm tùy tiện trong tù cho tới khi nào họ được xét xử công bằng. Nghĩa là, mọi người đều có quyền tự do thân thể, cho tới khi nào bồi thẩm đoàn gồm có các công dân quyết định rằng vì phúc lợi của những người khác họ phải bị giam giữ. Bóng tối của chủ nghĩa Quốc Xã từ từ phủ đen khắp thế giới khi chúng ta nghe nhiều người cả nam lẫn nữ bị tống vào nhà tù và trại tập trung và bị sát hại đến hàng ngàn người, mà không đếm xỉa gì đến việc xét xử công bằng, hay nếu như có xử thì những phiên xử ấy chỉ là sự chế nhạo công lý.

Người tự do nên cực kỳ coi trọng hai nền tảng này, tức quyền tự do nói thẳng và quyền tự do thân thể của con người. Vì người tốt cần có hai nền tảng cực kỳ quan trọng và cần thiết này nếu họ phải duy trì cuộc đấu tranh của họ trên thế giới. Ngay cả người tốt cũng bị thua khi họ không thể lên tiếng và khi họ bị giam cầm và sát hại. Họ bị bịt miệng.

Chính để làm cho người tốt im lặng mà người ác trước tiên tìm cách phủ nhận tự do ngôn luận và quyền được đưa ra tòa án xét xử (habeas corpus). Để làm cho người tốt phải im lặng- các nhà độc tài đã đổ ra biết bao nhiêu thời gian và công sức vào nỗ lực ấy ! Những hoàng đế xưa ở Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập và La Mã đã đốt sách và cấm dùng văn tự, bắt dân chúng phải ngu dốt và tống vào tù những ai phản kháng, và giết những ai không chịu từ bỏ tự do. Còn trong thời hiện đại cuộc đấu tranh này ít nhiều đều diễn ra ở tất cả các nước. Trong những dân chúng bị trị các nhà cai trị đế quốc vẫn còn tống vào tù những tiếng nói phản kháng mà không qua xét xử và giam cầm họ trong tù cho tới khi họ quá yếu không thể ra tòa nổi và cho tới khi họ chết. Ngay cả trong những dân chúng tự do, chẳng hạn như dân tôi, cuộc đấu tranh cũng rất quyết liệt. Người ác luôn luôn tìm cách làm cho người tốt im lặng, để cho những kế hoạch độc ác của họ có thể diễn ra mà không bị cản trở.

Vì vậy người tốt phải khăng khăng đòi hai quyền tự do chính này, để họ có thể có phương tiện duy trì cuộc đấu tranh của họ chống lại người ác, và họ phải đánh giá mỗi chính quyền và mỗi nhà cai trị cá nhân theo mức độ mà mỗi chính quyền và mỗi nhà cai trị bảo vệ và cho phép quyền tự do ngôn luận và quyền được đưa ra tòa án xét xử.

Là một người Mỹ, và là công dân của nước dân chủ, tôi nói với các bạn sự thật : bất kỳ ở nước nào nơi mọi người được tự do, độc lập, và tự trị thì luôn luôn là nước nơi có cuộc đấu tranh giữa người tốt và người xấu. Nếu không có cuộc đấu tranh này, thì có nghĩa là độc tài cai trị, và người tốt đã thua. Nếu người tốt ở Đức đang mơ về một quốc gia nơi họ có thể có tự do và đồng thời sống không có trách nhiệm, thì cứ để cho họ tỉnh dậy từ những giấc mơ hoang đường này. Không có những ốc đảo bình an hạnh phúc như thế, trước đã không bao giờ có, sau cũng sẽ không bao giờ có. Vì sống không có trách nhiệm có nghĩa là hạnh phúc của dân chúng đã bị lấy đi từ tay của người tốt, và đặt vào tay của người cuồng tín và người ác. Nhà độc tài có thể có tính tình tốt, có lúc nhân hậu, nhưng không có gì bảo đảm ngoài tính tình của ông, hay tốt nhất ngoài cuộc đời ông. Xác lập tập quán của chế độ độc tài trong một nước là đặt nhân dân dưới sự may rủi của thay đổi. Nhà độc tài hôm nay tưởng như tốt ngày mai có thể ác, hay ông có thể chết và người ác lên thay. Sự bảo đảm duy nhất cho hạnh phúc của cả dân tộc là hãy đặt vào tay nhân dân quyền kiểm soát đối với chính quyền của họ, quyền chọn lãnh đạo, quyền đuổi họ khi họ không tốt. Những quyền lực này không phải lúc nào cũng được dùng tốt hay đúng đắn. Nhưng nhân dân vẫn luôn luôn là người đúng nhất vì chỉ có họ mới biết chính quyền họ tốt hay xấu

Đôi khi những người mới đến Mỹ kinh ngạc trước tài năng kém cỏi của những người trong chính quyền lúc ấy. Họ hoài nghi và chất vấn những cách thức dân chủ chậm chạp của chúng tôi. Điều họ không hiểu là dân chúng chúng tôi nhận thức rất rõ những gì diễn ra trong chính quyền, và dân chúng họ theo dõi người ta đang làm gì ở đấy và rồi tự hỏi mình họ có chọn đúng người hay không và, nếu không, thì quyết định lần bầu cử tới họ sẽ chọn ai. Roosevelt vẫn là vị tổng thống lâu năm nhất của chúng tôi, không phải vì không có ai chống lại ông, vì có nhiều người rất ghét ông, mà vì đa số dân chúng chúng tôi tin những gì ông ấy làm là vì lợi ích của hầu hết mọi người. Mặc dầu ngay cả những người giàu có và quyền thế ra sức chọn người khác thay ông, nhưng dân chúng chúng tôi vẫn nhất quyết giữ Roosevelt ở lại. Những dân tộc không quen với dân chủ sửng sốt biết rằng khi Tổng thống chúng tôi phát biểu với quốc tế, dân chúng sẽ không ủng hộ những gì ông nói nếu họ cảm thấy ông không nói thay cho họ. Điều này có thể gây khó khăn cho các nhà ngoại giao, nhưng tốt cho dân chúng. Dân chúng Mỹ kiên quyết chống lại việc đặt số phận của họ vào tay của một người hay một nhóm người, cho nên tất cả các dân tộc cũng nên e sợ như thế. Vào những ngày các quan hệ quốc tế vừa mới bắt đầu này, sự sợ hãi này có thể gây ra bao khó khăn và trì hoãn, nhưng nếu tất cả các dân tộc đều tôn trọng cùng các quyền như nhau, thì điều quan trọng là các dân tộc nên biết và hiểu nhau hơn, và khi điều ấy đến, vì nó phải đến nếu các dân tộc bắt đầu phát triển dân chủ và tự trị, chúng ta lúc đó sẽ có cơ sở đích thực cho mối quan hệ quốc tế thực sự giữa các quốc gia. Nhưng người Mỹ sẽ không từ bỏ tự do của mình, trong khi chờ đợi các dân tộc khác đạt đến tự do tương tự. Quốc gia chúng tôi được thành lập trên nền tảng tự do của dân chúng Mỹ.

Tôi không muốn khen dân tôi quá lời. Tôi chỉ muốn nói chúng tôi đã nhận thức tự do cho cá nhân là tài sản quý giá nhất, cho nên người tốt chúng tôi biết rằng mất gì thì mất, chúng tôi không được để mất tự do này, vì khi tự do cho cá nhân mất đi, thì tất cả đều mất hết và người ác tất yếu chiến thắng.

Vì vậy tôi nói với người tốt ở Đức, không phải với những lời nhẹ nhàng và an ủi, không phải với những lời xoa dịu và gợi ý bình an. Vì với thế giới như ngày hôm nay thì không thể nào có sự bình an cho người tốt ở bất kỳ nơi đâu. Cuộc chiến tranh lớn đang diễn ra, không phải cuộc chiến tranh của giới quân phiệt và của người lính, không phải cuộc chiến tranh có thể giải quyết bằng bom và súng, mà là cuộc chiến tranh giữa thiện và ác. Hỡi những người tốt ở Đức, các bạn không thể nằm xuống ngủ. Các bạn không thể an nghỉ dù chỉ một giờ. Vì người tốt ở khắp mọi nơi cần sức mạnh, sự cảnh giác và quyết tâm của bạn thêm vào sức mạnh, sự cảnh giác và quyết tâm của họ.

Và nếu chính nghĩa vụ của các bạn là giúp đỡ người tốt ở khắp mọi nơi, thì nghĩa vụ ấy không chỉ là nghĩa vụ-mà cũng còn là cơ hội cho các bạn. Có nhiều người nói ở Đức không có người tốt. Nhưng chúng ta biết ở nước nào cũng có những người tốt, cho nên bây giờ là lúc mà những người ở Đức nên bước lên để gia nhập vào cuộc đấu tranh thiện ác này. Họ gia nhập vào cuộc đấu tranh ở Đức thì cũng như gia nhập vào cuộc đấu tranh trên thế giới vậy. Niềm hy vọng của các nước dành cho nước Đức phụ thuộc vào mức độ mà người tốt ở Đức lúc này có thể bước lên để cùng nhau tập hợp dưới những tiêu chuẩn mà tất cả những người tốt đều chấp nhận là của họ.

Tôi kết thúc thư gởi các bạn bằng những lời thơ của Hermann Hagedorn, một người Mỹ có gốc gác ở Đức. Ông là một trong những người tốt ở đây.

Bài ca chúng những người tốt

Hãy đưa tay bạn cho tôi nắm !

Chúng ta đã là người lạ với nhau, bạn và tôi.

Lạ nhau không chỉ vì sa mạc và biển cả nghìn trùng,

Mà mỗi người bị ngăn cách và cấm đoán lẫn nhau.

Hãy đưa tay bạn cho tôi nắm.

Nay bên nhau dưới bầu trời giông bão,

Không còn xa lạ nhau giờ chỉ bạn bè bên nhau.

Hãy đưa tay bạn cho tôi nắm.

Bạn và tôi, chúng ta cần nhau,

Ngay cả khi lửa thiêng bị gió bão thổi mạnh

Chúng ta cần đan tay vào nhau về phương tây để lửa không tắt,

Chúng ta sẽ còn cần nhau hơn tâm hồn chúng ta đan quyện vào nhau

Vì hy vọng và vì nhân loại.

Chúng ta cần nhau, bạn và tôi.

Đất nổi sóng dưới trời giông bão.

Lẻ loi, xa cách, chúng ta chết.

Bạn người nước ngoài, ở phương trời xa xăm ơi,

Chúng mình không còn xa lạ nữa nhé-

Hãy đưa tay bạn cho tôi nắm !

Pearl S. Buck

Nguyên tác : Letter to Germany, The UNZ Review, An Alternative Media Selection, Common Ground Winter 1946, tr. 3-9

Trần Quốc Việt dịch

Pearl S. Buck (1892-1973) là nữ văn sĩ Mỹ đầu tiên được trao giải Nobel văn chương vào năm 1932. Bà cũng là một trong những nhà hoạt động nhân quyền bền bỉ nhất cho nhân quyền ở khắp mọi nơi.

 

*********************

Ngày mai

Yevgeny Zamyatin, Trần Quốc Việt

Phi lộ : Vào năm 1919 Yevgeny Zamyatin viết bài này như một tuyên ngôn của giới trí thức Nga trong buổi giao thời trong tờ báo tên Ngày Mai ở Petrograd. Tờ báo bị đình bản ngay sau số đầu tiên. (TQV)

--------------------

tudo2

Yevgeny Zamyatin (1884-1937) là nhà văn phản kháng Nga.

Mỗi ngày hôm nay đồng thời là nôi và vải liệm : vải liệm cho ngày hôm qua, nôi cho ngày mai. Ngày hôm nay, ngày hôm qua, và ngày mai đều gần như nhau, và xa như nhau. Những ngày này là những thế hệ, những ngày này là ông, cha, và cháu. Và cháu luôn luôn thương và ghét cha ; cha luôn luôn ghét và thương ông.

Ngày hôm nay phải chết – vì ngày hôm qua đã chết, và vì ngày mai sẽ sinh ra. Quy luật như thế là tàn nhẫn và đúng đắn. Tàn nhẫn, vì nó khiến cho những ai hôm nay đã thấy những đỉnh cao xa xăm của ngày mai phải bất mãn vô tận ; đúng đắn, vì bất mãn vô tận là sự bảo đảm duy nhất cho sự tiến lên vô tận, cho sự sáng tạo vô tận. Người mà đã tìm thấy lý tưởng của mình ngày hôm nay, đã biến thành cột muối như vợ của Lot, đã chìm vào đất và không tiến xa hơn nữa. Thế giới tiếp tục tồn tại là chỉ nhờ vào các nhà bất đồng chính kiến : Giêsu là nhà bất đồng chính kiến, Copernicus là nhà bất đồng chính kiến, Tolstoy là nhà bất đồng chính kiến. Biểu tượng đức tin của chúng ta là bất đồng chính kiến : ngày mai tất yếu là bất đồng chính kiến đối với ngày hôm nay, mà đã biến thành cột muối, và bất đồng chính kiến đối với ngày hôm qua, mà đã tan thành cát bụi. Ngày hôm nay phủ định ngày hôm qua, nhưng ngày mai là phủ định của phủ định. Đây là con đường biện chứng bất biến mà cuốn thế giới vào vô tận theo một đường parabol hùng vĩ. Chính đề ngày hôm qua, phản đề ngày hôm nay, và hợp đề ngày mai.

Ngày hôm qua có Nga hoàng, và có nô lệ ; ngày hôm nay không có Nga hoàng, nhưng vẫn còn nô lệ ; ngày mai sẽ chỉ có các Nga hoàng. Chúng ta đi tới nhân danh người tự do của ngày mai – Nga hoàng. Chúng ta đã sống qua kỷ nguyên đàn áp quần chúng ; chúng ta đang sống trong kỷ nguyên đàn áp cá nhân nhân danh quần chúng ; ngày mai sẽ mang lại sự giải phóng cá nhân nhân danh con người. Các cuộc chiến tranh, đế quốc và nội chiến, đã biến con người thành công cụ của chiến tranh, thành con số, thành người vô giá trị. Con người bị lãng quên, vì ngày Sabbath. Chúng ta muốn nhớ lại điều khác là ngày Sabbath vì con người.

Vũ khí duy nhất xứng đáng với con người – với con người của ngày mai – là lời. Bằng lời, trí thức Nga, văn học Nga, đã đấu tranh trong hàng chục năm vì con người cao cả ngày mai. Và ngày hôm nay đã đến lúc lại cầm vũ khí này lên một lần nữa. Con người đang chết. Con người đứng thẳng đang đi bằng bốn chân, đang mọc răng nanh và lông ; con thú đang ngự trị trong con người. Thời đại Trung cổ tàn bạo đang trở lại, giá trị con người đang rơi thẳng đứng, làn sóng tàn sát người Do Thái Châu Âu đang diễn ra. Không thể nào im lặng được nữa. Đã đến lúc phải thét to lên : người với người là anh em !

Chúng tôi kêu gọi trí thức Nga hãy bảo vệ con người, và những giá trị con người. Chúng tôi không kêu gọi những ai mà không chấp nhận ngày hôm nay nhân danh sự trở lại ngày hôm qua, chúng tôi không kêu gọi những ai mà ngày hôm nay đã làm cho họ điếc đặc ; chúng tôi chỉ kêu gọi những ai mà thấy ngày mai xa xăm-và phán xét ngày hôm nay nhân danh ngày mai, nhân danh con người.

Yevgeny Zamyatin

Nguyên tác : "A Soviet Heretic : Essays by Yevgeny Zamyatin", nhà xuất bản The University of Chicago Press, 1970, trang 51-52. Bản dịch tiếng Anh của Mirra Ginsburg.

Trần Quốc Việt dịch

Yevgeny Zamyatin (1884-1937) là nhà văn phản kháng Nga. Tác phẩm "Chúng tôi" nổi tiếng nhất của ông được xuất bản ở nước ngoài vào năm 1927. Từ đấy ông bị lên án ở Nga. Tuy nhiên Stalin cho phép ông và vợ được xuất ngoại vào năm 1931, không bao giờ trở lại. Ông qua đời ở Pháp.

***********************

Sức mạnh của Sự thật 

Leo Tolstoy, Trần Quốc Việt dịch 

Sức mạnh của chính quyền phụ thuộc vào công luận. Nhờ có sức mạnh ấy, chính quyền có thể luôn luôn duy trì công luận mà họ cần, thông qua các cơ quan chính quyền, qua các viên chức tòa án, trường học, giáo hội, và cả chính báo chí. Công luận tạo ra sức mạnh này, và sức mạnh này tạo ra công luận. Tưởng như không có lối thoát ra khỏi hoàn cảnh này.

tudo3

Văn hào Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910) nổi tiếng với tác phẩm "Chiến granh và hòa bình" (1869)

Điều này sẽ thực sự đúng như vậy nếu công luận là cái gì đấy cố định, bất biến. Lúc ấy chính quyền có thể tạo ra bất kỳ công luận nào họ muốn.

Nhưng, may mắn thay, không đúng như thế. Trước tiên, công luận không phải là cái gì đấy vĩnh cửu, bất biến, bất động ; nhưng, ngược lại, thường xuyên thay đổi, chuyển động cùng với sự tiến bộ của nhân loại ; thứ hai, công luận không chỉ không thể nào được tạo ra theo như ý muốn của chính quyền, mà chính công luận tạo ra chính quyền và ban sức mạnh cho chính quyền hay tước đi sức mạnh của chính quyền.

Đôi khi tưởng như công luận vẫn không chuyển động và công luận bây giờ giống như công luận cách đây hàng chục năm, như thể công luận dao động trong những trường hợp đặc biệt nào đấy, rồi trở lại như cũ-như khi công luận hủy diệt chính thể cộng hòa và thay bằng chính thể quân chủ, rồi lại phá tan chính thể quân chủ và thay bằng chính thể cộng hòa ; nhưng công luận chỉ có vẻ như thế khi chúng ta chỉ xem xét những biểu hiện bên ngoài của công luận mà do chính quyền tạo ra một cách giả tạo.

Nhưng nếu chúng ta coi công luận trong mối quan hệ của nó với toàn bộ đời người, chúng ta sẽ thấy rằng, giống như những mùa trong năm, công luận không đứng yên một chỗ, mà luôn luôn chuyển động, luôn luôn tiến lên dọc theo cùng con đường mà tất cả nhân loại tiến lên, tựa như ngày và mùa xuân, dù trì hoãn hay do dự, vẫn chuyển động theo cùng con đường với mặt trời.

Cho nên, mặc dù, xét theo bề ngoài, hoàn cảnh các nước Châu Âu trong thời đại chúng ta hiện nay gần giống như hoàn cảnh cách đây năm mươi năm, nhưng mối quan hệ của quốc gia đối với những bề ngoài này bây giờ hoàn toàn khác với những gì vào thời đó.

Mặc dù cũng vẫn là những kẻ cai trị, quân đội, thuế khóa, xa xỉ và nghèo đói, Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành ấy tồn tại bây giờ cũng như vào thời đó, nhưng trước đây những thể chế này tồn tại vì công luận đòi hỏi, còn bây giờ chúng tồn tại chỉ vì chính quyền duy trì một cách giả tạo công luận cũ, mà hiện nay đang hấp hối hay đã chết.

Nếu chúng ta thường không chú ý đến sự chuyển động này của công luận giống như chúng ta thường không chú ý đến chuyển động của nước ở sông khi chúng ta bơi theo dòng, chính vì những thay đổi tinh tế không thể nhận thức được này của công luận mà tạo nên sự chuyển động của công luận cũng đang diễn ra trong lòng chúng ta.

Bản chất của công luận là sự chuyển động không ngừng. Nếu chúng ta tưởng công luận dường như đứng yên, chính chỉ vì lúc nào cũng có những kẻ lợi dụng giai đoạn nào đấy của công luận nhằm thủ lợi riêng, và do vậy họ ra sức duy trì cho được giai đoạn ấy, và không thừa nhận biểu hiện của công luận mới và thực mà, tuy chưa được thể hiện ra hoàn toàn, nhưng vẫn sống trong ý thức và lương tâm của con người. Những kẻ như thế cố giữ lại công luận lỗi thời và che giấu công luận mới chính là những kẻ mà hiện nay thành lập chính quyền và giai cấp cai trị...

Phương tiện mà những kẻ này nắm được rất lớn, nhưng vì công luận giống như dòng sông luôn luôn chảy và tích tụ, cho nên tất cả mọi nỗ lực của họ cuối cùng chỉ vô ích : cái cũ tàn lụi, cái mới càng tràn đầy sức sống.

Biểu hiện của công luận mới này bị cản trở càng lâu thì nó càng tích tụ lại, và cuối cùng nó sẽ càng tuôn trào mạnh mẽ...

Do vậy, sự tiến bộ của nhân loại từ công luận cũ lạc hậu đến công luận mới tất yếu phải diễn ra. Sự tiến triển này là tất yếu như vào xuân những chiếc lá tàn cuối cùng rơi xuống và những chiếc lá non mới hé nở ra từ những cái chồi căng đầy.

Sự quá độ này bị trì hoãn càng lâu, nó càng trở nên tất yếu, và càng hiển nhiên cần thiết...

Không cần phải có những kỳ tích anh hùng mới đạt được những thay đổi lớn lao nhất và quan trọng nhất trong đời người. Cũng không cần có hàng triệu người lính vũ trang, cũng không cần xây dựng đường xá và máy móc mới, cũng không cần tổ chức triển lãm, cũng không cần thành lập công đoàn lao động, cũng không cần cách mạng, hay chiến lũy, hay chất nổ, cũng không cần phát minh ra hàng không, vân vân ; mà chỉ cần thay đổi công luận.

Để tạo ra thay đổi này, không cần phải nhọc tâm suy nghĩ, cũng không cần bài bác bất kỳ cái gì đang tồn tại, cũng không cần phát minh ra điều gì mới mẻ phi thường ; chỉ cần quyết tâm không khuất phục trước giả dối, trước công luận quá khứ đã chết, mà chính quyền tiếp tục nuôi dưỡng một cách giả tạo ; chỉ cần mỗi người nên nói những gì mà họ thực sự suy nghĩ và cảm thấy, hay ít ra họ cũng không nên nói những gì mà họ không suy nghĩ.

Nếu như một nhóm nhỏ người làm được như vậy thì công luận lỗi thời sẽ tự biến mất và công luận mới, đầy sức sống, và thực sự sẽ tự thể hiện. Và khi công luận thay đổi, cuộc sống nội tâm của con người vốn làm cho họ đau khổ cũng sẽ tự thay đổi theo dễ dàng.

Thật là xấu hổ khi nghĩ rằng để thoát ra khỏi bao khổ đau đang đè nén mình mọi người chỉ cần làm thật rất ít : họ chỉ cần không nói láo. Ước gì mọi người không khuất phục trước bao dối trá tiêm nhiễm vào đầu óc họ ; ước gì họ không nói những gì mà họ không suy nghĩ hay cảm thấy, thì ngay lập tức một cuộc cách mạng sẽ diễn ra trong toàn bộ tổ chức cuộc đời chúng ta, một cuộc cách mạng mà các nhà cách mạng trong suốt hàng bao thế kỷ, cho dù với tất cả quyền lực trong tay, cũng không thể nào đạt đến.

Thật tốt đẹp biết bao nếu mọi người tin sức mạnh không ở trong vũ lực mà ở trong sự thật, thật tốt đẹp biết bao nếu họ không tránh xa sự thật hoặc bằng lời nói hay bằng hành động, không nói những gì họ không suy nghĩ, không làm những gì họ coi là ngu ngốc và sai trái...

Chính quyền biết điều này, và run sợ trước sức mạnh này, nên bằng mọi cách ra sức chống lại hay chiếm hữu nó.

Họ biết sức mạnh không ở vũ lực, nhưng ở tư tưởng và ở sự biểu đạt tư tưởng rõ ràng, và vì thế họ sợ sự biểu đạt tư tưởng độc lập hơn sợ cả quân đội ; do vậy họ đặt ra kiểm duyệt, mua chuộc báo chí, và độc quyền kiểm soát tôn giáo và trường học. Nhưng sức mạnh tinh thần thúc đẩy thế giới tiến lên ấy mãi mãi nằm ngoài tầm tay với của họ ; sức mạnh ấy không ở sách báo ; sức mạnh ấy vô hình và luôn luôn tự do ; sức mạnh ấy ở tận trong sâu thẳm ý thức của con người. Sức mạnh vô hình, tự do nhất, và mạnh mẽ nhất ấy hiện lên trong tâm hồn con người khi họ tự mình chiêm nghiệm những hiện tượng trong vạn vật, và rồi tự nhiên bày tỏ những suy tư của mình với vợ, anh em, bằng hữu, tất cả những ai họ tiếp xúc, và những người mà họ coi là tội lỗi nếu họ che giấu những gì họ nghĩ là sự thật.

Hàng ngàn triệu rúp, hay hàng triệu binh lính, hay hàng bao nhiêu thể chế, hay hàng bao nhiêu chiến tranh, hay hàng bao nhiêu cuộc cách mạng cũng sẽ không tạo ra được những gì sẽ được tạo ra từ sự biểu đạt đơn giản của người tự do về những gì họ cho là công chính, mà không phụ thuộc vào những gì tồn tại hay những gì đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ.

Một người tự do vẫn sẽ nói trung thực điều mình suy nghĩ và cảm nhận dù ở giữa hàng ngàn người mà qua hành động và lời nói của họ khẳng định chính điều ngược lại. Hình như ai bày tỏ thành thật suy nghĩ của mình thì thường cô độc, ngược lại với những người khác hay đa số cũng suy nghĩ và cảm nhận như vậy nhưng không nói ra.

Ý kiến mới của một người vào hôm qua trở thành ý kiến chung của tất cả mọi người vào hôm nay. Và ngay khi ý kiến này được chấp nhận, hành vi của con người bắt đầu thay đổi dần dần, không thể nhận thấy được, nhưng không thể nào cưỡng lại được.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, mỗi người tự do tự hỏi : "Ta có thể làm được gì để chống lại đại dương ác và dối trá muốn nhấn chìm ta này ? Tại sao ta nên bày tỏ ý kiến của mình ? Tại sao phải có ý kiến ? Tốt hơn ta không nên nghĩ đến những vấn đề mơ hồ và phức tạp này. Hay có lẽ những mâu thuẫn này là điều kiện tất yếu của kiếp người. Tại sao ta nên một mình chống lại tất cả những cái ác trên đời này ? Phải chăng tốt hơn là ta nên buông theo dòng đời chung cuốn ta đi ? Một mình ta cũng chẳng làm nên tích sự gì mà phải làm chung với những người khác".

Thế rồi sau khi buông xuôi vũ khí tư tưởng và biểu đạt tư tưởng mạnh mẽ mà thúc đẩy thế giới tiến lên ấy, con người dùng đến vũ khí hoạt động xã hội, mà không nhận thấy rằng tất cả các hoạt động xã hội đều dựa trên chính nền tảng mà họ phải đấu tranh chống lại, và khi bước vào bất kỳ hoạt động xã hội nào tồn tại trong thế giới chúng ta, họ ít nhất phải xa rời sự thật, phải có những nhượng bộ mà tiêu hủy toàn bộ sức mạnh của vũ khí mạnh mẽ đã được trao cho họ. Tựa như kẻ được trao cho con dao cực kỳ bén có thể cắt đứt mọi thứ mà lại dùng lưỡi dao chỉ để đóng đinh.

Tất cả chúng ta đều than phiền về trật tự vô nghĩa của cuộc đời, mà mâu thuẫn với cuộc tồn tại chúng ta, tuy nhiên chúng ta lại từ chối dùng vũ khí mạnh mẽ duy nhất ở trong tay chúng ta-ý thức về sự thật và biểu đạt sự thật ; mà ngược lại, dưới cái cớ đấu tranh với cái ác, chúng ta hủy diệt vũ khí này và hy sinh nó cho cuộc đấu tranh tưởng tượng chống lại trật tự này.

Một người không nói ra sự thật mà ông biết, vì ông cảm thấy mình mang ơn với những người mà ông có quan hệ. Còn người khác không nói ra sự thật vì nếu nói ra ông sẽ mất chỗ làm có lợi để lo cho gia đình. Người thứ ba không nói ra sự thật vì muốn đạt danh tiếng và quyền lực để rồi dùng chúng phục vụ con người ; người thứ tư vì không muốn phạm vào truyền thống thiêng liêng lâu đời ; người thứ năm vì không muốn làm mất lòng người khác ; người thứ sáu sợ nói ra sự thật sẽ bị phiền toái và sẽ hại đến hoạt động xã hội rất tốt mà ông đang tận tâm phục vụ.

Một người phục vụ như hoàng đế, vua, bộ trưởng, viên chức, hay lính, và quả quyết với bản thân và với những người khác rằng sự ích lợi ông mang lại còn nhiều hơn cả sự xa rời sự thật mà cần thiết trong chức vụ của ông.

Người khác thực thi chức mục tử tinh thần, mặc dù trong đáy lòng mình ông không tin những điều ông rao giảng, nhưng vẫn cho phép mình xa rời sự thật vì ông làm điều hữu ích. Người thứ ba dạy văn chương, và dù phải giữ im lặng về toàn bộ sự thật để không khiêu khích chính quyền và xã hội chống lại ông, nhưng ông vẫn tin chắc rằng mình làm điều hữu ích. Người thứ tư đấu tranh quyết liệt với trật tự hiện tại như các nhà cách mạng hay những người vô chính phủ, và hoàn toàn xác tín rằng mục đích ông theo đuổi có lợi đến nỗi việc che giấu sự thật hay cả dối trá, mà rất cần thiết cho hoạt động thành công của ông, cũng không tổn hại đến hoạt động ích lợi của ông.

Để thay thế trật tự cuộc đời mà trái ngược với lương tâm con người bằng trật tự mới và thích hợp, cần phải thay thế công luận cũ tàn lụi bằng công luận mới đầy sức sống.

Để điều ấy diễn ra, tất cả những ai ý thức được những yêu cầu mới của cuộc sống nên công khai và mạnh dạn bày tỏ chúng rõ ràng. Tuy nhiên những người thực sự ý thức được những yêu cầu mới này, lại nhân danh điều này điều nọ, không những im lặng mà còn qua lời nói và hành động khẳng định những điều hoàn toàn ngược lại.

Chỉ sự thật và bày tỏ sự thật mới có thể xác lập được công luận mới mà sẽ thay đổi trật tự lỗi thời và độc hại của cuộc đời ; tuy nhiên chúng ta không những không bày tỏ sự thật chúng ta biết mà thậm chí còn thường xuyên bày tỏ rõ ràng những gì chúng ta coi là giả dối.

Ước gì người tự do không trông cậy vào những gì không có sức mạnh và không phải lúc nào cũng tự do, tức vào sức mạnh bên ngoài, nhưng tin tưởng vào những gì luôn luôn mạnh mẽ và tự do- tức sự thật và bày tỏ sự thật !

Ước gì người ta mạnh dạn bày tỏ sự thật... thì công luận đã chết, giả dối mà toàn bộ sức mạnh của chính quyền dựa vào, và tất cả cái ác nó tạo ra, sẽ tự rụng xuống giống như lớp da khô, và thay vào đấy sẽ xuất hiện công luận mới, đầy sức sống, mà đang chờ công luận cũ rơi rụng để tuyên bố mạnh dạn và rõ ràng những yêu cầu của nó, và xác lập những hình thức cuộc đời mới hợp với lương tâm con người.

Người ta chỉ cần nên hiểu rằng những gì được chính thức tuyên bố với họ là công luận, những gì được duy trì bằng phương tiện rất phức tạp và giả tạo ấy, thật ra không phải là công luận, mà chỉ là tàn tích của công luận cũ ; quan trọng nhất, họ chỉ cần tin ở chính mình, họ nên tin những gì mà họ ý thức được từ trong tận đáy sâu tâm hồn họ, và những gì mà khao khát được nói ra nhưng không nói ra được chỉ vì nó mâu thuẫn với công luận hiện tại, đấy mới chính là sức mạnh thay đổi thế giới và nói ra sự thật là sứ mệnh của tất cả mọi người. Con người chỉ cần tin rằng sự thật không phải là những gì người đời nói, mà là những gì lương tâm, tức Chúa, nói với mình, và ngay lập tức toàn bộ công luận được duy trì một cách giả dối ấy sẽ biến mất và thay vào đấy công luận đích thực sẽ xác lập.

Ước gì người ta chỉ nói ra những gì họ suy nghĩ, chứ không phải những gì họ không suy nghĩ... thì, quan trọng nhất, sự tôn trọng nhà cầm quyền, sự từ bỏ thành quả lao động của mình cho họ, sự phục tòng họ từ trước đến nay sẽ tức thời biến mất.

Và giá như điều này chỉ cần xảy ra thì quần chúng rất đông đảo của những con người yếu đuối ngay lập tức sẽ tràn qua phía công luận mới mà sẽ ngự trị thay thế công luận cũ.

Hãy để chính quyền sở hữu trường học, giáo hội, báo chí, hàng ngàn triệu rúp, và hàng triệu người vũ trang biến thành công cụ : tất cả tổ chức vũ lực tàn bạo rõ ràng khủng khiếp này chẳng là gì khi so với ý thức sự thật dâng trào lên trong tâm hồn của một người biết sức mạnh của sự thật, và từ người này truyền sang người thứ hai rồi sang người thứ ba, như một ngọn nến thắp sáng lên muôn vàn ngọn nến khác. Ngọn lửa này chỉ cần nhóm lên, và giống như sáp trước lửa, toàn bộ tổ chức tưởng như rất hùng mạnh này sẽ tan biến đi.

Ước gì con người hiểu rằng sức mạnh rất to lớn được trao cho họ chính bằng lời nói bày tỏ sự thật ; ước gì họ từ chối bán đi quyền của họ có được từ lúc chào đời để đổi lấy chén cơm manh áo ; ước gì họ xử dụng sức mạnh của họ, thì những kẻ cai trị không những không dám, như họ dám bây giờ, đe dọa lùa, nếu họ muốn, tất cả mọi người vào lò sát sinh ở khắp nơi, họ cũng không dám tổ chức những buổi lễ duyệt binh và thao diễn của những kẻ sát nhân có kỷ luật trước bao đôi mắt của dân chúng ôn hòa ; họ cũng không dám, vì lợi ích riêng và quyền lợi của những kẻ đồng lõa với họ, mà ký và xé bỏ các hiệp ước quan thuế, họ cũng không dám vặt của dân chúng hàng triệu rúp để chia chác cho những kẻ đồng lõa.

Cho nên thay đổi không chỉ có thể xảy ra, mà thậm chí không thể nào không xảy ra, vì cây chết không thể nào mà không mục ruỗng, và cây non không thể nào mà không mọc lên.

Leo N. Tolstoy

Nguyên tác : "Christianity And Patriotism", 1894. Bản dịch được thực hiện từ ba bản dịch tiếng Anh của các dịch giả Paul Borger vào năm 1905, Leo Wiener vào năm 2013, và bản dịch đầu tiên của báo Anh The Daily Chronicle vào năm 1896. Tựa đề tiếng Việt của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

*******************

Tôi vẫn tin vào bất bạo động

Mahatma Gandhi, Trần Quốc Việt dịch 

Nói chung, nguyên tắc bất bạo động có nghĩa là người ta nhất định cố ý tránh tất cả các vũ khí tàn sát và tránh sử dụng bất kỳ vũ lực nào nhằm chống lại người khác.

A2FP81

Lời phê bình quen thuộc nhất về nguyên tắc này là chúng tôi - những người tin ở bất bạo động- là những kẻ khờ dại ngây thơ chẳng có hiểu biết thực tế về cuộc đời. Lời chỉ trích ấy đặc biệt nhắm vào tôi, chính vì tên tôi thường gắn liền nhiều nhất với bất bạo động.

Họ nói giá như tôi không khờ dại đến thế, cứ cố tình nhắm mắt trước hoàn cảnh thực tại thì tôi ắt biết rằng bất bạo động không bao giờ có thể hy vọng thắng nổi lực lượng hùng mạnh và tàn bạo mà tiêu biểu là Quốc xã Đức và Nhật Bản, mà thực chất là sức mạnh vũ trang vô lương tâm. Bất bạo động, họ nói, có thể hoàn toàn rất hay trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, vô vọng thay nó lại quá lý tưởng nên không thể có bất kỳ cơ hội thành công nào trong thế giới hiện đại của những sư đoàn thiết giáp, lính nhảy dù, máy bay ném bom này.

Phải chăng chúng tôi là những kẻ khờ dại ngây thơ ? Phải chăng bất bạo động cũng gần giống như ảo tưởng mơ mộng mà đã không bao giờ có và có thể không bao giờ có sự thành công thật sự nào trong việc chống lại lực lượng hùng hậu của quân đội hiện đại và sự áp dụng không hạn chế vũ lực và khủng bố ?

Lịch sử gần đây của Ấn Độ là câu trả lời cho câu hỏi này. Chúng tôi đã giành được chiến thắng lớn lao. Chúng tôi đã đối diện với lực lượng vũ trang hùng hậu nhưng chúng tôi đã không bị dẹp tan. Chúng tôi vẫn tồn tại ; niềm tin vào bất bạo động vẫn tồn tại. Phải chăng chỉ một chiến thắng duy nhất đã đạt được không đủ để chứng minh rằng bất bạo động, khi được phát triển hoàn thiện hơn, có thể chống lại lực lượng vũ trang hùng hậu hơn để giành được chiến thắng lớn lao hơn ?

Nhưng cho phép tôi miêu tả tín đồ chân chính của bất bạo động - người lính bất bạo động chân chính như tôi thấy.

Điều kiện cần thiết chính cho người lính trong quân đội bạo động là thân thể khỏe mạnh. Họ phải có điều này để phát triển khả năng giết người. Như vậy người già, thiếu niên non nớt và những người bệnh không được gia nhập.

Nhưng trong quân đội bất bạo động điều kiện cần thiết chính là khả năng chết cho niềm tin của ta. Điều này không phụ thuộc vào thân thể khỏe mạnh mà phụ thuộc vào tinh thần khỏe mạnh. Vì vậy, quân đội này có thể hoan nghênh vào hàng ngũ của mình những người già, thiếu niên, người mù, người bệnh và người tàn tật. Như vậy nhờ đấy quân đội bất bạo động có cơ sở quần chúng rộng lớn hơn ; nó bao gồm không chỉ những thành phần nào đấy trong dân chúng mà bao gồm tất cả mọi thành phần.

Quân đội bất bạo động không sử dụng vũ khí. Nó rèn đao gươm thành lưỡi cày và giáo mác thành lưỡi liềm. Ngược lại với người lính trong quân đội bạo động được huấn luyện sử dụng bạo lực qua việc được dạy cách bắn, người lính bất bạo động không có thời gian hay nhu cầu cho điều này. Toàn bộ sự huấn luyện của người lính bất bạo động xuất phát từ việc họ săn sóc người bệnh, cứu người đang bị lâm nguy đến tính mạng, và trau giồi khả năng hy sinh cao quý nhất.

Người lính bất bạo động không nhìn nhận ai là kẻ thù bên ngoài. Anh chỉ có lòng trắc ẩn cho những ai coi anh là kẻ thù của họ. Anh tin không ai cố ý độc ác, không ai không có khả năng tự nhiên phân biệt giữa thiện và ác, và nếu khả năng ấy được phát triển hoàn toàn thì nó chín muồi thành bất bạo động. Không ai có thể vẫn còn là những kẻ thù khi đứng trước cách cư xử như thế và tinh thần như thế. Rốt cuộc nó phải cuốn hút họ và họ trở nên một phần của nó.

Vì vậy người lính bất bạo động cầu nguyện Chúa để giúp cho những người gọi là kẻ thù ngày càng phát huy ý thức thiện và ác này, và để ban phúc lành cho họ. Lời cầu nguyện của người lính bất bạo động cho bản thân là anh có thể luôn luôn ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn về đạo đức để anh có thể can đảm đối diện với cái chết.

Thân thể và tinh thần khỏe mạnh

Tôi đã nói quân đội bất bạo động hoan nghênh những người tàn tật, người già, người rất trẻ, người bệnh và người mù. Điều ấy là đúng. Nhưng nếu được, người lính bất bạo động phải tập luyện cho thân thể và tinh thần được khỏe mạnh, vì có những bổn phận nào đấy chỉ có thể thực hiện được bởi những người đã từng rèn luyện cơ thể.

Vì người lính bất bạo động phải có khả năng chịu đựng đánh đập tàn bạo, tra tấn, hủy hoại thân thể, đói khát và còn tệ hơn nữa, nhưng chấp nhận những điều này mà không sợ hãi và cũng không oán hận những người áp bức mình. Anh phải có khả năng đứng gác ở một chỗ duy nhất hết đêm này đến đêm khác, hết ngày này đến ngày khác ; anh không được ngã bệnh cho dù anh phải chịu đựng giá lạnh, nóng bức, và mưa gió. Anh phải có sức mạnh để đi vào chốn hiểm nguy, để xông vào đám cháy, và có can đảm để vượt qua chính bao ám ảnh về cái chết. Anh phải có khả năng và tháo vác để lao vào nơi bạo loạn tưởng như không thể nào vào được, và có dũng cảm để lao xuống dòng lũ để cứu người chết đuối.

Ở Ấn Độ đã có những người có vũ khí nhưng họ lại vất vũ khí đi sau khi hân hoan chấp nhận bất bạo động và tự nguyện dấn thân không sợ hãi trước súng đạn và sắt thép.

Đây là người lính bất bạo động chân chính.

Tôi từng nghe nói rằng phong trào bất bạo động ở Ấn Độ có nhiều người theo chỉ vì nhân dân Ấn Độ là những kẻ hèn nhát không có vũ khí cho nên không thể tự bảo vệ mình ; vì thế bất bạo động quả thực rất thích hợp với họ.

Dựa theo bằng chứng tôi đưa ra, phải chăng nhân dân Ấn Độ hèn nhát ? Liệu người hèn nhát có can đảm phanh ngực ra trước mũi súng ? Liệu có quân đội nào trên thế giới có thể thắng được những người lính như thế ? Đã không sợ chết thì liệu Hitler, liệu Nhật Bản có thể đánh bại được họ không ?

Hãy phán xét xem chúng tôi có có phải là những kẻ khờ dại ngây thơ hay không ! Hãy phán xét xem chúng tôi có lòng can đảm hay không ! Hãy phán xét xem chúng tôi những người tin ở bất bạo động không có khái niệm thực tế về cách chiến thắng cái ác tồn tại trong thế giới ngày nay hay không !

Mahatma Gandhi

Nguyên tác : "I Still Believe In Non-Violence", tạp chí Collier's Weekly, 26/06/1943, trang 17.

 

******************

Hoa thương yêu nở dưới chân tường đổ nát

Trần Quốc Việt 

Từ trên đỉnh cao quyền lực, Erich Honecker, người đứng đầu Đảng Cộng sản Đông Đức trong gần 20 năm, rơi nhanh xuống hoàn cảnh bi đát - không sức khỏe, không tiền bạc, không bạn bè, và không chốn dung thân - sau khi Bức tường Berlin sụp đổ.

tudo5

Trong khi chờ ra tòa về tội phản bội và lạm dụng quyền lực, ông được tòa cho tại ngoại vì sức khỏe yếu. Nhà ông đã bị chính quyền cộng sản cải cách lấy. Không ai dám chứa chấp ông vì ông là người bị căm ghét nhất ở Đông Đức. Mọi người, kể cả các đồng chí đảng viên đảng cộng sản Đức, quay lưng lại với ông. Chẳng ai muốn dính dáng gì đến vợ chồng ông. Tuy không phải ở tù vì sức khỏe yếu, nhưng ông cần một nơi để tá túc và dưỡng bệnh sau khi mổ khối u ung thư.

Honecker chẳng biết đi về đâu. Quá tuyệt vọng, thông qua luật sư của mình ông nhờ Giáo hội Tin Lành giúp đỡ tìm nơi tạm trú cho vợ chồng ông trong thời gian chờ ra tòa. Vào ngày 30 tháng Giêng, 1990 Honecker và vợ ông, Margot xuất hiện trước cửa nhà mục sư Uwe Holmer ở làng Lobetal. Mục sư đã tự nguyện cho hai vợ chồng ông ở tạm trong nhà mình.

Chẳng bao lâu nhiều người trút giận dữ lên gia đình mục sư Uwe Holmer vì ông đã mở cửa cho vợ chồng Honecker vào nhà. Họ biểu tình phản đối ngay trước cửa nhà ông, gọi điện thoại chửi bới gia đình ông, gởi thư hăm dọa đến nhà ông, và đe dọa đặt bom và ngưng đóng góp cho nhà thờ ông quản nhiệm.

Hai ngày sau khi vợ chồng Honecker dọn đến, mục sư phải ra trước nhà của mình để phân trần với những người biểu tình. Ông nói : "Đây là điều phải ta nên làm cho một người già, bệnh hoạn. Khi chúng tôi cầu nguyện để xin tha thứ tội lỗi của mình và tha thứ những người có tội với chúng tôi, chúng tôi phải theo những điều răn này một cách nghiêm túc".

Một ông già bất ngờ la to : "Ông hãy nghe đây, điều ấy chẳng phải là quan trọng nhất". Ông ta là người về hưu và cùng với vợ đã lái xe một tiếng rưỡi đồng hồ từ Đông Berlin đến Lobetal để bày tỏ sự phẫn nộ của ông là Honecker đã không ngồi trong nhà tù lạnh cóng và ẩm ướt. "Thử nghĩ xem, Honecker đánh phá giáo hội suốt 40 năm trời thế mà giờ đây họ còn cho hắn ăn ở nữa. Họ nên giam hắn như những kẻ khác. Hắn nên buộc phải thấy tất cả những đau khổ do hắn gây ra".

Mục sư Holmer lặng lẽ đứng nghe đám đông tập hợp lại để phản đối sự hiện diện của Honecker ở trong nhà ông. Nghe xong, ông đáp : "Nhưng Chúa Jesus dạy yêu kẻ thù của mình. Tôi không thể nào bỏ mặc một người lang thang ở ngoài đường cho dù người ấy đã làm những điều sai trái".

Sau này trong tuyên bố chính thức giải thích việc giúp đỡ cho vợ chồng Honecker trong hoàn cảnh ngặt nghèo của họ, Giáo hội chỉ ra rằng những bất công và những vi phạm nhân quyền dưới chế độ Honecker thường được những người không cộng sản chấp nhận trong im lặng. Do vậy "trách nhiệm cho hoàn cảnh hiện nay của đất nước này là trách nhiệm của tất cả mọi người". Cùng ý tưởng ấy mục sư Holmer diễn đạt cụ thể hơn : "Vợ tôi và tôi tin rằng thật là sai trái khi tất cả yếu đuối, tất cả sai lầm, và tất cả tội của thời quá khứ đều trút hết lên vai của một người". Hay nói cách khác, xét cho cùng, tội lỗi của chế độ là tội lỗi ít nhiều của tất cả mọi người từng sống dưới chế độ.

Về sau mục sư Uwe Holmer giải thích cho nước Đông Đức lý do ông thương xót Honecker trong lá thư gởi tờ báo Đông Đức Neue Zeitung :

"Ở Lobetal" ông viết, "có bức tượng Chúa Jesus mời mọi người đến với Người và kêu lên rằng : "Hãy đến với ta hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng, và ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức". Chúa Jesus răn dạy chúng tôi theo gương Người và đón nhận những ai mệt mỏi và vác nặng, về tinh thần và về thể xác, nhưng đặc biệt những kẻ không nhà".

Mục sư nói ông luôn luôn phân biệt giữa con người và chính trị. Từ đấy ông thấy mình làm điều đúng vì ông thấy cho dù tàn ác, Honecker vẫn là con người, và quan trọng hơn theo ông "đây là con người cần được giúp đỡ, chúng tôi không thể khiến cho ông thất vọng. Chúa Jesus cũng không khước từ ông".

Nhưng đa số mọi người không biết rằng khi mở cửa đón vợ chồng Honecker, mục sư Uwe Holmer đã thật sự tha thứ tất cả những gì mà Honecker, biểu tượng chính của chế độ áp bức và thối nát, đã hại chính gia đình của ông trong suốt hàng chục năm trời.

Dưới chế độ chuyên chế của Honecker, giống như nhiều người khác theo đạo, gia đình ông phải sống bên lề xã hội và bị tước bỏ tất cả các quyền lợi dành cho tất cả các công dân khác. Họ thường xuyên bị nghi ngờ là thành phần phản động vì họ không chịu vào đảng cộng sản. Chỉ vì không từ bỏ đức tin, gia đình họ gánh chịu nhiều bất công và đau khổ dưới chế độ mà Honecker đứng đầu. Chẳng hạn, tám nhân viên mật vụ Stasi ở Lobetal thường xuyên theo dõi và báo cáo công việc và đời riêng của mục sư.

Trong suốt gần ba mươi năm, Bộ Giáo dục Đông Đức không cho tám người con của ông được theo học đại học vì gia đình theo đạo. Người đứng đầu Bộ Giáo dục trong những năm ấy lại chính là Margot, vợ của Honecker.

Còn cha mẹ và anh chị em của mục sư Uwe Holmer đã đào thoát sang Tây Đức sau khi cha ông vì theo đạo mà mất việc làm. Chính Honecker dựng lên Bức tường Berlin, bức tường đã chia lìa ông với gia đình và khi cha ông qua đời ông không thể nào đến để đưa tiễn cha lần cuối cùng.

Mục sư cũng còn nhìn thấy dưới thời Honecker cảnh đất nước bị chia cắt, những người bị bắn chết khi cố vượt tường, môi trường bị tàn phá và trải nghiệm biết bao khó khăn, bất công, và áp lực mà chế độ áp đặt lên giáo hội và lên ông và gia đình.

Tuy nhiên, xuất phát từ lòng trắc ẩn và đức tin, ông đã mở cửa đón vợ chồng Honecker vào nhà mình. Tuy nhiên ông tha thứ nhưng không ân xá Honecker vì theo ông Honecker "phải chịu trách niệm về những điều ông ta đã làm, nhưng tôi trong lòng không còn muốn oán hận ông. Tha thứ làm cho tôi thanh thản và nhẹ người hơn".

Nhiều năm sau, mục sư Holmer giải thích rõ ràng và sâu sắc hơn lý do ông mở cửa cho họ vào nhà và lý do ông tha thứ cho các viên chức cộng sản và những nhân viên mật vụ Stasi dù những người này đã không biểu lộ sự hối hận về những việc làm sai trái trước đây của họ.

"Rõ ràng quả là tốt đẹp hơn nếu người khác ăn năn. Nhưng tha thứ chỉ có nghĩa là giải thoát những gì đã nhiễm độc trong lòng mình. Còn người khác nên xử sự như thế nào khi nhận được sự tha thứ của tôi, tôi phó thác vào tay Chúa. Tôi chỉ tống khứ chất độc đó đi, và không còn nhớ quá khứ nữa, không còn hành hạ tinh thần mình nữa. Tôi biết điều này rất là khó, đặc biệt đối với những người đã bị trấn áp chính trị, hay những gia đình có người thân bị bắn chết ở bức tường. Nhưng ta trở thành người tù của lòng thù hận nếu ta không tha thứ cho những kẻ phạm tội. Nạn nhân phải tha thứ để họ không trở nên thù oán hơn. Những nạn nhân trong lòng vẫn còn chất chứa căm hận và thù oán từ quá khứ rồi sẽ bị bệnh".

Hận thù không giết chết nhân ái trong tim người. Và tương lai của dân chủ sau bóng đêm độc tài khởi đi chắc chắn từ niềm yêu thương giữa người và người ấy.

Trần Quốc Việt

(25/02/2022)

Tài liệu tham khảo :

1. Craig R. Whitney, "Upheaval in the East : the Germans ; For an Ailing Honecker, Two Strange Bedfellows", New York Times, 2/2/1990

2. Marc Fisher, "Hot on Honecker's Heels", Washington Post, 2/2/1990

3. Mihaela Mihai &Mathias Thaler, "On the Uses and Abuses of Political Apologies", trang 189, nhà xuất bản Palgrave Macmillan, Anh.

Published in Diễn đàn