Từ cuối tháng 6 đến nay, tàu công vụ Trung Quốc vẫn tiếp tục tung hoành trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở Biển Đông, trong bối cảnh quốc tế và khu vực, ngoại trừ Hoa Kỳ, đều duy trì những phản ứng thận trọng.
Hải Quân Việt Nam canh gác trên Đá Thuyền Chài, thuộc quần đảo Trường Sa, ngày 17/01/2013. Reuters/Quang Le
Giới quan sát gần đây đều đã ghi nhận sự kiện Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số nước bị Trung Quốc chèn ép, nhưng tiếp tục kiên quyết đấu tranh chống Bắc Kinh. Trong khi đó, cả Philippines lẫn Malaysia dường như đã chấp nhận sự hiện diện của tàu Trung Quốc trong vùng biển của mình, và lãnh đạo của hai nước này đều công khai lên tiếng cho rằng không thể kháng lại Trung Quốc.
Trong một phân tích công bố hôm qua, 10/10/2019 trên báo mạng Hồng Kông Asia Times, chuyên gia Philippines kỳ cựu Richard Javad Heydarian cho rằng phản ứng kiên quyết của Việt Nam bắt nguồn từ một chiến lược đã được hoạch định từ trước để ngăn chặn việc Trung Quốc thâu tóm toàn bộ Biển Đông.
Đây là một chiến lược ba mũi giáp công, với ba mặt trận được triển khai song song nhằm bổ khuyết thế yếu về mặt quân sự của Việt Nam khi phải kháng cự lại một lực lượng Trung Quốc hùng mạnh hơn.
Mặt trận thứ nhất là ngoại giao. Theo chuyên gia Heydarian, Việt Nam đã áp dụng chính sách ngoại giao chủ động, tìm kiếm sự hỗ trợ từ các định chế khu vực và quốc tế, cũng như vận động cộng đồng quốc tế lên án Trung Quốc, bị cho là đang đe dọa quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.
Trên bình diện chiến lược và quân sự, Việt Nam đã tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với một loạt cường quốc khu vực và thế giới, từ Mỹ, Nga, cho đến Ấn Độ và Nhật Bản. Các cường quốc này đều đã tích cực giúp Việt Nam tăng cường năng lực giám sát và bảo đảm an ninh vùng biển của mình.
Nổi bật trong số các đối tác này là Nga, đồng minh lâu đời của Việt Nam. Theo ông Heydarian, Nga là nước chủ chốt giúp Việt Nam tăng cường năng lực quân sự, và Hà Nội hiện đang tìm mua các phương tiện quân sự tiên tiến của Nga từ các loại tàu ngầm lớp kilo cho đến chiến đấu cơ tiên tiến có thể được triển khai ở Biển Đông để ngăn chặn Trung Quốc.
Hà Nội cũng mời các tập đoàn năng lượng Nga như Rosneft, Gazprom và Zarubezhneft, đến thăm dò tại các khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế của mình ở Biển Đông. Việt Nam đã mời các công ty Nga sau khi Trung Quốc đã gây áp lực trên tập đoàn dầu khí Tây Ban Nha Repsol, để từ bỏ một mỏ khí đốt mà họ được Việt Nam trao quyền thăm dò.
Theo ghi nhận của ông Haydarian, việc Việt Nam lôi kéo các tập đoàn dầu khí Nga vào Biển Đông có thể khiến Trung Quốc bớt hung hăng vì lẽ Bắc Kinh sẽ tránh gây căng thẳng trong quan hệ Nga-Trung ngày càng chặt chẽ.
Mặt trận thứ ba mà Việt Nam đang triển khai chính là cố gắng tìm cách giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, hiện là đối tác thương mại hàng đầu Hà Nội.
Để làm điều này, Việt Nam đã cố gắng liên kết với các khối kinh tế lớn không có Trung Quốc. Tư cách thành viên của Việt Nam trong Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương TPP-11, cũng như là hiệp định thương mại tự do mới với Liên Hiệp Châu Âu sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa hơn nữa nền thương mại của mình, thoát khỏi sự lệ thuộc của Trung Quốc.
Ngoài ra, với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra, Việt Nam đã trở thành nước hưởng lợi hàng đầu, với việc nhiều công ty phương Tây, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã và đang di dời cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Tóm lại, theo chuyên gia Heydarian, nhờ khéo kết hợp "sự nhạy bén chiến lược" với "tính kiên trì đặc trưng", Việt Nam đã trở thành quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Nam Á tích cực chống lại các hành động quyết đoán của Trung Quốc, và cho đến nay, đã gặt hái được một số thành công nhất định.
Trọng Nghĩa
Nguồn : RFI, 11/10/2019