Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Pháp : Chiến lược Thái Bình Dương lâm nguy sau "cú đâm sau lưng" của Úc ?

 Cơn chấn động từ vụ Úc hủy hợp đồng tàu ngầm với Pháp và phản ứng giận dữ của Paris nhắm vào Washington, bị cho là đã ép Canberra, dĩ nhiên đã được báo chí Pháp ra ngày 17/09/2021 đưa tin và bình luận rộng rãi. Các báo đều nhấn mạnh đến căng thẳng ngoại giao Pháp-Mỹ và nhất là nguy cơ chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, vốn dựa rất nhiều trên Úc, bị sụp đổ. Bên cạnh đó, phản ứng gay gắt của Trung Quốc về liên minh Anh-Mỹ-Úc AUKUS cũng được chú ý.

taungam1

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đứng trên chiếc tàu ngầm Úc HMAS Waller, neo tại Sydney vào tháng 5/2018.  BRENDAN Esposito Pool/AFP/File - Ảnh tư liệu

Không hẹn mà gặp, các nhật báo lớn tại Pháp đều đưa lên trang nhất sự kiện liên minh Úc-Anh-Mỹ cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương vừa được chính thức loan báo và những diễn biến xung quanh vụ này. Cả 4 tờ Le Monde, Le Figaro, Libération Les Echos đều dành tít lớn nhất cho chủ đề này, còn riêng La Croix, dù chọn làm tựa lớn sự kiện văn hóa Khải Hoàn Môn Paris được phủ kín bằng lớp vải bạc, nhưng cũng giới thiệu ngay trang nhất hồ sơ về vụ hợp đồng tàu ngầm, kèm theo bài xã luận với lời lẽ khá chua chát.

"Khủng hoảng công khai giữa Pháp và Mỹ"

Hai tờ Le Monde Le Figaro hầu như chạy cùng một tít : Le Monde nêu bật : "Tàu ngầm : Khủng hoảng công khai giữa Paris và Washington" trong lúc Le Figaro nói cụ thể hơn một chút : "Khủng hoảng ngoại giao giữa Pháp và Hoa Kỳ".

Le Monde trước hết nhắc lại bối cảnh vụ việc : Hoa Kỳ, Úc và Vương Quốc Anh ngày 16/09/2021 đã tuyên bố thiết lập một quan hệ đối tác chiến lược và hạt nhân chưa từng có trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Liên minh mang tên AUKUS - kết hợp các chữ đầu trong tên gọi của ba nước - Australia (Úc), UK hay United Kingdom (Anh) và US hay United States (Mỹ) - theo tờ báo, sẽ mang lại cho nước Úc một bước nhảy vọt về công nghệ và quân sự, với mục tiêu chống lại tốt hơn ảnh hưởng của Trung Quốc.

Chính vì vậy mà Canberra đã từ bỏ việc mua 12 tàu ngầm do Pháp sản xuất, một "hợp đồng thế kỷ" được ký kết năm 2016, dự trù trải dài trong 50 năm. Quyết định đơn phương này của Úc dĩ nhiên đã khiến Pháp nổi cơn thịnh nộ. Le Monde trích lại lời của ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian, tố cáo một "cú đâm sau lưng", và tuyên bố của bộ trưởng Quân lực Pháp Florence Parly, lên án lập trường "thiếu nhất quán" của đồng minh Mỹ.

Đối với tờ báo Pháp, việc mất đi một hợp đồng trị giá 35 tỷ euro này, trong đó riêng Pháp được hưởng 8 tỷ, là một vố rất đau cho ngành công nghiệp đóng tàu và vũ khí của Pháp.

Mỹ tranh thủ Úc trong chiến lược chống Trung Quốc

Le Figaro cũng nhắc lại phản ứng gay gắt của Pháp cho rằng việc Úc hủy bỏ hợp đồng khổng lồ mua tàu ngầm của Pháp dưới áp lực của Mỹ, là một đòn "đánh lén" không xứng đáng trong quan hệ giữa đồng minh.

Theo tờ báo, chính ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian đã đánh giá là khi buộc Úc phải hủy một hợp đồng tàu ngầm đã ký với Pháp, Mỹ đã đâm vào sau lưng Pháp. Đối với tờ báo, vụ này đã gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao trầm trọng chẳng khác gì vụ Iraq năm 2003 và vụ Syria năm 2013. Le Figaro nhắc lại tuyên bố giận dữ của ngoại trưởng Le Drian : "Quyết định đơn phương, thô bạo, không thể đoán trước này (của chính quyền Biden) rất giống với những gì ông Trump đã làm".

Điểm lý thú là tờ báo Pháp cũng đặt mình vào vị trí của Mỹ, nhận định rằng khi đồng ý chia sẻ công nghệ động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân nhạy cảm với Úc, ông Joe Biden như đang nỗ lực tranh thủ một đối tác quan trọng trong chiến lược của ông nhằm kiềm chế Trung Quốc, thúc đẩy Canberra dấn thân mạnh mẽ hơn về mặt hậu quản trong bối cảnh căng thẳng tăng cao quanh Đài Loan. Khi nâng cấp quan hệ với Úc, ông Biden cũng khẳng định cam kết lâu dài của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, trấn an các đồng minh đang phải đối đầu với Bắc Kinh.

Theo Le Figaro, đây quả là một thách thức cho các chiến lược gia Trung Quốc, những người đang đặt cược vào đà tàn lụi không thể tránh khỏi của cường quốc hàng đầu thế giới.

Có điều là khi đẩy mạnh quan hệ với Anh và Úc, Mỹ lại giáng thêm một đòn mới vào các đối tác Châu Âu, sau quyết định triệt thoái khỏi Afghanistan mà không hề hội ý trước. Thực tế này, theo tờ báo Pháp, chắc hẳn là sẽ khơi lại cuộc tranh luận về "sự tự chủ chiến lược" cần thiết của Châu Âu và những điểm yếu kém của NATO.

Một nguồn tin ngoại giao đã nhận định như sau về việc Úc hủy hợp đồng với Pháp : "Đây không chỉ là việc chấm dứt một hợp đồng, mà là một vấn đề chiến lược đối với Châu Âu".

Cả Paris lẫn Bắc Kinh đều phẫn nộ

Tương tự như các đồng nghiệp, nhật báo kinh tế Les Echos cũng dành tựa lớn trang nhất cho căng thẳng ngoại giao Pháp Mỹ nẩy sinh từ vụ Canberra hủy bỏ hợp đồng đóng tàu ngầm đã ký với Paris do sức ép của Washington. Tờ báo tuy nhiên đã phân tích "Mặt dưới của cuộc khủng hoảng", như được nêu lên trong tựa lớn trang nhất.

Đối với Les Echos, rõ ràng là việc hợp đồng tàu ngầm bị hủy bỏ đã mở ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng giữa Pháp và Mỹ, vừa là một quả búa tạ giáng xuống đầu Naval Group, tập đoàn đóng tàu của Pháp, vừa là một cái tát vào mặt ngành ngoại giao Pháp

Theo ghi nhận của tờ báo, đây quả là một đòn "trời giáng" làm tập đoàn Pháp phải "chết đứng", vì chỉ mới đầu tuần, phía Úc vẫn còn đàm phán về các mốc cuối cùng của hợp đồng thiết kế.

Nếu Paris tức giận vì hợp đồng bị hủy, thì theo Les Echos, liên minh quân sự AUKUS cũng khiến Bắc Kinh nổi trận lôi đình. Trung Quốc đã lên tiếng cáo buộc ba lãnh đạo Mỹ, Anh và Úc nuôi dưỡng "tâm lý chiến tranh lạnh" và sử dụng vũ khí hạt nhân vì mục đích địa chính trị.

Tờ báo Pháp đặc biệt chủ ý đến quan hệ Anh Pháp sau vụ này, vì lẽ trong tư cách là thành viên liên minh AUKUS, Luân Đôn đã mặc nhiên góp phần vào cú "đánh lén" Paris, và điều đó đặt ra câu hỏi về về tương lai của Hiệp Ước Lancaster House, vốn đã gắn bó hợp tác quân sự giữa Pháp và Anh kể từ năm 2010, ngay cả khi thủ tướng Anh Boris Johnson khẳng định công cuộc hợp tác này là "vững như đá".

Về phần Châu Âu nói chung, việc ba nước Anh-Mỹ-Úc liên kết với nhau có thể là một tấm gương khuyến khích Châu Âu xây dựng các liên minh của riêng mình với vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương.

Liên minh ở Thái Bình Dương không yên bình

Riêng Libération thì nhận định một cách mỉa mai về sóng gió bùng lên sau một liên minh tại khu vực Thái Bình Dương. Tựa lớn trang nhất tờ báo đánh giá : "Liên minh Hoa Kỳ-Anh Quốc-Úc : Không thái bình lắm".

Đối với Libération, việc Canberra hủy bỏ "hợp đồng thế kỷ" với Pháp để chạy theo tàu ngầm Mỹ đã tạo ra phản ứng giận dữ trong ngành ngoại giao Pháp, đang thấy rằng chiến lược của mình ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương bị suy yếu.

Trong bài xã luận mang tựa rất sốc "Cái tát", tờ báo thiên tả Pháp không ngần ngại cho rằng việc Úc hủy bỏ hợp đồng mua tàu ngầm của Pháp không đơn thuần mang ý nghĩa thương mại, mà còn là dấu hiệu cho thấy toàn bộ chiến lược của Pháp ở vùng Thái Bình Dương đang bị sụp đổ.

Chiến lược này được tổng thống Emmanuel Macron kiên nhẫn xây dựng và hoàn thiện từ khi bước vào Điện Elysée. Vào năm 2018, tổng thống Pháp đã đứng trên một chiến hạm tại căn cứ quân sự Úc Garden Island ở Sydney và hứa hẹn "một kỷ nguyên mới của sự can dự của Pháp vào vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương". Đó là chuyến công du thứ hai của một nguyên thủ Pháp tới Úc trong vòng chưa đầy 4 năm, một hoạt động ngoại giao năng nổ mà ông Macron giải thích là do Pháp muốn "bảo vệ thế cân bằng trong khu vực".

Vào tháng 6 vừa qua, khi nói chuyện với thủ tướng Úc nguyên thủ quốc gia Pháp đã nhắc lại rằng mối quan hệ đối tác với Canberra là "trọng tâm của chiến lược của Pháp ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương".

Thế mà ngay sau đó, người đối thoại của ông Macron đã quay sang phía Washington, tận dụng lợi thế của G7 để ký kết với Biden và Johnson một liên minh mới.

Mạng lưới Pháp dày công xây dựng bị tổn hại ?

Về phần mình, trong bài "Khủng hoảng ngoại giao giữa Washington và Paris về tàu ngầm Úc", nhật báo Le Monde cũng ghi nhận rằng tuyên bố về mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Úc là "một nhát dao lớn chém vào mạng lưới mà ngành ngoại giao Pháp đã cực nhọc thêu dệt trong những năm gần đây ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương.

Theo Le Monde, để tránh bị kẹt trong gọng kềm của cuộc đấu Mỹ-Trung, Paris đã thúc đẩy quan hệ công nghiệp-quân sự với Canberra, xem đó là một trong những trụ cột đầu tiên của chiến lược mới trong khu vực. Vào tháng 4 vừa qua, ngoại trưởng Jean-Yves Le Drian rất vui khi lần đầu tiên có thể thực hiện một cuộc đối thoại ba bên, ở cấp bộ trưởng, giữa Pháp, Ấn Độ và Úc, ngoài quan hệ đối tác chiến lược truyền thống.

Cách đây hai tuần, trong một tuyên bố chung, hai bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao của Pháp và Úc còn "nhấn mạnh tầm quan trọng của chương trình tàu ngầm trong tương lai". Thế nhưng, theo Le Monde : "Hôm thứ Tư 15/09 vừa qua, mọi hứa hẹn đã biến thành mây khói".

Trung Quốc : Đối tượng bị liên minh AUKUS nhắm tới

Theo Le Monde, cả thông cáo báo chí của AUKUS và ba nhà lãnh đạo họp với nhau qua cầu truyền hình đều không trích dẫn Trung Quốc. Nhưng nước này hiển nhiên xuất hiện ở hậu cảnh, đằng sau mỗi câu nói.

Một ví dụ được Le Monde nêu bật là với tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, Úc sẽ có những phương tiện chưa từng có để tuần tra Biển Đông. Các tàu ngầm này có khả năng lặn sâu dưới nước trong thời gian dài, tránh bị phát hiện.

Riêng về thời điểm đưa ra thông báo về việc thành lập AUKUS, hai tuần sau khi kết thúc việc rút quân khỏi Afghanistan, điều đó cho phép Washington xác nhận ưu tiên địa chính trị của họ : Chống lại thế lực đang bành trướng của Bắc Kinh. Vào ngày 24/09, tổng thống Hoa Kỳ cũng sẽ lần đầu tiên chào đón ba đồng lãnh đạo của Bộ Tứ : Thủ tướng Úc và hai đồng cấp Ấn Độ và Nhật Bản, Narendra Modi và Yoshihide Suga. Bộ Tứ là một trong những định dạng liên minh linh hoạt và nhạy bén mà Hoa Kỳ muốn ưu tiên hơn, để đối phó với Trung Quốc.

Với thông báo này, chính quyền Biden cũng gửi thông điệp về cam kết chính trị và quân sự đối với khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Cuộc rút lui hỗn loạn khỏi Afghanistan đã khuấy động nhiều thành viên của Liên Minh Bắc Đại Tây Dương. Các quan chức Mỹ thường bị chất vấn về sự chân thành và quyết tâm ủng hộ Đài Loan và Ukraine. Trong phiên điều trần tại Hạ Viện Mỹ hôm 13/09, khi được hỏi về vấn đề này, ngoại trưởng Antony Blinken khẳng định : "Chúng tôi đang tuân thủ các cam kết của mình với hai quốc gia này". Tuy nhiên, nhìn từ Paris, giá trị của các cam kết về nguyên tắc của Mỹ dường như đột nhiên bị mất giá.

Trọng Nghĩa

Additional Info

  • Author Trọng Nghĩa
Published in Quốc tế

Tương lai về vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ ở Ấn Độ - Thái Bình Dương dựa trên tính chính đáng mà Washington có được thông qua mạng lưới liên minh trong khu vực. Tuy nhiên, do một số biện pháp, uy tín Hoa Kỳ với các đối tác Châu Á ngày càng giảm.

ad1

Tổng thống Mỹ Donald Trump tại một cuộc họp báo ở Nhà Trắng, Washington, ngày 09/10/2019. Reuters/Jonathan Ernst

Trên đây là nhận định trong bài viết "Đánh giá 2 năm chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Donald Trump" của hai tác giả Elliot Silverberg và Matthew Sullivan đăng trên trang mạng The Diplomat ngày 01/10/2019. RFI trích lược bài viết.

Theo một nghiên cứu mới đây tại Đông Nam Á, 59,1% số người được hỏi tin rằng sức mạnh của Mỹ đang suy giảm, 21,2% cho rằng Washington vẫn giữ nguyên được ảnh hưởng và 68% nhận định sự ủng hộ của Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Donald Trump với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã suy giảm. Vào thời mà các đối tác thương mại và an ninh của Mỹ phát triển nhanh nhất đều là các nước Châu Á, thì độ tin cậy của Washington tại Ấn Độ-Thái Bình Dương đang là một câu hỏi mở. Tùy theo tình hình, các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực có thể sẽ không còn duy trì cam kết hoặc ngược lại sẽ mở rộng phạm vi cam kết hợp tác.

Tuy nhiên, cần lưu ý là chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và cởi mở của chính quyền Trump là nhằm bổ sung cho chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á. Theo báo cáo mới nhất của Lầu Năm Góc về chủ đề này hồi tháng 06/2019, chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ xoay quanh việc tăng cường tham gia đồng thời phát triển kinh tế, hợp tác an ninh và tiềm lực. Những mục tiêu này phù hợp với hướng chiến lược trước đây trong khu vực. Hơn nữa, sự cân bằng thương mại, an ninh và quản lý trong chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương cũng phù hợp với cách tiếp cận của các đối tác chủ chốt như Nhật Bản và Úc.

Tuy nhiên, cho tới nay, bất chấp những nỗ lực của Donald Trump, các đối tác trong khu vực dường như không còn tích cực cam kết xây dựng một vùng tự do và cởi mở. Theo hai tác giả Elliot Silverberg và Matthew Sullivan,vấn đề bắt nguồn từ sự khác biệt ngày càng lớn trong cách nhìn nhận giữa Hoa Kỳ và Châu Á.

Về kinh tế và an ninh, việc Washington ngày càng tăng cường chính sách bảo hộ mậu dịch chống lại các đồng minh truyền thống, có các chính sách loại trừ những đối thủ chiến lược và thái độ không chấp nhận bị ràng buộc trước các thách thức toàn cầu, chẳng hạn biến đổi khí hậu, đang làm biến đổi quan điểm quốc tế về cam kết cho sự thịnh vượng chung.

Về mặt quản lý, những nỗ lực của Washington - nhằm thúc đẩy nhà nước pháp quyền, tính minh bạch, trách nhiệm, nhân quyền và xã hội dân sự - đang vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ các chế độ toàn trị nhiều nơi trên thế giới, vốn đã nhận ra rằng nhờ các công nghệ mới, chưa bao giờ việc kiểm soát xã hội lại dễ đến như vậy.

Về lý thuyết, các chuẩn mực và giá trị mà Mỹ ủng hộ góp phần tạo ra trật tự khu vực an toàn và vững mạnh hơn, cũng như các mối lo ngại về an ninh đối với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, các thách thức lớn về môi trường và tài nguyên ở các khu vực đang phát triển như Nam Á và Đông Nam Á, sẽ thúc đẩy tăng cường hợp tác với Mỹ.

Tuy nhiên, khách quan mà nói thì ảnh hưởng của Hoa Kỳ đang suy giảm phần nào so với các cường quốc đang lên như Trung Quốc và Ấn Độ. Các nhà hoạch định quân sự Mỹ nhận ra Washington đã thiếu chuẩn bị so với Trung Quốc và Nga.

Chương trình Asia EDGE, Diễn đàn doanh nghiệp Ấn Độ - Thái Bình Dương, Đạo luật BUILD và các sáng kiến ​​khác gần đây của Hoa Kỳ để đáp ứng nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng ước tính lên tới 26 nghìn tỷ đô la cho Châu Á tính đến năm 2030 thúc đẩy hoạt động trợ giúp phát triển về trình độ lao động, nhưng phương pháp tiếp cận của Hoa Kỳ nói chung bị hạn chế do nguồn lực và sự phối hợp giữa các nhà hoạch định chính sách và khu vực tư nhân có giới hạn.

Việc chính quyền Trump tấn công liên tục vào các chuẩn mực tự do mậu dịch, coi thường các định chế quốc tế và các sáng kiến ​​đa phương, như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định khí hậu Paris, càng cho thấy rõ Washington đang thiếu một chính sách hợp lý.

Ngay cả việc Trump miễn cưỡng sớm chỉ trích một số quốc gia như Miến Điện và Philippines về các vi phạm nhân quyền tại các nước này, cũng như việc trong vòng chưa đầy ba năm có ba cố vấn an ninh quốc gia ra đi, cũng cho thấy rõ sự lúng túng của chính quyền trong các quyết sách về đối ngoại và an ninh quốc gia.

Trong khi đa phần người Mỹ vẫn ủng hộ các cam kết và các hoạt động giao thương, thì đặc biệt là trong số cử tri trẻ tuổi, có nhiều người quan tâm tới các liên minh và muốn hạn chế ảnh hưởng của các đối thủ lớn như Trung Quốc và Nga.

Với sự dịch chuyển liên tục của ngành sản xuất Hoa Kỳ do nhân công giá rẻ ở Châu Á và các công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, người Mỹ ngày càng ủng hộ những người phản đối chính sách đối ngoại không có lợi cho Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng niềm tin này được minh họa bằng việc đảng Cộng Hòa ngả theo tư tưởng "Nước Mỹ là trên hết" của Donald Trump ; một số ứng viên phe Dân chủ muốn một chính sách đối ngoại bảo thủ hơn …

Với những đường hướng vĩ mô này, một thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ là giải quyết được những kỳ vọng của nước ngoài về cam kết của Hoa Kỳ đối với Ấn Độ - Thái Bình Dương, ngay cả khi sự chú ý của Washington đối với Trung Quốc ngày càng đổi khác, do tương quan sức mạnh với Trung Quốc đã thay đổi.

Mối quan tâm và tư tưởng giao dịch không thường xuyên mà Trump áp dụng với các nước đối tác và đối thủ cạnh tranh đã gây ra hậu quả cho việc quản lý liên minh của Hoa Kỳ ở Châu Á. Chẳng hạn thái độ ngập ngừng của chính quyền Trump khi can thiệp công khai vào những bất đồng chính trị giữa Tokyo và Seoul đã tạo cơ hội cho Trung Quốc can thiệp.

Thao hai tác giả, sự suy thoái trong quan hệ Nhật - Hàn gần đây có thể là do các sai lầm ngoại giao của Hoa Kỳ. Chẳng hạn, vào năm 2015, chính quyền Obama đã gây phẫn nộ cho xã hội dân sự Hàn Quốc khi phản đối việc Seoul chống lại Nhật Bản trong hồ sơ "gái giải sầu", coi đó là một mưu đồ rẻ tiền của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Washington không phải gánh trách nhiệm hàn gắn những rạn nứt giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng Mỹ hoàn toàn có thể giúp hai bên giải quyết các bất đồng.

Các nước Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, với vị trí địa lý quan trọng về quân sự và thương mại, cũng do dự về quan điểm "tự do và cởi mở". Mặc dù các nước ASEAN, Ấn Độ, Sri Lanka, Maldives và thậm chí cả Pakistan đều phản đối chiến lược "chuỗi ngọc trai" của Trung Quốc nhằm mở rộng tuyến vận tải hàng hải đến tận Trung Đông và Châu Phi, nhưng sự lệ thuộc vào các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế của Bắc Kinh khiến những nước này phải chọn cách trả lời linh hoạt và mơ hồ - vừa xoay trục khỏi Washington lại vừa hướng về Washington.

Hệ quả là khu vực có nguy cơ trở nên bất ổn hơn, nên trước tiên các quốc gia buộc phải đáp ứng nhu cầu của chính họ mà không theo một trật tự dựa trên các quy tắc gắn kết chặt chẽ.

Ở Biển Đông, trước những hành động khiêu khích không tương xứng của Trung Quốc, ASEAN vẫn cảnh giác về những hạn chế của Hoa Kỳ. Nhiều lãnh đạo, chẳng hạn tổng thống Philippines, Rodrigo Duterte, lo ngại phụ thuộc quá nhiều vào một cường quốc xa xôi mà các nhà phân tích quân sự trong khu vực ngày càng nghi ngờ.

Các cuộc đàm phán về quy tắc ứng xử (COC) giữa ASEAN với Trung Quốc càng không có lợi cho Hoa Kỳ. Việc Bắc Kinh yêu cầu hạn chế các cuộc tập trận quân sự chung với các cường quốc bên ngoài - nếu được chấp nhận - sẽ làm suy yếu các nỗ lực của ASEAN trong việc duy trì vai trò của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á.

Tình hình ở Nam Á cũng tương tự. Các cuộc giao tranh biên giới gần đây giữa Ấn Độ với Trung Quốc và xung đột giữa Ấn Độ với Pakistan tại Jammu - Cachemire đã khiến Ấn Độ ngả sang hợp tác quân sự mở rộng và chia sẻ thông tin tình báo với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc Donald Trump chỉ trích Ấn Độ về chủ nghĩa bảo hộ thương mại và có thái độ ngập ngừng trước những cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc lại thúc đẩy chính quyền New Delhi phải đề phòng.

Vì chính quyền Washington luôn ám ảnh về cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt với Trung Quốc, Hoa Kỳ bị nhiều nước Châu Á vừa và nhỏ chỉ trích là đang xa rời và vô cảm với họ.

Sự lo lắng này là một sai lầm. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Châu Á và Hoa Kỳ có thể ngày càng tỏ ra đơn độc khi tập trung vào Trung Quốc, nhưng người Mỹ thường hướng tới một viễn cảnh rộng lớn trong khu vực. Công chúng Hoa Kỳ ít bận tâm về Trung Quốc hơn so với chính quyền Washington. Thái độ lạc quan của họ là do gần đây Hoa Kỳ có mức độ hợp tác cao với Ấn Độ - Thái Bình Dương về nhiều mặt.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn có thể làm tốt hơn để cho thấy những nỗ lực của họ trong khu vực không hoàn toàn chỉ là nhằm chống lại Bắc Kinh. Trong bối cảnh những tác động của Trung Quốc đối với khu vực không phải đều mang tính tiêu cực, thì chính quyền Trump có thể làm nhiều hơn để hướng chính sách phát triển tới nơi mà các nguyên tắc quản lý bền vững và toàn diện trở thành bài thực hành chung.

Triển vọng mở rộng này sẽ đặc biệt có ý nghĩa cho những nỗ lực của Hoa Kỳ và đồng minh trong việc tài trợ phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng và nâng cao năng lực của các nước như Việt Nam và Cam Bốt, vốn bị xem là những con tốt về địa chính trị thời Chiến Tranh Lạnh. Quả thực là phản ứng của Washington về các tranh chấp phức tạp liên quan đến nước của các quốc gia ở hạ nguồn sông Mê Kông với các nước ở thượng nguồn như Trung Quốc, vốn liên quan đặc biệt đến các tác hại về môi trường và kinh tế của các dự án đập thủy điện, có thể đóng vai trò như một thước đo sự ủng hộ của Mỹ trong khu vực này.

Trong bối cảnh địa chính trị đa dạng và có nhiều xáo trộn của Ấn Độ - Thái Bình Dương, con đường hướng đến cách quản lý tốt sẽ còn nhiều khó khăn. Nhưng xét về dài hạn, sự hiện diện lâu dài của Hoa Kỳ ở Châu Á có thể thuyết phục được các quốc gia, vốn hoài nghi về một hệ thống dựa trên quy tắc, tạo điều kiện để ổn định chính trị và phát triển kinh tế bền vững.

Theo Elliot Silverberg Matthew Sullivan

Nguyên tác : Assessing Trump’s Indo-Pacific Strategy, 2 Years In, The Diplomat, 01/10/2019

Nguồn : RFI, 11/10/2019

Published in Diễn đàn