Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Bài hát 'Lời tạm biệt trước lúc lên đường', phổ biến trong những năm tháng chống quân xâm lược Bắc Kinh, có một câu thật ám ảnh : ‘Dòng nước mắt, dù thiêng liêng, cũng không làm cho giặc kia lùi bước’.

baihoc1

Trung Quốc hiện nay, với sức mạnh kinh tế và quân sự vượt trội đặt nền móng bởi họ Đặng, đang chiếm đóng cương thổ, cản đà thăng tiến quốc gia và phủ bóng bành trướng lên dân tộc chúng ta.

Cũng tương tự vậy, nỗi uất hận của chúng ta với Đặng Tiểu Bình, kẻ hạ lệnh xâm lăng biên cương và thảm sát dân Việt năm 1979, dẫu có nghẹn ngào đẫm lệ ra sao cũng chẳng thể nào thay đổi thực tế là Trung Quốc hiện nay, với sức mạnh kinh tế và quân sự vượt trội đặt nền móng bởi họ Đặng, đang chiếm đóng cương thổ, cản đà thăng tiến quốc gia và phủ bóng bành trướng lên dân tộc chúng ta.

Nghĩa là, nếu muốn thoát khỏi thân phận tiểu quốc hạng hai mãi mãi bất an trong cái bóng của Đại Lục, thay vì chìm đắm trong uất hận, tất cả tâm sức của chúng ta, trong tư cách quốc dân, phải dành để trả lời câu hỏi làm sao có thể hiện đại hoá quốc gia nhanh nhất có thể và trở nên hùng mạnh nhất có thể, trước là để thoát hoạ bành trướng, sau là giúp dân tộc có cơ ngẩng mặt lên.

Chính ngay ở đây, bỏ qua những tự ái dân tộc, nhìn vào sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc bốn thập kỷ sau khi xâm lược Việt Nam, có một bài học mà chúng ta nhất định không thể bỏ qua.

Cụ thể, Trung Quốc sẽ chẳng thể nào có được vị trí siêu cường thứ 2 thế giới ngày hôm nay nếu như chương trình 'bốn hiện đại hóa' của họ cách đây 40 năm không được hỗ trợ bởi siêu cường số 1 thế giới là Hoa Kỳ. Đến lượt mình, Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ hỗ trợ Trung Quốc ở mức độ như họ đã làm nếu Trung Quốc không tỏ rõ là họ chọn phe Hoa Kỳ để chống lại Liên Xô. Và quan trọng bậc nhất, Trung Quốc đã làm gì để chứng minh họ dứt khoát đứng cùng phe với Hoa Kỳ ? - Đánh Việt Nam.

Trung Quốc đã mua tình đồng minh với Hoa Kỳ nhằm hiện đại hóa và phát triển quốc gia của họ bằng máu của người Việt Nam.

Thế bài học ở đây là gì ?

Không phải là tự lực tự cường. Dù nghe rất hấp dẫn, song ở vào địa vị một nước chậm tiến như Việt Nam hiện nay, tự lực tự cường mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa phải là điều kiện đủ để phát triển vượt bậc quốc gia, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và cả Trung Quốc đã từng. Cách đây 40 năm, với một quy mô dân số và diện tích vượt trội hơn hẳn mà Trung Quốc, ở giai đoạn đầu phát triển, còn phải tìm cho mình đồng minh hỗ trợ, thì Việt Nam hiện nay nếu chỉ tự lực tự cường liệu có ảo tưởng không ?

Vậy thì bằng mọi giá phải có mối quan hệ ở cấp đồng minh (chính thức hoặc phi chính thức) để có thể hợp tác toàn diện với siêu cường số một thế giới. Siêu cường này trong tương lai xa là ai thì chưa biết nhưng hiện tại và trong vài chục năm tới vẫn là Hoa Kỳ, vậy thì đối tác số một hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hóa quốc gia của chúng ta trước mắt phải là Hoa Kỳ, và dĩ nhiên là toàn bộ khối Tây phương theo sau, bao gồm cả Nhật Bản. Việt Nam phải tận dụng sự hợp tác sâu rộng toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực kinh tế, giáo dục, khoa học công nghệ, quân sự, chính trị, để nhanh nhất có thể phát triển vượt bậc quốc gia, đủ sức tự đứng vững, tự định đoạt số phận của mình.

Không ít người ngay lập tức sẽ tỏ ý quan ngại, viện dẫn việc Hoa Kỳ từng bỏ mặc đồng minh Việt Nam Cộng Hòa khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa năm 1974. Không phủ nhận đó là cách các nước lớn hay xử sự, nhưng thất vọng bởi điều đó chỉ chứng tỏ chúng ta vẫn ngây thơ về sự tử tế của các nước lớn trong khi châm ngôn ưa thích của họ vẫn luôn là ‘không có đồng minh vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn’.

Lưu ý rằng lúc bấy giờ (1974) Trung Quốc đang ra sức ve vãn Hoa Kỳ cùng chống Liên Xô - thành trì của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. So với Việt Nam Cộng Hòa vốn trong mắt Hoa Kỳ chỉ là một pháo đài ngăn chặn làn sóng đỏ ở Đông Nam Á, lời mời gọi của Trung Quốc dĩ nhiên là hấp dẫn hơn nhiều, nên đâu có gì khó hiểu khi họ bán đứng Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó, hiện nay vẫn chưa có một lý do khả dĩ nào cho thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể bắt tay với nhau, nếu không muốn nói là trái lại, đã bắt đầu một cuộc so găng chiến lược giữa hai siêu cường nhằm tranh đoạt địa vị số một thế giới. Mọi lo ngại rằng Hoa Kỳ một lúc nào đó sẽ thông đồng với Trung Quốc bán đứng Việt Nam như cách họ từng làm với Việt Nam Cộng Hòa đều chưa có cơ sở, ít nhất là trong nhiều năm tới.

Một khi lo ngại trên được giải tỏa, quyết định chọn phe cũng đã rõ ràng, điều những người lãnh đạo Việt Nam cần làm là chứng minh với Hoa Kỳ sự dứt khoát trong quyết định của mình, dĩ nhiên không phải bằng máu của bất kỳ dân tộc nào như họ Đặng từng làm, nhưng mức độ thì phải không hề thua kém. Những việc có thể làm ngay :

1. Luôn giữ thái độ cứng rắn nhất có thể với vấn đề biển đảo, hoan nghênh sự can dự của Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước phương Tây.

2. Ngưng việc gửi các cán bộ, sĩ quan trung-cao cấp sang Trung Quốc đào tạo.

3. Chấm dứt ngay tuyên truyền chống Mỹ một cách hệ thống trong nhà trường, truyền thông nhà nước, lực lượng vũ trang.

4. Tìm lý do kĩ thuật ngăn cản Huawei trúng thầu mạng 5G nhằm hưởng ứng lời kêu gọi của Hoa Kỳ.

5. Xúc tiến đàm phán một hiệp định thương mại tự do với Hoa Kỳ và nhượng bộ nhân quyền để EU sớm phê chuẩn EVFTA.

Tất cả những việc này đều có thể thực hiện được ngay với thể chế hiện hành. Nên nhớ là Trung Quốc, lúc kình chống Liên Xô để tìm cơ hội hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ, vẫn là một nước cộng sản. Bởi vậy, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thể lấy lý do ý thức hệ hay thể chế chính trị để trì hoãn thêm nữa.

Những hoạt động khác, thuộc về đối ngoại với nhiều cấp độ khác nhau, liên quan đến Đài Loan, Hong Kong, Tân Cương, Tây Tạng, Cambodia - những điểm nhạy cảm chính trị của Trung Quốc, nếu có thể giúp thể hiện lập trường chọn phe của Việt Nam cũng không nên loại trừ. Dĩ nhiên những hành động này thuộc thẩm quyền của các cơ quan tình báo và ngoại giao.

Tóm lại, bài học trả bằng máu ở đây là mặc dù các siêu cường đều không đáng tin, song trớ trêu thay cũng chỉ có họ, trong khi xung đột với siêu cường khác, mới bỏ công sức giúp đỡ đồng minh nhược tiểu một cách toàn diện (và cũng chỉ vì lợi ích chiến lược của họ). Bởi vậy nhân lúc các siêu cường đụng độ, nước nhỏ phải chọn đúng phe là siêu cường mạnh nhất và tranh thủ sự hợp tác toàn diện với họ để hiện đại hóa quốc gia nhanh nhất có thể, trở nên hùng mạnh nhất có thể để dẫu thời thế thay đổi thì vẫn còn có thể phần nào đó tự định đoạt số phận của mình, thay vì mãi nhược tiểu để rồi các siêu cường cứ thế đổi chác trên lưng.

Nhìn lại những gì đã xảy ra cách đây 40 năm trên biên giới phía Bắc, chợt rùng mình khi nghĩ đến những di họa sẽ đến với dân tộc một khi thế hệ chúng ta bỏ lỡ cơ hội phát triển vượt bậc quốc gia, bỏ lỡ cơ hội lần đầu tiên trong lịch sử vượt thoát khỏi cái bóng của Trung Quốc.

Nguyễn Anh Tuấn

Nguồn : RFA, 18/02/2019 (nguyenanhtuan's blog)

Published in Diễn đàn

Chiến tranh 1979 : Lịch sử chiến tranh 1979 ‘bị Trung Quốc bóp méo’

Quốc Phương, BBC, 15/02/2019

Đã có một sự tuyên truyền rất khác biệt giữa hai phía ở hai bên chiến tuyến của cuộc chiến Việt - Trung nổ ra vào ngày 17/2/1979, theo một nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Quốc gia Hà Nội.

biengioi1

Một cuộc tưởng niệm cuộc chiến Biên giới 1979 của người dân Việt Nam

Tuy nhiên lịch sử 'đã bị bóp méo' bởi phía Trung Quốc, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng, từ Bộ môn Trung Quốc học, Khoa Đông Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, nói với Bàn tròn thứ Năm từ London của BBC Tiếng Việt hôm 14/2/2019.

"Vừa rồi tôi có nghe nhà báo Tô Bình - một khách mời từ BBC Tiếng Trung cùng tham gia Bàn tròn - thuật lại những phản ứng của phía Trung Quốc, tôi thấy rõ ràng ở đây đã có một sự tuyên truyền rất khác biệt giữa hai phía và sự thật của cuộc chiến tranh năm 1979 đã bị bóp méo rất nhiều.

"Ở góc độ của người Việt Nam, tôi thấy rõ ràng tên gọi 'Phản kích tự vệ' của cuộc chiến này như thế là không chính xác, rõ ràng là 6 tỉnh biên giới của Việt Nam bị xâm lược và không thể nói chuyện là [có] người anh hùng nào, hay tốt đẹp gì trong việc đi sang [Việt Nam], ở đây không có câu chuyện gì phải tự vệ, bởi vì tất cả mọi chuyện là xảy ra trên đất Việt Nam.

"Tại sao lại gọi là tự vệ ? Một đất nước Trung Quốc từ sức người, sức của, từ diện tích cho đến sức dân đều lớn hơn Việt Nam rất nhiều, làm gì có câu chuyện là phải tự vệ với một nước Việt Nam rất là nhỏ, rất là bé, rất là nghèo nàn mà năm 1979 vừa mới ra khỏi bom đạn chiến tranh ?"

'Phản kích tự vệ ?'

Nêu ý kiến ngay trước đó, tại Bàn tròn thứ Năm phần nội dung nhìn lại 40 năm cuộc chiến biên giới Việt - Trung, Nhà báo, Biên tập viên Ban BBC Tiếng Trung Tô Bình nói :

"Tôi lớn lên trong những năm thập niên 1980 ở Trung Quốc, ngay sau khi nổ ra cuộc chiến, tôi vẫn còn nhớ giai đoạn ngay sau cuộc chiến đó và suốt thời gian cuộc chiến. Cuộc chiến đậm nét và luôn luôn chiếm một thời lượng lớn trong truyền thông, tuyên truyền ở Trung Quốc.

"Có rất nhiều phim, những bài hát, họ ca ngợi lòng can đảm, quả cảm của những người lính Trung Quốc trong cuộc chiến tranh đó. Tôi vẫn còn nhớ như in một ca khúc, tựa đề là 'Vinh quang nhuốm máu' được hát trên truyền hình quốc gia Trung Quốc và trình chiếu trong chương trình tạp kỹ ở Gala lớn mừng năm mới, Tết nguyên đán Trung Quốc năm 1987.

"Ca khúc được một cựu chiến binh tham gia cuộc chiến biên giới Trung - Việt, anh ta bị thương trong cuộc chiến tranh và phải ngồi xe lăn. Bài hát ngay lập tức đã trở thành một tiết mục nổi tiếng, cực kỳ ăn khách cho rất nhiều ca sĩ trong nhiều năm tiếp theo, mà trong số những người trình bày có phu nhân của Chủ tịch Tập Cận Bình, bà Bành Lệ Viện. Bà là một ca sĩ nhạc nhẹ và bà đã trình bày bản đó".

"Một số nhà bình luận cho rằng tất cả cái này là một phần của điều được gọi là chiến lược tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc để sử dụng cuộc chiến tranh mới xảy ra gần nhất lúc đó để đề cao tinh thần ái quốc và trung thành với Tổ quốc và Đảng Cộng sản v.v."…

Nhân dịp này, nhà báo từ ban BBC Tiếng Trung cũng cho biết sơ bộ những gì bà nhận biết được khi theo dõi dư luận ở Trung Quốc liên quan tròn 40 năm đánh dấu cuộc chiến, bà nói :

"Trên mạng xã hội của Trung Quốc, tôi cũng lướt qua mạng Sina Weibo - được coi là Twitter của Trung Quốc, chuỗi ký tự 'cuộc chiến Phản kích Tự vệ' như được biết ở Trung Quốc có khoảng 6 triệu lượt xem và 7 ngàn lời bình luận. Nếu quý vị biết mạng Sina này có tới 340 triệu người sử dụng thường xuyên hàng tháng, thì con số 6 triệu không phải là một con số lớn.

"Và trong số các bình luận trên mạng xã hội, thì tất cả chỉ tập trung vào một chủ đề là những hành động quả cảm anh hùng của Quân giải phóng Trung Hoa như thế nào, rồi sự hy sinh mà những người lính Trung Quốc đã trải qua để bảo vệ Tổ Quốc, nhưng gần như không có một cảm nhận hay bình luận gì về nguyên nhân của cuộc chiến cả. Cũng như những cái giá mà Trung Quốc hay Việt Nam đã phải trả về con người, cũng như là hậu quả lâu dài của cuộc chiến cho cả Trung Quốc lẫn Việt Nam".

'Điều buồn phiền nhất'

Về phía mình, nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận thêm :

"Tôi là một chứng nhân lúc ấy. Thực ra, tôi nghe những câu mà nhà báo Tô Bình nói thì tôi thực sự cảm thấy rất đau lòng và rất buồn vì sự thật của nó đã bị bóp méo ở phía Trung Quốc.

"Tuy nhiên, vì là một người nghiên cứu tôi cũng hiểu được tại sao lại phải tuyên truyền như thế và điều mà tôi cảm thấy buồn phiền nhất là ở trong câu Giáo sư Ngô Vĩnh Long có nhắc lại vừa rồi là Trung Quốc muốn 'dạy cho Việt Nam một bài học'.

"Thực ra như thế còn chưa đầy đủ. Câu đầy đủ, khi mà Đặng nói, là : "Dạy cho Việt Nam vong ân, bội nghĩa một bài học". Rõ ràng ở đây có một sự sai lầm, một sự hiểu nhầm hoàn toàn tính chất một cách đáng tiếc giữa hai người bạn.

"Mong muốn là câu chuyện đã qua 40 năm, đáng ra qua 30 năm có thể khép lại được rồi, 40 năm tôi mong nó sẽ khép lại và nó sẽ là một bài học cho những quốc gia như là Bắc Triều Tiên, hay là Nam Triều Tiên, để không mắc lại sai lầm tương tự, để không có những mất mát vô nghĩa như vậy nữa".

Cũng nhân Bàn tròn nhìn lại bốn thập niên cuộc chiến, về khía cạnh soạn sách giáo khoa và nên đề cập đến cuộc chiến này ra sao để sự thật lịch sử được tôn trọng và phản ánh khách quan, đầy đủ, Tiến sĩ Nghiêm Thúy Hằng bình luận :

"Tôi nghĩ rằng sử của Việt Nam nên do Việt Nam viết, tuy nhiên Trung Quốc vẫn là nước láng giềng và lịch sử đã quy định rằng Việt Nam cũng chẳng thể chuyển nhà đi đâu được cả, nên tôi nghĩ rằng vẫn nên giữ tình hữu nghị với Trung Quốc.

"Tuy nhiên chúng ta cần phải sòng phẳng về mặt lịch sử. Bốn mươi năm cũng đã có một độ lùi lịch sử rồi, cần phải sòng phẳng với lịch sử, cần phải dạy cho các thế hệ người Việt những giá trị của Việt Nam, nhất là những giá trị quan trọng như là giá trị yêu nước.

"Và tôi cũng đồng ý với Giáo sư Ngô Vĩnh Long [khách mời cùng tham dự Bàn tròn] là cuộc chiến này đúng là cuộc chiến mà ông Đặng Tiểu Bình đã đặt Việt Nam vào thế không có một sự lựa chọn nào khác.

"Khi mà Tổ quốc bị xâm lược như vậy, thì tất nhiên người Việt Nam phải đứng lên để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ - giá trị toàn vẹn lãnh thổ là một giá trị xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, thế thì cũng nên dạy cho toàn thể thế hệ sau về bài học lịch sử này của cha ông.

"Không phải để khắc sâu hận thù, mà để sau này rút kinh nghiệm : thêm yêu hòa bình và những người đứng trong cương vị lãnh đạo tuyệt đối không nên để cho những câu chuyện chiến tranh tương tự có thể xảy ra, vì đây là một tội ác, rõ ràng là một tội ác đối với chính dân tộc của mình", nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Hà Nội chia sẻ quan điểm với BBC.

Quốc Phương thực hiện

Nguồn : BBC, 15/02/2019

***************

Moscow biết Đặng sẽ đánh Việt Nam nhưng tin rằng Hà Nội tự lo được (BBC, 13/02/2019)

Một tài liệu ngoại giao của Mông Cổ thời xã hội chủ nghĩa cho hay từ ngày 9/02 năm 1979, Moscow đã biết Đặng Tiểu Bình sẽ tấn công Việt Nam.

BIENGIOI2

Bộ đội Việt Nam ở chiến trường Lạng Sơn

Tuy thế, giới chức Liên Xô khi đó chia sẻ với Thứ trưởng Ngoại giao Mông Cổ, ông D. Yondon rằng Hà Nội thừa sức chống lại quân Trung Quốc.

Quan hệ Mỹ - Liên Xô là quan trọng nhất

Tài liệu đã giải mật hiện được lưu trữ tại Wilson Center, Hoa Kỳ cho hay biên bản của Đại sứ quán Mông Cổ ở Moscow về chuyến thăm của Thứ trưởng Yondon đã bàn nhiều về căng thẳng trong khu vực châu Á.

Tiếp ông Yondon và phái đoàn Mông Cổ, vào hai dịp khác nhau, trong ngày 9 tháng 2/1979, là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Liên Xô Viktor Maltsev, và Vụ trưởng Vụ Viễn Đông I, Mikhail Kapitsa.

Hai bên đã thảo luận về tình hình Mông Cổ, quan hệ Xô - Trung, căng thẳng Việt - Trung và tình hình Bắc Triều Tiên.

Phía Liên Xô lên án chuyến thăm của ông Đặng Tiểu Bình sang Hoa Kỳ và cho rằng "chuyến đi nhằm đem Trung Quốc vào quỹ đạo và ô hạt nhân của Mỹ, giải tỏa vấn đề Đài Loan và ngưng thỏa thuận SALT-2".

Nhưng quan chức Liên Xô nói thẳng với đồng minh Mông Cổ rằng :

"Quan hệ Trung - Mỹ phụ thuộc vào tầng vóc và mức độ của quan hệ Xô - Mỹ", và rằng "Đặng đã phạm một sai lầm lớn".

Quan chức Bộ Ngoại giao Liên Xô đã cười nhạo ông Đặng, trích báo Mỹ gọi ông ta là "có cá ăn thịt người biết cười' (smiling barracuda).

Theo phía Liên Xô, báo Mỹ thừa hiểu nguy hiểm của việc Hoa Kỳ bị kéo vào một phe của chiến tuyến chống Liên Xô.

Bộ Ngoại giao Liên Xô cũng tin rằng mục tiêu xin trợ giúp tài chính từ Mỹ của ông Đặng để hỗ trợ Bốn Hiện đại hóa "sẽ không thành".

Vụ trưởng Mikhail Kapitsa cũng cho khách Mông Cổ hay phía Liên Xô sẵn sàng hủy Hiệp ước Tương trợ Liên Xô - Trung Quốc ký từ năm 1950, nhưng đợi để phía Trung Quốc ra quyết định trước.

Liên Xô lo ngại về căng thẳng biên giới Việt - Trung

Về tình hình Việt Nam, ông Kapitsa nói :

"Những gì đang xảy ra ở biên giới Việt Nam khiến Liên Xô lo ngại ghê gớm. Trung Quốc đã tập trung 18 sư đoàn ở biên giới, nhưng quân đội Việt Nam có một triệu quân, và được trang bị tốt, huấn luyện tốt, có khả năng chiến đấu cao".

"Nếu xảy ra chiến tranh đánh Việt Nam, đối thủ sẽ phải đánh tốt, nếu không sẽ bị nghiền nát. Và nếu xảy ra chiến tranh, dư luận thế giới sẽ ủng hộ Việt Nam. Trung Quốc thực sự sợ Liên Xô. Nhưng Trung Quốc sẽ tấn công một cú vào Việt Nam. Nhiều khả năng họ làm như đã làm với Ấn Độ năm 1962, xâm nhập vào 20-30 km, sau đó họ sẽ tìm cách bắt sống nhiều bộ đội Việt Nam, để đáp trả việc Việt Nam bắt quân Trung Quốc ở Campuchia (?)".

biengioi3

Nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam

Nhưng ông Kapitsa nói đùa rằng phía Việt Nam "có thể đánh ngược vào đất Trung Quốc 10-15 km".

Phía Liên Xô nói cho đoàn khách Mông Cổ rằng "Nếu có nhu cầu tấn công Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam, chúng tôi sẽ cho các anh biết".

Liên Xô khẳng định các quân đoàn ở Viễn Đông và quân khu Zabaikal đã nhận các quân lệnh đặc biệt.

Sau đó, cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề Bắc Triều Tiên.

Ở đây, quan chức Liên Xô phàn nàn rằng cũng lại Trung Quốc thúc đẩy Bình Nhưỡng gây ra lắm chuyện.

Chẳng hạn, chính quyền Triều Tiên vừa ngưng các ấn bản tuyên truyền chống Moscow thì đã xin Liên Xô 2 tỷ USD vũ khí.

Ông Kapitsa cho hay, "chúng tôi sẽ chỉ cho họ 100 triệu mà thôi vì không có gì phải vội trong việc giúp Bắc Triều Tiên".

biengioi4

Ông Đặng Tiểu Bình, ở vị trí Phó Thủ tướng, tiếp đại sứ George Bush và Tổng thống Gerald Ford ở Bắc Kinh tháng 12/1975. Ngay từ khi đó, Trung Quốc đã có các bước chuyển động về phía Hoa Kỳ

Ông chia sẻ với ông Yondon rằng thời Khruschchev, Liên Xô đã vội vã làm thân với Albania không đạt gì, và nay, với Triều Tiên thì họ cần thận trọng.

Tuy vậy, 'Anh Cả' Liên Xô nói với Mông Cổ rằng : "Thế nhưng các anh cần giữ quan hệ thật tốt với Triều Tiên".

Cuộc trao đổi đi tiếp sang đấu đá nội bộ Đặng Tiểu Bình - Hoa Quốc Phong tại Trung Quốc mà Liên Xô cho rằng như "hai con dê qua cầu" và một con "có thể lộn cổ xuống suối".

Nhìn chung, trong trao đổi ngoại giao, quan chức Liên Xô không dấu sự ghét bỏ với lãnh đạo Trung Quốc.

Ông Mikhail Kapitsa nói với thứ trưởng Mông Cổ rằng cả Đặng và Hoa "đều là hai kẻ lạc hậu trong tư duy và không biết điều hành kinh tế".

Vào thời điểm đó, Liên Xô tin rằng "phải đến năm 2000, Trung Quốc mới đạt mức khai thác dầu bằng Liên Xô năm 1977", và rằng chương trình hiện đại hóa kinh tế của Đặng Tiểu Bình cần 60% vốn nội bộ, và 40% từ bên ngoài mà Trung Quốc sẽ "không thể nào trả nổi".

Ngày 17/02/1979, Trung Quốc đồng loạt tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam trong cuộc chiến kéo dài đến 16/03.

Liên Xô đã lên án mạnh mẽ nhưng không tấn công Trung Quốc ở vùng Viễn Đông và chỉ hỗ trợ Việt Nam từ xa.

****************

Kỷ niệm chiến tranh 1979 : Báo chí Việt Nam được bật đèn xanh ? (BBC, 12/02/2019)

Báo chí Việt Nam năm nay được phép công bố 'những trang sử đen tối' nhân dịp 40 năm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung, một nhà báo tự do, cựu chiến binh nói với BBC.

biengioi5

Lính gác Trung Quốc canh đường vào một khu nghĩa trang của tử sĩ Trung Quốc trong cuộc chiến.

Nhìn từ góc độ lịch sử, cựu chiến binh Ngô Nhật Đăng nói hôm 12/02 rằng "nhân dân sẽ không tha thứ cho những người lãnh đạo 'hèn nhát' với ngoại bang vì bất cứ mục tiêu nào".

Thế nhưng, nhìn từ bình diện giao lưu con người, ông Đăng, người đang sinh sống ở Gò Công, tỉnh Tiền Giang cho Quốc Phương của BBC Tiếng Việt biết rằng ông từng sang Trung Quốc, gặp gỡ cựu chiến binh và người dân phía bên kia biên giới để tìm hiểu xem họ nghĩ gì.

"Tuy thời gian không dài, được gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc, các bạn trẻ, những người dân thường tôi rất vui mừng nhận thấy không ai muốn chiến tranh Việt- Trung xảy ra một lần nữa".

Trả lời BBC News Tiếng Việt, cựu trinh sát cấp tiểu đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở mặt trận tỉnh Cao Bằng năm xưa bình luận về câu hỏi liệu có phải năm nay báo chí Việt Nam được 'bật đèn xanh' viết nhiều hơn về Chiến tranh Biên giới 1979.

Ngô Nhật Đăng : Vâng, đúng là có hiện tượng này, nhưng như chúng tôi thường nói với nhau là "báo chí được thở khe khẽ" nếu xét theo mức độ thông tin được báo chí chính thống đưa ra. Theo tôi có mấy lý do.

Thứ nhất là Nhà nước đã không thể làm ngơ trước dư luận nhân dân mỗi khi những ngày này tới, nhất là năm nay lại là năm chẵn tròn 40 năm.

Thứ hai là mối quan hệ của Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1990 khi "bình thường hóa quan hệ" đến nay nếu nhìn trên bề mặt thì ta thấy càng ngày càng nồng ấm đến mức "Hợp tác toàn diện" nhưng thực chất đằng sau là một mối quan hệ không bình đẳng và càng ngày Việt Nam càng bị lấn lướt không chỉ trong ngoại giao, kinh tế mà còn cả về chủ quyền lãnh thổ.

Ít có một quốc gia nào nuốt nổi cái nhục nhã này và nhân dân sẽ không tha thứ cho những người lãnh đạo hèn nhát với ngoại bang vì bất cứ mục tiêu nào, do vậy báo chí được phép công bố những trang đen tối trong lịch sử quan hệ hai nước để xả bớt bức xúc của dân chúng (nếu điều này đúng thì thật tệ hại).

Thứ ba là chính sách mới của Mỹ với Trung Quốc, động thái gần đây của Hải quân Mỹ ở biển Đông, cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ- Triều sắp diễn ra ở Hà Nội...một loạt động thái đáng chú ý ấy có thể cho ta thấy chính phủ Việt Nam có lẽ thấy tự tin hơn, có thể lựa chọn Mỹ là một đối tác đồng minh dù điều này sẽ làm phật lòng Trung Quốc.

Và, có thể đặt lại mối quan hệ với Trung Quốc bình đẳng hơn, là mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng có chung biên giới, chứ không phải là hai quốc gia cùng một ý thức hệ "vừa là đồng chí vừa là anh em" luôn luôn không đáng tin cậy như ta thấy trong lịch sử.

BBC : Tuyên truyền qua âm nhạc, phim ảnh của Việt Nam một thời chống Trung Quốc rất rầm rộ rồi im ắng qua nhiều năm, tình hình hiện nay ra sao ?

Ngô Nhật Đăng : Vâng điều này cũng bình thường, khi hai nước xóa bỏ mối quan hệ thù địch bước vào một trang mới, nhưng nó không bình thường ở chỗ là bị nghiêm cấm không được nhắc tới, ngay cả sách giáo khoa lịch sử trong nhà trường cũng không có. Lớp trẻ sinh ra sau không hề biết đến cuộc chiến này, tức là trong lịch sử có một khoảng trắng, điều này là vô cùng tai hại.

Ta cũng có thể so sánh với Trung Quốc, trong suốt 10 năm từ 1979-1989, truyền thông đại chúng Trung Quốc hàng ngày đều có thời lượng lớn về cuộc chiến với Việt Nam mà họ gọi là "Phản kích tự vệ". Phim ảnh, truyền hình đầy những hình ảnh các đoàn xe tăng, pháo binh, bộ binh xông lên như vũ bão "đè bẹp bọn tiểu bá VN".

Khi tôi phỏng vấn một số người Trung Quốc vào thời đó mới 15, 17 tuổi họ đều nói : "Ước sao chiến tranh kéo dài để họ được đi đánh bọn 'quỷ Việt Nam'". Nhưng đến cuối năm 1989, một mệnh lệnh từ Quân ủy trung ương quân giải phóng Trung Quốc ban ra : Cấm không nhắc tới cuộc chiến đó nữa, nó gây bàng hoàng trong dân chúng và nhất là quân đội.

Một cựu sĩ quan Trung Quốc nói với tôi : Khi nhìn thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp với tư cách là "khách mời danh dự đặc biệt" xuất hiện tại Đại lễ đường Nhân dân (Bắc Kinh) chúng tôi đã bị sốc. Một hệ quả đi kèm là một số trí thức, nhà báo, cựu quân nhân (nhất là những người từng tham chiến) đi tìm hiểu về cuộc chiến này để tìm sự thật, hy vọng không lâu nữa chúng ta sẽ được biết về những công trình đó.

BBC : Người dân, cựu chiến binh Việt Nam nhân dịp này nghĩ gì và họ muốn nói lên điều gì ?

Ngô Nhật Đăng : Là một cựu chiến binh tôi mong muốn sẽ không có chiến tranh xảy ra, tất nhiên nếu để tự vệ bảo vệ Tổ quốc thì sẵn sàng.

Điều này đòi hỏi từ nhiều phía, nhất là từ nhà nước, lịch sử phải được nhắc lại thật nhiều, thật trung thực để có thể rút ra điều gì trong hiện tại, lịch sử không được hiểu đúng sẽ dẫn đến dễ bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, điều đó là nguy hiểm, đó không phải là yêu nước, chắc chắn không phải.

Đất nước phải phát triển giàu mạnh thì mới bảo vệ được chính mình không thể trông chờ bên ngoài. Điều duy nhất không thể khác là phải dân chủ hóa đất nước để động viên sức mạnh toàn dân tộc. Đây là điều không thể chần chừ câu giờ được nữa.

BBC : Với cá nhân ông, thì có phát hiện gì thêm và có gì muốn nói, sau 40 năm nhìn lại cuộc chiến này ?

biengioi6

Pháo binh Trung Quốc xạ kích sang Việt Nam - ảnh chụp năm 1984

Ngô Nhật Đăng : Cách đây 5 năm, một mơ ước từ lâu của tôi được thực hiện, đó là đi tìm những cựu binh phía bên kia để tìm hiểu những người một thời là "kẻ thù", những lý do trực tiếp gây ra chiến tranh, tìm những "Hoa kiều" bị trục xuất khỏi Việt Nam, một trong những lý do mà nhà cầm quyền Bắc Kinh dùng để phát động cuộc chiến.

Quan trọng hơn là họ nghĩ gì lúc đó, nghĩ gì về hiện tại khi chiến tranh đã lùi xa và mong ước gì cho tương lai vv…

Tuy thời gian không dài, được gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc, các bạn trẻ, những người dân thường tôi rất vui mừng nhận thấy không ai muốn chiến tranh Việt- Trung xảy ra một lần nữa.

Nó cũng đã giải tỏa cho tôi nhiều băn khoăn trong suốt mấy chục năm và có thêm tin tưởng, như vậy nhân dân ở đâu cũng mong muốn hòa bình, họ cần phải được hiểu nhau, không cái gì làm tốt hơn điều đó là truyền thông lương thiện, trung thực.

Cựu chiến binh Ngô Nhật Đăng nhập ngũ và là quân nhân Quân đội Nhân dân Việt Nam từ tháng 5/1978 đến cuối năm 1982, ông tham gia 'Cuộc chiến 79' hay Cuộc chiến Biên giới ở mặt trận tỉnh Cao Bằng, khi đó ông thực hiện nhiệm vụ trinh sát tiểu đoàn "luồn sâu phá hoại" chuyên hoạt động sau lưng địch.

****************

Dương Danh Dy : 'Chứng nhân những thăng trầm Việt-Trung'

Đinh Hoàng Thắng, BBC, 20/09/2018

Con người chứng kiến mọi sự thăng trầm trong bang giao Việt-Trung đã vĩnh biệt chúng ta. Hy vọng hậu duệ của nhà Trung Quốc học này sẽ có dịp sưu tầm đầy đủ các bài viết "gan ruột" của ông để đóng góp vào di sản quý báu của nền ngoại giao nước nhà.

biengioi7

Tác giả (trái) cùng nhà báo Huy Đức (giữa) gặp gỡ nhà ngoại giao Dương Danh Dy tại Hà Nội, khoảng năm 2000

Từ anh lính trơn, xăng xái cắt chiếc áo len dệt mẹ gửi từ vùng địch hậu ra, chỉ để bọc chiếc bi đông nhôm (đựng nước uống) do Trung Quốc viện trợ, cho đến khi trở thành một nhà ngoại giao kỳ cựu, một trưởng ban nghiên cứu thành danh về Trung Quốc tại Học viện Ngoại giao, Dương Danh Dy đã gắn bó cả cuộc đời mình với nghiên cứu Trung Quốc.

Được bộ trưởng dành "đặc ân"

Vẫn còn đâu đây tiếng thét phẫn uất của ông : "Kết tội kẻ người có trách nhiệm trong thi công các dự án của TKV do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu, để các dự án đội mức đầu tư cao lên như thế… là tham ô hủ bại là chưa đúng với tội danh của chúng. Phải nói rõ : đó là những hành vi, hành động phạm tội, làm tay sai bán nước cho ngoại bang".

Vẫn còn vang vang lời nhắn nhủ của ông gửi hậu thế : "Ban lãnh đạo Trung Quốc đã thấy Việt Nam là một 'món hàng có giá' hời có thể dùng để trao đổi, mua bán với mấy nước lớn khác nhằm phục vụ lợi ích chủ yếu của họ".

Phải chăng đấy là chắt lọc một phần "bản thu hoạch" của ông sau cả nhiệm kỳ công tác tại Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh ?

Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng dành cho Dương Danh Dy một "đặc ân" : "Nếu trong quá trình nghiên cứu, cậu phát hiện ra vấn đề gì mới về Trung Quốc, cậu cứ vào thẳng phòng tớ báo cáo, khỏi mất thời gian qua Tổ thư ký…".

Ông cùng với "lão tướng" Lưu Đoàn Huynh, là hai "cây đa cây đề" duy nhất ở Học viện không ít lần "bác" cả ý kiến của lãnh đạo Bộ. Những cuộc giao ban như thế tại Học viện, sau này lên tận Bộ, có những khoảnh khắc "hầm hập" hơn cả cái nóng mùa hè ở bên ngoài, dù tất cả đều ngồi trong phòng điều hoà.

Cuối cùng thì "công bằng" cũng đã mỉm cười với ông, khi ở tuổi 60 (tuổi về hưu) ông đã được Bộ cử đi làm Tổng Lãnh sự (đầu tiên) ở Quảng Châu.

Tổng lãnh sự mà đâu có nhàn hơn đại sứ. Cái tuổi Quý Dậu của ông thật vất vả. Từ vụ Chính sách Đối ngoại, giới chuyên gia thừa nhận, các điện (trả lời theo yêu cầu của lãnh đạo Bộ) từ Tổng lãnh sự Quảng Châu phần lớn được xếp loại A.

Đóng góp vào di sản quý báu

Chia tay thế giới này đến với một thế giới khác ở tuổi 84, Dương Danh Dy đã để lại một khối lượng bài viết đáng kính nể trên cả các báo "lề đảng" lẫn "lề dân". Hy vọng hậu duệ của nhà Trung Quốc học này sẽ có dịp sưu tầm đầy đủ các bài viết "gan ruột" của ông để đóng góp vào di sản quý báu của của nền ngoại giao nước nhà.

Dương Danh Dy từng kể, đến Khorutsov cũng có lần phải cay đắng : "Chỉ có những kẻ ngu mới tin Trung Quốc" sau khi Liên Xô bị Trung Quốc lừa cho một số vố ! Ngay cả không ít người Mỹ cũng từng ăn phải quả đắng của Trung Quốc đấy ! Cho nên nếu nói rằng, ngay từ đầu ta đã hiểu ngay, hiểu sâu, hiểu hết Trung Quốc thì chỉ là biểu hiện sự không hiểu biết về Trung Quốc mà thôi".

Trên giường bệnh, khi tiếp bạn bè đến thăm, ông luôn trăn trở, thời xưa đi sứ Tàu toàn là các bậc đại khoa… hiện nay, đội ngũ nghiên cứu về Trung Quốc vừa mỏng, vừa chưa gắn kết với nhau. Ông thường động viên thế hệ trẻ nên học tiếng Trung để hiểu biết sâu sắc về một đất nước ngày càng có vị trí quan trọng trong trật tự thế giới đang ló dạng.

Nếu không có loạt bài của Dương Danh Dy và cuốn Hồi ký của Trần Quang Cơ thì bức tranh "vân cẩu" về bang giao Việt-Trung cũng như tính xác thực về hai cuộc chiến tranh biên giới khó đầy đủ như ngày nay.

Điếu văn của Giám đốc Học viện Ngoại giao Nguyễn Vũ Tùng đánh giá nhà nghiên cứu Dương Danh Dy "là một cán bộ trung kiên, một tấm gương tận tuỵ, hết mình cho sự nghiệp chung và luôn có khí phách vững vàng trước những vấn đề liên quan đến lợi ích của quốc gia, của dân tộc".

Vậy là thêm một người "muốn thoát Trung" nữa đã ra đi !

Một người tử tế nữa đã vĩnh biệt chúng ta !

Đinh Hoàng Thắng

Nguồn : BBC, 20/09/2018

****************

Chiến tranh với Việt Nam 1979 : Trung Quốc rút ra bài học gì ? (BBC, 02/05/2017)

BBC có cuộc phỏng vấn với một học giả gốc Trung Quốc nói về cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam năm 1979.

biengioi8

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đón tiếp Đặng Tiểu Bình tại Washington tháng Giêng 1979

Tiến sĩ Xiaoming Zhang, từ trường Air War College, Hoa Kỳ, là tác giả cuốn sách Deng Xiaoping's Long War : The Military Conflict between China and Vietnam 1979-1991, ra mắt năm 2015.

Trong nghiên cứu này, ông đánh giá cuộc chiến nhìn từ quan điểm của giới lãnh đạo Trung Quốc.

Xiaoming Zhang : Dĩ nhiên, không sử gia nào bên ngoài Trung Quốc được tiếp cận trọn vẹn hồ sơ chiến tranh của Trung Quốc. Nhưng vẫn có nhiều nguồn Trung Quốc để giới sử gia được tìm hiểu cuộc chiến 1979 từ góc nhìn của Trung Quốc.

Ví dụ, có các báo cáo sau trận đánh của Quân Giải phóng Nhân dân, chứa đựng thông tin chi tiết về cách họ chuẩn bị, vận hành chiến tranh, cũng như thương vong họ chịu và số người họ giết. Các báo cáo này có thể không hoàn toàn chính xác vì lẫn lộn trong lúc đánh nhau, hay tổn thương trí nhớ vì sốc. Nhưng chúng vẫn có giá trị cho người viết sử.

Để so sánh, có vẻ như chính ra ở phía Việt Nam lại vẫn còn nhiều 'huyền thoại' về chiến tranh 1979. Ví dụ, ở tầm mức chiến lược, vì sao Lê Duẩn nghĩ Trung Quốc là kẻ thù số một sau chiến tranh Việt Nam ? Ở mức thực tế, quân đội Việt Nam đánh giá cách đánh của họ thế nào trong chiến tranh ? Tôi có đọc một số lịch sử quân sự Việt Nam và thấy chúng không khách quan, muốn định hình lịch sử có lợi cho họ mà ít dữ liệu thực tiễn.

BBC : Từ góc nhìn của Trung Quốc, vì sao Đặng Tiểu Bình muốn khởi chiến năm 1979 ?

Xiaoming Zhang : Chương hai trong cuốn sách của tôi trả lời câu hỏi này. Có nhiều nguyên do thúc đẩy Đặng tiến hành chiến tranh chống Việt Nam.

Nguyên do trước tiên và quan trọng nhất là cách Đặng phản ứng trước đe dọa của Liên Xô với Trung Quốc khi đó. Liên minh của Hà Nội với Moscow khiến Đặng tin rằng đe dọa của Liên Xô không chỉ từ phía bắc mà cả từ phía nam.

Sự tính toán của Đặng cũng xảy ra vào lúc ông ấy ngày càng lo ngại về sự sụt giảm sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ trong vùng và trên thế giới sau Chiến tranh Việt Nam. Yếu tố Liên Xô thúc Đặng tìm kiếm hợp tác chiến lược với Mỹ chống Moscow. Vì chính sách này nhấn mạnh đối đầu, nên tiếp cận của Bắc Kinh trước khủng hoảng quốc tế trong vùng trở nên cứng rắn và mang tính quân sự. Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng tấn công trừng phạt Việt Nam sẽ là cú đòn đánh vào chiến lược bành trướng toàn cầu của Liên Xô.

Rốt cuộc có lẽ Trung Quốc đã phản ứng thái quá trước đe dọa của Liên Xô. Nhưng vào lúc đó, Đặng Tiểu Bình thực sự tin vào nó.

Còn có những yếu tố khác tác động quyết định gây chiến của Đặng, gồm chính trị trong nước và quan hệ với Mỹ. "Hành vi sai trái" của Việt Nam, đặc biệt là liên minh với Liên Xô, làm người Trung Quốc giận dữ. Họ muốn trừng phạt đồng minh phản bội sau nhiều năm Trung Quốc phải hy sinh giúp đánh Mỹ.

Các va chạm biên giới cũng khích động tình cảm người Trung Quốc. Yếu tố tình cảm đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự đồng thuận trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự ủng hộ Đặng gây chiến.

Quyết định đánh Việt Nam chủ yếu do đánh giá về tình hình chiến lược của Trung Quốc, nhấn mạnh liệu sự bành trướng của Liên Xô có tác động gì cho an ninh thế giới, và Trung Quốc cần có trách nhiệm gì để duy trì cân bằng quyền lực đại cường. Đặng tin rằng liên minh với phương Tây sẽ chứng tỏ Trung Quốc có giá trị trong cuộc đấu tranh chống Liên Xô bành trướng và rằng để đổi lại, phương Tây sẽ giúp Trung Quốc cải tổ kinh tế.

Ngoài ra, đấu tranh quyền lực trong đảng, cộng thêm phe nhóm trong quân đội, cũng khiến Đặng càng sẵn sàng có hành động quân sự chống Việt Nam. Theo ông ta, làm thế sẽ khuấy động ủng hộ trong nước và nước ngoài, tạo nên môi trường an toàn và ổn định để Trung Quốc hiện đại hóa.

Cuối cùng, tính cách và cách lãnh đạo độc tài của Đặng cũng đóng vai trò lớn.

Không có một nguyên do duy nhất giải thích. Khi kết hợp toàn bộ các yếu tố, dù chúng có lý hay không, Đặng Tiểu Bình tin rằng việc dùng vũ lực khi đó là cần thiết. Vì thế cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 trở nên tất yếu.

BBC : Theo đánh giá của ông, ai đã thắng cuộc chiến ngắn ngày này ?

Chiến tranh xảy ra nhằm đạt những mục tiêu chính trị nào đó. Vậy Bắc Kinh đề ra mục tiêu gì ?

Công khai thì Trung Quốc nói chiến tranh nhằm dạy cho Việt Nam "bài học". Nhiều người tưởng rằng "trừng phạt" là mục tiêu, để rồi kết luận thương vong nặng nề của Trung Quốc tức là họ đã không đạt được mục tiêu dạy cho Việt Nam "bài học".

biengioi9

Ông Lý Bằng là Thủ tướng Trung Quốc đầu tiên thăm Việt Nam sau 21 năm, vào năm 1992

Trong sách, tôi không tán thành ý này. Đối với Đặng, dạy Việt Nam "bài học" là thông điệp không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây. Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc, tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ trợ tài chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ không còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến tranh Lạnh.

Bên trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế.

Liên Xô ở trong tình thế nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với Mỹ trên toàn cầu, Moscow cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á. Từ góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cuối thập niên 1980. Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ 1978.

Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược.

Nói về hiệu quả trên chiến trường, Trung Quốc rút quân sau khi đạt được các mục tiêu chính - bao vây ba thành phố cấp tỉnh của Việt Nam, gây thương vong nặng nề cho bộ đội Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho nhà cửa. Quân Trung Quốc đúng là cũng bị thương vọng nặng trong cuộc chiến ngắn ngày, nhưng kết quả đó có thể chấp nhận được cho lãnh đạo Trung Quốc.

Nhưng tôi không tin rằng bộ đội Việt Nam chiến đấu tốt hơn quân Trung Quốc. Vấn đề thực sự là chúng ta vẫn không có đủ dữ kiện từ phía Việt Nam.

Để kết luận, cuộc chiến này cần được đánh giá dựa theo kết quả của chiến tranh, chứ không phải kết quả từ các trận đánh.

BBC : Trong con mắt lãnh đạo Trung Quốc, đâu là bài học từ cuộc chiến 1979 ? Nó có còn thích hợp cho chiến lược của Trung Quốc trong tương lai ?

Xiaoming Zhang : Sau cuộc chiến 1979, Quân Giải phóng Nhân dân đánh giá toàn diện về hiệu quả trên chiến trường, với nhiều bài học rút ra.

Trong đó có việc thiếu tin tức tình báo, không có đủ quân do xuất hiện thêm dân quân Việt Nam tham gia đánh nhau, hợp tác và phối hợp kém giữa đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng, hệ thống hỗ trợ hậu cần và chỉ huy tác chiến lạc hậu.

biengioi10

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp đoàn quân Việt Nam trở về từ Campuchia hôm 28/9/1989

Các bài học này xác nhận lo ngại của Đặng về khả năng tác chiến hiện đại của Trung Quốc trong tương lai gần.

Sau 1979, Quân Giải phóng Nhân dân bắt đầu cải tổ nhằm gia tăng khả năng tiến hành chiến tranh lớn trước đối thủ lớn hơn như Liên Xô.

Từ 1985, Bắc Kinh không còn nghĩ rằng chiến tranh với Liên Xô sẽ phải xảy ra. Các va chạm biên giới khiến lãnh đạo Trung Quốc tin rằng quân đội cần tập trung chiến thắng các cuộc chiến địa phương quanh biên giới Trung Quốc trong điều kiện công nghệ cao. Việc này vẫn tiếp tục trong viễn kiến chiến lược hiện nay của Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ không bao giờ có một cuộc chiến như 1979, tức là chỉ liên quan bộ binh. Nhưng các bài học từ 1979 vẫn thích hợp cho Quân Giải phóng Nhân dân.

Trong tương lai, nếu Trung Quốc có chiến tranh để bảo vệ lãnh thổ như Đài Loan và trên Biển Đông, Quân Giải phóng Nhân dân sẽ dùng mọi lực lượng từ không quân, hải quân, bộ binh, chiến tranh mạng, không gian.

Tôi không nghĩ là Trung Quốc trong tương lai sẽ lại dùng vũ lực chống láng giềng như 1979. Việc hiểu cuộc xâm lược Việt Nam 1979 chỉ có ý nghĩa nếu ta nghiên cứu nó trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.

BBC : Người dân Trung Quốc nhớ hay quên cuộc chiến 1979 ?

Xiaoming Zhang : Khó mà trả lời toàn diện. Năm 1991, Bắc Kinh và Hà Nội có vẻ đã ngầm thỏa thuận để cấm hai nước công khai nói về cuộc chiến.

Khi mà các mạng xã hội phát triển nhanh như gần đây, sự cấm đoán này không còn chỗ. Mạng xã hội cho phép cựu quân nhân và thành viên gia đình liên hệ với nhau.

Nhiều câu chuyện cá nhân thời chiến, ký ức chiến tranh đã có trên mạng. Một số thậm chí được truyền thông chính thống công bố.

Những năm gần đây, vào ngày 17/2 và Tết Thanh Minh tháng Tư, hàng trăm, hàng ngàn người tự tổ chức để tới các nghĩa trang chiến tranh 1979 ở Quảng Tây và Vân Nam, tổ chức lễ tưởng nhớ những người hy sinh trong chiến tranh.

Suốt nhiều năm, các cựu quân nhân 1979 là nhóm xã hội ít ai quan tâm. Năm ngoái, sau nhiều cuộc biểu tình của họ, mới có các quy định mới của chính phủ tăng hỗ trợ cho cựu binh, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho những người không được hưởng trước đây.

Có một hiện tượng xã hội là nhiều người Trung Quốc dùng cuộc chiến 1979 để bình luận về các vấn đề lãnh thổ hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Từ quan điểm chính thức của Bắc Kinh, có lẽ chẳng nên nhớ tới cuộc chiến. Nó không phù hợp với chủ điểm chính về Trung Quốc của Tập Cận Bình, là về ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội.

Chừng nào thế hệ tham chiến còn sống, kỷ niệm về chiến tranh sẽ không bị người Trung Quốc lãng quên.

Nguồn : BBC, 02/05/2017

****************

Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979 (BBC, 21/09/2019)

Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử hình vắng mặt' vì chạy theo Trung Quốc :

biengioi11

Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu

Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.

Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.

Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội ăn sâu ở Việt Nam.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản Việt Nam không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.

Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.

Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.

Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.

Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt - Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.

Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân Trung Quốc trong tranh chấp Liên Xô - TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân Trung Quốc hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.

Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa và vị thế ông Hoan bị suy giảm

Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân Trung Quốc trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.

Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.

Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.

Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.

Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi Trung Quốc để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.

biengioi12

Lãnh tụ Bắc Việt Nam, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959

Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.

Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt - Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.

Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.

Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.

Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.

Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ Việt Nam - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.

Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.

Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu”.

biengioi13

Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội

Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.

Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8.000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.

Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm nhất của Việt Nam.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.

Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.

Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.

Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.

Giai đoạn 1970 - 1975, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.

Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt - Trung.

Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11/1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.

Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.

Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.

Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.

Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.

Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.

Và đến lúc qua đời, ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.

****************

Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 qua các con số (BBC, 20/02/2017)

Sau cuộc chiến đẫm máu năm 1979 cho đến nay hai nước Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa công bố toàn bộ các con số thương vong, theo giới quan sát quốc tế.

biengioi14

Đội khiêng cáng của dân quân Quảng Tây ngày 22/02/1979 chờ vượt biên giới sang Việt Nam đưa thương binh về

Tuy nhiên, nhiều tài liệu của các học giả Phương Tây đã đề cập đến độ tàn khốc của cuộc chiến ngắn ngày này, gồm cả số quân tham chiến, số thương vong trong binh sĩ và thường dân Việt Nam bị giết.

BBC Tiếng Việt giới thiệu các số liệu khác nhau :

Số quân tham chiến

Peter Tsouras viết trên Military History Magazine :

Trung Quốc đã tập trung 200 nghìn quân thuộc 20 sư đoàn, cùng 400 xe tăng và 1.500 khẩu pháo. Lực lượng của Quân Giải phóng (PLA) lên tới 70 nghìn quân chỉ ở vùng giáp Lạng Sơn.

Sư đoàn Sao Vàng của Việt Nam bảo vệ Lạng Sơn bị Trung Quốc đẩy lui. Trong vòng vài ngày sau, quân Trung Quốc bao vây, xóa sổ sư đoàn này và biến Lạnh Sơn thành bình địa.

David Dreyer trong bài 'The 1979-Sino-Vietnamese-Conflict' :

PLA chuẩn bị cho cuộc tấn công với 300-400 nghìn quân và khoảng 1.200 xe tăng cùng pháo binh, hỏa tiễn và các loại vũ khí hỗ trợ.

Ngày 17/02/1979, vào lúc 5 giờ sáng, chừng 100 nghìn quân Trung Quốc vượt biên giới vào Việt Nam sau các đợt pháo kích cấp tập.

Đối mặt với quân Trung Quốc ban đầu chỉ là 75-80 nghìn bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Việt Nam.

Có kinh nghiệm của gần 30 năm chiến tranh, phía Việt Nam chống trả dữ dội và chia thành các đơn vị nhỏ, cấp tiểu đội, tiểu tổ để dùng cách đánh du kích chống lại quân xâm lăng.

Đồi núi được biến thành pháo đài với đường hầm, hố chông. Phía Trung Quốc không tiến nhanh như họ muốn và phải trì hoãn kế hoạch đánh chiếm Cao Bằng.

Số thương vong

Không bên nào công bố số thương vong chi tiết.

Peter Tsouras viết :

Trung Quốc chỉ thừa nhận có 7.000 quân tử vong và 15 nghìn bị thương nhưng các nguồn Phương Tây ước tính có 28 nghìn quân Trung Quốc bị giết và 43 nghìn bị thương.

Phía Việt Nam không nói số thương vong trong quân đội nhưng nói nhiều về số 100 nghìn thường dân bị thiệt mạng.

Bách khoa Toàn thư Anh, Britannica :

Quân Trung Quốc chiến đấu vô cùng tồi tệ chống lại dân quân tiền tuyến của Việt Nam.

Sau ba tuần giao tranh với con số thương vong 45 nghìn (Việt Nam nói là gây ra cho phía Trung Quốc) Quân Giải phóng đã phải rút về.

Sam Brothers trong bài 'The Enemy of My Enemy : The Sino-Vietnamese War of 1979 and the Evolution of the Sino-American Covert Relationship' viết :

Phía Trung Quốc, theo một ước tính, có từ 20 nghìn đến 62.500 thương vong trong khi phía Việt Nam, dù số liệu còn mù mờ, là khoảng từ 35 nghìn đến 50 nghìn.

Nhưng cuộc xung đột chỉ xảy ra trong 27 ngày, với đúng 17 ngày giao tranh, mà đã tạo ra con số thương vong như vậy cho thấy sự man rợ (savage) của nó.

Liên Xô đã làm gì ?

Sam Brothers :

Liên Xô có các chuyến bay TU-95D từ Vladivostok về phía Nam để theo dõi tình hình.

Một tàu tuần dương lớp Sverdlov và một tàu khu trục lớp Krivak cũng được cử đến tham gia đơn vị hải quân gồm 17 tàu đã có mặt tại bờ biển Việt Nam.

Moscow cũng cử sáu chiếc phi cơ vận tải Antonov-22 đến Hà Nội ngày 23/02, và có hai chuyến bay Liên Xô và Bulgraia từ Calcutta tới Hà Nội ngày 26/02/1979.

Tuy thế, Liên Xô không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến dù đã ký hiệp ước phòng thủ với Hà Nội.

Căng thẳng hậu chiến

Trang GlobalSecurity.org :

Cho đến cuối thập niên 1980, phía Việt Nam biến vùng biên giới thành các 'pháo đài thép' và dùng các đơn vị dân quân được huấn luyện tốt để phòng thủ trước Trung Quốc.

Ước tính 600 nghìn người được điều động vào các chiến dịch sẵn sàng chiến đấu để ngăn ngừa Trung Quốc tiến sang lần nữa... gây phí tổn tiền bạc lớn cho Việt Nam.

Giới quan sát nước ngoài cũng đánh giá rằng "các cuộc va chạm ở biên giới tiếp tục xảy ra trong suốt thập niên 1980, nổi bật là trận tháng 4/1984, khi quân Trung Quốc lần đầu tiên dùng vũ khí mới, súng Type 81 (AK-47 của Trung Quốc).

Hai nước phải đến 2007 mới hoàn tất việc ký kết xong hiệp định biên giới trên bộ, theo các bản tin quốc tế.

Dù cuộc chiến 'phản kích tự vệ' của Đặng Tiểu Bình nhắm vào Việt Nam là thất bại quân sự, Sam Brothers trong bài viết cũng trích lời ông Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore bày tỏ cái nhìn khác :

"Báo chí Trung Quốc coi hành động trừng phạt Việt Nam của người Trung Quốc là một thất bại nhưng tôi lại tin rằng nó đã thay đổi lịch sử vùng Đông Á".

****************

Cuộc chiến 1979 thực sự đã 'bắt đầu từ trước'

Quốc Phương, BBC, 17/02/2017

biengioi15

Cuộc chiến trên Biên giới Việt - Trung khởi phát từ ngày 17/2/1979 đã trôi qua được 38 năm.

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt - Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử từ Đại học Huế của Việt Nam.

Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, ông Hà Văn Thịnh nói :

"Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.

"Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).

"Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn...

"Theo quan điểm của tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được".

Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.

Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt - Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói :

"Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.

"Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen...", ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.

'Phải tạo áp lực'

Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn '11 dòng' nói về cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là 'Trung Quốc xâm lược Việt Nam'.

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói :

"Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh...

"Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.

"Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.

"Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết... phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên", ông Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.

Quốc Phương

Nguồn : BBC, 17/02/2019

****************

'Nhớ tháng 2/1979 nhưng không kích động căm thù'

Ngô Nhật Đăng, BBC, 17/02/2019

Nhớ lại cuộc chiến biên giới Việt - Trung ngày 17/2 là để ghi nhớ, nhưng không phải là để 'kích động căm thù', một cựu chiến binh Việt Nam nói.

biengioi16

Ông Ngô Nhật Đăng (đeo kính) đã trở lại bên kia biên giới gặp các cựu binh Trung Quốc hồi 2014 và viết một loạt bài cho BBC

"Cuộc Chiến Biên giới cần được nhớ lại, không phải để kích động, căm thù hay xiển dương cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà để tránh cho thế trẻ lại phải cầm súng. Việc này thật khó, nhưng tôi cũng chỉ biết mơ ước như vậy", nhà báo Ngô Nhật Đăng, cựu chiến binh, nêu quan điểm với BBC Việt ngữ qua một phỏng vấn bút đàm :

Ngô Nhật Đăng : Ngày này cũng là ngày mà tôi lên biên giới. Tôi nhập ngũ vào tháng 8/1978 và tối ngày 17/2/1979 thì lên đường Biên giới, mặt trận Cao Bằng.

Ấn tượng thì nhiều, nhưng nhớ nhất có lẽ là khi qua Đèo Giàng gặp từng đoàn đồng bào có cả trẻ em chạy bộ trên đường, họ đi suốt ngày đêm.

Chúng tôi còn ở lại hậu cứ của sư đoàn ở Nà Phạc vài ngày sau khi chiến sự xảy ra.

Tình hình lúc đó cũng căng thẳng do phía Việt Nam bị bất ngờ, để quân Trung Quốc tràn đến thị xã Cao Bằng, nhưng họ đã bị chặn lại với rất nhiều tổn thất.

Sau đó, tôi được phiên chế vào một tiểu đoàn, nhận nhiệm vụ luồn vào sau lưng đối phương, gọi là tiểu đoàn "luồn sâu phá hoại".

Kỷ niệm thì rất nhiều, nhưng sự khốc liệt, súng đạn, sự tàn phá tận diệt các cơ sở dân sự, nhà dân mới làm chúng tôi ngạc nhiên.

Cả thị xã Cao Bằng hầu như không còn một ngôi nhà nào còn nguyên vẹn.

BBC : Ông nhớ gì nhất về đồng đội cũ của ông trong dịp này ?

biengioi17

Người dân Lạng Sơn, gồm cả phụ nữ, trẻ em chạy khỏi thị xã hôm 23/02/1979 sau khi quân Trung Quốc tấn công vào các tỉnh biên giới của Việt Nam

Ngô Nhật Đăng : Ồ, nhớ lắm, chúng tôi lúc đó toàn lính trẻ, lần đầu đi chiến đấu, tôi lúc đó lớn tuổi nhất trong trung đội, 21 tuổi, còn phần lớn là 18,19 tuổi, có đứa mới 17, khai tăng tuổi để đi bộ đội. Nhớ nhất là những anh em đã bị chết.

Hàng năm, những người cùng nhập ngũ đều gặp nhau, nhưng những người cùng ra trận thì ít, xa xôi và mỗi đứa một ngả.

Tôi nhớ một anh quê Bắc Giang, hy sinh khi trong túi nhận được lá thư của gia đình báo, em ruột anh ấy cũng hy sinh ở mặt trận Lạng Sơn. Trong túi áo có lá thư.

Thú thật, những ngày này, tới mãi gần đây cuộc chiến và sự hy sinh của những người lính ấy mới bắt đầu được truyền thông nhắc đến, đó cũng là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.

BBC : Ông có thể nói rõ hơn về lá thư ở trong túi áo của người lính đó, nó đặc biệt ra sao ?

Ngô Nhật Đăng : Vâng, khi chôn cất anh ấy, tìm lại những di vật chúng tôi tìm được lá thư, tôi vẫn nhớ những dòng chữ viết :

BBC : Gần 40 năm đã trôi qua kể từ ngày 17/2/1979, ông có ý tưởng gì về chuyện hàn gắn giữa cả hai bên Việt Nam - Trung Quốc xung quanh cuộc chiến này ?

Ngô Nhật Đăng : Cám ơn câu hỏi rất hay, ý tưởng này tôi cũng đã nung nấu từ lâu. Chính năm 2014, BBC Tiếng Việt đã tạo điều kiện cho tôi sang Trung Quốc làm phóng sự, gặp gỡ các cựu binh Trung Quốc tham chiến thời đó.

Nơi tôi tham gia, lính Trung Quốc chết rất nhiều, việc đầu tiên mà chúng tôi phải làm sau khi họ rút đi, chúng tôi phải đi chôn cất lại, nhiều hố chôn tập thể chỉ vùi lấp sơ sài, thú rừng bới cả thi hài lộ lên mặt đất.

Sau này, khi gặp được các cựu binh Trung Quốc, nói chuyện với họ, tìm thăm những nghĩa trang, tôi càng thấy sự tàn khốc của chiến tranh.

BBC : Là người từng trải qua mấy cuộc chiến, ông suy nghĩ gì về chiến tranh và hòa bình ?

biengioi18

Nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc ở Malipo. Các nguồn của Trung Quốc được AFP trích dẫn nói ít nhất 26 nghìn quân Trung Quốc bị giết sau bốn tuần giao tranh ở Việt Nam

Ngô Nhật Đăng : Từng tham gia chiến tranh, chúng tôi rất hiểu cái giá của nó. Nhất là về mặt địa chính trị hai nước Việt- Trung có chung biên giới. Xử lý quan hê Việt- Trung thế nào để không xảy ra chiến tranh là điều đã mà trong suốt nhiều thế kỷ ông cha ta đã phải làm.

Và lịch sử cũng chỉ rằng, các triều đại Trung Quốc đều có âm mưu xâm lược Việt Nam và các cuộc chiến tranh đó họ đều thất bại từ khi Ngô Quyền đứng lên giành độc lập. Nhưng lịch sử cũng có bài học...

Trong 200 năm Vương triều nhà Lý, không nổ ra cuộc chiến tranh quy mô lớn nào. Vậy chúng ta rút gì từ bài học đó ?

Khi gặp các cựu binh Trung Quốc, phỏng vấn nhiều người, đủ thế hệ nhất là những người trẻ, họ đều không muốn xảy ra chiến tranh.

Có một người nói :

"Nếu là kẻ thù thì phải đánh nhau thôi, nhưng tại sao chúng ta lại nỗ lực biến nhau thành kẻ thù ?"

Chiến tranh là lựa chọn cuối cùng, nhưng là lựa chọn tồi tệ nhất, trách nhiệm lớn nhất suy cho cùng là các nhà chính trị. Và truyền thông cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để nhân dân hai nước hiểu nhau, bắt đầu là nhìn vào lịch sử, trả lại sự thật cho lịch sử, tìm ra nguyên nhân làm nảy sinh chiến tranh.

Vì thế, những này này, cuộc chiến tranh Biên giới cần được nhớ lại, không phải để kích động, căm thù hay xiển dương cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà để tránh cho thế trẻ lại phải cầm súng. Việc này thật khó, nhưng tôi cũng chỉ biết mơ ước như vậy.

BBC : Ông nghĩ sao về Trung Quốc ngày nay, đặc biệt các động thái của họ ở trên Biển Đông, nơi mà nhiều quốc gia ở khu vực và quốc tế cho rằng Bắc Kinh đã và đang tỏ ra ngày càng lấn lướt trong các tranh chấp và tuyên bố chủ quyền, từ câu chuyện đưa ra bản đồ Lưỡi bò cho đến các giàn khoan được đưa vào khu vực gây xôn xao dư luận và gần đây nhất là Tứ sa ?

biengioi19

Một dịp tưởng niệm các liệt sĩ và người dân Việt Nam bị giết trong cuộc chiến 1979

Ngô Nhật Đăng : Vâng, Trung Quốc đang làm cả thế giới lo ngại với việc họ chạy đua vũ trang gần đây, đặc biệt trên biển Đông, nhất là việc họ chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và một số đảo của Trường Sa của Việt Nam. Trong thế kỷ này, Thái Bình Dương là huyết mạch của nền kinh tế thế giới, Biển Đông cũng là vị trí quan trọng trong con đường huyết mạch này.

Nhìn trên bản đồ, Trung Quốc chỉ có thể đi ra thế giới bằng đường biển, phía bắc có các cảng nước sâu nhưng đóng băng vào mùa đông, lui xuống phía Nam thì Đài Loan án ngữ, vùng biển Nam Trung Hoa thì biển nông và nhiều mưa bão, nên chỉ còn Biển Đông mà họ gọi là Nam Hải.

Nhưng nếu nhìn thật sâu vào Trung Quốc ta thấy có các vấn đề sau.

Thứ nhất : họ không có chính danh trong việc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.

Thứ hai, dù tăng trưởng ngoạn mục nhiều năm, nhưng nền kinh tế Trung Quốc không phải là một nền kinh tế bền vững, chạy đua vũ trang sẽ là một gánh nặng.

Thứ ba, dù đông đảo, nhưng quân đội Trung Quốc không được đánh giá là một quân đội mạnh, nhất là chính sách một con, bạn thử tưởng tượng khi đứa con độc nhất hy sinh thì tác động tâm lý lên xã hội sẽ thế nào ?

Và cuối cùng, nội bộ Trung Quốc còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Cộng đồng thế giới cũng sẽ không để họ làm mưa làm gió.

Không như ngày trước, vai trò của các nước nhỏ cũng rất quan trọng, Việt Nam cần phải có đối sách thích hợp, mềm mỏng nhưng không hèn yếu.

Ngô Nhật Đăng 

Nguồn : BBC, 17/02/2018

Ông Ngô Nhật Đăng hiện sinh sống tại Gò Công, Tiền Giang, là nhà báo tự do và là một Facebooker, ông từng tham gia Cuộc chiến biên giới Việt - Trung 1979 ;cuộc phỏng vấn, phản ánh quan điểm riêng của người trả lời, được Quốc Phương của BBC thực hiện qua bút đàm hôm 16/2/2018.

******************

Đâu là nguyên nhân cuộc chiến Việt-Trung tháng Hai năm 1979 ?

Trương Nhân Tuấn, BBC, 02/03/2017

BBC mới đăng lại bài viết của tác giả người Hung, Tiến sĩ Balazs Szalontai, tựa đề "Đàm phán biên giới Việt Trung 1974-1978". Tác giả cho biết nguyên nhân chính đưa đến xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa" :

199999999999999999999

Một đơn vị pháo của Quân đội Việt Nam tại tỉnh Lạng Sơn đang chiến đấu chống lại cuộc xâm lấn của Trung Quốc tháng Hai năm 1979.

"Tài liệu từ văn khố Hungary đã hé lộ cho thấy nguyên nhân chính gây ra cuộc xung đột Việt Trung là một vấn đề mà Liên Bang Xô Viết chẳng có dính dáng gì tới : đó là cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa".

Dữ kiện này (nếu có thật) thì là chuyện ngạc nhiên. Vì nó trái ngược với tất cả các tài liệu (đã được giải mã) của các bên, từ phía Trung Quốc, Việt Nam hay Hoa Kỳ…

Trung Quốc đã mở đầu cuộc chiến khi xua quân tràn qua biên giới ngày 17/2/1979. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm từ tháng giêng 1974. Dĩ nhiên Trung Quốc không thể vịn vào "tranh chấp Hoàng Sa" để biện hộ cho hành vi xâm lược. Bởi vì quần đảo này đã yên ổn trong tay họ.

Về phía Việt Nam, nếu xét sâu xa ở phương diện lịch sử thành hình biên giới Việt-Trung, vấn đề Hoàng Sa cũng là chuyện "đã rồi", ít ra trong khoản thời gian từ năm 1958 cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả lúc sau này Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thay đổi lập trường, thì kết luận "tranh chấp Hoàng Sa" là nguyên nhân đưa đến cuộc chiến cũng là điều khó thuyết phục.

Các học giả quốc tế, không ngoại lệ, đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc chiến "Đông Dương lần thứ ba" là yếu tố Liên Xô mà Tiến sĩ Balazs Szalontai đã loại trừ.

Cuộc chiến nhìn từ phía Trung Quốc

Tác giả King C. Chen trong "China's War Against Vietnam" kể lại buổi họp ngày 16/2/1979 tại Bắc Kinh do Hoa Quốc Phong chủ trì, 17 tiếng đồng hồ trước khi lệnh nổ súng ban ra. Đặng Tiểu Bình có bài thuyết trình cho các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc về bản chất và mục tiêu cuộc chiến.

Theo họ Đặng bản chất cuộc chiến là "hoàn kích tự vệ". Cuộc chiến được "giới hạn" về thời gian, không gian cũng như về qui mô. Mục tiêu là dạy cho Việt Nam một "bài học".

Gọi "hoàn kích tự vệ chiến", tức đánh trả để tự vệ, bởi vì Việt Nam đã "trục xuất kiều dân người Hoa" cũng như bộ đội Việt Nam nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, chiếm đất của Trung Quốc cũng như gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.

Mục tiêu "cho Việt Nam một bài học", bởi vì "Việt Nam cực kỳ ngạo mạn", xâm lược Campuchia, khoa trương thế lực là "cường quốc thứ ba trên thế giới".

Học giả Trung Quốc, Xiaoming Zhang, trong "China's 1979 War with Vietnam : A Reassessment", dẫn Nayan Chanda của Tạp chí Kinh Tế Viễn Đông, nói rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc, trong một cuộc họp Bộ Chính trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978, đã ra quyết định "dạy cho Việt Nam bài học" vì thái độ "vô ơn và ngạo mạn".

Theo tác giả này, trong 20 năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng sau 1975 Việt Nam buộc người Hoa hồi cư đồng thời gia tăng chiến sự trên biên giới. Rõ ràng đây là thái độ phủi ơn và hống hách. Ngoài ra còn có vấn đề can thiệp quân sự vào Campuchia.

Tác giả cũng dẫn ý kiến của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, trong một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tháng 9 năm 1978. Nội dung nói về "làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam".

Ý kiến của Châu Đức Lễ (về việc Việt Nam chiếm đất của Trung Quốc) được củng cố nếu ta xét tài liệu "mật" của CIA Mỹ về cuộc chiến 1979 đã được bạch hóa. Theo tài liệu này thì Việt Nam chiếm khoảng 60km² đất của Trung Quốc.

Nhưng ý nghĩa của cuộc "phản công tự vệ chiến" (vì Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc) là không có căn cứ. Theo nghiên cứu của cá nhân, chuyện Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc là chuyện "bịa đặt" để Trung Quốc "lấy cớ" đánh Việt Nam.

Cuộc chiến đã xảy ra đúng như họ Đặng đã nói. Thời gian xung đột chỉ trong một tháng (quân Trung Quốc hoàn tất việc rút quân vào ngày 17/3/1979). Địa bàn chiến tranh chỉ ở các tỉnh biên giới. Về "qui mô", Trung Quốc cũng giới hạn không sử dụng hải quân và không quân.

Không có một dòng nào để ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến biên giới 1979 có mối liên quan với vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.

Cuộc chiến nhìn từ học giả nước ngoài

Theo cái nhìn của cá nhân tôi, thuyết phục hơn hết là "nguyên nhân chiến lược", dẫn từ tham luận "Security Issues in Southeast Asia : The Third Indochina War" của học giả Carlyle Thayer, đọc tại Hội Nghị "An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương", Đại học Quốc gia Úc (Canberra) tháng Tám năm 1987.

Theo học giả Carlyle Thayer, Trung Quốc (và cả khối ASEAN) lo ngại sự thành hình của "liên minh chiến lược Đông Dương" mà liên minh này thân Liên Xô. Quan niệm của Việt Nam "Đông Dương là một đơn vị chiến lược duy nhất, một chiến trường duy nhất". Quan niệm này đã thể hiện qua hai cuộc "chiến tranh Đông Dương", lần thứ nhất giữa Bắc Việt với "thực dân Pháp" và lần hai giữa Bắc Việt với "đế quốc Mỹ". Cuộc chiến 1979 được gọi là "cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba", Việt Nam gọi Trung Quốc là "bọn bành trướng bá quyền".

Nếu khảo sát sơ lược các diễn tiến lịch sử đã qua, ta thấy lý thuyết của học giả Carlyle Thayer được chứng minh. Điều này cũng "ăn khớp" với cái nhìn từ Trung Quốc.

Khúc quanh làm sụp đổ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 1976, khi Liên Xô hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam 3 tỉ đô la. Số tiền này bằng số tiền mà Mỹ hứa sẽ viện trợ, (nếu Việt Nam tôn trọng hiệp định Paris). Việt Nam trở thành "vệ tinh" của Liên Xô từ lúc này.

Từ năm 1965 đến 1975, Liên Xô đã trở thành nhà cung cấp chính yếu các nhu cầu kinh tế và quốc phòng để Việt Nam tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Mỹ và Trung Quốc đã có những thỏa thuận quan trọng từ năm 1972. Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tất cả những nỗ lực của Trung Quốc giúp cho Việt Nam, trong 20 năm (từ 1950 đến 1970) là 20 tỉ đô la, nhằm mục đích phòng thủ về phía nam. Sau khi đạt thỏa thuận với Mỹ, Trung Quốc hạn chế mọi viện trợ kinh tế và quốc phòng cho Việt Nam.

Nhưng sau đó Liên Xô ảnh hưởng lên Việt Nam, đồng thời với Afghanistan cũng như Mông cổ và Bắc Hàn. Rốt cục Trung Quốc bị bao vây chặt chẽ từ bốn hướng bởi một kẻ thù chiến lược khác, nguy hiểm hơn cả Mỹ, vì Liên Xô có tham vọng về lãnh thổ còn Hoa Kỳ thì không.

Cũng năm 1976, những nhân vật thân Trung Quốc, như Hoàng Văn Hoan, bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất hết các chức vụ trong Đảng.

Phản ứng của Trung Quốc qua Ngoại trưởng Hoàng Hoa là lên án "chủ nghĩa xét lại Xô Viết" đồng thời công khai cảnh cáo trước Việt Nam về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.

Tiếp tục theo đuổi sách lược (bài Hoa thân Liên Xô) của mình, Việt Nam làm đơn xin gia nhập khối COMECON, là khối tương trợ về kinh tế do Liên Xô đứng đầu.

Không thể tránh khỏi

Tại Hội nghị Đảng tháng 2/1978, Hà Nội quyết định phát động chiến dịch "đánh tư sản mại bản" ở miền Nam. Có đến 30.000 doanh nghiệp tư nhân ở miền Nam bị "quốc hữu hóa" mà đa số do người Hoa làm chủ. Chiến dịch thanh lọc mà Trung Quốc gọi là "nạn kiều" cũng được phát động cùng thời kỳ. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa, phần lớn đã sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, không biết tiếng Hoa, cũng bị "trục xuất". Việc này tạo thành một cuộc "vượt biên" vĩ đại, bán chính thức, vì do chính công an Việt Nam đứng ra tổ chức. Hàng triệu người Việt Nam dùng vàng mua "vé" (trung bình 7 lượng vàng một đầu người) để lên những chiếc tàu đánh cá mong manh với hy vọng thoát thân. Trong khi hàng chục ngàn người Hoa sống ở miền Bắc thì theo đường bộ "vượt biên" trở về lục địa.

Đến thời điểm này nội bộ Đảng Trung Quốc đã lên kế hoạch "cho Việt Nam một bài học".

Tháng Sáu năm 1978, Trung Quốc cho đóng cửa hàng loạt tòa lãnh sự ở Việt Nam. Cùng lúc Việt Nam chính thức gia nhập khối COMECON. Tháng 11 hai bên Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương.

Một tháng sau, ngày 25/1/1978 Việt Nam xua quân tiến vào lãnh thổ Campuchia. Tức nước vỡ bờ, cuộc chiến 17/2/1979 là điều tất yếu phải đến.

Ta không hề thấy yếu tố Hoàng Sa "là nguyên nhân chính đưa đến cuộc chiến" trong bất kỳ lập luận nào của các học giả nước ngoài.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : BBC, 02/03/2017

Published in Diễn đàn

Từ lâu, Trung Quốc đã hạ quyết tâm và chủ động vạch kế hoạch xâm lược Việt Nam vào tháng 2/1979, núp dưới cái tên "Cuộc chiến phản kích tự vệ".

5 giờ sáng ngày 17/2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã bất ngờ huy động hơn 60 vạn quân mở cuộc tấn công xâm lược trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung, bất chấp việc Việt Nam và Trung Quốc thời điểm đó là hai nước anh em trong Khối Xã hội Chủ Nghĩa.

Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là "cuộc chiến phản kích tự vệ" của quân đội Trung Quốc chống lại các hành động gây hấn và khiêu khích của lực lượng vũ trang Việt Nam.

Tuy nhiên, với quy mô và hành động tàn ác của Quân đội Trung Quốc, cộng đồng quốc tế đã nhanh chóng lột trần bộ mặt giả dối của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Các nghiên cứu của giới học giả sau này cũng khẳng định rằng, Trung Quốc đã chủ động vạch kế hoạch, tổng động viên lực lượng để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam.

Trung Quốc quyết tâm tấn công dằn mặt Việt Nam

Trước hết, cần chú ý tới tuyên bố ngang ngược của Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa vào ngày 30/7/1977 : "Khi thời cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (tên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam) mà không cần phải thương lượng gì hết".

cuocchien1

Trung Quốc đã chủ động vạch kế hoạch xâm lược Việt Nam

Như vậy, ngay từ khi đó, Bắc Kinh đã nuôi dã tâm mở một cuộc chiến tranh xâm lược để cướp đoạt lãnh thổ của Việt Nam, không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự để buộc chúng ta phải khuất phục. Theo thời gian, ý đồ của Trung Quốc đã dần thể hiện bằng các hành động thực tế.

Tháng 1/1978, Trung Quốc hủy bỏ hiệp ước về lãnh sự quán với Việt Nam, đồng thời buộc lãnh sự quán Việt Nam ở Côn Minh, Quảng Châu và Nam Ninh phải trở về nước vào tháng 6 năm đó, khiến quan hệ Việt-Trung tiếp tục xấu đi nghiêm trọng.

Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho VN và rút bớt chuyên gia về nước. Đến tháng 7, Trung Quốc cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.

Đây chính là giai đoạn Bắc Kinh đã hạ quyết tâm và vạch kế hoạch huy động hàng chục vạn quân xâm lược nước ta.

Cựu Tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu là tướng Châu Đức Lễ kể lại rằng vào tháng 9 năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong Bộ tổng Tham mưu quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, để bàn về vấn đề xung đột biên giới trên bộ với Việt Nam.

Trước đó, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Trung Quốc quán triệt tư tưởng chỉ đạo của giới chức lãnh đạo nước này là nhất thiết phải "dạy cho Việt Nam một bài học", tuy nhiên, hành động phải được tính toán cẩn thận để tránh khả năng leo thang, đe dọa đến tiến trình cải cách kinh tế của Trung Quốc.

Giới tướng lĩnh nước này đã đề xuất một chiến dịch quân sự chống lại khoảng một trung đoàn quân Việt Nam đóng ở Trùng Khánh - một huyện biên giới của tỉnh Cao Bằng tiếp giáp với huyện Tĩnh Tây thuộc tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, giống như cuộc chiến tranh biên giới trước đây Bắc Kinh đã tiến hành với Nga năm 1969.

Châu Đức Lễ sau này kể lại rằng, lúc đó Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc tin rằng, vị trí cô lập của Trùng Khánh sẽ cho phép quân đội Trung Quốc chia cắt tiền đồn này của Việt Nam khỏi quân tiếp viện và dễ dàng đánh chiếm được huyện này.

Tuy nhiên, sau một ngày xem xét một báo cáo đặc biệt của giới tình báo về khả năng Việt Nam đưa quân vào Campuchia, đa số người tham gia cuộc họp đều đồng ý rằng cần phải tiến hành một hành động quân sự lớn, gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á.

Giới tướng lĩnh nước này đề xuất một cuộc tấn công vào một đơn vị quân đội thường trực Việt Nam trên một khu vực địa lý rộng hơn. Mặc dù vẫn chưa thống nhất được quy mô của cuộc chiến nhưng hội nghị cũng đã xác định quyết tâm mở một cuộc chiến lớn chống Việt Nam.

Quá trình leo thang thành cuộc chiến xâm lược quy mô lớn

Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô. Trong chuyến thăm Đông Nam Á cuối tháng 11/1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố : "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học".

Ngày 23/11/1978, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Kịch bản mới về một cuộc chiến tranh quy mô, trong thời gian khá dài, nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố đối diện qua biên giới với các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đã được bàn bạc kỹ lưỡng.

Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu (chủ chốt là quân khu tỉnh Quảng Tây) và Quân khu Thành Đô (chỉ lấy Quân khu tỉnh Vân Nam, thủ phủ ở Côn Minh) sẽ trực tiếp thực hiện chiến dịch xâm lược này.

cuocchien2

Ban đầu, Trung Quốc dự định sẽ tấn công vào Trùng Khánh-Cao Bằng

Ngoài ra cuộc họp cũng quyết định điều động một lực lượng dự bị chiến lược, bao gồm 4 Tập đoàn quân và một sư đoàn, lấy từ các khu vực khác là quân khu tỉnh Vũ Hán và Quân khu Thành Đô để củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.

Vào ngày 7/12/1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, ra quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để "dạy cho Việt Nam một bài học".

Chỉ thị của Quân ủy Trung ương Trung Quốc nêu rõ, cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong hai tuần, các đơn vị được ấn định ở phần trên phải chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng một năm 1979.

Ngày 22/12/1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam.

Bắc Kinh cũng cắt nguồn viện trợ dầu vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam vào cuối năm 1978, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm quyết định khi quân Trung Quốc tấn công.

Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương Trung Quốc vào lễ Giáng sinh năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã quyết định không thành lập Bộ chỉ huy chiến trường chung, mà hai cánh quân sẽ tiến đánh vào Việt Nam theo hai hướng đồng thời chỉ định Hứa Thế Hữu làm chỉ huy mũi phía đông ở Quảng Tây và Dương Đắc Chí, tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân phía tây ở Vân Nam.

Vào ngày 7/12/1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, ra quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để "dạy cho Việt Nam một bài học".

Chỉ thị của Quân ủy Trung ương Trung Quốc nêu rõ, cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong hai tuần, các đơn vị được ấn định ở phần trên phải chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng một năm 1979.

Ngày 22/12/1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam.

Bắc Kinh cũng cắt nguồn viện trợ dầu vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam vào cuối năm 1978, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm quyết định khi quân Trung Quốc tấn công.

Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương Trung Quốc vào lễ Giáng sinh năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã quyết định không thành lập Bộ chỉ huy chiến trường chung, mà hai cánh quân sẽ tiến đánh vào Việt Nam theo hai hướng đồng thời chỉ định Hứa Thế Hữu làm chỉ huy mũi phía đông ở Quảng Tây và Dương Đắc Chí, tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân phía tây ở Vân Nam.

Đầu tháng 1/1979, đường bay Bắc Kinh-Hà Nội cũng bị cắt, bên cạnh đó, Trung Quốc ráo riết chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ nước ta.

Đến giữa tháng một năm 1979, Bắc Kinh đã gần như hoàn tất việc chuẩn bị huy động lực lượng, bao gồm gần 20 sư đoàn chính quy Trung Quốc, với trên dưới 25 vạn quân chủ lực, hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, hàng vạn khẩu pháo, cối và các loại vũ khí khác đã tập trung gần biên giới với Việt Nam.

Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom (tức 1/5 lực lượng không quân Trung Quốc), đã được đưa đến các sân bay giáp biên giới, phối hợp với các lực lượng lục quân, chuẩn bị một chiến dịch tấn công tổng lực, đại quy mô, xâm lược trực diện, xâm lược toàn diện.

Ngày 11/2/1979, hai ngày sau khi Đặng Tiểu Bình hoàn tất chuyến thăm Mỹ-Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng được triệu tập. Đặng đã ra mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng hai năm 1979, gửi tới các tư lệnh cánh quân Quảng Tây và Vân Nam.

Như vậy, cuộc chiến tranh xâm lược tháng 2/1979 đã được Trung Quốc chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, núp dưới cái tên giả dối là "Cuộc chiến tranh phản kích tự vệ" trước "sự xâm lược của Việt Nam".

Kết luận :

Cái gọi là "lực lượng Biên phòng Trung Quốc" thực chất là hơn 320.000 quân chủ lực, cùng với 300.000 lính hậu cần, kỹ thuật, dân công… làm nhiệm vụ bảo đảm. Sự "tự vệ" của Bắc Kinh được thể hiện bằng hành động chủ động tung hàng chục vạn quân ồ ạt nổ súng và tràn qua biên giới Việt Nam.

cuocchien3

Trung Quốc "tự vệ" trước Việt Nam bằng 320.000 quân chủ lực

Có ai tin được tuyên bố "Trung Quốc không hề có ý định xâm lược Việt Nam" ?

Có ai tin được rằng, nếu không gặp phải sức kháng cự vô cùng mạnh của dân quân, tự vệ và bộ đội địa phương, cùng nhân dân các tỉnh biên giới thì Trung Quốc sẽ chủ động rút quân ?

Có ai tin được tuyên bố "Trung Quốc không muốn một tấc đất nào của Việt Nam" hay không, trong khi Bắc Kinh đã lấn chiếm từng cột mốc, từng cao điểm biên giới phía Bắc của Việt Nam trong giai đoạn trước đó ; hoặc thừa lúc Việt Nam đang mải đánh Mỹ hay gặp nhiều khó khăn thời hậu chiến để chiếm giữ một phần Hoàng Sa, Trường Sa ?

Thiên Nam

Nguồn : Đất Việt, 18/02/2017

Additional Info

  • Author Thiên Nam
Published in Diễn đàn

38 năm đã đi qua kể từ cái ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, khi Trung Quốc bất ngờ đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước.

biengioi1

Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 và thực tế kéo dài dai dẳng tới tận 1988, rất ít được nhà cầm quyền Việt Nam nhắc tới

So với những cuộc chiến tranh đánh Pháp, đánh Mỹ và miền Nam Việt Nam Cộng Hòa, cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 và thực tế kéo dài dai dẳng tới tận 1988, rất ít được nhà cầm quyền Việt Nam nhắc tới, nhất là từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được bình thường hóa vào năm 1992.

Cuộc chiến tranh này trong nhiều năm đã bị lãng quên, từ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như chỉ nhắc đến một cách hạn chế trong sách giáo khoa. Chính vì vậy, có rất nhiều người trẻ Việt Nam (và kể cả những người không phải là trẻ cho lắm nếu sinh ra trong những năm 70 của thế kỷ XX) không biết ngày 17/2 là ngày gì !

Nhưng những năm gần đây, cùng với sự phát triển của internet và số lượng người Việt quan tâm, tìm hiểu về tình hình chính trị đất nước tăng lên, cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, trận hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974, hải chiến Trường Sa 14/3/1988… đã được những người yêu nước nhắc nhớ, và có một số hoạt động như cùng nhau tưởng niệm cũng như công khai vinh danh những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa, giúp đỡ người thân của họ v.v… Trong khi đó nhà cầm quyền vẫn hết sức hạn chế nhắc tới những sự kiện này (báo chí một vài năm gần đây có tiến bộ hơn) và khi người dân có những hoạt động tưởng niệm thì họ tìm cách ngăn chặn, quấy rối, xách nhiễu đủ mọi cách.

Việt Nam đã từng trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, nội chiến lẫn ngoại xâm. Chỉ riêng trong thế kỷ XX, đã liên tiếp chiến tranh với Pháp, Mỹ, nội chiến hai miền Nam-Bắc, chiến tranh biên giới Tây Nam với Khơ Me Đỏ, chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc… nhưng tại sao thái độ của người dân và nhà cầm quyền đối với những cuộc chiến này, với những quốc gia từng một thời là kẻ thù này rất khác nhau ?

Đối với cuộc chiến đánh Pháp, đánh Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, dù bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng hàng năm, cứ có bất cứ ngày tháng nào liên quan đến những sự kiện của các cuộc chiến đó là nhà cầm quyền lại tổ chức kỷ niệm, ăn mừng chiến thắng tưng bừng, báo chí truyền thông lại chạy hết công xuất để "tụng ca" chiến công của đảng cộng sản và bừng bừng lửa căm thù…Dù trong thực tế từ nhiều năm nay hai quốc gia này hoàn toàn không còn là mối lo ngại gì đối với nền hòa bình độc lập của Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt tay làm ăn, quan hệ ngoại giao kinh tế bình thường với Pháp, Mỹ, thậm chí đã nhận sự giúp đỡ, hỗ trợ về nhiều mặt từ Pháp, Mỹ nhưng cứ có dịp là họ lại nhắc đến mối thù cũ với "thực dân Pháp, đế quốc Mỹ" và tìm cách đánh bóng lại cái "hào quang chiến thắng" để lấy đó làm lớp son tô phết lên khuôn mặt đã quá rệu rã mục nát của chế độ.

Trong khi đó đối với Trung Quốc, vết thương chiến tranh giữa hai nước còn mới hơn rất nhiều, dù đã bình thường hóa quan hệ nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp tục đánh phá Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn từ an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội cho tới an toàn thực phẩm, môi trường… Trung Quốc vẫn đang và sẽ tiếp tục là mối đe dọa lớn nhất đến sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải, độc lập chủ quyền của Việt Nam. Nhưng đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam lại coi Trung Quốc là anh em là bạn tốt, không những hết sức quỵ lụy, hèn hạ khiếp nhược mà còn mở toang cửa ngõ về nhiều mặt, rước giặc vào nhà.

Người dân thì khác. Tình cảm của người dân rõ ràng, công bằng và minh bạch.

Điều đó xuất phát trước hết từ thái độ của các nước Pháp, Mỹ và Trung Quốc khi họ từng có thời gian chiến tranh hay thậm chí đô hộ Việt Nam như Pháp, Trung Quốc. Dù cũng đô hộ, cũng bóc lột người Việt Nam nhưng ít nhất, người Pháp cũng xây dựng, mở mang dân trí, giúp đỡ nhiều cho đất nước, dân tộc Việt Nam. Hoa Kỳ có chiến tranh với Việt Nam nhưng trong cuộc chiến đó, họ đã là đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa, họ không những chỉ đổ tiền của, vũ khí mà còn đổ xương máu cùng chiến đấu bên cạnh những người lính Việt Nam Cộng Hòa, họ đã giúp miền Nam về nhiều mặt để miền Nam Việt Nam khi đó thực sự phát triển hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực.

Sau chiến tranh, họ đã có những nỗ lực muốn bù đắp lại những năm tháng chiến tranh, sự việc hàng triệu người Việt có mặt trên đất Mỹ theo những chương trình tỵ nạn, thuyền nhân, HO, đoàn tụ… là những gì mà họ muốn làm để phần nào đền bù lại hành động bỏ rơi đồng minh trước kia.

Cỏn Trung Quốc đối với Việt Nam, chưa bao giờ có cái gì thực sự tốt đẹp cả. Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Bắc Việt trong cuộc chiến tranh đánh Mỹ trước hết cũng xuất phát từ quyền lợi và những tính toán của Bắc Kinh. Khi trở mặt đánh nhau, thì dù chỉ là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng cái cách mà họ giết sạch, đốt sạch, tàn phá đến tận cùng các tỉnh biên giới, cho thấy họ không có một chút nhân bản, họ cố tình gây hậu quà càng nặng cho Việt Nam bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Hậu chiến tranh, Trung Quốc tiếp tục đánh phá Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn thâm độc như vừa nói ở trên.

Cho tới bây giờ, có thể nói đa số người Việt đều cảm thấy vui mừng và mong muốn mối quan hệ giữa Việt Nam với Pháp, Mỹ ngày càng tốt đẹp. Đa số người Việt ngưỡng mộ thể chế tự do, dân chủ, pháp quyền, những giá trị về tự do, bình đẳng, tôn trọng nhân quyền, cũng như những thành tựu đáng nề về nhiều mặt của Pháp hay Mỹ. Đa số người Việt có người thân, bạn bè đang làm việc, sinh sống, học hành tại Pháp, Mỹ và mong muốn vĩnh viễn khép lại quá khứ với Pháp, Mỹ.

Ngược lại, có thể nói phần lớn người Việt không chịu được cái thể chế độc tài, chính sách ngoại giao hung hăng, ngạo mạn, bắt nạt nước nhỏ của Trung Quốc, những thủ đoạn khác nhau mà Bắc Kinh đã và đang sử dụng để khống chế, kìm hãm, phá hoại Việt Nam… Người Việt nhìn chung có một thái độ dè chừng, cảnh giác trước Bắc Kinh.

Chính là thái độ, cách hành xử, đường lối chính sách của Trung Quốc sau chiến tranh đã làm cho người Việt khó quên được thù cũ và tiếp tục cảnh giác. Thêm vào đó, sự khiếp nhược, tiếp tay Trung Quốc tàn phá đất nước của nhà cầm quyền Việt Nam càng làm cho người dân thêm căm giận.

Kể từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc, rồi cưỡng chiếm miền Nam và độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc, đảng và nhà nước cộng sản đã phản bội đất nước, phản bội nhân dân Việt Nam rất nhiều lần.

Từ cái lý tưởng "xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa công bằng, không có người giàu kẻ nghèo, không có bất công, mọi người đều được ấm no, hạnh phúc" cho tới hiện thực xã hội Việt Nam hôm nay là một sự phản bội trắng trợn. Rồi tất cả những gì họ từng lên án chế độ thực dân Pháp, chế độ tư bản, lên án miền Nam Việt Nam Cộng Hòa là chế độ tay sai, bán nước…nay họ lặp lại với một mức độ công khai, tệ hại hơn gấp trăm gấp ngàn lần.

Việt Nam ngày hôm nay lạc hậu thua xa các nước láng giềng, đất nước bị tàn phá về mọi mặt bởi một bộ máy độc tài tham nhũng nặng nề, xã hội bại hoại, con người bị đánh mất đi rất nhiều phẩm chất tốt đẹp, hàng chục triệu người vẫn chạy ăn từng bữa trong lúc hàng triệu người khác bỏ nước ra đi làm thuê, làm osin, làm gái… khắp nơi.

Bao nhiêu xương máu của hàng triệu con người đã ngã xuống cho những cuộc chiến tranh, bao nhiêu cuộc đời bị chiến tranh đánh cắp, bao nhiêu gia đình ly tán vì chiến tranh và những bi kịch thời hậu chiến… tất cả để được gì ? Để Việt Nam trở thành như thế này sao ? Để cho một nhúm người và guồng máy của họ tha hồ vơ vét, làm giàu, hưởng thụ còn hơn 95% dân chúng tiếp tục khốn khổ khốn nạn sao ?

Nhưng sự phản bội lớn nhất là thái độ của nhà nước này đối với Trung Quốc, đối với cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, các trận hải chiến Hoàng Sa, Trường Sa, những người đã ngã xuống để bảo vệ lãnh thổ lãnh hải… khi coi giặc là bạn, cố tình quên lãng quá khứ đồng thời đàn áp lòng yêu nước cùa người Việt Nam.

Máu của người Việt Nam đã đổ xuống để xây dựng nên chế dộ này. Máu của người Việt Nam đã đổ xuống trong chiến tranh, vì những ngoại nhân nhưng khi chiến tranh đã qua đi từ lâu, máu của người Việt Nam vẫn tiếp tục đổ xuống vì chính bàn tay của nhà cầm quyền thông qua các công cụ như công an, cảnh sát cơ động, an ninh giả dạng côn đồ… nhằm ngăn chặn mọi biểu hiện yêu nước, mong muốn đất nước thay đổi của người dân.

Nhà cầm quyền đã hết sức sai lầm khi tự tước đi sức mạnh lớn nhất của họ : trí tuệ của nhân dân (bằng chính sách giáo dục ngu dân, lạc hậu) và lòng yêu nước của nhân dân.

Không có nhân dân, khi chiến tranh xảy ra ai sẽ cứu họ ? Tiếp tục quỳ gối trước kẻ thù ư ?

Bài học Đặng Tiểu Bình dạy 38 năm trước, đảng cộng sản Việt Nam vẫn chưa ngộ ra. Hãy nhìn lại trong 38 năm đó, Trung Quốc đã xây dựng quốc phòng, quân đội hùng mạnh như thế nào so với năm 1979, đã tiến được những bước dài trong việc củng cố chủ quyền và biến biển Đông thành "ao nhà", đã bồi đắp, cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo trở thành những căn cứ quân sự, quân cảng đáng ngại, đã khống chế Việt Nam về mọi mặt, luồn sâu và có mặt khắp nơi từ Nam ra Bắc trên đất Việt ra sao…

Trong khi đó thì Việt Nam đã chuẩn bị được bao nhiêu về mặt pháp lý, ngoại giao, quân sự, quốc phòng, kinh tế cho tới văn hóa, giáo dục-trên cả hai khía cạnh : thoát Trung và đương đầu với một cuộc chiến tranh, nếu buộc phải ? Đã vậy, đảng cộng sản Việt Nam tự nguyện trói tay mình không dám liên kết với bất cứ nước nào để ngăn ngừa họa xâm lăng trong tương lai gần !

Song điều nguy hiểm nhất không chỉ là việc yếu hơn về mặt tiềm lực quân sự, vũ khí hay không có đồng minh ủng hộ, mà là tinh thần chiến đấu. Chính đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã tự làm mình hèn yếu đi bởi chỉ lo giữ chế độ mà không lo giữ nước, làm cho nhân dân trở nên bạc nhược, vô cảm hơn bởi chính sách ngu dân và sự sợ hãi, một điều mà trước đây trong mọi cuộc chiến với Tàu và với các nước khác, chưa bao giờ xảy ra.

Nếu chiến tranh lại nổ ra, Việt Nam liệu có được như Việt Nam của năm 1979 so với Trung Quốc khi ấy ? Câu trả lời đã quá rõ !

Bài học lịch sử có thể không lặp lại nhưng nó phải được viết bởi nhân dân, một khi họ đã tỉnh thức, chứ không phải từ một đảng cầm quyền sẵn sàng đánh đổi tất cả cho sự tồn tại lâu dài của chính cái đảng ấy.

Cái gia của máu xương là cái giá lớn nhất. Phản bội lại xương máu của nhân dân cũng có nghĩa là ký vào án tử cho chế độ, vấn đề chỉ còn là thời gian-lâu hay mau, dài hay ngắn, tùy vào sự thức tỉnh, đồng lòng của người dân.

Còn đối với tất cả người dân Việt Nam, chúng ta không cho phép mình, con cháu mình được quên cái giá máu xương ấy, không được phép quên bất kỳ một sự kiện đau thương nào của lịch sử, như cái ngày 17/2 này, 38 năm về trước.

Nhớ, nhắc nhau cùng nhớ, không phải để kích động căm thù nhưng để cảnh giác. Như câu nói của Julius Fucik (1903-1943), chiến sĩ cách mạng Cộng hòa Séc, năm 1942 trong xà lim tử tù của Phát xít Đức khi ông đang viết cuốn sách nổi tiếng "Viết dưới giá treo cổ" : Hỡi nhân loại, hãy cảnh giác ! (Chính xác là "Nhân loại hỡi, tôi yêu tất cả – Hãy cảnh giác !").

Nhớ, nhắc nhau cùng nhớ, rằng mình là người nước Nam, con cháu của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Quang Trung… không thể lại để cho một tập đoàn Lê Chiêu Thống tiếp tục đưa đất nước này lún sâu vào cái vòng kiềm tỏa của Trung Quốc để rồi một ngày mở mắt ra, thấy mình đã không còn có quê hương, thấy mình đã trở thành dân Tây Tạng từ hồi nào không hay !

Song Chi

Nguồn : RFA tiếng Việt, 17/02/2017 (songchi's blog)

Additional Info

  • Author Song Chi
Published in Diễn đàn