Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

"Chiến tranh pháp lý" trong "Tam chủng chiến pháp"

Trong "giấc mộng Trung Hoa" của mình, Trung Quốc luôn đặt mục tiêu trở thành cường quốc biển. Biển Đông chính là cửa ngõ để Trung Quốc tiến ra biển và đại dương thế giới.

phaply1

Đá Vành Khăn, quần đảo Trường Sa hôm 21/5/2015. Reuters

Vấn đề là Trung Quốc lại không có cơ sở pháp lý nào để có thể hỗ trợ cho tham vọng của họ, thậm chí, cả thế giới cùng lên án cái gọi là "đường lưỡi bò" của họ. Tòa trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc cũng tuyên bố bác bỏ yêu sách "quyền lịch sử" bên trong "đường lưỡi bò".

Tuy nhiên, Trung Quốc lại muốn dùng sức mạnh để có thể biến "đường lưỡi bò" thành thực tế để thỏa mãn giấc mộng siêu cường của mình. Nhưng Trung Quốc cũng tránh tiến hành chiến tranh quân sự, vì một cuộc chiến tranh quân sự lúc này sẽ tạo thế bất lợi cho Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc chủ trương áp dụng "Tam chủng chiến pháp" tức là 3 cuộc chiến ngoài cuộc chiến quân sự, bao gồm "chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý".

"Chiến tranh tâm lý" là tác động về mặt tâm lý đến đối tượng, ví dụ như Thời Báo Hoàn Cầu tuyên bố đe doạ sẽ "tấn công và chiếm Việt Nam trong 21 ngày" chẳng hạn, hoặc Trung Quốc luôn đe doạ Đài Loan bằng cách cho nhiều máy bay xâm phạm không phận của đảo quốc này, cùng với các cuộc tập trận rầm rộ ở eo biển Đài Loan. "Chiến tranh truyền thông" là dùng truyền thông để lặp đi lặp lại các luận điệu của Bắc Kinh là "một quốc gia yêu chuộng hòa bình…".

Còn "chiến tranh pháp lý" thì Trung Quốc tiến hành ra sao ? Trong khi về cơ bản Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào trên Biển Đông cả.

Revendications territoriales et maritimes en mer de Chine (Carte BiG)

Đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Quốc vẽ trên Biển Đông. Reuters

Cố ý duy trì sự mập mờ

Ngày 7/8/2009 Trung Quốc gửi hai công hàm phản đối Báo cáo thềm lục địa mở rộng riêng Việt Nam và Báo cáo chung tại khu vực chồng lấn của Việt Nam và Malaysia. Trong hai công hàm này có kèm theo bản đồ có hình "đường lưỡi bò" đầy tai tiếng của họ.

Mặc dù vậy, chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ giải thích một cách chính thức và rõ ràng đối với thế giới về quy chế pháp lý của "đường lưỡi bò" là gì ? Các học giả và quan chức Trung Quốc đưa ra rất nhiều giải thích khác nhau. Một lập luận mà người Trung Quốc hay dùng đó là "quyền lịch sử" đối với tất cả vùng nước bên trong "đường lưỡi bò", lập luận này bắt đầu từ một học giả gốc Đài Loan là Phó Côn Thành, rồi sau đó được Ngô Sĩ Tồn - một quan chức và học giả danh tiếng của Trung Quốc ra sức quảng bá áp dụng. Lập luận này còn được nhiều học giả Trung Quốc "tung hô", thậm chí bà Tiết Hán Cần - lúc đó là Thẩm phán Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cũng đưa ra trong một phát biểu của mình.

Ngoài ra, trong rất nhiều tuyên bố và công hàm của Trung Quốc, họ luôn sử dụng các ngôn từ mập mờ, cố tình gây khó hiểu. Đây chính là một "chiêu" trong "chiến tranh pháp lý" của họ.

Sự mập mờ dường như là "chiến thuật cố ý" của Bắc Kinh. Không chỉ đối với "đường lưỡi bò" mà ngay trong các văn bản nội luật của họ, sự mập mờ này cũng thấy rõ.

Thời gian vừa qua, nhiều học giả đã chỉ ra sự mập mờ, không giải thích rõ đâu là "vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc" trong Luật Hải cảnh mới thông qua đầu năm nay của họ.

Một bài viết trên trang Jamestown (1 ) cũng chỉ ra, không chỉ Luật Hải cảnh mà ngay cả Luật An toàn Giao thông đường biển của Trung Quốc cũng có sự mập mờ tương tự. Cụ thể, Điều 2 của dự thảo sửa đổi này đầu tiên quy định rằng "các hoạt động liên quan đến an toàn giao thông đường biển ở vùng biển ven bờ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" phải tuân theo luật này. Thuật ngữ "vùng biển ven bờ" được định nghĩa là "nội thủy, lãnh hải và các vùng biển khác thuộc quyền tài phán của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" theo Điều 115. Tuy nhiên, phiên bản mới nhất đã thay thế thuật ngữ "vùng biển ven bờ" bằng "vùng biển thuộc quyền tài phán của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", nhưng luật cũng không đưa ra định nghĩa về thuật ngữ này. Việc Trung Quốc sử dụng các thuật ngữ mập mờ như vậy giúp Trung Quốc linh hoạt trong việc sửa đổi cơ sở pháp lý của các tuyên bố chủ quyền biển của họ ở Biển Đông và biện minh cho các yêu sách biển ngoài các quy định của UNCLOS.

phaply3

Tàu khu trục đa năng lớp 05AA tuần lưu trên Biển Đông / (© DoD/Shannon Renfroe) - Ảnh minh họa

Lợi dụng chiêu bài khoa học để tấn công

Sự mập mờ của "đường lưỡi bò" đã bị "đập vỡ" bởi Phán quyết Biển Đông năm 2016. Tòa trọng tài đã khẳng định rõ yêu sách về "quyền lịch sử" đối với đường lưỡi bò là không có căn cứ pháp lý, và vi phạm các quy định của UNCLOS, đo đó vô giá trị.

Thất bại đau đớn với Phán quyết Biển Đông, Trung Quốc tung tiền ra vận động nhiều học giả danh tiếng quốc tế như Stefan Talmon (Giáo sư Luật quốc tế tại Đại học Bonn, Đức) hay Mark Valencia (Mỹ), Same Bateman (Australia)… phối hợp cùng đội ngũ học giả Trung Quốc "tấn công" vào Phán quyết. Đây cũng là một "chiêu" của Trung Quốc trong cuộc chiến pháp lý của họ, đó là khi họ thất bại hoặc yếu thế về pháp lý, lợi dụng sự tự do học thuật ở phương Tây, họ sẽ dùng số đông để "tấn công áp đảo" nhằm lấp liếm sự yếu đuối pháp lý của họ.

Sử dụng các "lập luận hai mặt"

Ngoài ra, các chuyên gia Trung Quốc thường hay sử dụng các "lập luận hai mặt" để phục vụ cho mục đích tuyên truyền của họ.

Cụ thể, sau khi Philippines kiện Trung Quốc lên Tòa trọng tài, Bắc Kinh đã ban hành bản chính sách "Trung Quốc giữ vững lập trường giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán giữa Trung Quốc và Philippines về vấn đề Biển Đông", trong đó có viết: "Năm 1951, Hội nghị Hòa bình San Francisco đã quyết định rằng Nhật Bản sẽ từ bỏ mọi quyền, tước vị và yêu sách đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và Tây Sa (Hoàng Sa). Năm 1952, chính phủ Nhật Bản chính thức tuyên bố rằng nước này đã từ bỏ tất cả các quyền, tước vị và yêu sách đối với Đài Loan, Penghu, cũng như quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa)". Chính sách này không đề cập rõ ràng "Hiệp ước Hòa bình San Francisco"năm 1951 hay là "Hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật" năm 1952.

Thực tế, Hiệp ước Hòa bình San Francisco được ký kết giữa Nhật Bản và 48 nước khác vào ngày 8/9/1951. Điều 2 của Hiệp ước Hòa bình San Francisco thể hiện tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản từ bỏ, bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, hiệp ước được ký kết mà không có sự hiện diện của Đảng cộng sản Trung Quốc hay Quốc dân đảng do có sự bất đồng về việc đảng nào có thể đại diện cho chính phủ Trung Quốc.

Đảng cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng đã có những cách tiếp cận rất khác nhau đối với Hiệp ước Hòa bình San Francisco. Đảng cộng sản Trung Quốc phủ nhận hoàn toàn tính hợp pháp của Hiệp ước Hòa bình San Francisco với lý do đảng này bị loại khỏi tiến trình đàm phán và cho rằng hiệp ước này là trái phép, không hợp lệ và không thể được công nhận. Ngược lại, Quốc dân đảng quyết định ký một hiệp ước riêng với Nhật Bản, gọi là Hiệp ước Hòa bình Trung-Nhật năm 1952.

Chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn trong thái độ của Trung Quốc : một mặt, phủ nhận tính hợp pháp của những hiệp ước này ; mặt khác, tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông một phần dựa vào hai hiệp ước này.

Các quốc gia ASEAN nên làm gì ?

Các quốc gia ASEAN liên quan trực tiếp đến các tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông có thể làm gì để đối phó với kiểu "chiến tranh pháp lý" này của Trung Quốc ?

Điểm yếu rất lớn của Trung Quốc đối với tham vọng biển chính là về mặt pháp lý. Chính vì không có cơ sở pháp lý nên Trung Quốc đã dùng "chiến tranh pháp lý" hòng lấp đi các điểm yếu của mình.

Chính vì vậy, các nước ASEAN có thể "khoét sâu" vào điểm yếu này của Trung Quốc. Một mặt, các quốc gia ASEAN cần tăng cường sức mạnh truyền thông lên quốc tế, tố cáo sự không chính danh này của Trung Quốc, lật mặt các thủ đoạn và các chiêu trò của Trung Quốc trong cái gọi là "chiến tranh pháp lý" này của họ.

Mặt khác, kinh nghiệm từ Philippines đã cho thấy, một biện pháp hữu hiệu để thể hiện tính chính đáng, chống lại các yêu sách phi lý với những lập luận ngạo ngược của Trung Quốc, các nước ASEAN cần học tập Philippines tìm cách khởi kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài như Philippines đã làm, hoặc có thể tìm các giải thích từ các tòa khác như Tòa án Quốc tế về Luật biển (ITLOS) hoặc Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Các giải thích của các Tòa này sẽ mang lại sức mạnh chính nghĩa rất lớn cho các nước ASEAN, và "đập tan" các lập luận phi lý của Trung Quốc.

Nguyễn Hồng Thanh

Nguồn : RFA, 21/07/2021

Additional Info

  • Author Nguyễn Hồng Thanh
Published in Diễn đàn

Tàu khu trục mang tên lửa USS Chafee của Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành chiến dịch "tự do hàng hải" ở khu vực gần quần đảo Hoàng Sa vào thứ 3 ngày 9/10/2017.

Ngày 10/10, CNN dẫn nguồn tin 2 sĩ quan quốc phòng Mỹ cho biết, tàu khu trục mang tên lửa USS Chafee của Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành chiến dịch "tự do hàng hải" ở khu vực gần quần đảo Hoàng Sa trong Biển Đông hôm thứ Ba ngày 9/10/2017.

bd1

Đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm trên Biển Đông - Ảnh minh họa

USS Chafee không tiến vào vùng biển 12 hải lý xung quanh bất kỳ hòn đảo nào ở Hoàng Sa, mà đi vào trong "đường cơ sở thẳng" do Trung Quốc tự vạch ra và chính thức công bố (năm 1996) bao lấy quần đảo này.

Các sĩ quan nói rằng hoạt động này là một phần của nỗ lực bền bỉ, lâu dài của Mỹ chống lại "yêu sách biển quá đáng" của Trung Quốc. 

Mỹ không thừa nhận yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở khu vực này, mà cho rằng vùng biển này được coi là vùng biển quốc tế.

Đưa tin về động thái này, ngày 11/10/2017 Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam có bài "Chiến hạm Mỹ phá "đường cơ sở thẳng" phi pháp Trung Quốc yêu sách ở Hoàng Sa".

Bài viết đã cung cấp cho bạn đọc một số thông tin với những nhận định khá chuẩn xác và cô đọng, có tính đến bối cảnh quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc trong tình hình khu vực và quốc tế đang rất căng thẳng hiện nay.

Tuy nhiên, khi tiếp cận các thông tin này, nhiều bạn đọc đã đặt ra một số câu hỏi như sau :

- "Đường cơ sở thẳng" là gì ? Trung Quốc đã công bố hệ thống đường cơ sở thẳng ở quần đảo Hoàng Sa như thế nào ?

- Tại sao tàu USS Chafee khi thực hiện quyền "tự do hàng hải" không hoạt động ở vùng biển biển nằm trong hay ngoài phạm vi 12 hải lý tính từ bất kỳ một thực thể địa lý nào của quần đảo ?

Thay vào đó chiến hạm Mỹ đã vượt qua "đường cơ sở thẳng" bao lấy toàn bộ quần đảo do Trung Quốc công bố năm 1996 để đi vào vùng biển nằm phía trong hệ thống "đường cơ sở thẳng" này ?

Nếu như vậy, liệu tàu chiến của Mỹ có vi phạm cái gọi là "chủ quyền" của Trung Quốc đối với "vùng nước quần đảo" theo chế độ nội thủy hay không ?

Để góp phần làm sáng tỏ những băn khoăn nói trên, chúng tôi xin được cung cấp thêm một số nội dung liên quan như sau :

1. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải :

Để tính chiều rộng lãnh hải của quốc gia ven biển (Coastal States) hay của quốc gia quần đảo (Archipelagic States ), UNCLOS 1982 quy định có 2 phương pháp thiết lập hệ thống đường cơ sở :

Đường cơ sở thông thường (Điều 5) :

Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.

Đường cơ sở thẳng (Điều 7) :

1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một Châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.

3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.

4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.

5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.

6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.

Đường cơ sở của quốc gia quần đảo (Điều 47) :

1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.

2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý ; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.

3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của quần đảo.

4. Các đường cơ sở không thể kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải.

5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.

6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.

7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận của đất.

8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ này.

9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.

Như vậy, nếu chiểu theo các quy định của UNCLOS 1982, "đường cơ sở thẳng" chỉ được thiết lập bởi "quốc gia ven biển" dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa và chiều rộng lãnh hải ven bờ các hải đảo nằm cách bờ biển quá 12 hải lý, kể cả đối với các hải đảo nằm trong một nhóm đảo hay một quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, và bởi các "quốc gia quần đảo" dùng để tính chiều rộng lãnh hải của quốc gia quần đảo.

Điều này có nghĩa là đường cơ sở thẳng ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được thiết lập cho từng thực thể địa lý hội đủ tiêu chuẩn của một đảo theo định nghĩa tại Điều 121, UNCLOS 1982.

Mặc dù UNCLOS 1982 đã quy định rõ ràng như vậy, nhưng Trung Quốc đã cố tình vận dụng các quy định cho việc thiết lập hệ thống đường cơ sở thẳng của quốc gia quần đảo nêu tại Điều 47 vào việc thiết lập hệ thống "đường cơ sở thẳng" bao lấy toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà họ đã đánh chiếm từ trước năm 1974.

Trung Quốc đã công bố hệ thống "đường cơ sở thẳng" này dưới hình thức là một Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, năm 1996. 

Trung Quốc cũng đã khẳng định rằng họ sẽ tiếp tục tuyên bố việc thiết lập hệ thống "đường cơ sở thẳng" theo cách này cho quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà họ gọi là Nam Sa ;

Rồi cả với "Đông Sa", "Trung Sa", cho đủ "Tứ Sa" ở trong Biển Đông mà họ nói có "chủ quyền từ thời cổ đại" nhằm "gia cố" cơ sở pháp lý cho yêu sách đường 9 đoạn đang bị lung lay tận gốc.

2. Mỹ đã sử dụng "phương tiện chiến tranh pháp lý" nào để "tham chiến" ?

Tàu tàu USS Chafee khi thực hiện quyền "tự do hàng hải" không hoạt động ở vùng biển nằm trong hay ngoài phạm vi 12 hải lý tính từ bất kỳ một thực thể địa lý nào của quần đảo Hoàng Sa.

Chiến hạm này đã vượt qua "đường cơ sở thẳng" bao lấy toàn bộ quần đảo do Trung Quốc công bố năm 1996 là sự lựa chọn loại "vũ khí chiến tranh pháp lý" hoàn toàn thích hợp, cần thiết và đầy uy lực để "tham chiến" trong "cuộc chiến tranh pháp lý" do Trung Quốc phát động.

Bởi vì, như đã trình bày ở trên, hệ thống "đường cơ sở thẳng" mà Trung Quốc thiết lập và công bố là hoàn toàn trái ngược với các quy định của UNCLOS1982.

Chẳng những Mỹ mà hầu hết các quốc gia trong khu vực và quốc tế đều không thể chấp nhận được.

Vì nó là yêu sách biển "quá đáng"của Trung Quốc.

Nó không những vi phạm thô bạo chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ; mà còn bất chấp các quy định của UNCLOS 1982.

Yêu sách của Trung Quốc gây cản trở quyền "tự do hàng hải" của tàu thuyền của tất cả các quốc gia có biển và không có biển hoạt động trong phạm vi biển quốc tế được quy định bởi UNCLOS1982, ở Biển Đông.

Đúng như nhận xét của nhà báo Hồng Thủy, tàu USS Chafee đã "phá đường cơ sở thẳng phi pháp" của Trung quốc thiết lập ở quần đảo Hoàng Sa.

Chiến hạm này "phá hủy" hệ thống "đường cơ sở thẳng" không phải bằng tên lửa vốn được trang bị mà bằng thứ "vũ khí pháp lý" đã được UNCLOS 1982 trang bị.

Phải chăng cuộc "chiến tranh pháp lý" giữa một bên là Trung Quốc và một bên là Mỹ và các quốc gia có chung các quyền, lợi ích trên biển thật sự đã mở màn ?

Chúng tôi mong rằng cuộc chiến này sẽ nhanh chóng được kết thúc và kẻ chiến thắng sẽ thuộc về những ai biết thượng tôn pháp luật, bảo vệ chân lý, lẽ phải, vì các quyền và lợi ích chính đáng của mọi quốc gia, bất kể là giàu, nghèo, mạnh yếu khác nhau…

Tiến sĩ Trần Công Trục

Nguồn : GDVN, 13/10/2017

Tài liệu tham khảo :

[1] http://edition.cnn.com/2017/10/10/politics/us-navy-south-china-sea-freedom-of-navigation-operation/index.html

[2] http://www.scmp.com/news/asia/diplomacy/article/2114810/us-destroyer-sails-near-islands-claimed-china-south-china-sea

[3] http://www.reuters.com/article/us-usa-china-military/exclusive-u-s-warship-sails-near-islands-beijing-claims-in-south-china-sea-u-s-officials-idUSKBN1CF2QG

Published in Diễn đàn