Trên thế giới này có lẽ không ở đâu chữ viết được coi trọng như ở Trung Quốc. Thời xưa người Hán [1] tin rằng chữ viết của họ –– chữ Hán, là do một dị nhân bốn mắt làm ra, họ gọi là "Chữ Thánh hiền" và tôn sùng nó như một vật linh thiêng. Mọi người coi viết chữ là việc trang trọng. Cha mẹ dạy con không bao giờ được để tờ giấy có chữ rơi xuống đất, v.v… Chữ Hán được coi là nền tảng, là đại diện chủ yếu và là vật chuyên chở nền văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Chữ Hán được coi là nền tảng, là đại diện chủ yếu và là vật chuyên chở nền văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Tính chất và hình dạng của chữ Hán rất độc đáo, nổi bật : Trong khi các loại chữ viết còn lại đều là chữ biểu âm (ghi âm, phonograph, gắn liền với tiếng nói), thì chữ Hán thuộc loại chữ biểu ý (ghi ý, ideograph, tách rời tiếng nói), mỗi chữ viết trong một ô vuông, làm nên một "thế giới ngôn ngữ" riêng biệt, phức tạp, thần bí, thể hiện tư duy độc đáo của người Hán cổ đại.
Tuy được tôn thờ như một vật thiêng, nhưng lạ thay, "chữ Thánh hiền" lại hay bị viết sai nhiều nhất. Hiển nhiên đó là do chữ Hán cấu tạo phức tạp, khó học, khó nhớ, khó viết, khó dùng. Tính biểu ý của chữ Hán buộc người ta phải nhớ từng mặt chữ, mà số chữ lại quá nhiều, không ai có thể nhớ hết, bởi lẽ mỗi ý cần một chữ mà số lượng ý lại nhiều vô hạn. Đã thế, thời xưa chữ Hán chỉ là chữ viết của tầng lớp phong kiến, chúng dùng chữ viết làm công cụ độc quyền thi hành chính sách ngu dân : để dân càng dốt nát mù chữ thì chúng càng dễ áp bức bóc lột họ. Vì thế chúng không muốn thay đổi làm cho chữ Hán trở nên dễ hơn. Nhà ngôn ngữ học Châu Hữu Quang nói : "Nguyên lý tổ chức chữ viết từ chữ Giáp Cốt cho tới chữ Hán hiện đại đều như nhau", nghĩa là suốt mấy nghìn năm không được cải tiến (cho tới cuối thế kỷ 19).
Vì chữ Hán quá khó nên viết nhầm, viết sai chữ là chuyện thường tình, kể cả ở thời nay, khi mọi người đều được học hành. Người Trung Quốc có câu "Không sai nhầm thì chẳng thành sách (無錯不成書 - Vô thác bất thành thư)", nghĩa là chẳng sách chữ Hán nào tránh khỏi sai nhầm trong việc dùng chữ. Cho tới nay tai nạn này vẫn tiếp tục tác hại trong ngành văn hóa, giáo dục và xuất bản ở Trung Quốc.
Khi in bộ Tuyển tập Mao Trạch Đông 4 tập, tổng cộng chỉ khoảng một triệu chữ, đã phải dùng 40 chuyên gia ngôn ngữ làm việc soát chữa chữ. Theo quy định, mỗi người phải soát chữa 5 lần phần bản thảo được phân công, nhưng thực tế họ đã phải soát chữa 10 lần mới đạt yêu cầu không có chữ sai. Năm 2007, bà Thiết Ngưng (铁凝) –– người từng làm Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc 15 năm nay (cấp bậc ngang Bộ trưởng) –– khi viết tay đề từ 4 chữ "Phong hoa chính mậu风华正茂 (Phong nhã hào hoa rất mực)" cho tạp chí "Mỹ văn - 美文" có đối tượng đọc là học sinh trung học, đã viết chữ Mậu 茂 với bộ dưới là chữ Thú 戍 (đúng ra phải viết chữ Mậu 戊), khiến người đọc chẳng biết là chữ gì, tra tự điển cũng không thấy, dư luận "nổi sóng" tưởng là chữ mới xuất hiện.
Chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược (được coi là người giỏi chữ Hán nhất) từng phàn nàn : "Tôi dùng chữ Hán đã 60 năm mà bây giờ đọc sách vẫn phải tra tự điển". Đúng thế, có những chữ nếu không tra tự điển hoặc không hỏi người khác thì nhìn chữ mà không biết đọc thế nào, nghĩa là gì, hoặc nghe đọc mà không viết ra chữ hoặc viết sai. Nhà Hán học người Đức nổi tiếng Wolfgang Kubin đi đâu cũng phải mang theo một cuốn tự điển chữ Hán. Học sinh Trung Quốc không ai không có tự điển chữ Hán –– loại sách được liên tục biên soạn và in nhiều lần, nhiều bản nhất ở nước này. Ngày nay điện thoại thông minh có thể thay cho tự điển, rất tiện mang theo người, giúp tránh được sai sót khi viết chữ.
Có nhiều nguyên nhân làm cho chữ Hán trở nên phức tạp và quá khó. Bài này chỉ nói về vấn đề Thói sùng bái quyền lực của người Hán cổ đại đã làm tăng tính phức tạp của chữ Hán.
Người Hán thời xưa đặc biệt sùng bái những nhân vật nắm quyền lực, trước hết là vua chúa. Đó là do họ được dạy rằng quyền lực là thứ thần linh ban cho một số người để cai trị dân chúng ; sùng bái quyền lực là sùng bái thần linh –– sức mạnh siêu nhiên chẳng ai dám chống lại.
Tư tưởng "Lễ giáo" trong học thuyết Khổng Tử đã củng cố thói xấu ấy. Xã hội chia làm các tầng lớp, kẻ ở tầng lớp dưới phải tuyệt đối phục tùng kẻ ở tầng lớp trên. Nước này không có tôn giáo riêng nhưng người dân đều có tín ngưỡng thờ tổ tiên gia tộc mình, toàn xã hội thờ tổ tiên dân tộc mình. Tổ tiên trở thành đại diện của quyền lực, của truyền thống dân tộc, và bị lợi dụng để ngăn cấm thế hệ sau làm trái với cái gọi là truyền thống. Hầu như bất cứ cái gì người xưa nghĩ, làm, viết ra đều được các đời sau cho là đúng, là kiểu mẫu noi theo. Ngay "Thánh nhân" Khổng Tử cũng nói mình chỉ "Thuật nhi bất tác", tức không sáng tác mới mà chỉ thuật lại những điều người xưa đã viết. Có thời người ta ca ngợi "Kỳ thư" (Sách lạ) Kinh Dịch ẩn chứa tất cả các khái niệm khoa học xưa nay và sau này, toàn bộ nội dung khoa học hiện có và chưa có của loài người đều được tổ tiên người Hán viết trong Kinh Dịch, chỉ đợi hậu thế khám phá ; vì thế dựa vào kinh điển này Trung Quốc sẽ bá chủ thế giới !
Chữ Hán viết thừa thiếu nét hoặc sai nét, sai bộ thủ, làm thành thứ chữ không có trong tự điển, được gọi là "Chữ sai" (错字, Thác Tự, cuozi). Như chữ Cửu 九 trong chữ Nhiễm 染 bị viết sai (thừa nét) thành chữ Hoàn 丸. Trong ví dụ trên, bà Thiết Ngưng phạm phải loại sai lầm này. Ấy thế mà khi có dân mạng Trung Quốc đòi bà xin lỗi, thì một biên tập viên tạp chí "Mỹ văn" lại nói : "Mình mời người ta đề chữ cho mình thì chẳng nên bình phẩm họ viết thế nào !"
Chữ viết nhầm sang chữ khác có trong tự điển, gọi là "Chữ khác" (别字, Biệt Tự, biezi). Ví dụ 按部就班 viết thành 按部就搬, ở đây chữ Ban 班 viết sai thành chữ Ban 搬 (chữ này có trong tự điển), gây hiểu sai ý nghĩa. Hoặc chữ Tuý 粹trong Tinh tuý 精粹 viết thành chữ Tuỵ 萃, một chữ khác, có trong tự điển. "Chữ khác" là loại sai lầm dễ mắc nhất, tai hại nhất, người viết và người đọc thường không phát hiện ra.
Cả hai loại chữ sai nói trên gọi gộp là "Chữ Sai-khác " (错别字, Thác Biệt Tự, cuobiezi). Hầu như chẳng mấy ai tránh được Chữ Sai-khác, phổ biến đến mức mọi người phải thừa nhận : Đã viết sách thì không thể không có sai nhầm chữ nghĩa.
Người Việt Nam ta cũng hay viết sai chữ Hán. Tết Đinh Dậu (2017), tôi đến thăm một quán trong "Hội chữ" ở Văn Miếu, thấy thầy đồ chủ quán đang cặm cụi viết chữ cuối cùng trong bức thư họa 4 chữ Hán "Phúc thọ vô biên" cho một khách ngồi chờ. Tôi phát hiện : đáng lẽ phải dùng chữ "biên" 邊 trong "biên giới" thì thầy đồ lại viết chữ "biên" 編 trong "biên tập", mặc dù thầy có một cuốn Tự điển Hán-Việt. Khi tôi khẽ hỏi sao lại dùng chữ "biên" 編 này thì thầy giả vờ không nghe thấy. Tôi lặng lẽ bỏ đi với ý nghĩ chẳng nên làm thầy xấu hổ, chữ đã viết xong, sửa lại sẽ tốn công, vả lại khách mua không biết chữ Hán cho nên viết sai cũng chẳng sao, hơn nữa bên cạnh mỗi chữ vuông thầy đã ghi kèm từ Hán-Việt khổ chữ nhỏ rồi, người ta đọc chữ Quốc ngữ chứ mấy ai đọc chữ Hán. Ở đây thầy đồ đã phạm lỗi viết "Chữ Khác" mà chẳng biết ; vì thấy chữ 編 có trong tự điển, thầy đinh ninh mình viết đúng.
Lẽ ra viết hoặc đọc sai chữ thì sửa, chứ đâu có gì ghê gớm không sửa được. Nhưng khi kẻ phạm lỗi sai ấy là kẻ có địa vị cao thì người Hán cổ vốn quen sùng bái quyền lực lại không dám nói đương sự sai, mà nghĩ ra lắm mẹo bậy bạ để bào chữa rằng đương sự đúng, điều đó đem lại hậu quả tai hại làm cho chữ Hán trở nên phức tạp hơn.
Chẳng hạn khi kẻ ở tầng lớp trên viết sai chữ thì người ta ngụy biện rằng đấy chẳng qua chỉ là đương sự cố ý dùng chữ khác thay cho chữ thường dùng (gọi là Bản tự - 本字, chữ gốc) mà thôi, chứ không phải là nhầm lẫn gì cả. Thứ "Chữ Sai-khác" ấy còn được gọi là "Thông Giả Tự , tức Chữ Thông giả" (通假字, Tongjiazi). Đây là một biểu hiện của tâm lý sùng bái quyền lực cùng thói xu nịnh và nguỵ biện của người Hán cổ đại. Tư tưởng Lễ giáo của Khổng Tử buộc thần dân luôn phải nghĩ rằng kẻ có quyền lực bao giờ cũng đúng, kể cả trong lĩnh vực chữ viết.
Kiểu tư duy phi logic ấy mang lại hậu quả cực kỳ tai hại, làm cho chữ Hán đã phức tạp lại càng thêm rối rắm phức tạp –– góp phần sinh ra chữ đa âm đa nghĩa, một tai họa khiến cho chữ Hán vốn đã kém chính xác lại càng kém chính xác và càng khó học khó dùng. Thư tịch cổ Trung Quốc vốn dĩ đều viết theo thể văn "Văn ngôn" quá ư vắn tắt khó hiểu, cả bộ sách viết liền tù tỳ một dòng, không có ngắt câu, không xuống dòng, không viết hoa, chẳng biết đâu là chủ ngữ, vị ngữ… lại có nhiều chữ Thông giả, làm cho thư tịch cổ trở nên cực khó hiểu, dễ hiểu nhầm.
Thư tịch cổ có chép "Chuyện Tăng Tử giết lợn" của Hàn Phi Tử. Tăng Tử (505 – 435 trước công nguyên) là triết gia nổi tiếng Trung Quốc, một trong 4 học trò của Khổng Tử được thờ trong Khổng miếu, được tôn vinh là "Tôn thánh", chỉ sau "Phục thánh" Nhan Uyên. Câu chuyện đại để như sau :
Vợ Tăng Tử đi chợ, con trai nhỏ khóc đòi theo. Bà dỗ : "Con về nhà đi, lát nữa mẹ đi chợ về sẽ làm thịt con lợn cho con ăn !" Khi đi chợ về, thấy chồng vào chuồng bắt lợn, bà ngăn lại, phân vua "Tôi dỗ nó thế thôi, chứ có định giết lợn đâu". Tăng Tử nói : "Không được dạy trẻ con thói dối trá ! Người lớn nói gì thì phải làm thế !" Nói đoạn ông bắt con lợn ra chọc tiết.
Trong sách cổ, câu "Con về nhà đi…" nguyên văn viết "女還,顧反為女殺彘". Ở đây chữ thứ nhất và thứ 6 (女) lẽ ra phải là chữ Nhữ 汝 [rǔ] (tức 你, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai), nhưng do viết nhầm (thiếu bộ thủy), chỉ còn lại chữ Nữ 女 [nǚ] (đàn bà, con gái), đọc lên rất vô lý. Có thể đoán ngay là viết sai chữ, định viết 汝nhưng lại viết 女. Như vậy 女 là Chữ Khác của 汝. Song le chẳng lẽ con cháu lại dám nói tổ tiên viết sai ư ? Để giữ truyền thống không được phép chê trách tổ tiên, thế là ai đó đưa ra giải thích nguỵ biện : Đây là các cụ dùng chữ 女 thay cho chữ 汝 mà thôi, hai chữ này có nghĩa như nhau, đều là 你 (đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, tiếng Anh : you). Ở đây 女 là "Thông giả tự" dùng thay cho "Bản tự" 汝.
Lời phán ấy được mọi người hả hê công nhận. Từ đó trở đi chữ Nữ 女 mặc nhiên có thêm một nghĩa nữa là 你, và một âm đọc nữa là [rǔ]. Từ chỗ chỉ có một âm một nghĩa, nay 女 có thêm âm và nghĩa thứ hai, thành chữ đa âm đa nghĩa. Rốt cuộc chỉ vì sùng bái tổ tiên mà người học chữ Hán phải khổ sở gánh thêm một gánh nặng : Buộc phải nhớ cái nội dung mới thêm ấy. Đa âm đa nghĩa làm cho chữ Hán trở nên kém chính xác, rất khó học khó dùng.
Trong sách Luận Ngữ cũng có câu "唯女子與小人為難養也,近之則不遜,遠之則怨 Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán". Có nhiều cách hiểu câu này, ví dụ cách hiểu : "Đàn bà và tiểu nhân đều rất khó trau dồi tính khí khái chính trực, rất khó tu dưỡng mình. Cho nên khi chung sống với họ, (người quân tử) phải chú ý giữ khoảng cách ; gần họ thì dễ khiến họ thất lễ ; xa họ lại dễ khiến họ oán giận". Song le, vì giải thích như thế có nghĩa là chê Khổng Tử khinh miệt phụ nữ nên có người nguỵ biện : Chữ "女nữ" ở đây vốn là chữ "汝nhữ", nghĩa là 你 nhưng tác giả không viết 汝, mà cố ý viết "女". Rốt cuộc câu nói trên chỉ là lời thầy Khổng mắng các học trò : "Bọn ngươi là đồ khó dạy bảo, (ta) gần các ngươi thì các ngươi nhờn nhã, (ta) xa các ngươi thì các ngươi oán trách (ta) !" –– câu này hoàn toàn không có ý khinh miệt phụ nữ. Một cách giải thích làm bùi tai những người tin vào học thuyết Khổng Tử.
Cũng có thuyết giải thích sự việc kể trên theo hướng khác, như thuyết đọc theo phương ngữ, thuyết chữ Hán ngày xưa chưa hoàn thiện… nhưng theo chúng tôi, cách giải thích theo thuyết "Chữ Thông giả" hợp lý hơn cả. Thuyết này đại diện cho tư duy phi logic, tâm lý sùng bái tổ tiên, sùng bái quyền lực của người Hán thời xưa.
Đọc sai chữ cũng vậy. Sách xưa kể chuyện một lần vua nhà Thanh du hành Tô Châu, khi đi qua cái cổng lớn có đắp chữ 滸墅關, nhà vua cao hứng đọc [xǔ shù guān] ; ở đây chữ 滸 ngài đọc là [xǔ]. Các đại thần đi theo há hốc mồm ngạc nhiên, biết là nhà vua nhầm chữ滸với chữ 許 ; xưa nay 滸 đều đọc [hǔ]. Nhưng ai dám bảo vua sai ? Và thế là sau đó giới quan lại-học giả "sáng tác" ra quan điểm : Chữ 滸 ngoài âm [hǔ] (Hử) và nghĩa "bờ nước" ra, nay có thêm âm thứ hai là [xǔ] (Hứa) và nghĩa thứ hai là tên một địa điểm ở Tô Châu. Chữ 滸 vốn đơn âm đơn nghĩa bỗng trở thành đa âm đa nghĩa, nghĩa là thêm rắc rối, làm khổ người học và dùng chữ !
Cách đây ít lâu kẻ viết bài này đọc báo Trung văn gặp từ 苗圩 là tên của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thông tin Trung Quốc ; phải tra tự điển mới biết圩là chữ đa âm đa nghĩa, có hai âm đọc là [xū] và [wéi] ; vậy tên ông này nên đọc thế nào ? Phải vào Google, gõ (tiếng Anh) hỏi tên Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thông tin Trung Quốc là gì, mới tìm thấy giải đáp : Miao Wei. Nếu không có Internet thì chịu chết.
Hán ngữ có không ít chữ Thông giả. "Luận Ngữ thập tắc" có câu 子曰 "學而時習之,不亦說乎?" ở đây chữ "Thuyết" 說 [shuo] (nói) là Thông giả tự của chữ "Duyệt" 悦 [yuè] (vui mừng). Thật vô lý : tự dưng chỉ vì tác giả Luận Ngữ viết nhầm chữ 悦 thành 說 mà từ đó trở đi chữ 說 trở thành chữ đa âm đa nghĩa : có thêm nghĩa mới (vui mừng) và âm đọc mới [yuè].
Sách "Từ Hải" thu gom được 2641 chữ đa âm, trong đó 2112 chữ có hai âm, 422 chữ ba âm, 81 chữ 4 âm, 18 chữ 5 âm, 7 chữ 6 âm, và một chữ có 8 âm đọc –– đó là chữ那. Học thuộc 2641 chữ ấy quả là một cực hình. Sách "Thông giả tự đại toàn" (Tự điển Thông giả tự) liệt kê hơn 200 Thông giả tự thường dùng –– một con số làm nản lòng người học chữ Hán.
Chữ đa âm đa nghĩa chiếm khoảng 10% tổng số chữ Hán –– chẳng những là gánh nặng quá lớn cho người học chữ mà còn làm cho chữ Hán kém chính xác, và do đó khó có thể quốc tế hóa được. Hậu quả làm cho văn hóa Trung Quốc khó truyền bá ra thế giới, sức mạnh mềm của nước này khó có thể tăng theo sức mạnh cứng. Trung văn là một trong 6 ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc, nhưng tỷ lệ dùng chữ Hán ở tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này chưa được 1%, trong khi tỷ lệ dùng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha là 80, 15 và 4%. Điều đó góp phần làm cho người Trung Quốc hiện nay vẫn thiếu tự tin về nền văn hóa truyền thống của họ.
Có thể nói : Không có thầy dạy, không có công cụ tra cứu thì khó có thể đọc, viết, hiểu chính xác chữ Hán và do đó khó hiểu đúng các thư tịch cổ. Người Trung Quốc đã bỏ rất nhiều thời gian và công sức tìm cách sửa cho chữ Hán chính xác hơn, nhưng chưa đạt kết quả như ý, vì nhược điểm đó đã tồn tại quá lâu. Giới học giả thừa biết Chữ Thông giả làm cho chữ Hán phức tạp hơn, nhưng họ không ngăn cản được. Tất cả chỉ vì giai cấp phong kiến chủ trương dùng chữ Hán làm công cụ độc quyền kìm kẹp trí tuệ của dân, thực hiện ngu dân để chúng dễ bề cai trị. Mặt khác, cũng rất khó trừ bỏ được tâm lý sùng bái quyền lực trong xã hội cũ.
Giáo sư Tô Bồi Thành, Hội trưởng Hội Hiện đại hóa Ngữ văn Trung Quốc nói : Ngày xưa người Trung Quốc cho rằng chữ Hán là "báu vật - 寶貝" (của văn minh cổ đại). Ngày nay học giả Trung Quốc hiện đại nói chữ Hán vừa là "báu vật" (của văn minh cổ đại) lại vừa là "gánh nặng包袱" (của văn minh hiện đại). Nhận thức như vậy là một bước tiến rất lớn.
Thế nhưng cho tới nay giới học giả Trung Quốc vẫn chưa tìm ra cách giải quyết "gánh nặng" nói trên ; có lẽ các thế hệ sau sẽ làm tiếp nhiệm vụ ấy.
Tóm lại, thói sùng bái quyền lực của người Hán cổ đại đã mang lại tai họa lớn cho ngôn ngữ của họ. Phải chăng nó cũng là nguồn gốc gây ra truyền thống chính trị chuyên chế, độc đoán ?
Nguyễn Hải Hoành
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 10/04/2022
[1] Ở đây từ "Hán" được dùng như một khái niệm chính trị, không phải khái niệm chủng tộc. Xem : Vũ Đức Liêm "Tộc người Hán : Một bản sắc được kiến tạo".
Chữ viết là một phát minh vĩ đại của loài người. Dân tộc nào làm ra được chữ viết thì dân tộc đó sẽ thoát ra khỏi thời kỳ tiền sử mông muội, tiến sang kỷ nguyên văn minh có sử sách ghi lại sự phát triển của dân tộc mình. Cho tới nay, một số dân tộc vẫn chưa làm được chữ viết. Chữ Hán thuộc loại chữ viết ra đời sớm. Theo nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Châu Hữu Quang, chữ Hán chính thức thành hình và ra đời cách đây khoảng hơn 3300 năm, chỉ sau một vài loại chữ viết của vùng Trung Đông. Trong hàng nghìn loại chữ viết hiện có trên thế giới, chữ Hán nổi bật với hình dạng tổ hợp đường nét giới hạn trong một ô vuông, là loại chữ viết duy nhất có tính chất biểu ý (ghi ý), khác với các loại chữ viết còn lại đều có tính chất biểu âm (ghi âm).
Một trang Hiến pháp Hàn Quốc, có quá nhiều chữ Hán xen lẫn chữ Hangul, bởi lẽ chữ Hangul không thể hiện chính xác ý nghĩa của những từ có tính pháp lý phức tạp và quan trọng.
Hiện nay, chữ Hán đang được hơn 1,4 tỷ người trên thế giới sử dụng. Công luận phổ biến thừa nhận chữ Hán do người Trung Quốc làm ra, về sau du nhập Việt Nam, Triều Tiên/Hàn Quốc và Nhật Bản, được các nước này sử dụng theo cách riêng của mình trong hàng nghìn năm, và cuối cùng đều phải cải cách nhằm ghi được tiếng mẹ đẻ của mình. Tại Trung Quốc, chữ Hán sau khi ra đời hầu như không có thay đổi gì, mặc dù từ cuối thế kỷ 19 nước này từng tiến hành cải cách chữ Hán với quy mô cực kỳ lớn. Cho tới nay, có thể khẳng định chữ Hán là loại chữ viết thích hợp với Hán ngữ và sẽ được mãi mãi sử dụng ở Trung Quốc. Hiện vẫn chưa biết ai là người sáng chế ra loại chữ viết độc đáo này. Người Trung Quốc lưu hành truyền thuyết chữ Hán là do Thương Hiệt (倉頡Cang Jie), một viên quan chép sử của vua Hoàng Đế đầu tiên, làm ra.
Vấn đề quyền tác giả của chữ Hán bắt đầu nổi lên sau khi trang mạng Trung Quốc "tv.sohu.com" ngày 3/2/2008 đăng bài "Giáo sư Hàn Quốc tuyên bố chữ Hán là do người Hàn Quốc phát minh".
Bài báo cho biết : Chẳng những tranh giành quyền sáng chế chữ Hán mà mấy hôm nay người Hàn Quốc triển khai một loạt hành động tranh giành thành tựu văn hóa của Trung Quốc, như họ báo cáo Liên Hợp Quốc rằng "Kỹ thuật in chữ rời" là do Hàn Quốc phát minh, Tết Đoan Ngọ là di sản văn hóa của Hàn Quốc ; Khổng Tử, người đẹp Tây Thi, thầy thuốc Lý Thời Chân… là người Hàn Quốc, Y học cổ Trung Hoa (Trung Y) cũng do người Hàn Quốc phát minh. Bài báo viết : Tờ "Nhật báo Triều Tiên" của Hàn Quốc, số ra ngày 10/10/2006, đưa tin ông Phác Chính Tú, Giáo sư lịch sử Đại học Seoul, nói sau 10 năm nghiên cứu khảo chứng, ông nhận định dân tộc Triều Tiên đầu tiên phát minh ra chữ Hán ; về sau khi người Triều Tiên di cư đến Trung Nguyên, họ mang theo chữ Hán vào Trung Quốc. Mọi người đều biết hiện nay trên lãnh thổ Trung Quốc có dân tộc Triều Tiên (Chaoxian, Korean) là dân tộc thiểu số lớn thứ hai (hơn 1,7 triệu người, chỉ sau dân tộc Tráng), trong cộng đồng 56 dân tộc nước này.
"Thời báo Hoàn cầu" của Trung Quốc, số ra ngày 21/4/2011, đăng bài "Học giả Hàn Quốc tuyên bố : Tổ tiên họ phát minh ra chữ Hán". Bài báo cho biết : ông Trần Thái Hạ, 73 tuổi, nhà ngôn ngữ học số một Hàn Quốc, Giáo sư Đại học Nhân Tế Hàn Quốc, mới đây đăng bài trên truyền thông nước này, nói "Chữ Hán không phải là văn tự Trung Quốc mà là do tộc Đông Di tổ tiên chúng ta sáng tạo ra, là văn tự của chúng ta. Giới học giả Trung Quốc cũng thừa nhận sự thực lịch sử này, chỉ có Hàn Quốc chưa biết". Đông Di là tên mà các vương triều Trung Quốc ở Trung nguyên thời Tiên Tần gọi chung các bộ lạc sống ở miền đông vùng Trung nguyên, trong đó gồm cả người trên bán đảo Triều Tiên. Phát biểu của giáo sư Hạ đã gây ra tranh luận sôi nổi.
Theo Thời báo Hoàn cầu, mạng Newdaily Hàn Quốc ngày 17/4/2011 đăng một bài dài dẫn lời giáo sư Hạ nói : Tên gọi "chữ Hán" đâu phải vì đó là chữ viết do tộc Hán Trung Quốc sáng tạo ; thời nhà Hán cũng chưa có tên gọi "chữ Hán". Thứ chữ này là do tộc Đông Di của người Hàn Quốc phát triển trên cơ sở chữ viết trên mai rùa. Giáo sư Hạ còn nói : Các nhà văn-sử học Trung Quốc như Lâm Ngữ Đường [1895-1976], Vương Ngọc Triết, đều đã nghiên cứu khảo chứng nguồn gốc chữ Hán, cho rằng đó là di sản văn hóa của tộc Đông Di ; chữ viết của Trung Quốc là do người tộc Đông Di sáng tạo, Khổng Tử cũng là hậu duệ của nước Ân thuộc dân tộc Đông Di.
Giáo sư Hạ kể chuyện : Bộ trưởng Văn hóa Giáo dục đầu tiên của Hàn Quốc, ông An Hạo Tương, từng than phiền với ông Lâm Ngữ Đường là chữ Hán đã đem lại cho Hàn Quốc nhiều vấn đề rắc rối, nhưng ông Đường đáp : "Ngài nói gì lạ thế ? Chữ Hán là do tộc Đông Di các ngài làm ra, lẽ nào các ngài không biết sao ?"
Giáo sư Hạ tuyên bố : Người Hàn Quốc hiện nay "coi chữ Hán là ngoại ngữ — cách làm đó là hành vi tự gây hại cho chính mình", "chữ Hán cùng với chữ Hangul có tính khoa học nhất, là đôi cánh của Hàn ngữ ; duy nhất chỉ Hàn Quốc là quốc gia có kết cấu ngôn ngữ lý tưởng như vậy".
Năm 1998, Giáo sư Trần Thái Hạ thành lập "Tổng hội liên hợp xúc tiến giáo dục chữ Hán toàn quốc", ra sức đẩy mạnh dạy và học chữ Hán. "Nhật báo Trung ương" Hàn Quốc năm 2006 đưa tin về quan điểm của Giáo sư Hạ, cho rằng "Môn Cờ vây có nguồn gốc từ Hàn Quốc". Năm 2009, hai chục vị cựu Thủ tướng Hàn Quốc ký tên vào bản kiến nghị do Giáo sư Hạ dự thảo, đề nghị đẩy mạnh việc giảng dạy chữ Hán ở Hàn Quốc.
Quan điểm "Hàn Quốc làm ra chữ Hán" của Trần Thái Hạ đã tạo ra niềm phấn khởi trong một số dân mạng Hàn Quốc, nhưng các cơ quan truyền thông chính thống của nước này đều im lặng. Mấy năm nay, dư luận trong dân gian hai nước Trung Quốc và Hàn Quốc xảy ra không ít tranh cãi về vấn đề di sản văn hóa, nhưng chưa rõ tại sao chính quyền hai nước đều ít nói về các vấn đề đó.
Phản ứng của dư luận Trung Quốc
Dư luận Trung Quốc hăng hái và phẫn nộ phê phán quan điểm "Chữ Hán do người Triều Tiên/Hàn Quốc sáng chế". Họ cho rằng chữ Hán từ Trung Quốc du nhập bán đảo Triều Tiên từ khoảng thế kỷ 3 sau công nguyên, khi chữ Hán đã ra đời ở Trung Quốc được khoảng 1500 năm (thế kỷ 13 trước công nguyên).
Thời cổ, người Triều/Hàn chưa có chữ viết của mình, phải mượn dùng chữ Hán, nhưng chỉ tầng lớp quý tộc và quan lại dùng, còn dân chúng thì mù chữ. Do ngôn ngữ Triều/Hàn thuộc ngữ hệ Altai, khác với Hán ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng (Sino-Tibetan), nên chữ Hán không thể ghi được tiếng Triều/Hàn. Để giải quyết khó khăn đó, vua Sejong (tức Thế Tôn, trị vì Hàn Quốc thời gian 1418-1450) tập hợp một số quần thần và nhà trí thức nghiên cứu làm ra một bộ chữ viết riêng của người Triều/Hàn, gọi là "Huấn dân chính âm" (sau gọi là chữ Hangul) và công bố ngày 9/10/1446, nhằm thống nhất âm đọc tiếng Hàn trong cả nước. "Huấn dân" là "Dạy cho dân" ; "Chính âm" là "Chữ viết đúng của dân".
Chữ Hangul là chữ viết biểu âm đầu tiên ở Châu Á, là một phát minh sáng tạo lớn, niềm tự hào và biểu tượng cho sự độc lập của dân tộc này, chữ viết duy nhất được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (năm 1997). Đây là lần đầu tiên một dân tộc Châu Á phát minh ra cách dùng chữ cái để ghi tiếng nói của mình. Tuy rằng khoảng hai thế kỷ sau tại Việt Nam có xuất hiện loại chữ viết hiện đại hơn, là chữ biểu âm dùng chữ cái Latin được dân ta gọi là chữ Quốc ngữ, nhưng loại chữ này không phải do người Việt Nam tự làm ra, mà chủ yếu là kết quả sáng tạo của các nhà truyền giáo Châu Âu trong quá trình dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm Việt Nam.
Chữ Hangul là loại chữ biểu âm, ban đầu có 28 chữ cái (hiện nay chỉ dùng 24), dễ học dễ nhớ, dễ viết. Chữ Hán thuộc loại chữ biểu ý, khó học, khó nhớ, khó viết. Nhưng do chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán nên trong lịch sử, tầng lớp trên người Triều/Hàn vẫn chủ yếu dùng chữ Hán, coi là chữ quý tộc, còn chữ Hangul bị coi là chữ của người ít học và của phụ nữ. Mãi đến sau Thế chiến thứ hai khi người Triều/Hàn giành được độc lập dân tộc, họ mới chính thức bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ Hangul.
Tại Bắc Triều Tiên, sau năm 1945, chính quyền ra lệnh bỏ hẳn chữ Hán. Tại Nam Triều Tiên (tức Hàn Quốc), năm 1948 ban hành "Luật chuyên dùng chữ Hangul", cấm công khai dùng chữ Hán. "Luật Quốc ngữ cơ bản" ban hành năm 2005 quy định các văn bản cơ quan nhà nước phải dùng chữ Hangul, nhưng khi viết các lệnh của Tổng thống, có thể dùng chữ Hán hoặc chữ nước ngoài ghi chú trong ngoặc. Trên thực tế, văn bản Hiến pháp Hàn Quốc vẫn dùng nhiều chữ Hán (ảnh). "Nhật báo Đông Á" và "Nhật báo Triều Tiên" của nước này vẫn in tiêu đề bằng chữ Hán phồn thể. Các văn bản cơ quan nhà nước Hàn Quốc tuy dùng chữ Hangul là chính nhưng có dùng thêm chữ Hán, chủ yếu để ghi chú trong trường hợp nếu chỉ dùng chữ Hangul thì không phân biệt được chính xác nội dung cần thể hiện. Ví dụ tên người (nhất là trong thẻ căn cước), tên đất, hoặc các văn bản pháp lý đòi hỏi tính chính xác cao thường có bổ sung thêm bằng chữ Hán trong ngoặc đơn.
Theo tin trên báo Trung Quốc, ngày 9/2/2005, Chính phủ Hàn Quốc ra thông báo tuyên bố phục hồi sử dụng chữ Hán trong tất cả các công văn nhà nước và biển báo giao thông. Ngoài ra, cũng đề xuất "Phương án đẩy mạnh kết hợp sử dụng chữ Hán", theo đó bất cứ tên người, tên đất hoặc từ ngữ lịch sử nào nếu không dùng chữ Hán sẽ dễ xảy ra nhầm lẫn thì phải ghi chú thêm bằng chữ Hán. Các biển báo giao thông, biển tên di tích lịch sử, biển hướng dẫn nơi tham quan du lịch… đều phải viết bằng ba thứ tiếng Hàn, Anh, Trung.
Trên thực tế, vì tiếng Triều/Hàn có ít âm tiết lại không có thanh điệu, cho nên tồn tại rất nhiều từ đồng âm khác nghĩa, nếu viết toàn bộ bằng chữ Hangul biểu âm sẽ khó phân biệt ý nghĩa của các từ đồng âm. Nhưng nếu ghi chú thêm bằng chữ Hán thì sẽ có thể phân biệt chính xác, bởi lẽ chữ Hán là chữ biểu ý. Người Hàn Quốc sử dụng chữ Hán đã ngót 2000 năm, chịu ảnh hưởng rất lớn từ chữ Hán, như 70% từ ngữ tiếng Hàn có gốc chữ Hán (tương tự từ Hán-Việt ở Việt Nam, nhưng tiếng Việt giàu âm tiết nên không tồn tại nhiều từ đồng âm khác nghĩa).[1] Đây là lý do giải thích vì sao lượng chữ Hán chiếm tới một phần tư văn bản Hiến pháp Hàn Quốc hiện nay.
Tuy vậy, những điều nói trên không chứng tỏ chữ Hán là do người Triều/Hàn làm ra. Thật khó hiểu là một dân tộc từng sáng tạo ra Hangul – thứ chữ viết được ca ngợi là có tính khoa học "với các nguyên tắc ngữ âm vượt thời gian mà chưa dân tộc nào từng có"[2] giờ đây lại có ý định tranh quyền sáng tạo chữ Hán, một loại chữ bị chính người Trung Quốc vất vả cải cách sửa đổi suốt cả trăm năm qua chưa xong !
Việt Nam và Nhật không tranh quyền tác giả chữ Hán
Việt Nam mượn dùng chữ Hán khoảng hơn 2000 năm, kể từ sau khi tướng nhà Tần là Triệu Đà chiếm nước ta. Tình hình chữ Hán ở ta cũng tương tự như ở Hàn Quốc : tiếng Việt thuộc ngữ hệ Môn-Khmer ở Đông Nam Á, một ngữ hệ khác hẳn tiếng Hán, vì thế chữ Hán không thể ghi được tiếng Việt.
Để khắc phục khó khăn trên, từ thế kỷ 12, tổ tiên ta dựa trên cơ sở chữ Hán đã sáng tạo ra chữ Nôm ghi được tiếng mẹ đẻ. Nhưng chính quyền phong kiến Việt Nam vẫn dùng chữ Hán làm chữ viết chính thức ; chữ Nôm bị coi là chữ của dân thường, là loại chữ "nôm ma mách qué". Tuy vậy, nhờ chữ Nôm mà nước ta từng có một nền văn học rực rỡ, với các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…
Có điều chữ Nôm khó học hơn chữ Hán, vì thế không được sử dụng rộng rãi như chữ Hangul ở Hàn Quốc. Từ thế kỷ 17, dân ta may mắn được tiếp nhận chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ Châu Âu rất giỏi ngôn ngữ học làm ra trên nền tảng Latin hóa chữ Nôm. Chữ Quốc ngữ ghi được 100% tiếng Việt, rất dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng, về cơ bản đạt được yêu cầu nói thế nào viết thế ấy, viết thế nào đọc thế ấy. Vì thế, từ cuối thế kỷ 19, nước ta nhanh chóng chỉ học và dùng chữ Quốc ngữ, dứt điểm bỏ hẳn được chữ Hán, thực hiện triệt để "Thoát Hán" về ngôn ngữ, không còn phải ít nhiều dùng tới chữ Hán như người Nhật, người Triều/Hàn. Tuy rất ưa chuộng chữ Hán và văn hóa Trung Hoa nhưng tổ tiên ta chưa bao giờ có ý định tranh giành các thành tựu văn minh, như chữ Hán hoặc các tác phẩm kinh điển như Kinh Dịch v.v…
Người Nhật dùng chữ Hán lâu hơn và với quy mô lớn hơn người Triều/Hàn, trong lịch sử chưa hề thấy họ nghi ngờ việc người Trung Hoa làm ra chữ Hán. Thời xưa, người Nhật sử dụng gần như toàn bộ chữ Hán, nhiều nhất tới 50 nghìn chữ, do đó gặp rất nhiều khó khăn. Thế kỷ 8 họ phát minh ra chữ Kana, một loại chữ biểu âm để dùng kết hợp với chữ Hán, nhờ thế giảm được đáng kể tổng số chữ Hán cần dùng. Hiện nay họ chỉ chính thức sử dụng gần 2000 chữ Hán. Cuối thế kỷ 19, trong quá trình chuyển ngữ các thuật ngữ của văn minh phương Tây, người Nhật đã có công lao rất lớn trong việc phát triển Hán ngữ hiện đại[3], tuy thế họ rất ít nói về thành tựu đó.
Nguyễn Hải Hoành
Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 07/02/2022
[1]韩国机构称将汉字视为外国文字违宪 sina.com.cn
[2] Nguyễn Thị Minh Chung : "Hangul và chữ viết của Hàn Quốc", sách "Tiếng Việt 6", Nhà xuất bản Tri thức, 2015.
[3] Xem bài "Người Nhật phát triển Hán ngữ hiện đại"