Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

LTS : Hai bài viết trên Tuần Việt Nam của tác giả Huỳnh Phan phỏng vấn ông Vũ Dương Huân, nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam đã hé mở cho chúng ta biết thêm được ít nhiều về lịch sử của đảng cộng sản trong thời gian chống Pháp kháng Mỹ.

ho0

Ông Vũ Dương Huân, nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam

Ngoài việc tung hô và ca ngợi sự sáng suốt và tài tình của bác và đảng như thường lệ, ông Vũ Dương Huân cho chúng ta biết nhiều sự thật đáng để suy ngẫm. Đó là chuyện ông Hồ đã 8 lần gửi thư cho tổng thống Mỹ Truman nhưng không được trả lời vì Mỹ biết ông Hồ là người của Quốc tế cộng sản.

Chính ông Hồ đã nói : "Dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập". Ông Hồ sau khi từ Việt Bắc trở về Hà Nội, để tỏ ra mình không phải cộng sản, đã giả vờ đổi tên đảng, thay các bộ trưởng cộng sản bằng các thành phần và đảng phái khác, cho tổ chức tổng tuyển cử... Mặc dù sau chiến tranh thế giới lần thứ hai "Pháp đã đồng ý Việt Nam là quốc gia tự do, với chính phủ, quân đội và tài chính – những yếu tố chủ chốt của độc lập" nhưng đảng cộng sản vẫn tiến hành cuộc chiến tranh 9 năm với Pháp (1945-1954).

Trong phần hai, ông Vũ Dương Huân đã cho chúng ta thấy được sự phụ thuộc của quá lớn của Việt Nam vào Trung Quốc để đổi lấy vũ khí, lương thực phục vụ cho công cuộc "kháng chiến chống Mỹ". Tuy nhiên mục đích chính của Trung Quốc khi giúp Việt Nam đánh Mỹ không hoàn toàn vô tư để bây giờ chúng ta phải "mang ơn" Trung Quốc như nhiều người nghĩ.

Ông Huân cho biết "Liên Xô muốn có hòa dịu trên thế giới, còn Trung Quốc, sau Chiến tranh Triều Tiên (đình chiến năm 1953) muốn thoát khỏi sự bao vây của Mỹ (Nam Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương) và đẩy Mỹ ra xa hơn. Họ muốn miền Bắc Việt Nam trở thành khu đệm. Ý đồ sâu xa của Trung Quốc, sau này mới được làm rõ, là chia Đông Dương thành những nước nhỏ để trị".

Đảng cộng sản Việt Nam tồn tại nhờ sự hà hơi tiếp sức của Trung Quốc nhưng không hề có một cơ quan nào nghiên cứu về Trung Quốc, thậm chí trong phái đoàn hơn 30 người sang Trung Quốc đàm phán không hề có điện đàm, không có phiên dịch nên phải sử dụng phiên dịch của Trung Quốc là Văn Trang, không có một chuyên gia nào về Trung Quốc và thế giới... cho nên Việt Nam nói gì, nghĩ gì, bàn gì và gửi thông tin gì về nước đều bị Trung Quốc biết được và ngăn cản.

Hiệp định Geneva được ký kết không phải vì chiến thắng Điện Biên Phủ mà vì Trung Quốc ép Việt Nam phải ký, Việt Nam không muốn nhưng "Đến khi bị hù dọa rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, chúng ta đã buộc phải nghe theo, vì thiếu thông tin".

Việt Nam cũng không hề có một chuyên gia nào nghiên cứu về Mỹ và chính trị thế giới nên không biết gì về tình hình thế giới sau Thế chiến thứ hai, Trung Quốc dọa gì cũng nghe theo. "Lúc đó chúng ta không có nhà nghiên cứu nên không biết, nhưng sau này chúng tôi mới nghiên cứu và kết luận rằng lúc đó Mỹ không nhảy vào".

Ông Huân cũng đã phê phán sự "cực đoan" của ông Lê Duẩn và đảng cộng sản, lúc thì nhất nhất nghe theo Trung Quốc, lúc thì ngả hẳn theo Liên Xô quay lại chống Trung Quốc một cách cực đoan. Ví dụ hành động cực đoan và nhỏ nhặt không thể chấp nhận được của Lê Duẩn là khi bắt thủ tướng Chu Ân Lai phải cuốc bộ từ nhà chờ ra máy bay để về nước, bất chấp mọi qui tắc tối thiểu trong ngoại giao. 

Trong cuộc thảm sát Gạc Ma, chính các ông Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh, Đào Duy Tùng đã dùng đa số chống lại sự phản kháng của bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, quyết đổi các đảo ở Trường Sa để "bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc". Chính bộ ba này đã ra lệnh cho các chiến sĩ hải quân không được nổ súng...

Nhắc lại những điều này không phải để đổ lỗi cho ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam, chúng tôi chỉ muốn nói lên một thực tế là người Việt Nam chúng ta chưa bao giờ xây dựng cho mình được một tổ chức chính trị thật sự có tư tưởng chính trị với một đội ngũ nhân sự chính trị có hiểu biết và bản lĩnh để chèo lái con thuyền đất nước.

Thiếu vắng tư tưởng và định hướng nên Việt Nam như con thuyền không lái, luôn trôi dạt vô định và gặp hết tai tương này đến rủi ro khác.

Việt Hoàng

****************

Phần 1 : Câu trả lời sắc bén của Bác Hồ trước câu hỏi của Stalin

"Tư tưởng lớn nhất, tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về ngoại giao, theo tôi, chính là coi trọng lợi ích quốc gia, dân tộc" – Phó Giáo sư Tiến sĩ Vũ Dương Huân.

Nhân kỷ niệm 128 năm ngày sinh Bác Hồ, Tuần Việt Nam có cuộc trò chuyện với Giáo sư Tiến sĩ Vũ Dương Huân, nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao, về ngoại giao Hồ Chí Minh.

Huỳnh Phan Có một số người đã tổng kết về nền ngoại giao Hồ Chí Minh, chẳng hạn, nguyên Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên đã viết một hẳn cuốn sách. Được biết, đây cũng là vấn đề ông đã dành nhiều năm nghiên cứu?

ho1

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, tháng 12/1920. Ảnh tư liệu/ Báo Thanh niên

Vũ Dương Huân :  Tôi là người đầu tiên viết về "trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế năm 2009. Những người cùng chí hướng, cùng tư tưởng, và cùng phương pháp luận về ngoại giao Việt Nam đã hình thành nên trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh.

Có 3 tiêu chí để tạo nên trường phái ngoại giao: một là phải có cơ sở lý luận ngoại giao vững chắc, thứ hai là phải có kinh nghiệm ngoại giao đã được thực tế kiểm nghiệm, và thứ ba là phải có bản sắc ngoại giao của riêng mình.

Cơ sở lý luận của ngoại giao Hồ Chí Minh gồm các nhân tố : Một là truyền thống văn hóa Việt Nam, hai là tinh hoa ngoại giao của cha ông, thứ ba là tinh hoa văn hóa Đông - Tây, và thứ tư là học thuyết Marx-Lenin. 

Huỳnh Phan Xin ông giải thích rõ thêm ?

Vũ Dương Huân :  Ví dụ, Lý Thường Kiệt, năm 1077, sau khi đẩy quân Tống qua khỏi sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu), ông lại giảng hòa để đẩy quân Tống về nước mà không tốn hòn tên, mũi đạn nào.

Hay Nguyễn Trãi, khi ông vây thành Đông Quan, trong đó có 10 vạn quân địch, nếu tiến hành bằng biện pháp quân sự sẽ thiệt hại rất lớn. Ông đã viết hàng loạt bức thư chiêu hàng các tướng lĩnh của Vương Thông, buộc Vương Thông phải chấp nhận hội thề ở Bồ Đề, và rút 10 vạn quân về nước.

Kinh nghiệm ngoại giao của Nguyễn Trãi được gọi là ngoại giao tâm công, và được coi là truyền thống ngoại giao quý báu của Việt Nam.

Tinh hoa văn hóa Đông - Tây cũng là một nguồn để tạo nên trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh. Bác đã đi 42 nước trên thế giới, tiếp xúc với rất nhiều dân tộc, nền văn hóa, gặp gỡ từ lãnh đạo cấp cao tới người dân bình thường.  

Bác tận dụng được những cái hay của văn minh văn hóa Đông – Tây. Ví dụ, khi đi Pháp, Bác tranh thủ tinh thần bình đẳng - bác ái của Pháp, sang Trung Quốc, Bác học tư tưởng của Tôn Dật Tiên, sang Nga, Bác học được duy vật biện chứng của học thuyết Marx – Lenin… Tất cả những điều đó đã hình thành tư tưởng "dĩ bất biến ứng vạn biến" của Bác.

"Ngoại giao làm cái gì cũng vì lợi ích dân tộc"

Huỳnh Phan Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm những thành tố nào ?

Vũ Dương Huân :  Tư tưởng, phương pháp, phong cách và nghệ thuật. Trong đó tư tưởng là hạt nhân và tôi sẽ phân tích thành tố này trước.

Tư tưởng lớn nhất, tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về ngoại giao, theo tôi, chính là coi trọng lợi ích quốc gia, dân tộc. Hay nói như trong Văn kiện của Đại hội XI là "lợi ích quốc gia dân tộc vừa là mục tiêu cao nhất vừa là nguyên tắc cao nhất của chính sách đối ngoại của Việt Nam". Năm 1964, trong lần nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ ba, Bác nói rằng "ngoại giao làm cái gì cũng vì lợi ích dân tộc".  

Thứ hai là tư tưởng "độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội", nghĩa là mục tiêu của Bác là ngoại giao phải hướng tới độc lập dân tộc, phải gắn với chủ nghĩa xã hội để đưa dân tộc mình lên cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Thứ ba là tư tưởng hữu nghị, hòa hiếu với các dân tộc, mà trước hết các nước lớn và các nước láng giềng có chung biên giới.

Huỳnh Phan Ví dụ ?

Vũ Dương Huân : Hồ Chí Minh rất coi trọng các nước lớn. Trong giai đoạn thù trong giặc ngoài 1945-1946 chẳng hạn, Việt Nam phải ứng xử với toàn bộ các nước lớn, như Pháp, Trung hoa Dân quốc, Anh, Liên Xô và Mỹ. Bác rất coi trọng những nước dân chủ như Mỹ, còn đối với Tưởng láng giềng Bác lại tranh thủ. Bác muốn Mỹ, Liên Xô và Tưởng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bác hoạt động rất nỗ lực, hăng hái về ngoại giao, chẳng hạn Bác đã 8 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ Truman, lần gửi thư cho Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Stalin, nhưng cả Truman và Stalin đều không trả lời. Và trong giai đoạn 45-50 không có nước lớn nào công nhận Việt Nam, chủ yếu do vấn đề lợi ích.

Mỹ không chấp nhận Hồ Chí Minh, vì thừa biết Bác là người của Quốc tế Cộng sản. Mỹ từ năm 1947 đã không hợp tác với Liên Xô nữa, và bắt đầu "chiến tranh lạnh". Vì chống lại chủ nghĩa xã hội nên không thế chấp nhận Hồ Chí Minh. 

Còn tại sao Liên Xô không trả lời, và không công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Lúc ấy, trọng tâm của Liên Xô là Đông Âu và khôi phục Liên Xô sau chiến tranh, chứ không phải vươn tới những vùng xa xôi như Việt Nam. Hơn nữa, lúc ấy Mỹ đã bắt đầu khởi động "chiến tranh lạnh" và lập khối phòng thủ châu Âu chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Nếu muốn chống lại Mỹ và phương Tây, Liên Xô phải tranh thủ Pháp, nước có quan hệ từ xưa đến nay. Vướng lợi ích chiến lược đó, Liên Xô không thể công nhận Việt Nam dù Pháp là đối thủ của Việt Nam.

Nhưng ngoài lý do chiến lược đó, Liên Xô còn có lo lắng khác về Hồ Chí Minh, khi vẫn suy nghĩ Hồ Chí Minh không hẳn là người cộng sản mà là người dân tộc chủ nghĩa. Năm 1950, khi Chủ tịch Mao Trạch Đông đang thăm Liên Xô để chuẩn bị ký hiệp ước hữu nghị hợp tác, Hồ Chí Minh đã sang Trung Quốc để từ đó qua Liên Xô. Bác đã gọi điện cho Mao Trạch Đông và đề nghị Mao sắp xếp cuộc gặp với Stalin ở Moscow. Stalin đã hỏi ngay Mao rằng liệu Hồ Chí Minh có phải là "Tito phương Đông" không (Nam Tư lúc đó vừa tách khỏi phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Tito được coi là người theo chủ nghĩa dân tộc).

Huỳnh Phan Nghe nói Bác Hồ sang Liên Xô bằng tàu hỏa, và khi đến Moscow đã đề nghị Stalin cấp cho một máy bay, bay một vòng quanh Moscow, và khi đáp xuống sân bay thì được phía Liên Xô đón, đúng không ạ ?

ho2

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Liên Xô năm 1955.
Ảnh tư liệu/ Báo Nghệ An

Vũ Dương Huân : Đúng. Khi Hồ Chí Minh đã sang Moscow, Liên Xô với Trung Quốc chuẩn bị ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác ngày 14/02/1950, và khi ký có mời Hồ Chí Minh tới dự. Hồ Chí Minh nói luôn với Stalin rằng "các đồng chí Liên Xô cũng nên ký với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một hiệp ước tương tự như ký với Trung Quốc".

Stalin đáp : "Sao các đồng chí phương Đông có nhiều cái suy nghĩ hay nhỉ ? Các đồng chí thăm bí mật, bây giờ tự nhiên lại xuất hiện nhân vật Hồ Chí Minh, làm sao chúng tôi giải thích với thế giới đây ?". Bác trả lời : "Có gì đâu, các đồng chí cho một chuyến máy bay bay lên trời xong lại hạ cánh xuống khu vực Moscow là xong thôi". Stalin thấy lý luận của Hồ Chí Minh cũng sắc bén, không nói gì được nữa.

Thậm chí Stalin đã công nhận Việt Nam ngày 30/01/1950, nhưng đề nghị rằng "các đồng chí đừng thiết lập sứ quán sớm, vì nếu vậy, đại sứ Việt Nam sẽ kéo cờ chạy khắp Moscow, và đón tiếp các đoàn ngoại giao, việc đó sẽ kẹt đấy". Việt Nam đến năm 1952 mới mở sứ quán là vì lý do đó.

Với các nước láng giềng có chung đường biên giới, Bác cũng rất coi trọng họ. Bởi họ hàng ngày sống với ta và có nhiều vấn đề nhất, hay dở cũng liên quan tới láng giềng, ổn định hay không cũng liên quan tới láng giềng. Lào và Campuchia rất được Bác coi trọng.

"Dĩ bất biến ứng vạn biến"

Huỳnh Phan Về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, ông có thể nói những gì ấn tượng nhất ?

Vũ Dương Huân : Theo tôi nghĩ có 3 khía cạnh nổi bật thuộc phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Một là dự báo và nắm bắt (tranh thủ) thời cơ, hai là ngoại giao tâm công (vừa là tư tưởng vừa là phương pháp), và ba là "dĩ bất biến ứng vạn biến".

Ví dụ, Bác dự đoán Chiến tranh Thế giới thứ hai sẽ kết thúc sớm, và đó chính là thời cơ chúng ta giành được độc lập. Chính vì vậy, dù đang nằm ốm ở Nà Lừa, Bác đã chỉ đạo Đại tướng Võ Nguyên Giáp với câu nói nổi tiếng "dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập tự do".

Hay Bác cũng linh hoạt, uyển chuyển trong tên gọi. Ví dụ ở trên Việt Bắc thành lập Ủy ban Giải phóng, nhưng về tới Hà Nội thì chuyển ngay thành Chính phủ Lâm thời. Bởi chính phủ mới có ý nghĩa chính thức, còn ủy ban chưa thể hiện được thể chế nhà nước. Lập xong chính phủ rồi, nhưng chính phủ đó phải đại diện cho rộng rãi các tầng lớp nhân dân và xu hướng chính trị, nên Bác cho rút các bộ trưởng cộng sản ra và để cho các thành phần khác tham gia.

Hay thấy rằng chính phủ cần hợp hiến, hợp pháp trong bối cảnh thù trong giặc ngoài, Bác cho tổ chức tổng tuyển cử để bầu quốc hội hợp hiến. Bước tiếp theo là soạn Hiến pháp, cơ sở để hình thành thể chế dân chủ, vì có dân chủ Việt Nam mới nói chuyện được với nước ngoài, mới có thể được các nước công nhận.

Tất cả các thời cơ đều được Bác tính đến.

Về ngoại giao tâm công, ví dụ trong chuyến đi Pháp năm 1946, Bác đã gặp hàng chục tướng Pháp và các nhà hoạch định chính sách của họ để giải thích cho họ hiểu hơn về Việt Nam, góp phần xây dựng hòa hiếu giữa hai nước. Mặc dù chiến tranh vẫn xảy ra vào cuối năm, nhưng Bác đã giảm nhẹ được tính khốc liệt của nó, làm chia rẽ trong nội bộ nước Pháp.

Thời chống Mỹ cứu nước cũng thế, Bác kêu gọi chống những kẻ cầm quyền hiếu chiến ở Mỹ, chứ không chống nhân dân Mỹ. Điều này đã giúp Việt Nam hình thành được mặt trận nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam – một hiện tượng độc nhất vô nhị trên thế giới.

Phương pháp thứ ba của ngoại giao Hồ Chí Minh là "dĩ bất biến ứng vạn biến", nghĩa là dùng những cái không thay đổi để ứng xử những cái thay đổi. Cái không thay đổi là mục tiêu của chiến lược, bao gồm độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ…, cái thay đổi là các sách lược để đối phó với tình hình luôn thay đổi.  

Phương pháp "dĩ bất biến ứng vạn biến" được thể hiện rõ nhất trong giai đoạn 45-46, khi mà các sự kiện thay đổi hết sức nhanh chóng. Lúc đầu, Hồ Chí Minh hòa với quân Tưởng để tập trung chiến đấu với quân Pháp ở miền Nam. Nhưng 28/2/1946, Pháp với Tưởng thỏa hiệp với nhau sau lưng Việt Nam để chia sẻ lợi ích, nhất là Tưởng nhường Pháp giải giáp quân đội Nhật ở Bắc Đông Dương. Ngày 6/3/1946, Bác cho ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp để đẩy Tưởng ra khỏi Việt Nam.

Nhân nhượng có nguyên tắc

Huỳnh Phan Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh chắc có nhiều đặc sắc, bởi Bác nổi tiếng là người có cách ứng xử linh hoạt, tùy từng hoàn cảnh ?

Vũ Dương Huân : Đúng, người ta nói rất nhiều tới phong cách của ngoại giao Hồ Chí Minh. Ví dụ, phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, tức là không dựa vào ai hết. Đường lối của mình, chính sách của mình, tư duy độc lập sáng tạo, dựa vào tình hình Việt Nam là chính, chứ không nghe theo người khác, nhất là thời kỳ chống Mỹ. 

Chẳng hạn, Liên Xô góp ý với Việt Nam rằng "các đồng chí không thể tiến hành khởi nghĩa vũ trang ngay được, vì một đốm lửa có thể biến thành chiến tranh thế giới". Hay Trung Quốc nói "các đồng chí phải trường kỳ mai phục". Việt Nam không nghe ai cả, Nghị quyết Trung ương 15 đã quyết định tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam, và đã thành công.

Hay Trung Quốc góp ý với Việt Nam rằng "các đồng chí không thể đàm phán với Mỹ sớm thế", nhưng Hội nghị Trung ương 13, tháng 1/1967, đã quyết định Việt Nam vừa đánh vừa đàm phán. Đến năm 1968, khi Việt Nam có bước đầu thành công trong đàm phán với Mỹ, Mao Trạch Đông thừa nhận "các đồng chí giỏi quá, vừa đánh vừa đàm thành công".

Huỳnh Phan Thế còn nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh ?

Vũ Dương Huân : Nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện ở 3 khía cạnh.

Thứ nhất là nghệ thuật "ngũ tri" gồm biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến.

Thứ hai là nhân nhượng có nguyên tắc. Ví dụ, ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 chính là một ví dụ điển hình. 

Lúc đó, Việt Nam đàm phán với Pháp, Pháp đòi đưa Việt Nam trở lại chế độ thuộc địa như ngày xưa, với quyền tự chủ hơi rộng rãi hơn, nhưng Bác dứt khoát không chịu. Bác yêu cầu trở thành một nước độc lập, nhưng nằm trong Liên bang Đông Dương. Pháp cũng không chấp nhận.

Nếu đàm phán không thành công thì khó đuổi quân Tưởng về nước, và Bác đã linh hoạt nghĩ ra từ "quốc gia tự do". Pháp đồng ý Việt Nam là quốc gia tự do, với chính phủ, quân đội và tài chính – những yếu tố chủ chốt của độc lập.

Khía cạnh thứ hai là phải đấu tranh rất gay go trong đàm phán Hiệp định sơ bộ là miền Nam. Pháp coi cho Nam Kỳ là đất của Pháp, vì nhà Nguyễn đã bán cho Pháp, thế nhưng Hồ Chí Minh bảo Nam Bộ là đất của người Việt Nam, là máu thịt của Việt Nam. Hai bên tranh cãi rất căng, tưởng như đổ vỡ hiệp định. Nhưng Bác vận dụng văn hóa của sự bình đẳng của Pháp, và đề nghị cho trưng cầu dân ý rồi mới quyết định. Mà trưng cầu dân ý thì Việt Nam chắc chắn thắng rồi. Cuối cùng Pháp cũng chấp nhận.

Khía cạnh thứ ba là khi đàm phán ký kết hiệp định 6/3, Hồ Chí Minh cũng có nhân nhượng có nguyên tắc. Đó là Bác chấp nhận 15.000 quân Pháp ra Bắc thay quân Tưởng để giải giáp quân đội Nhật. Nhưng Bác đưa ra điều kiện là Pháp phải giải trừ mỗi năm 3.000 quân, vậy 5 năm là hết, nghĩa là đặt ra một thời hạn.

Ngoài ra, trong nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là cách ứng xử khéo léo, vừa được việc của mình mà không mất lòng ai. Ví dụ, từ năm 1963 Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn rất mạnh, vì Trung Quốc coi Liên Xô là xét lại. Trung Quốc gửi thư cho tất cả các đảng cộng sản, đề nghị không gửi thư chúc mừng nhân ngày sinh của Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev. Việt Nam mà không gửi thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 70 của Khrushchev thì mất lòng Liên Xô, mà gửi thư chúc mừng thì chọc giận Trung Quốc.

Cả Bộ ngoại giao Việt Nam nháo nhào lên, không biết xử lý ra sao, nhưng Hồ Chí Minh bảo "việc này cứ để Bác lo". Đến sát ngày sinh của Khrushchev, Bác cho mời Đại sứ Liên Xô Sherbakov đến ăn cơm ở Phủ Chủ tịch. Trong lần nâng cốc đầu tiên, Bác chúc mừng "đồng chí Khrushchev, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, tròn 70 tuổi".

Đại sứ báo cáo về nước ngay, vài ngày sau Khrushchev gửi điện cảm ơn. Không cần phải đăng lời chúc mừng trên báo Nhân dân, như thông lệ, Bác vẫn giữ được quan hệ hữu nghị với Liên Xô, mà không làm mất lòng Trung Quốc.

Huỳnh Phan Những chuyện như thế này kể biết bao giờ hết. Xin cảm ơn Giáo sư và xin phép chuyển sang đề tài khác.

****************

Phần 2 : "Các đồng chí cứ làm cách mạng văn hóa đi, tôi làm cách mạng vũ hóa"

TuanVietnam, VietnamNet, 20/05/2018

Ông Lê Duẩn là người có ý kiến độc lập, tự chủ, ông nhận thức ra được sự phụ thuộc vào nước bạn có hại thế nào, và cố gắng tách ra. Nhưng, sau này, ông lại quá cực đoan, chống Trung Quốc mạnh quá, và ngả hẳn sang Liên Xô.

Huỳnh Phan Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vai trò của ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào để tận dụng được sự giúp đỡ to lớn của cả Liên Xô và Trung Quốc, mặc dù hai nước đang có mâu thuẫn về đường lối từ năm 1963 và đỉnh điểm là xung đột quân sự ở biên giới năm 1969 ?

ho3

Lễ ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Từ trái qua phải: Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám, Sainteny, Pignon, Caput. Ảnh tư liệu : Nguyễn Bá Khoản/ VOV

Vũ Dương Huân :Ví dụ, khi Việt Nam bắt đầu đàm phán với Mỹ năm 67-68, Trung Quốc không hài lòng. Việc ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam mình có giảm, và gần như không có tiếp xúc giữa lãnh đạo hai nước. Việt Nam không có cơ hội để giải thích tại sao phải làm như vậy.

Bác Hồ mới cử đoàn của Trung ương Cục miền Nam, dẫn đầu là ông Bí thư Nguyễn Văn Linh, sang Trung Quốc để báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc về tình hình kháng chiến của nhân dân miền Nam. Trung Quốc đành phải tiếp vì họ giương cao ngọn cờ chống Mỹ. Nhưng Bác Hồ rất khôn khéo, ông đã gài Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào đoàn, và ông Đồng có cơ hội giải thích, trao đổi với họ về việc tại sao Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ.

Trung Quốc luôn đòi hỏi Việt Nam ủng hộ đường lối cách mạng của Trung Quốc, nhất là Cách mạng Văn hóa, và đề nghị Việt Nam tiếp bước làm cách mạng văn hóa. Bác Hồ, bảo rằng "các đồng chí cứ làm cách mạng văn hóa đi, tôi làm cách mạng vũ hóa", cho nên Trung Quốc đành chịu.

Huỳnh Phan Trong quan hệ với Trung Quốc, Bác Hồ đã làm gì để dần thoát khỏi sức ép Trung Quốc, như đối với đàm phán và ký Hiệp định Geneva, phân chia tại vĩ tuyến 17, hay cải cách ruộng đất ?

Vũ Dương Huân :Khi mâu thuẫn với Liên Xô, Trung Quốc luôn luôn đòi hỏi Việt Nam phải ủng hộ các quan điểm, đường lối của Trung Quốc. Nghị quyết Trung ương 9 tháng 12/1963 chống xét lại, nhưng thực chất Việt Nam theo quan điểm Trung Quốc nhiều hơn. Việt Nam theo quan điểm của Trung Quốc, từ áp dụng cải cách ruộng đất đến đàm phán và ký kết hiệp định Geneva. Trong quá trình đàm phán, Việt Nam bị Trung Quốc, và phần nào đó là Liên Xô, lèo lái, dẫn đến những hạn chế không nhỏ cho kết quả hiệp định. 

Từ Đại hội Đảng II (1951), Đảng Cộng sản đưa tư tưởng của Mao Trạch Đông làm tư tưởng chủ đạo. Về phía Bác Hồ, người chỉ nói đạo đức thôi.

Tháng 7/1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Liễu Châu (Nam Ninh, Trung Quốc), có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tháp tòng. Ông Chu Ân Lai hỏi Tướng Giáp rằng, nếu đánh tiếp thì bao lâu thống nhất được đất nước, Tướng Giáp nói rằng "cần 3 năm chúng tôi sẽ giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước".

Nhưng tại hội nghị Geneva, Việt Nam không hiểu tình hình nên đành nghe theo Trung Quốc và Liên Xô. Liên Xô muốn có hòa dịu trên thế giới, còn Trung Quốc, sau Chiến tranh Triều Tiên (đình chiến năm 1953) muốn thoát khỏi sự bao vây của Mỹ (Nam Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương) và đẩy Mỹ ra xa hơn. Họ muốn miền Bắc Việt Nam trở thành khu đệm. Ý đồ sâu xa của Trung Quốc, sau này mới được làm rõ, là chia Đông Dương thành những nước nhỏ để trị (Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia).

Huỳnh Phan Ông Việt Phương, nguyên thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong buổi họp báo giới thiệu sách của các nhà ngoại giao, đã tiết lộ rằng khi đàm phán hiệp định Geneva (1954), Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là Phạm Văn Đồng đã mắc một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng là nhờ Trung Quốc chuyển các bức điện về nước, và Trung Quốc biết hết các sách lược của Việt Nam và sử dụng chúng để ép Việt Nam ký hiệp định, theo lợi ích của Trung Quốc. Ông có nghe chuyện đó không ?

Vũ Dương Huân :Một như anh vừa nói, vì đoàn đàm phám không mang theo điện đài, hai là trong đàm phán lại sử dụng phiên dịch Trung Quốc tên là Văn Trang, trước đây đã phiên dịch cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi tiếp xúc với cố vấn Trung Quốc. Đoàn đàm phán nói gì, viết gì, báo cáo bất cứ điều gì về Trung ương, và xin chỉ thị, Trung Quốc biết trước và tìm cách ngăn lại. Ông Phạm Văn Đồng sau này cũng thú nhận là Việt Nam quá tin Trung Quốc.

Tại hội nghị ấy, ông Đồng chỉ chủ yếu tiếp xúc với đoàn Liên Xô và đoàn Trung Quốc, trong khi Anh là đồng chủ tịch, quan điểm lại khác với Pháp, đoàn ta lại không tranh thủ, không hề tiếp xúc với phái đoàn Anh. Đó không phải là trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, đoàn đàm phán Việt Nam, có hơn 30 người, mà không có một chuyên gia nghiên cứu phục vụ đoàn. Đến khi bị hù dọa rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, chúng ta đã buộc phải nghe theo, vì thiếu thông tin. Và kết quả là chúng ta đã phải bỏ ra gấp 7 lần thời gian, với bao nhiêu xương máu, để thực hiện cái điều mà Tướng Giáp nói với ông Chu Ân Lai.

Huỳnh Phan Theo ông, nếu Việt Nam tiếp tục cuộc chiến, liệu Mỹ có nhảy vào can thiệp không?

Vũ Dương Huân :Không ! Lúc đó chúng ta không có nhà nghiên cứu nên không biết, nhưng sau này chúng tôi mới nghiên cứu và kết luận rằng lúc đó Mỹ không nhảy vào.

Lý do thứ nhất là vì vừa kết thúc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), trong đó Mỹ thiệt hại mấy trăm nghìn quân đã ảnh hưởng rất nhiều tới dư luận và Quốc hội Mỹ, và Tổng thống Eisenhower đã vận động Quốc hội mấy lần về việc đem quân ra nước ngoài, nhưng Quốc hội bác hết. Lý do thứ hai là sau đó Chính phủ Eisenhower mới ra một chính sách quốc phòng mới là New Look, chỉ cho phép quân Mỹ sử dụng không quân và hải quân, chứ không được đưa lục quân, ra nước ngoài. Như vậy, rõ ràng Mỹ đã không có chính sách, và ý đồ can thiệp vào Đông Dương.

Nếu cứ theo ý tướng Giáp đánh tiếp, chỉ 3 năm sau chúng ta đã giải phóng được đất nước. Khi đó, Mỹ có thay đổi chính sách cũng không kịp.

Chúng ta sợ lời đe dọa của bạn cũng do đánh giá sai tình hình. Hội nghị Trung ương 6 (15/7/1954) đã đánh giá lực lượng của ta và Pháp tương đương nhau, nên đánh nhau sẽ rất lâu, và quyết định đường lối đàm phán gửi cho Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng. Chúng ta quên mất rằng chúng ta vừa chiến thắng ở Điện Biên Phủ nên thế của ta vượt trội so với Pháp. Tình báo của ta đã phát hiện ra việc Pháp điện cho Bộ Chỉ huy ở Hà Nội nói rằng "đừng đề Hà Nội trở thành Điện Biên Phủ thứ hai". Sau này, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng thừa nhận bằng miệng rằng ép Việt Nam ký hiệp định chia cắt đất nước là sai.

Tướng Giáp là tướng thực địa ở Điện Biên Phủ, nên ông nói 3 năm là hoàn toàn có lý. Có điều Tướng Giáp đã không thuyết phục được Bác Hồ, và qua đó là Trung Quốc, Liên Xô.

Huỳnh Phan Sau Hiệp định Geneva và cải cách ruộng đất, khi chúng ta nghe theo Trung Quốc, làm sao Việt Nam lấy lại thế bình đẳng tương đối với Trung Quốc ?

Vũ Dương Huân :Việt Nam, từ Đại hội II chấp nhận nhiều quan điểm của Trung Quốc, nhưng dần dần Việt Nam cũng nhận thức được rằng những thứ đó là không đúng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chúng ta cũng rút kinh nghiệm từ Geneva, và rất thành công. Kinh nghiệm Geneva đã giúp chúng ta tiến hành chiến tranh thành công, nếu không rút kinh nghiệm từ đàm phán ở Geneva, chúng ta không thể đàm phán hiệp định Paris thành công được. Thứ nhất, chúng ta rút kinh nghiệm ở Paris là đàm phán trực tiếp, chứ không đa phương (9 bên) như ở Geneva, thứ hai, chúng ta tự quyết định đường lối, chính sách, không dựa vào ai cả.

Huỳnh Phan Có phải trong nội bộ Đảng ta, Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành trung ương Lê Duẩn có vai trò quan trọng trong việc lấy lại tính độc lập tự chủ trong các quyết định của Đảng ?

Vũ Dương Huân :Ông Lê Duẩn là người có ý kiến độc lập, tự chủ, ông nhận thức ra được sự phụ thuộc vào Trung Quốc có hại thế nào, và cố gắng tách ra khỏi Trung Quốc. Nhưng, sau này, ông lại quá cực đoan, chống Trung Quốc mạnh quá, và ngả hẳn sang Liên Xô.

Trong thời kỳ chống Mỹ, sau khi Mao Trạch Đông gặp Tổng thống Nixon ở Thượng Hải, Thủ tướng Chu Ân Lai có sang Việt Nam để giải thích rằng Trung Quốc làm thế là vì Trung Quốc muốn thoát khỏi bị cô lập (kẻ thù của cả Liên Xô và Mỹ), và đưa Trung Quốc phát triển lên, chứ không phải phản bội lại Việt Nam. Ông Lê Duẩn không chấp nhận lời giải thích đó, và khi tiễn ông Chu Ân Lai về nước, ông không cho xe ra đưa ông Chu Ân Lai ra máy bay, buộc ông Chu Ân Lai và người phiên dịch phải đi bộ từ sảnh chờ ra cầu thang máy bay.

Huỳnh Phan Tại sao khi Việt Nam đã dần lấy lại thế độc lập tự chủ mà Trung Quốc vẫn đổ tiền đồ của cho chúng ta ?

Vũ Dương Huân :Đó cũng do Việt Nam có chính sách ngoại giao khôn khéo. Trung Quốc cũng đang chống Mỹ, và Trung Quốc muốn dùng ngọn cờ của Việt Nam để nâng vị thế của mình, và tranh giành vị trí bá chủ của Liên Xô trong đối đầu với Mỹ. Lợi ích trùng hợp thì họ phải giúp mình thôi.

Huỳnh Phan Trong cuộc chiến ở Gạc Ma tại sao công binh của mình không được trang bị vũ khí, ngoài mấy khẩu AK tầm thường ? Và được lệnh không nổ súng trước ?

Vũ Dương Huân :Sai lầm của ta là không chuẩn bị các phương án. Một là phương án Trung Quốc ứng xử hòa bình, Việt Nam chỉ mang tàu công binh ra thôi, phương án hai là Trung Quốc ứng xử bằng vũ trang thì mình cũng phải chuẩn bị lực lượng vũ trang, Trung Quốc đưa pháo thì mình cũng phải đưa pháo ra chứ.

Bởi vì ta lúc đó chỉ nhăm nhăm muốn tạo môi trường hòa bình để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc ngay trong nhiệm kỳ của mình (ông Nguyễn Văn Linh hứa chỉ làm Tổng bí thư một nhiệm kỳ). Trang bị của công binh ở Gạc Ma mới như vậy.

Hôm 7/5/1988, sau khi Trung Quốc chiếm Gạc Ma, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh ra Trường Sa, phát biểu trước chiến sĩ hải quân rằng "tàu lạ" đã tấn công và Việt Nam mất 64 chiến sĩ.

Hôm 14/3/1988, Trung Quốc chiếm Gạc Ma, thì 16/3 Bộ Chính trị họp (vì 15/3 bận đám tang cố Thủ tướng Phạm Hùng). Vào cuộc họp Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã hỏi luôn : "Ai ra lệnh cho bộ đội không được bắn ?". Đại tướng Lê Đức Anh phản bác đầu tiên, rồi đến ông Nguyễn Văn Linh, ông Đào Duy Tùng cũng đế vào. Ý kiến của ông Nguyễn Cơ Thạch hóa ra lại là ý kiến thiểu số, bị gạt ra ngoài.

Huỳnh Phan Vai trò của Bác Hồ trong đàm phán Paris là gì ?

Vũ Dương Huân :Ý kiến Bác Hồ chỉ là những tư tưởng lớn thôi, nhưng nó được thể hiện rõ ràng trong quá trình đám phán. Một là phải kiên trì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, hai là những quyền dân tộc cơ bản. Sau này, Bộ Chính trị đã nêu ra 4 điều kiện cơ bản mà đàm phán Paris phải đảm bảo. Hay chỉ đạo của Bác Hồ để giành thắng lợi từng bước : đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Bác Hồ nói "mình phải biết thắng đế quốc to như Mỹ không theo kiểu Liên Xô vật ngửa phát xít Đức đươc, mà phải đánh cho Mỹ rút". Hay Bác Hồ nói "trải thảm đỏ cho Mỹ rút", Mỹ rút 500 ngàn quân là cán cân lực lượng đã thay đổi, và chúng ta sẽ thắng.

Huỳnh Phan Bốn chỉ đạo của Bộ Chính trị với đoàn đàm phán là gì ?

Vũ Dương Huân :Một là Mỹ tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, hai là Mỹ chấm dứt can thiệp vào Việt Nam, ba là Mỹ hàn gắn vết thương chiến tranh, và bốn là mình giữ được lực lượng ở miền Nam, điều quan trọng nhất.  

Huỳnh Phan Biểu hiện đầu tiên của quan điểm vừa đánh vừa đàm là gì ?

Vũ Dương Huân :Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trong khi tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Mông Cổ, ông nâng ly lên và nói rằng "nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, tôi sẽ nói chuyện với Mỹ".

Huỳnh Phan Vai trò ngoại giao của Hồ Chí Minh trong việc thoát khỏi bao vây cấm vận chính trị và bao vây về chính trị và cấm vận về kinh tế sau khi Việt Nam đưa quân vào Cămpuchia như thế nào ?

Vũ Dương Huân :Tư tưởng của Bác Hồ là ngoại giao phải rất năng động, phải kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, đoàn kết quốc tế và hội nhập quốc tế.

Ngoại giao phải năng động tức là phải kiên trì nguyên tắc mềm dẻo, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè, tìm kiếm hỗ trợ quốc tế. Việt Nam vận dụng tốt những nguyên tắc này nên mới phá vây, phá cấm vận, bằng ngoại giao. Đây là thời kỳ ngoại giao vô cùng năng động, so với thời kỳ trước.

Huỳnh Phan Ông nói về thế phá bao vây, từ việc đầu tiên là bắt tay với các nước ASEAN, đúng không?

Vũ Dương Huân :Đầu tiên là tranh thủ các nước ASEAN, xong lại giải quyết vấn đề Campuchia, rồi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Cái chốt ở đây là phải giải quyết vấn đề Campuchia, bởi vì nó mà Việt Nam bị bao vây, cấm vận, bị cô lập hóa. Mình vực dậy lực lượng Campuchia, họ cứng cáp lên thì Việt Nam rút quân về, rút toàn bộ vào tháng 9/1989.

Điều thứ hai Việt Nam phải giải quyết vấn đề với Trung Quốc, vì Trung Quốc vừa là nước lớn, nước láng giềng, vừa là nước có vai trò quan trọng trong vấn đề Cămpuchia, và sau đó thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

Với ASEAN, Việt Nam có làm trước đó có tiến hành JIM1 và JIM2, vừa để tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, nhằm mục tiêu hội nhập ASEAN, vừa để giải quyết vấn đề Campuchia.  

Huỳnh Phan Trong các bộ trưởng ngoại giao, theo ông người nào thấm nhuần quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh nhất, nói cách khác là thành công nhất ?

Vũ Dương Huân :Theo tôi có 2 bộ trưởng ngoại giao thành công nhất, thể hiện quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh nhiều và rõ nhất, đó là ông Nguyễn Duy Trinh và ông Nguyễn Cơ Thạch.

Ông Nguyễn Duy Trinh là người có đóng góp tốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông chỉ đạo đàm phán Paris, ông chỉ đạo đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi tranh thủ dư luận, tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, hay nghiên cứu chiến lược, sách lược… đều hết sức thành công, hầu như không có thiếu sót.

Nhưng trong giai đoạn đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ (1977-1978) ông không thành công, khi không tham mưu được cho lãnh đạo cấp cao đừng đền bù chiến tranh là điều kiện tiên quyết, vì chuyện đền bù do Quốc hội Mỹ quyết định, chứ không phải Tổng thống. Hay từ chối bình thường hóa quan hệ với ASEAN. Hay trong Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 (27/07/1978) đã đánh giá tình hình thế giới sai không chuẩn xác. Việt Nam hành động sai, bị Trung Quốc đánh và bị bao vây cấm vận suốt hơn một thập kỷ.

Có thể nhắc đến vai trò của Tổng bí thư Lê Duẩn, hay ông Lê Đức Thọ trong chuyện này, nhưng người phụ trách đối ngoại Nguyễn Duy Trinh vẫn phải chịu trách nhiệm nào đó. Tất nhiên, tôi chưa kết luận vì không tiếp cận được biên bản ghi quá trình thảo luận để ra được nghị quyết ấy.

Ông Nguyễn Cơ Thạch là người có tư tưởng rất sáng, đánh giá tình hình thế giới rất chuẩn xác, nghiên cứu rất sâu, đánh giá rất là chuẩn xác, mà hành động rất năng động. Ví dụ, cái thời Việt Nam bị khốn đốn về vấn đề Campuchia là thời ngoại giao năng động nhất, luôn có những hoạt động ngoại giao lớn, khi thì chơi với anh này khi thì tập hợp với anh kia, để chống trả anh khác.

Người thấm nhuần nhất tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ông Nguyễn Cơ Thạch, người bảo vệ tốt nhất lợi ích của Việt Nam. 

Huỳnh Phan Xin cám ơn ông Vũ Dương Huân đã dành thời gian cho Tuần Việt Nam.

Huỳnh Phan (thực hiện)

Published in Diễn đàn