Bài 1
Đã cải tiến thì đừng ‘lửng lơ’
Để có các cuốn sách giáo khoa ngày một tốt, điều quan trọng nhất là phải xác lập cho được một cơ chế biên soạn dân chủ, khoa học.
Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ tư tính từ 1945 đến nay, thường được gọi là cải cách giáo dục toàn diện và triệt để, toàn bộ sách giáo khoa ở trường phổ thông sẽ được biên soạn lại. Theo dự kiến, những cuốn sách mới đầu tiên sẽ phải được đưa vào sử dụng trong năm học 2018-2019.
Như vậy, về mặt lý thuyết, việc biên soạn sách giáo khoa mới đang được xúc tiến mạnh ở những giai đoạn cuối cùng.
Không có những cuốn sách giáo khoa hoàn hảo
Quan sát dư luận trên báo chí và mạng xã hội sẽ thấy những tiếng nói kì vọng vào sách giáo khoa mới không phải là ít. Điều đó rất dễ hiểu, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam khi sách giáo khoa thường được chỉ ra như là một trong những nguyên nhân làm trì trệ giáo dục phổ thông.
Tuy nhiên, cho dù cải cách giáo dục được tiến hành tốt thế nào cũng sẽ không bao giờ có một bộ sách giáo khoa hoàn hảo. Ngay cả ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, sách giáo khoa vẫn bị chính các chuyên gia giáo dục ở đó chỉ trích. Đơn giản vì sách giáo khoa suy cho đến cùng chỉ là "phương án" giáo dục của một nhóm các tác giả nhất định.
Một khi đã là sách giáo khoa, cuốn sách sẽ có những nhược điểm cố hữu, như phải viết dựa trên chương trình định sẵn và tuân theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để có thể vượt qua quy trình thẩm định. Điều này vừa giúp đảm bảo tiêu chuẩn vừa làm hạn chế tầm nhìn và cách tiếp cận phong phú. Do một số yếu tố, dung lượng sách giáo khoa cũng sẽ phải tuân thủ trong một giới hạn.
Để đảm bảo tính hệ thống tuân thủ theo chương trình, sách giáo khoa sẽ được viết theo kiểu "trình bày la liệt". Đây là một trong những yếu tố khiến cho rất nhiều người chỉ trích sách giáo khoa lịch sử của Việt Nam kêu lên rằng "tại sao sách lại viết nhiều sự kiện, số liệu, ngày tháng như thế, làm sao học sinh nhớ và thuộc được ?".
Thực ra, nếu xét về số liệu và dữ kiện thì sách giáo khoa ở Việt Nam rất sơ sài. Những ai từng tiếp xúc với sách giáo khoa của các nước có nền giáo dục tiên tiến hơn đều rõ trong sách giáo khoa của họ có vô vàn các loại dữ liệu được tổng hợp lại dưới dạng biểu đồ, bảng biểu, số liệu thống kê, hình ảnh, bản đồ, nhưng được đưa vào và bố trí để học sinh phân tích, nghiên cứu chứ không phải để nhớ hay thuộc.
Những hạn chế trên dẫn tới một đặc điểm là sách giáo khoa, nhất là của các môn xã hội thường chỉ trình bày được "kết quả" mà không trình bày được quá trình tìm ra kết quả : phương pháp nghiên cứu nào, xuất phát từ giả thiết gì, nghiên cứu thế nào... ? Cách trình bày này làm cho học sinh cảm thấy các môn khoa học, chẳng hạn như khoa học lịch sử, thiếu sức hấp dẫn.
222222222222222222222222
Ảnh minh họa. Nguồn : Tuổi trẻ
Sự lạc hậu của sách giáo khoa thực ra là nằm ở tư duy làm sách mà dễ thấy nhất là việc xác định vai trò của sách cũng như kĩ thuật tổ chức, cơ cấu các dữ kiện trong sách một cách có chủ đích nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục.
Vì vậy, để có các cuốn sách giáo khoa ngày một tốt, điều quan trọng nhất là phải xác lập cho được một cơ chế biên soạn dân chủ, khoa học, đảm bảo cho tất cả những ai là công dân Việt Nam có mối quan tâm và tài năng đều có thể tham gia và được cạnh tranh bình đẳng. Nếu cơ chế này được xác lập và bảo họ bằng pháp luật, các cuốn sách giáo khoa tốt sẽ tồn tại, còn kém chất lượng sẽ bị loại bỏ.
Đừng thay đổi lửng lơ
Cơ chế biên soạn, phát hành và tuyển chọn sách giáo khoa có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và quan niệm về sách giáo khoa. Về đại thể, trên thế giới hiện nay có 3 hình thức chủ yếu : "kiểm định", "quốc định" và "tự do" (thường tồn tại ở các nước Bắc Âu).
Trong hình thức kiểm định (như tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan), nhà nước sẽ chấp nhận sự tham gia của nhiều nhóm tác giả và nhà xuất bản vào việc biên soạn, phát hành và nhường quyền tuyển chọn sách giáo khoa cho các trường hay địa phương. Cơ chế quốc định (một chương trình một sách giáo khoa) chỉ thừa nhận duy nhất một bộ sách do bộ giáo dục biên soạn và phát hành trên toàn quốc.
Cơ chế kiểm định sách giáo khoa không hoàn hảo, vì trên thực tế chẳng hạn Nhật Bản khi thực hiện cũng đã gặp nhiều vấn đề. Tuy nhiên, nó vẫn là cơ chế tiến bộ hơn nhiều so với cơ chế quốc định.
Việt Nam trong cuộc cải cách giáo dục cơ bản, toàn diện lần này cũng sẽ thực hiện cơ chế "một chương trình - nhiều sách giáo khoa", đó là cách diễn đạt khác của cơ chế "sách giáo khoa kiểm định". Tuy nhiên cho đến thời điểm này, cách làm của Việt Nam cho thấy có sự pha trộn giữa hai cơ chế, khi bộ GD&ĐT vẫn tham gia cả vào việc biên soạn, lựa chọn tác giả sách giáo khoa.
Ở Nhật Bản sau khi cơ chế kiểm định sách giáo khoa có hiệu lực từ năm 1947, Bộ giáo dục Nhật Bản vẫn tiếp tục biên soạn và phát hành nhiều cuốn sách giáo khoa khác cho bậc học phổ thông. Đó là bước đệm trong thời kì chuyển giao cơ chế và đã kết thúc sau một thời gian ngắn.
Ở Việt Nam, cần phải có lộ trình minh bạch, công khai về giai đoạn bước đệm này, bởi nếu kéo dài nó sẽ làm cho cơ chế "một chương trình, nhiều sách giáo khoa" chỉ tồn tại được trên danh nghĩa.
Khi thực hiện hoàn chỉnh cơ chế này, bộ giáo dục chỉ làm hai việc chủ yếu là ban hành, sửa đổi quy chế và thẩm định sách giáo khoa, rút khỏi việc trực tiếp biên soạn sách giáo khoa và tài trợ cho các nhóm biên soạn hay các bản thảo được đánh giá cao. Kinh phí làm sách giáo khoa sẽ do cơ chế thị trường đảm nhận, nhà xuất bản nào làm sách giáo khoa tốt sẽ giành được thị phần lớn và ngược lại.
Nguyễn Quốc Vương
*******************
Bài 2
Dạy kiểu 'rót nước' làm thui chột tư duy phản biện
Sách giáo khoa tốt phải là cuốn sách giúp cho cả giáo viên và học sinh cảm thấy tự do, thoải mái trong quá trình truy tìm chân lý.
"Tín ngưỡng sách giáo khoa"
Trong cải cách giáo dục, cho dù Sách giáo khoa (sách giáo khoa) có tốt đến mấy đi chăng nữa mà nó không được sử dụng hiệu quả ở trường phổ thông thì kết quả cải cách cũng sẽ không mấy khả quan. Trên thực tế, do cơ chế một chương trình - một sách giáo khoa tồn tại quá lâu cùng với tư duy coi trọng truyền đạt tri thức và thi cử, "tín ngưỡng sách giáo khoa" ở Việt Nam rất thịnh hành. Xu hướng coi những gì viết trong sách giáo khoa hoàn toàn đúng và là chân lý tuyệt đối rất mạnh.
Kết quả là cả giáo viên và học sinh có xu hướng coi nội dung của sách giáo khoa trùng khớp hoàn toàn với nội dung giáo dục. Vì vậy, việc giảng dạy của giáo viên và việc học của học sinh trên thực tế biến thành việc truyền đạt và lĩnh hội nội dung sách giáo khoa.
Thế nên, trong các kì thi giáo viên giỏi, thật hài hước là có rất nhiều giáo viên được đánh giá là "giỏi" thực chất chỉ là người diễn giải và truyền đạt nội dung sách giáo khoa logic hơn, dễ hiểu hơn hay biết cách minh họa nội dung đó sinh động hơn các đồng nghiệp khác.
Đó là lối dạy học kiểu minh họa - thứ làm thui chột tư duy phản biện và sáng tạo của học sinh. Các sinh viên đi thực tập cũng thường bị các giáo viên hướng dẫn và người chấm yêu cầu phải "bám sát sách giáo khoa". sách giáo khoa kết cục đã trở thành cái "phao" cho những người bơ vơ về lý luận giáo dục.
Mặt khác ở Việt Nam do sự lạc hậu về lý luận giáo dục, các giáo viên có xu hướng giảng dạy truyền đạt trực tiếp các nội dung kiến thức hay chân lý vào học sinh theo kiểu "rót nước".
Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, người giáo viên để làm cho học sinh lĩnh hội một chân lý, một nội dung sẽ phải dùng "giáo tài" (hình ảnh, số liệu thống kê, kết quả điều tra thự tế, tư liệu…) trong tư cách "chìa khóa" là một mảnh của nội dung giáo dục, để chuyển hóa nội dung đó thành nhận thức của học sinh thông qua thí nghiệm, trải nghiệm và các hoạt động trí tuệ tương tác khác.
Việc nghiên cứu tìm ra các "giáo tài" đó và sử dụng chúng trong thực tế tạo ra các "thực tiễn giáo dục" của giáo viên ở trường học.
Ảnh minh họa. Nguồn : Thanh niên
Mở ra hành trình truy tìm chân lý
Trong lý luận giáo dục hiện đại, sách giáo khoa cho dù là thứ được biên soạn và xét duyệt căn cứ vào chương trình đi nữa, cũng chỉ là một tài liệu tham khảo chủ yếu trong việc hướng dẫn học sinh học tập. Nội dung của sách giáo khoa không thể là toàn bộ nội dung giáo dục.
Người quyết định nội dung giáo dục cuối cùng phải là người giáo viên, người am hiểu cả chương trình, sách giáo khoa lẫn tình hình thực tế của trường học, địa phương và đối tượng học sinh. Nội dung giáo dục phải được giáo viên tự tay xây dựng thông qua các điều tra, nghiên cứu cả tài liệu và thực tiễn của bản thân.
Trong các môn xã hội, những môn có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống và trải nghiệm của học sinh cũng như xã hội ở địa phương, điều này càng có ý nghĩa sống còn. Nội dung giáo dục đó phải được "chuyển hóa" thành nhận thức của học sinh thông qua sự gia công sáng tạo của giáo viên. Ở Nhật Bản từ năm 1947 trong cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến, lý luận này đã được Bộ giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh trong các tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên và phổ biến rộng rãi, duy trì đến tận ngày nay.
Khi tuân thủ lý luận này, chuyện sách giáo khoa dày hay mỏng sẽ không còn quan trọng nữa.
Chẳng hạn trong môn lịch sử, sách giáo khoa theo quan điểm hiện đại sẽ không phải là một hệ thống các bài viết theo lối trần thuật "khách quan" và "vô nhân xưng" của các tác giả theo trật tự thời gian hay chủ đề nữa. Nó sẽ là một tài liệu hướng dẫn học tập ở đó có hướng dẫn về phương pháp học tập, có tập hợp các tư liệu, các câu hỏi gợi mở giúp học sinh khám phá lịch sử, giải mã được quá khứ và tìm ra ý nghĩa của nó trong việc lý giải đời sống xã hội hiện tại bằng các phương pháp của nhà sử học.
Quan trọng nhất ở đó phải có các tư liệu gốc đáng tin cậy và các "khoảng trống lịch sử", các "vấn đề" được cài cắm, bố trí theo ý đồ sư phạm để học sinh được làm "nhà sử học tí hon" khám phá và giải mã lịch sử.
Ý nghĩa thực sự của cơ chế "một chương trình - nhiều sách giáo khoa" suy cho đến cùng là nằm ở chỗ nó giúp "tương đối hóa" chân lý trong sách giáo khoa và khuyến khích, đảm bảo sự tự chủ về nội dung giáo dục của giáo viên.
Tóm lại, trong một cuộc cải cách giáo dục có hệ thống và toàn diện thì việc biên soạn mới chương trình và sách giáo khoa là chuyện đương nhiên. Tuy nhiên, sách giáo khoa chỉ là thứ đi sau trong logic của một cuộc cải cách giáo dục. Thứ cần làm trước đó là phải là làm rõ được hình ảnh xã hội tương lai và hình ảnh con người mơ ước có khả năng kiến tạo và bảo vệ xã hội đó hay nói khác đi và ngắn gọn hơn là xây dựng mà minh định triết lý giáo dục.
Mặt khác, trong khi cải cách sách giáo khoa cũng không được quên việc tạo ra một cơ chế hợp lý để cho các cuốn sách giáo khoa liên tục được cải tiến bằng sự tham gia của những người có năng lực. sách giáo khoa tốt phải là cuốn sách giúp cho cả giáo viên và học sinh cảm thấy tự do, thoải mái trong quá trình truy tìm chân lý, một hành trình vừa gian khổ vừa hấp dẫn khôn cùng.
Nguyễn Quốc Vương
Nguồn : VietnamNet, 21/04/2017