Virus corona đã gây thiệt hại nặng nề cho nạn nhân ở Trung Quốc và các nơi khác. Nhưng dịch bệnh cũng đã bộc lộ những nhược điểm của việc dựa quá nhiều vào Trung Quốc để phát triển của các quốc gia láng giềng.
Số ca mắc corona được xác nhận trên toàn thế giới tiếp tục tăng.
Để hạn chế sự lây lan nhanh chóng của virus, chính quyền Trung Quốc đã phong toả tỉnh Hồ Bắc, nơi dịch bệnh lần đầu tiên được báo cáo và hạn chế hoạt động kinh tế ở các khu vực khác của Trung Quốc. Một số quốc gia khác cũng hạn chế du lịch đến Trung Quốc đại lục, bao gồm Úc, Hoa Kỳ, Philippines và Việt Nam.
Các biện pháp kiểm dịch có thể giúp ngăn chặn virus lây lan nhanh hơn, nhưng chúng cũng cản trở hoạt động kinh tế. Phản ứng dây chuyền của virus đã cản trở nền kinh tế của các nước láng giềng, đặc biệt là ở Đông Nam Á, theo ba hướng chính : giảm số lượng khách du lịch Trung Quốc, làm gián đoạn chuỗi cung ứng tập trung Trung Quốc và kiềm chế nhu cầu kinh tế của Trung Quốc.
1. Ít khách du lịch Trung Quốc
Sự bùng phát dịch bệnh do virus Corona gây ra cho thấy một số quốc gia Đông Nam Á phụ thuộc rất nhiều vào ngành du lịch của Trung Quốc.
Kể từ kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, các lệnh cấm và hạn chế du lịch đã hạn chế lượng khách du lịch. Các ngành liên quan đến du lịch, như vận tải và khách sạn, đặc biệt gặp khó khăn.
Thái Lan bị ảnh hưởng nhiều nhất, và nước này đã phải đối mặt với suy thoái kinh tế do dân số già và đầu tư trong nước yếu. Các nước Đông Nam Á khác cũng sẽ bị ảnh hưởng, như Indonesia, Philippines và Việt Nam. Các quốc gia này phụ thuộc rất nhiều vào khách du lịch từ Trung Quốc, điều đó có nghĩa là dịch bệnh sẽ có tác động sâu sắc đến nền kinh tế.
2. Phá vỡ chuỗi cung ứng
Dấu ấn kinh tế của Trung Quốc bây giờ lớn hơn nhiều so với gần hai thập kỷ trước. Theo thống kê của Hội nghị Liên Hợp quốc về Thương mại và Phát triển, khi SARS bùng phát vào năm 2002 – 2003, Trung Quốc chiếm 8% trong tổng số các sản phẩm được sản xuất xuất khẩu trên toàn cầu. Vào năm 2018, con số này đã tăng lên 19%.
Mặc dù sự phụ thuộc của Trung Quốc vào thế giới đã giảm, thì thế giới đang ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế. Nhiều quốc gia hiện nhập khẩu nhiều sản phẩm trung gian do Trung Quốc sản xuất và sử dụng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài. Điều này có nghĩa là bất kỳ sự gián đoạn nào đối với chuỗi cung ứng sản xuất của Trung Quốc thường sẽ có hiệu ứng domino lớn trên toàn cầu.
Đồng thời, Trung Quốc có lỗ hổng kinh tế riêng so với các nước khác.
Trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất, Bắc Kinh dần tự túc. Hiện tại, Trung Quốc nhập khẩu ít sản phẩm trung gian từ phần còn lại của thế giới thông qua các chuỗi cung ứng tích hợp theo chiều dọc, ngoại trừ một số nguyên liệu thô (như dầu) và một số sản phẩm công nghệ cao (như chất bán dẫn).
Sự bùng phát dịch bệnh do virus corona và cô lập các khu vực kinh tế trong nước đã phá vỡ nhiều chuỗi cung ứng liên quan đến Trung Quốc. Ví dụ, Foxconn, nhà sản xuất thiết bị điện tử cho iPhone của Apple, dù tiếp tục sản xuất vào ngày 10 tháng 2 năm 2020, nhưng ở quy mô rất hạn chế.
Sự phụ thuộc của các quốc gia khác vào vốn và các sản phẩm trung gian của Trung Quốc đã khiến họ phải xem xét các lựa chọn thay thế. Đối với các ngành công nghiệp có thị phần lớn ở Trung Quốc, như điện tử và ô tô, đây sẽ là một thách thức lớn hơn.
Dự đoán thiệt hại mà các nước Đông Nam Á sẽ phải chịu nếu 20% nhà máy Trung Quốc bị đóng cửa trong cả quý. Nếu nhà máy được mở cửa trở lại hoàn toàn trong vòng một tháng, tác động sẽ nhỏ hơn nhiều.
Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự phụ thuộc cao vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc, nhưng tốc độ tăng trưởng chung (hơn 7% vào năm 2019) sẽ tạo một phần động lực. Đồng thời, do nền kinh tế của Hồng Kông và Singapore tăng trưởng chậm do yếu kém về cấu trúc, tác động của chúng đối với nền kinh tế hai khu vực này sẽ còn nghiêm trọng hơn trước khi khủng hoảng nổ ra.
Hơn nữa, mặc dù Nhật Bản dự kiến sẽ trải qua sự suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất, nhưng sẽ có tác động lớn hơn ở một số khía cạnh vì đây là nền kinh tế lớn nhất ở Châu Á, ngoài Trung Quốc. Điều này có nghĩa là ngay cả với một tỷ lệ nhỏ gián đoạn kinh tế, giá trị GDP danh nghĩa sẽ vẫn tương đối cao. Trên thực tế, dựa trên các tính toán sử dụng dữ liệu CEIC, dự kiến mức giảm tương đối trong tăng trưởng GDP của Nhật Bản sẽ cao thứ hai sau Hàn Quốc. Từ quan điểm này, các công ty Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Một cách gián tiếp, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng phải đối mặt với rủi ro do đầu tư chứng khoán của họ vào Đông Nam Á và tất nhiên là cả Trung Quốc đại lục. Các nền kinh tế Đông Bắc Á đã cố gắng tránh nguy cơ đầu tư quá mức vào Trung Quốc bằng cách đa dạng hóa đầu tư vào Đông Nam Á. Dữ liệu CEIC và WIND cho thấy đầu tư FDI của Nhật Bản và Hàn Quốc vào Trung Quốc đại lục vẫn còn rất lớn và vượt quá quy mô đầu tư ở các đất nước Đông Nam Á.
Hồ Bắc đã ngừng sản xuất, và hoạt động kinh tế ở các tỉnh khác của Trung Quốc như Quảng Đông đã bị giảm, điều này đã trực tiếp tấn công các dây chuyền sản xuất ở Đông Bắc Á. Một cách gián tiếp, đầu tư thêm của các công ty Đông Bắc Á vào Đông Nam Á đã bị ảnh hưởng nhiều hơn, điều này phụ thuộc vào đầu tư của Trung Quốc vào hàng hóa sản xuất. Thứ ba, tất nhiên, là sự gián đoạn của việc sản xuất các bộ phận nhập khẩu như phụ tùng ô tô.
Nói cách khác, Đông Bắc Á xâm nhập vào Trung Quốc đại lục và Đông Nam Á thông qua đầu tư có nghĩa là các công ty lớn ở Đông Bắc Á như Samsung và Sony đang có tác động đáng kể đến chuỗi cung ứng của Việt Nam.
Các ngành công nghiệp điện tử, ô tô, máy móc và dệt may của Châu Á sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ sự gián đoạn chuỗi cung ứng của Trung Quốc do giá trị kinh tế lớn và sự phụ thuộc lớn vào sản xuất trì trệ của Trung Quốc. Đối với Trung Quốc đại lục, tin xấu ảnh hưởng đến Đông Nam Á, do đó, đây cũng là tin xấu cho các công ty Đông Bắc Á sản xuất nhiều thiết bị điện tử, máy móc và phụ tùng ô tô.
3. Mức cầu tại Trung Quốc giảm
Trong bối cảnh bùng phát corona, khi ngày càng ít du khách Trung Quốc ra nước ngoài, chuỗi cung ứng của Trung Quốc hỗn loạn và ngày càng ít người tiêu dùng Trung Quốc mua sản phẩm và dịch vụ mới. Điều này có nghĩa là nếu các trung tâm vận chuyển bị đóng cửa, các cửa hàng bán lẻ và nhà máy hoặc hoạt động bị hạn chế trong hơn một khoảng thời gian ngắn, tác động rất lớn đến tăng trưởng.
Giống như du lịch và sản xuất, kể từ khi dịch SARS bùng phát vào năm 2002 và 2003, Châu Á ngày càng phụ thuộc vào nhu cầu của Trung Quốc như là một nguồn tăng trưởng. Các nền kinh tế bị ảnh hưởng xấu nhất bao gồm Việt Nam, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và Malaysia.
Đông Nam Á rất dễ bị ảnh hưởng kinh tế bởi corona trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả du lịch và sản xuất, và do nhu cầu từ Trung Quốc suy yếu.
Các nền kinh tế đang ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc, như Thái Lan (do du lịch) và Việt Nam (do liên kết giữa xuất khẩu và chuỗi cung ứng), sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Dịch bệnh lần này đã phô bày một số thiếu sót trong mô hình tăng trưởng của Đông Nam Á. Nhiều nước láng giềng của Trung Quốc quá phụ thuộc vào nhu cầu bên ngoài và chuỗi cung ứng tập trung vào Trung Quốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước.
Trong ngắn hạn, các ngân hàng trung ương ở Đông Nam Á có thể chọn cắt giảm lãi suất và cho phép đồng tiền của họ mất giá để tăng sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Chính phủ cũng có thể khởi động các kế hoạch kích thích kinh tế ở mức vi mô để bù đắp lực cản.
Điều đó nói rằng, ngoài các biện pháp ngắn hạn này, các nền kinh tế Đông Nam Á cũng phải trải qua những cải cách mạnh hơn. Họ nên đầu tư vào khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nước. Bằng cách này, họ có thể chiếm một phần lớn hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các quốc gia này cũng nên đầu tư nhiều hơn vào các nguồn tăng trưởng trong nước. Sự phụ thuộc quá mức vào sự thịnh vượng bên ngoài có thể làm họ tự suy yếu.
Trinh Nguyen
Nguyên tác : The Economic Fallout of the Coronavirus in Southeast Asia, Carnegie Endowment for International Peace, 13/02/2020
Ngân Bình dich
Nguồn : VNTB, 19/02/2020