Từ Việt Nam tới Serbia, đâu cũng là nước mắt
Cánh Cò, RFA, 21/11/2021
"Công nhân Việt Nam tại nhà máy Trung Quốc ở Serbia kêu cứu" (*) Là tựa một bài báo của hãng tin AP, loan tải vào ngày 20 tháng 11 mô tả chi tiết tình hình của 500 công nhân Việt Nam đang lâm vào đường cùng tại một nơi xa lạ. Họ là những công nhân xuất khẩu của Việt Nam do môi giới từ những công ty xuất khẩu lao động trong nước ký hợp đồng với Công ty sản xuất vỏ xe Shandong Linglong Tire Co. của Trung Quốc sang Serbia làm việc từ tháng 5 năm nay.
Đây là những công nhân Việt Nam đang làm việc xây dựng cho nhà máy sản xuất vỏ xe ô tô đầu tiên của Trung quốc ở Châu Âu. Hiệp hội Báo chí (AP) đã đến thăm địa điểm xây dựng ở miền bắc Serbia nơi mà khoảng 500 công nhân đang sống trong điều kiện khắc nghiệt và nơi mà Công ty sản xuất vỏ xe Shandong Linglong Tire Co thiết lập cơ sở.
Nhà báo Dusan Stojanovic đã phỏng vấn nhiều công nhân Việt Nam tại đây và những câu trả lời được nhà báo chứng kiến ngay tại nơi họ làm việc có thể làm cho bất cứ ai là người Việt Nam cũng cảm thấy uất ức và căm phẫn. Hai tiếng đồng bào chưa bao giờ có ý nghĩa như lúc này, khi mà trong nước người ta vừa tổ chức lễ tưởng niệm 23 ngàn nạn nhân Covid thì ở nước ngoài, hơn 500 công nhân đang bị hiếp đáp một cách công khai bởi một công ty Trung Quốc. Sự hiếp đáp ấy được các nhà bảo vệ môi trường Serbia cũng như những người tranh đấu cho nhân quyền lên tiếng đòi hỏi công ty Linglong phải có thái độ phù hợp với công nhân Việt Nam đang làm việc cho họ.
Anh Nguyễn Văn Trí, một trong những công nhân trong thời tiết lạnh giá với đôi dép mỏng manh, run rẩy trong hơi lạnh anh cho biết khoảng 100 công nhân đồng nghiệp của anh sống trong cùng các doanh trại vừa đình công để phản đối hoàn cảnh của họ và một số đã bị sa thải vì việc làm đó.
Nói với nhà báo Dusan Stojanovic, anh Trí cho biết "Kể từ khi chúng tôi đến nơi đây, không có gì là ổn cả, mọi thứ đều khác với các hồ sơ mà chúng tôi đã ký ở Việt Nam. Cuộc sống thì tồi tệ, thức ăn, thuốc men, nước uống… mọi thứ đều tồi tệ ."
Những công nhân khác cho nhà báo biết họ ngủ trên giường có hai tầng mà không có nệm lót. Trong khu trại không có máy sưởi cũng như nước ấm. Họ nói với AP rằng họ không nhận được sự chăm sóc y tế ngay cả khi họ có các triệu chứng giống Covid-19, các người quản lý công ty bảo họ chỉ cần tiếp tục ở lại trong phòng của họ là ổn.
Nhà hoạt động người Serbia, ông Miso Zivanov thuộc tổ chức phi chính phủ Zrenjaninska Akcija nói với Hãng tin AP tại một nhà kho mà công nhân đang sống "Chúng tôi đang chứng kiến một sự vi phạm nhân quyền nghiêm trọng khi các công nhân Việt Nam đang làm việc trong điều kiện khủng khiếp. Giấy thông hành và giấy tờ tùy thân của họ bị lấy đi bởi các người chủ Trung quốc, ông nói, họ tới nơi đây từ tháng Năm, và họ chỉ nhận được một lần tiền lương. Họ đang tìm cách trở về Việt Nam nhưng trước tiên cần lấy lại giấy tờ của họ"
Thủ tướng Serbia, bà Ana Brnabic và Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic đều lên tiếng xoa dịu dư luận báo chí thế giới nhưng lại chỉ trích những người bảo vệ nhân quyền cũng như môi trường bằng lời lẽ châm chích rằng họ lên tiếng với chủ đích phá hoại "đối tác chiến lược" giữa hai nước Serbia và Trung Quốc. Tổng thống Aleksandar Vucic còn đi xa hơn khi tuyên bố rằng "không lẽ họ bắt chúng tôi dứt bỏ dự án 900 triệu đô la họ mới bằng lòng ?"
Dĩ nhiên bài báo không nhắc tới thái độ của nhà nước Việt Nam vì đây là việc của công ty Shandong Linglong Tire Co, có trách nhiệm với công nhân của họ, thế nhưng không loại trừ khả năng AP sẽ chuyển hướng dư luận về Việt Nam khi mà mọi chứng cứ đều chỉ rõ rằng những công ty môi giới đã gián tiếp giúp công ty Trung quốc ngược đãi công nhân Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam cho tới nay vẫn chưa lên tiếng trước vụ việc và 500 người công nhân ấy vẫn không biết rằng họ có quyền được đại sứ Việt Nam tại Balkan lên tiếng bảo vệ và lập thủ tục đưa họ về nước, bất kể giấy tờ của họ có bị cầm cố bởi những kẻ lừa đảo nói tiếng Trung Hoa.
Nhưng dư luận trong và ngoài nước lâu nay đã thừa biết thái độ của các đại sứ quán nước ngoài đối với người dân của mình như thế nào rồi. Từ Hàn quốc, Đài Loan, Malaysia cho tới Nhật Bản hay xa hơn là các nước EU, đại sứ quán là cơ quan chỉ có nhiệm vụ duy nhất đối với kiều bào là cấp và đóng dấu hộ chiếu, mọi việc khác, xin lỗi, không phải nhiệm vụ của chúng tôi…
Làm công dân Việt Nam thật không phải dễ, trong nước thì đói nghèo, ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn kiếm miếng ăn thì lại bị bọn đầu nậu, cặp rằng không tiếc tay ngược đãi.
Cánh Cò
Nguồn : RFA, 21/11/2021
********************
Thu Hằng, RFI, 21/11/2021
Khoảng 500 công nhân Việt Nam làm việc cho một dự án xây dựng của công ty Trung Quốc ở Serbia bị bóc lột, thậm chí bị đối xử gần như nô lệ. Sau nhiều tuần im lặng trước những cáo buộc của nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền Serbia, ngày 19/11/2021, tổng thống Serbia cho biết một thanh tra lao động đã được cử đến tìm hiểu tình hình.
Công nhân Việt Nam tại công trường xây dựng nhà máy sản xuất lốp ô tô đầu tiên của Trung Quốc ở Châu Âu, gần thị trấn Zrenjanin, miền bắc Serbia, ngày 18/11/2021. © AP Photo/Darko Vojinovic
Khoảng 500 lao động Việt Nam làm việc cho công ty Trung Quốc Shandong Linglong Tire Co. trong dự án xây nhà máy sản xuất lốp xe ở thành phố Zrenjanin, tỉnh Voivodine, phía bắc Serbia. Theo trang Balkan Insight, dự án được Nhà nước Serbia tài trợ và được cả Bắc Kinh, Beograd ca ngợi là bằng chứng cho "quan hệ đối tác chiến lược" song phương.
Tuy nhiên, các tổ chức bảo vệ nhân quyền Serbia, trong đó có A11, ASTRA và Zrenjaninska Akcija, lên án "tình trạng vi phạm nhân quyền" vì "công nhân Việt Nam phải làm việc trong những điều kiện rất khó khăn", thậm chí có thể coi là "nạn nhân của tình trạng ngược đãi", "nô lệ".
500 người "chỉ có hai nhà vệ sinh, không có nước sạch và phải săn thú để ăn", theo tin nhắn Twitter của tổ chức CorpWatch ngày 20/11. Họ sống trong các khu nhà tạm không có sưởi và nước nóng, ngủ trên giường tầng không có đệm. Một số người cho hãng tin AP biết là không được chăm sóc y tế, thậm chí khi có triệu chứng mắc Covid-19, quản lý chỉ nói họ tự cách ly trong phòng.
Ngoài ra, "hộ chiếu và giấy tờ tùy thân của họ bị chủ lao động Trung Quốc giữ. Họ đến đây (Zrenjanin) từ tháng 05 nhưng chưa nhận bất kỳ đồng lương nào". Phát biểu với hãng tin Mỹ AP, ông Miso Zivanov, thuộc tổ chức phi chính phủ Zrenjaninska Akcija, cho biết là những lao động này "muốn về Việt Nam nhưng phải lấy lại được giấy tờ trước đã". Theo một lao động Việt Nam, tất cả những điều kiện sống và làm việc ở Serbia khác hoàn toàn với những điều khoản ký trong hợp đồng.
Công ty Trung Quốc Shandong Linglong Tire Co. không trả lời đề nghị giải thích của AP nhưng trước đó đã phủ nhận mọi cáo buộc với truyền thông Serbia. Sau nhiều ngày im lặng, các quan chức Serbia cuối cùng cũng dè dặt lên tiếng phản đối điều kiện "phi nhân đạo" trên công trường, nhưng lại giảm thiểu trách nhiệm của phía Trung Quốc. Thậm chí, thủ tướng Ana Brnabic còn "không loại trừ một vụ tấn công nhắm vào nhà máy của Linglong" do "những người phản đối đầu tư của Trung Quốc" vào Serbia tổ chức.
Thu Hằng
Nguồn : RFI, 21/11/2021
Ngày 12/11/2018, quốc hội chế độ cộng sản Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam như vậy là nước thứ 7 sau New Zealand, Canada, Mexico, Singapore, Nhật bản, Australia đồng ý tham gia hiệp định theo những điều khoản đã được quy định.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định đối tác toàn diện - Nguyễn Xuân Phúc và Nguyễn Phú Trọng - Ảnh BTV
Điều này đồng nghĩa chế độ cộng sản Việt Nam phải chấp thuận cho người lao động được phép thành lập công đoàn độc lập, không bị bắt buộc tham gia các công đoàn do chính phủ thành lập hay tài trợ.
Tuy nhiên, cho dù có cam kết tôn trọng các điều khoản của hiệp định CPTPP, việc thành lập công đoàn độc lập cho các ngành, nghề chắc chắn còn rất nhiều trở ngại, khó khăn, phần vì cộng sản Việt Nam chưa bao giờ tôn trọng các hiệp định, hiệp ước đã ký với quốc tế, phần vì những người lãnh đạo các phong trào thành lập công đoàn sẽ bỡ ngỡ, chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động, tổ chức, vận động...
Bài viết do đó có mục đích giới thiệu với các bạn trẻ trong phong trào Lao Động Việt, những người quan tâm đến cuộc sống cơ cực của người lao động nói riêng, người dân Việt Nam nói chung, về lịch sử hình thành của IG Metall, quá trình tranh đấu gay go cho quyền lợi công nhân viên của một công đoàn độc lập trong nhiều thập niên, để từ đó các bạn có thêm dữ kiện học hỏi, tranh đấu.
Người viết hoàn toàn không có tham vọng dậy dỗ, khuyên nhủ, hướng dẫn bất cứ ai về bất cứ điều gì với bài viết này.
Quá trình sinh hoạt công đoàn ở Đức
IG Metall (Industriegewerkschaft Metall) Công đoàn Sắt Thép là công đoàn độc lập lớn nhất ở nước Cộng hòa liên bang Đức, đồng thời cũng là tổ chức đại diện người lao động (Employee) lớn nhất trên thế giới với tổng số gần 2,7 triệu đoàn viên (năm 2011).
Liên Hiệp Công Nhân Đức được thành lập đầu tiên năm 1878, đặt nền tảng cho việc thành một công đoàn, đại diện cho công nhân. Tổ chức này bị Otto von Bismarck (Thủ tướng đầu tiên của đế chế Đức) tìm cách cấm đoán qua đạo luật xã hội.
Khi điều cấm đoán được rút lại, năm 1890 Tổng công đoàn Đức hình thành, một năm sau đó Liên hiệp Công nhân Kim loại Đức (DMV - Deutsche Metallarbeiter Verband), tổ chức tiền thân quan trọng nhất của IG ra đời.
DMV phát triển nhanh chống, trở thành công đoàn độc lập lớn nhất trong Đế chế Đức và Cộng hòa Weimar. Ngay trong năm 1892 đã có một đại hội với sự góp mặt nhiều công đoàn khác. Thời gian sau đó cho đến khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu (1914) đã xẩy ra liên tiếp nhiều cuộc đình công của công nhân hầm mỏ, sắt thép, đóng tàu...
Thế chiến thứ nhất chấm dứt năm 1918, tháng 11/1918 Đức thành lập Cộng hòa Weimar, một năm sau (1919) Tổng Liên Đoàn Lao Động Đức ra đời dựa vào nền tảng đạo luật Tự do liên hiệp (Koalitionsfreiheit = Coalition freedom) theo đó giới lao động cũng như giới chủ nhân được quyền liên minh với nhau, căn cứ vào Hiến pháp Cộng hòa Weimar.
Cùng trong năm, lần đầu tiên các hợp đồng làm việc với mức lương rõ ràng được hợp thức hóa bằng luật lệ. Những năm tiếp theo, nhiều đạo luật về lao động như quyền thành lập Hội đồng Cố vấn xí nghiệp (Betriebsrätegesetz : Works Councils act) năm 1920 hay Luật bảo hiểm thất nghiệp đã chứng tỏ vai trò quan trọng của các công đoàn độc lập cũng như của tiền thân IG Metall.
Năm 1928 DMV cho xây dựng nhà truyền thống ở Berlin, đường Kreuzberger-Linden, người vẽ họa đồ là kiến trúc sư nổi tiếng Erich Mendelsohn.
Năm 1933 DMV bị xóa sổ khi Hitler lên nắm chính quyền. Chế độ Faschist cấm tất cả các công đoàn tự do hoạt động. Nhiều đoàn viên DMV bị bắt giam, không ít người bị tử hình hoặc chết trong tù.
Chiến tranh thế giới lần thứ II chấm dứt, nước Đức chia đôi, phía Tây do Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng, phía Đông là Liên Xô.
Ở Tây Đức xuất hiện nhiều công đoàn độc lập theo nguyên tắc riêng, lẻ. IG Metall ra đời năm 1949. Cùng trong năm đó đã có một buổi họp thành lập Tổng Công Đoàn Đức (DGB : Deutsche Gewerkschaft Bund) IG Metall trở thành một thành viên trong Tổng Công Đoàn DGB. Đạo luật về thang lương cũng được thông qua (Tarifvertragsgesetz : Collective Agreement Act)
Quyền tự do liên hiệp (Coalition freedom) trong hiến pháp Cộng hòa Weimar trước đó đã được sử dụng lại, trở thành một điều khoản căn bản trong nền tảng luật pháp của Cộng hòa liên bang Đức.
Cuộc tranh đấu cho quyền lợi người lao động của IG Metall tiến triển qua nhiều giai đoạn.
- Năm 1951 một đạo luật về quyền tham gia quyết định chính sách, đường lối của xí nghiệp được ban hành (Mitbestimmungsgesetz : Co-determination Act).
Theo đó, những xí nghiệp, hãng xưởng hình thành bởi các cổ phiếu (Aktiengesellschaft : Jointstock company) hay cổ đông (Share Holder) trách nhiêm hữu hạn (Kommanditgesellschaft : Limited Partnership with Stock) hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (Gesellschaft mit beschränter Haftung : Limited Partnership) có 2.000 lao động trở lên thì đại diện người lao động có quyền tham gia vào Hội đồng Giám sát (Aufsichtsrat : Supervisory Board) với số người tương đương phía chủ nhân.
Trong trường hợp (thí dụ) như bỏ phiếu để thay đổi chính sách tiền lương, một kế hoạch sản xuất,... nếu số phiếu hai bên ngang nhau thì chủ tịch Hội Đồng Giám Sát (Aufsichtrat Vorsitzender : Supervisory Board Chairman) được phép có 2 phiếu (double match right). Trường hợp Board Chairman có 2 phiếu là để tránh trường hợp không thể đạt được thỏa thuận giữa phía chủ nhân và đại diện người lao động.
Chủ tịch Hội đồng Giám sát luôn do cổ đông bầu ra, phó chủ tịch là đại diện người lao động.
Cán cân quyết định mọi việc luôn nghiêng về phía chủ nhân nếu 2 bên không đạt được thỏa thuận. Điều này phù hợp với luật sở hữu và hiến pháp.
- Năm 1952 bộ luật hiến định về xí nghiệp (Betriebverfassungsgesetz : Company Constitution Act) ra đời đặt nền tảng căn bản cho sự phối hợp làm việc vì ích lợi của cả hai bên, giới chủ nhân cũng như người lao động.
- Năm 1954 lần đầu tiên người lao động ở Cộng hòa liên bang Đức được hưởng tiền lễ Giáng sinh (Weihnachtsgeld : Christmas bonus) do chủ nhân chi trả.
Số tiền này thay đổi tùy theo nhiều yếu tố như :- xí nghiệp, hãng, xưởng lớn hay nhỏ, thời gian làm việc, mức lương của từng người... và thường được trả vào tháng 11. Mục đích nguyên thủy là để người lao động có tiền mua quà, tổ chức party, họp mặt gia đình vào những ngày Giáng sinh, cuối năm.
- Tháng 10 năm 1956, một cuộc đình công dài nhất trong lịch sử nước Đức kể từ năm 1905, khởi đi từ Schleswig-Holstein bùng lên, nhanh chóng lan sang các tiểu bang khác, kéo dài 114 ngày với khoảng 37.000 người, đòi hỏi giới chủ nhân phải tiếp tục trả lương trong trường hợp người lao động không thể làm việc do bệnh hoạn.
Nguyên tắc trước khi quyết định đình công của công đoàn là phải bỏ phiếu thăm dò (Urabstimmung). Chỉ khi nào đạt được ít nhất 75% số phiếu đồng ý của đoàn viên (Trade Union Member) thì công đoàn mới tổ chức đình công.
Để chuẩn bị cho cuộc đình công, IG Metall đưa những cán bộ công đoàn được huấn luyện thành thạo trong công tác đến từng vùng có các xí nghiệp liên hệ giải thích, kêu gọi người lao động tham gia đình công.
Truyền đơn, biểu ngữ được phân phát, các buổi sinh hoạt cuối tuần cho người lao động được tổ chức để giải thích nguyên nhân, mục đích cuộc đình công... IG Metall cũng đồng thời thông báo cho báo chí biết.
Lần đầu tiên môt cuộc đình công lớn, quy mô và dài nhất không đòi tăng lương nhưng nhằm mục đích đạt được một thỏa thuận định mức (Tarif vertrag) với các điểm chính nói trên.
Sau nhiều cuộc đàm phán gay go, hòa giải mâu thuẫn do phía chủ nhân không muốn việc tiếp tục trả lương cho người bệnh trở thành tiền lệ, hai bên đã đạt được một Thỏa thuận định mức (Tarifvertrag : Collective Agreement), theo đó người lao động được tiếp tục hưởng lương 6 tuần trong trường hợp bệnh hoạn không thể làm việc, được nhiều ngày nghỉ phép hơn và được một số tiền phụ trội khi đi phép.
Đình công chấm dứt ngày 9/02/1957
Đối với IG Metall, cuộc đình công dài nhất trong lịch sử xã hội Đức đã kết thúc tốt đẹp với những kết quả mỹ mãn.
Chỉ ít tháng sau Quốc hội Đức thông qua đạo luật bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động trong trường hợp bệnh hoạn.
- 1962 : Tiền nghỉ phép (Urlaubsgeld).
Cần phân biệt tiền nghỉ phép (Urlaubsgeld) và tiền lương khi nghỉ phép (Urlaubsentgeld). Tiền nghỉ phép là tiền lương được trả phụ trội khi đi phép ngoài tiền lương hàng tháng. Tiền nghỉ phép thay đổi và tùy thuộc vào thời gian làm việc lâu hay mới.
Tiền nghỉ phép có thể được trả vào một thời điểm nhất định hoặc đúng vào thời gian đi phép, trước hay sau đó.
- 1965 : Tuần làm việc 40 giờ.
Sau thế chiến thứ hai, thời gian làm việc cho người lao động thường 48giờ/tuần (6 ngày/8 giờ mỗi ngày). Qua thập niên 50, kinh tế Đức đã phục hồi nhanh chóng như một phép lạ, Tổng Liên Đoàn Đức (DGB) cảm thấy đã đến lúc cần phải thương lượng với giới chủ nhân, bớt giờ làm việc cho người lao động sau khi đã đạt được thỏa thuận cho việc tăng lương rõ rệt.
Từ năm 1956 DGB đã bắt đầu mở chiến dịch Tuần Làm Việc 40 giờ với phương châm : "Ngày thứ bẩy cha tôi thuộc về tôi" (Samstag gehört Vati mir). Trong năm đó ngành công nghiệp thuốc lá coi như đầu tiên giảm thời gian làm việc xuống 40giờ/tuần. Một số các ngành khác cũng bắt đầu rút ngắn thời gian làm việc trong tuần với mức lương như cũ.
Tuy nhiên mãi đến năm 1965 ngành ấn loát mới áp dụng chế độ 40giờ/tuần, qua đến 1967 đến lượt ngành sắt thép, chế biến gỗ.
Lần lượt các ngành, nghề khác cũng bắt đầu tuần lễ làm việc 40 giờ : 1969 ngành xây dựng, 1970 ngành hóa học, chế biến giấy, vải... 1971 ngành buôn bán lẻ cũng theo chân các ngành khác.
40 giờ/tuần trở thành khuôn mẫu cho tất cả mọi nghề nghiệp trên nước Đức.
Tài sản của IG Metall trong năm 1972 đã lên tới 631.000.000 DM (Deutsche Mark, đơn vị tiền tệ của Đức trước khi hội nhập vào đồng Euro). Tài sản này hình thành do tiền nguyệt liễm của đoàn viên, được kinh doanh, phát triển qua nhiều hình thức như thành lập nhà Bank, xây dựng nhà cửa, cao ốc cho thuê...
- 1978 : Đình công cho Tuần lễ làm việc 35 giờ ở công nghiệp thép.
Tranh luận về Tuần lễ làm việc 35 giờ đã dẫn đến xung đột khốc liệt giữa giới chủ nhân và người lao động.
Sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào thập niên 70, Roboter, máy móc tự vận hành (Automaten), phân tích, điều hành dữ kiện... bằng những Sensor cực nhỏ, phương pháp Taylor hợp lý hóa dây chuyền sản xuất... đã làm tăng mức sản xuất công nghiệp lên đến độ chóng mặt nhưng đồng thời cũng gây ra một vấn nạn cho nền kinh tế quốc dân.
Đó là tình trạng thất nghiệp hàng loạt khi con người bị thay thế bởi máy móc trong các ngành công nghiệp thép, điện, đóng tàu... dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế của Đức cuối thập niên 70 sang đầu thập niên 80.
Chỉ trong vòng 3 năm, từ 1980 đến 1983 số người làm việc trong ngành sắt thép đã giảm 10%.
Sự sa thải hàng hoạt không chỉ xẩy ra trong công nghiệp sắt thép mà cả trong ngành ấn loát. Trong vòng 10 năm 1973-1983 số lao động làm việc trong ngành ấn loát giảm bớt 38.511 người, chỉ còn 164.912. Tỉ lệ mất việc là 20%.
Cộng hòa liên bang Đức rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế với số người thất nghiệp lên đến 1.833.000. Trước đó tình trạng thất nghiệp trong 2 năm 1980-1982 là 890.000. Chỉ trong vòng 1 năm tăng gần 1.000.000, hơn 100%. Một con số thật khủng khiếp.
Lãnh đạo của công đoàn IG Metall đối diện với sự thật bi đát, thấy không còn cách nào hơn là phải tranh đấu để giảm bớt giờ làm việc cho người lao động. Theo quan niệm cũa họ, giảm giờ làm việc sẽ tạo nên chỗ trống trong xí nghiệp, qua đó xì nghiệp phải tuyển thêm người, tình trạng thất nghiệp sẽ giảm.
Giới chủ nhân nghĩ khác. Giảm giờ làm việc sẽ làm tăng chi phí sản xuất, dẫn đến việc mất khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Do đó giới chủ nhân theo truyền thống của Henry Ford, áp dụng tối đa hợp lý hóa và dây chuyền sản xuất, giảm thiểu tối đa phí tổn nhân công. Nếu giảm giờ làm việc thì phí tổn nhân công sẽ tăng lên.
Thật ra cuộc đấu tranh đòi hỏi tuần lễ làm việc 35 tiếng đã khơi mào từ năm 1978 ở ngành thép (Stahlindustrie) tiểu bang Nordrhein-Westfalen.
Cuộc đình công của 38.000 người lao động kéo dài 6 tuần lễ coi như là một thất bại của IG Metall. Họ chỉ nhận được thêm 4% lương, đồng thời được thêm ngày phép, từng bước sẽ tăng đến 6 tuần trong năm, người lao động lớn tuổi hoặc làm đêm được thêm ngày nghỉ. Thỏa thuận này (Tarifvertrag) kéo dài 5 năm.
Mọi cuộc tranh đấu tiếp theo cho quyền lợi người lao động chỉ có thể bắt đầu vào năm 1983 khi thỏa thuận này hết hiệu lực.
Khi thỏa thuận hết hiệu lực, trong thời gian từ 14/05 đến 04/07/1984 công nhân ngành sắt thép ở 2 tiểu bang Baden-Württemberg và Hessen bắt đầu đình công đòi hỏi tuần làm việc 35 giờ, cao điểm lên tới 55.000 người.
Trước đó đã có những cuộc đàm phán kéo dài nhiều ngày cũng như những cuộc nói chuyện giữa các lãnh đạo cao cấp công đoàn IG Metall và giới chủ nhân nhưng không đi đến kết quả nào.
Hiệp hội chủ nhân tất cả ngành kim loại (Unternehmerverband Gesamtmetall) từ chối đòi hỏi Tuần Lễ 35 giờ của IG Metall. Thay vào đó họ đề nghị thời gian làm việc uyển chuyển (Flexible working hours), đồng thời rút ngắn thời gian làm việc cả đời cho người lao động (Lebensarbeitszeit Verkürzung) cùng lúc cho về hưu sớm những người lao động lớn tuổi.
Sau nhiều lần đàm phán thất bại dù IG Metall lẫn hiệp hội chủ nhân đều xuống nước, phía IG Metall giảm bớt dần những đòi hỏi, phía Hiệp Hội Chủ Nhân tăng thêm quyền lợi cho người lao động, hai bên đồng ý hòa giải bởi một hội đồng có 3 trọng tài : cựu bộ trưởng quốc phòng Đức, chủ tịch công đoàn George Leber và Bernd Rüthers một chuyên gia về luật lao động.
Một thỏa hiệp được hình thành với nhiều bước. Trước nhất thời gian làm việc bình quân trong xí nghiệp sẽ rút ngắn còn 38,5giờ/tuần, từng xí nghiệp có thể uyển chuyển thay đổi giờ làm việc cho người lao động từ 37 đến 40giờ/tuần. Những bước kế tiếp sẽ là 37 giờ rồi 35giờ/tuần.
Cuộc đình công chấm dứt trong thời gian bỏ phiếu thăm dò (Urabstimmung) lần thứ hai từ 29/06 đến 04/07/1984 về bản thỏa hiệp. Khác với Urabstimmung về đình công, Urabstimmung về thỏa hiệp chỉ cần 25% số phiếu đồng ý thì thỏa hiệp được chấp nhận. Cả 2 nơi xẩy ra đình công đều đạt được số phiếu đồng ý trên 52%.
Tuy nhiên mãi đến năm 1995, tuần làm việc 35 giờ mới thực sự được áp dụng trong các xí nghiệp ngành kim loại phía Tây Cộng hòa liên bang Đức (Westdeutschland).
Sau khi nước Đức thống nhất (không hề có chiến tranh, không hi sinh vài triệu thanh niên cả hai miền Nam, Bắc), những thành quả đạt được cùng cấu trúc của các công đoàn, đặc biệt là của IG Metall dần dần được đưa vào áp dụng bên phía Đông.
Sau cuộc đình công kéo dài 7 tuần năm 1984, IG Metall không còn tổ chức cuộc đình công nào gây thiệt hại nặng nề cho cả hai bên, giới chủ và công đoàn, như vậy nữa. Theo sự ước tính của các chuyên gia, mỗi bên thiệt hại vào khoảng 4 tỉ DM (thời giá năm 1984).
Để tránh khơi mào lại một cuộc chiến mà đôi bên đều bị thiệt hại nặng nề, IG Metall và giới chủ nhân luôn tìm mọi cách thỏa thuận, biết điều với nhau trước thời hạn chấm dứt hợp đồng.
Sự thành công của IG Metall Đức cho thấy sức mạnh của tập thể người lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân. Gia nhập thành đoàn viên công đoàn, hi sinh 1% tiền lương hàng tháng, người lao động đã liên kết với nhau tạo thành sức mạnh để tranh đấu cho những quyền lợi to lớn, lâu dài, vững chắc hơn.
Tình hình ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn khác với Đức vào những năm 1878 hay 1949 sau thế chiến thứ hai.
Ý thức sinh hoạt công đoàn của công nhân Việt
Sự hình thành giai cấp công nhân Việt và giai cấp lao động Việt Nam không giống Đức. Việt Nam là nước nông nghiệp, do đó ý thức tập thể của người lao động Việt cũng không thể so sánh với người lao động Đức.
Tại Đức
Cá nhân người viết nhận thấy, ngay cả người Việt Nam ở ngoại quốc hiện nay là công nhân trong các xí nghiệp, cũng không có ý thức tập thể cao hơn người trong nước, kinh nghiệm này người viết có được qua những lần đi vận động người Việt tham gia trở thành đoàn viên công đoàn.
Khi có kêu gọi đình công, người công nhân Việt trong các xí nghiệp của Đức hầu hết đều dững dưng như chuyện của ai, chẳng dính dáng gì tới mình.
Theo thống kê của IG Metall, tỉ lệ người Việt tham gia công đoàn rất khiêm nhường, chỉ khoảng 1-2% trên tổng số người Việt trong các xí nghiệp, trong khitỷ lệ tham gia của các sắc dân khác (Turkey, Jugoslavia, Spain...) giống như người Đức bản xứ, nghĩa là 15-20%, trong nhiều xí nghiệp có khi lên 35-40%, cao nhất là 85% như ở hãng chế tạo xe Volkswagen (VW) tại Wolfsburg.
Theo người viết, nguyên nhân chính khiến lao động Việt trong các xí nghiệp ở Đức ít tham gia sinh hoạt công đoàn hay muốn trở thành đoàn viên công đoàn là do cảm thấy xót xa, tiếc tiền, khi phải đóng 1% tiền lương cho công đoàn.
Nếu người lao động Việt trong nước tiếc 1% tiền lương, đó là điều có thể hiểu được. Với số lương còm cõi, ít ỏi, họ phải chắt chịu, tính toán từng đồng để có thể sinh tồn trong thời giá lạm phát hiện nay.
Tuy nhiên, ở Đức vài chục Euro không phải là một con số cần suy nghĩ, tính toán với giá sinh hoạt hoặc so với những quyền lợi mà người lao động có được như 6 tuần lễ nghỉ phép, bệnh hoạn không đi làm vẫn tiếp tục được lãnh lương trong 6 tuần, sau đó lãnh 85% tiền lương bình quân 3 tháng cuối cùng do bảo hiểm sức khỏe trả, Giáng sinh có tiền thưởng, đi phép lãnh thêm tiền nghỉ phép...
Ở Việt Nam
Một điểm khác biệt không kém quan trọng nữa là giới chủ nhân. Giới chủ nhân ở Việt Nam trong các xí nghiêp hầu hết là người ngoại quốc như Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Indonesia hay Trung Quốc đội lốt... Họ sẵn sàng cấu kết với chế độ, đảng viên cộng sản... để bòn rút, hà hiếp người lao động Việt đến mức tối đa.
So sánh cuộc đình công của người lao động Việt Nam cuối tháng 3/2015 vừa qua với cuộc đình công của IG Metall năm 1984, thấy có sự khác biệt hẳn về nguyên nhân lẫn mục đích.
Cuộc đình công ở Việt Nam bộc phát từ hãng Pou Yuen, nhanh chóng lan qua các tỉnh Bình Dương, Long An, Tiền Giang... không phải vì xung đột quyền lợi giữa chủ và thợ, không được chuẩn bị, tổ chức, hướng dẫn. Đó chỉ là cuộc đối đầu giữa người lao động với chính quyền ăn cướp.
Khi Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng của chế độ Mafia kiến nghị, yêu cầu trả lại chén cơm (dự trữ cuối cùng) cho người lao động thì cuộc đình công chấm dứt.
Cuộc đình công của IG Metall năm 1984 là cuộc đình công có chuẩn bị, tổ chức, tuyên truyền, giải thích cặn kẽ, các xí nghiệp đình công được chỉ định rõ ràng trong từng khu vực để tránh Aus-Sperrung (Lock Out)(1). Đình công này nhằm mục đích tranh đấu cho những quyền lợi thiết thực lâu dài.
Phong trào Lao Động Việt hoạt động bảo vệ quyền lợi người lao động - Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương - Ảnh minh họa
Việc thành lập công đoàn độc lập hiện nay ở Việt Nam gặp muôn vàn trở ngại nếu không muốn nói là bất khả thi. Chỉ hi vọng (không nhiều) khi được gia nhập TPP, chế độ cộng sản Việt Nam phải thay đổi chính sách dưới sức ép của quốc tế, phải tuân theo luật chơi của TPP, Việt Nam sẽ có được một công đoàn độc lập đúng nghĩa tranh đấu cho quyền lợi thiết thực của người lao động Việt Nam.
Dùng chữ hi vọng (không nhiều) vì người viết tin rằng dù có phải chấp nhận cho thành lập công đoàn độc lập thì chính quyền cộng sản Việt Nam cũng sẽ tìm mọi cách khống chế, phá hoại, lèo lái... công đoàn này theo ý muốn của mình.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất vẫn là xây dựng ý thức tập thể, biết đoàn kết cho người lao động Việt, để họ biết nhìn xa, biết cần phải hi sinh một chút quyền lợi nhỏ để tạo thành sức mạnh đòi hỏi, tranh đấu cho những quyền lợi to lớn, vững chắc, lâu dài.
Có được sự đoàn kết, thống nhất, hoạt động chặt chẽ trong công đoàn độc lập thì mọi âm mưu gian trá, hiểm độc của chế độ cộng sản Việt Nam sẽ bị người lao động phát giác, bẻ gẫy.
Thạch Đạt Lang
(14/11/2018)
(1) Aus-Sperrung là một biện pháp trả đòn đình công của giới chủ nhân. Khi có đình công do công đoàn tổ chức, giới chủ nhân có thể ra lệnh đóng cửa toàn bộ xí nghiệp. Những người không là đoàn viên công đoàn cũng không thể tiếp tục làm việc, do đó không được lãnh lương, đồng thời cũng không được công đoàn trợ giúp tài chánh trong thời gian đình công.
Trường hợp này gọi là Heisse-Sperrung (Hot Lock-Out) khác với Kalte-Sperrung (Cold Lock-Out) là một biện pháp khác khi giới chủ nhân ra lệnh đóng cửa các xí nghiệp có liên hệ sản xuất với xí nghiệp đang đình công.
Thí dụ : Khi hãng sản xuất xe hơi đình công thì giới chủ nhân có thể cho đóng cửa các xí nghiệp liên hệ đến sản xuất xe hơi như hãng cung cấp phụ tùng, cơ phận, bánh xe...
Điều này sẽ khiến công đoàn chảy máu, nhanh chóng kiệt quệ tài chánh vì phải trả thêm tiền cho đoàn viên ở những nơi không có đình công, đồng thời có thể gây bất mãn, xung đột giữa những người lao động không là đoàn viên với đoàn viên.
Tài liệu tham khảo :
Chỉ sau vài giờ nhậm chức, Tân Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã thực hiện một trong những điều mà ông tuyên bố trong suốt thời gian vận động tranh cử, đó là hạ bút ký chấm dứt Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là TPP.
Công nhân trong một xưởng may ở Hà Nội hôm 12/3/2015. AFP photo
Điều này gây nên nhiều quan tâm đến vấn đề liệu lao động Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng bởi sức ép từ Trung Quốc hay không ? Hiệp định được cho là có lợi cho Việt Nam vì ưu tiên thuế xuất khẩu không có sự tham gia của Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của công nhân Việt Nam trong và ngoài nước thế nào ?
Sức ép không còn nữa
Ông Chu Văn Cương, thuộc Liên đoàn Lao Động Việt, từ Houston, Hoa Kỳ cho biết :
Như chúng ta biết có tất cả 12 thành viên trong TPP này, và các thoả thuận của các quốc gia là các quốc gia thành viên của TPP phải chấp nhận sự hiện hữu của các nghiệp đoàn độc lập trong một hiệp ước sơ khởi giữa chính quyền nhà nước Việt Nam với Hoa Kỳ khi mà các quốc gia còn đang đàm phán thì có những điều khoản bắt buộc Việt Nam phải công nhận sự hoạt động độc lập của các công đoàn, nghiệp đoàn ở Việt Nam.
Mặc dù chính phủ Hoa Kỳ đã quyết định rút lui ra khỏi hiệp ước này nhưng sự thoả thuận đó vẫn còn hiện hữu. Sẽ có những khó khăn vì Hoa Kỳ là một quốc gia lớn, khi họ rút ra thì những áp lực đối với Việt Nam sẽ không mạnh mẽ, nhưng chính quyền Việt Nam vẫn hiểu là họ phải chấp nhận hoạt động của những nghiệp đoàn độc lập đó. Liên đoàn lao động Việt sẽ vẫn tiếp tục hoạt động để thúc đẩy và vận động thành lập những nghiệp đoàn tự do trong tương lai.
Cát Linh : Anh vừa nhắc đến là chính phủ Việt Nam vẫn phải chấp nhận sự tồn tại và hoạt động của các nghiệp đoàn độc lập. Họ chấp nhận như thế nào ? họ nhìn nhận sự tồn tại dưới hình thức nào ? có công khai hay không ? Các hoạt động có được tự do hay không ?
Chu Văn Cương : Theo thoả thuận thì nhà nước Việt Nam bắt buộc phải chấp nhận sự hiện hữu, hoạt động của các nghiệp đoàn. Tuy nhiên, như chúng ta cũng biết, sẽ có những khó khăn trong thực tế. có lẽ nhưng công đoàn được thành lập bắt buộc phải ghi danh vào cơ quan hữu trách của nhà cầm quyền, hoặc phải ghi danh với tổng liên đoàn, là 1 ngoại vi của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tuy là họ nói vậy nhưng trên thực tế họ có cho hoạt động hay không thì đó là chuyện tương lại chúng ta sẽ ghi nhận.
Khó khăn
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump ký sắc lệnh rút Hoa Kỳ khỏi Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương, TPP tại Nhà Trắng, Washington, DC hôm 23/1/2017. AFP photo
Cát Linh : Không có quốc gia đầu tàu là Hoa Kỳ thì cái khó khăn của Việt Nam trong vấn đề anh vừa đề cập là gì ?
Chu Văn Cương : Hoa Kỳ là một quốc gia lớn và chắc chắn là một thành viên có tiếng nói rất mạnh trong TPP, ngay cả ông thủ tướng Singapore cũng tuyên bố nếu không có Hoa Kỳ thì sẽ là sự mất mát rất lớn cũng như thủ tướng Nhật tuyên bố là TPP sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có Hoa Kỳ.
Khi Hoa Kỳ tuyên bố rút lui như vậy thì dĩ nhiên trong sự thành lập các công đoàn độc lập, Liên đoàn lao động Việt tự do cũng như những tổ chức khác đang tranh đấu cho quyền lợi của công nhân thì thấy rằng thế nào cũng gặp những khó khăn hơn nữa, vì nếu có mặt của Hoa Kỳ, nếu Việt Nam tham gia TPP mà không chấp nhận sự có mặt của các công đoàn độc lập, vi phạm những điều luật trong TPP thì chắc chắn Hoa Kỳ sẽ là quốc gia lên tiếng mạnh mẽ nhất.
Quyền lợi bị ảnh hưởng
Cát Linh : Còn nếu nói về quyền lợi của người công nhân thì việc Hoa Kỳ rút TPP sẽ ảnh hưởng gì ?
Chu Văn Cương : Dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng. Khi Hoa Kỳ không còn là thành viên của TPP nữa thì khi những công nhân trong nước sẽ bị những đàn áp, các quốc gia khác chắn chắn không lên tiếng mạnh mẽ như Hoa Kỳ. Những công đoàn độc lập khi được thành lập sẽ bị chi phối của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hoặc những công đoàn đó đều do những người của nhà cầm quyền đưa vào để lập ra. Mặt ngoài thì nói là công đoàn độc lập, nhưng thực tế thì đều do người của nhà cầm quyền điều hành.
Cát Linh : Nhiều người cho rằng khi Mỹ rút TPP thì những công nhân Việt Nam trong nước và những người hợp tác lao động sẽ gặp khó khăn, thậm chí nhiều hơn trước do bị ảnh hưởng từ phía Trung Quốc. Điều đó có đúng hay không ?
Chu Văn Cương : Đúng một phần. Chúng ta biết rằng mục đích khi các quốc gia thành lập ra hiệp ước TPP phần chính là để đối đầu lại sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Trung Cộng. Việc Hoa Kỳ rút lui khỏi TPP thì làm cho cán cân bị mất thăng bằng. Khi Việt Nam không còn đối tác, khách hàng quan trọng là Hoa Kỳ trong TPP thì chắc chắn một phần kinh tế sẽ bị Trung Cộng ảnh hưởng. Cho nên những nhận định của mọi người không phải là vô lý.
Cát Linh : Xin cảm ơn anh.
Cát Linh, phóng viên RFA