Sự việc Trung Quốc hăm họa vũ lực ở lô dầu khí 136-03 hồi trung tuần tháng sáu 2017 đã khiến cho Việt Nam "xoay trục" về hướng Hoa Kỳ.
Vị trí lô dầu khí 136-03 nằm trong thềm lục địa Việt Nam
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã bỏ phí một khoảng thời gian 8 năm quí giá, hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, để có thể "kết thân" với Hoa Kỳ với tư thế "khá hơn hiện nay" trong chính sách "chuyển trục" của đại cường. Thời gian 8 năm đã có thể gắn bó, Việt Nam đã có thể trở thành "cường quốc trung bình" trong khu vực, theo lời hứa của các lãnh đạo Hoa Kỳ.
Những "hứa hẹn" gọi là "cam kết bảo vệ Biển Đông" hôm kia giữa ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch và đồng nhiệm Hoa Kỳ Jim Mattis, cho ta một chút lạc quan. Nhưng trong bối cảnh căng thẳng địa chiến lược khu vực Đông bắc Á, Bắc Hàn lên tiếng đe dọa Mỹ bằng hỏa tiễn "liên lục địa" với đầu đạn hạt nhân. Việt Nam đi "cầu viện" Mỹ trong hoàn cảnh như thế chưa chắc là đem lại hữu ích thực sự cho quốc gia. Nhưng dầu thế nào, khi Việt Nam đứng dưới "cây dù" của Mỹ, vẫn "an toàn" hơn là "đứng một mình", nói là "mở cửa cho tất cả các nước", mà chịu sự đe dọa thường xuyên của Trung Quốc.
Việt Nam đã mua được của Mỹ một số vũ khí "hữu dụng", với giá bạn bè "bớt 50%". "Nghĩa cử" của Mỹ đã "vả" vào những cái miệng tham lam đòi lại quả 25% của đám "hạm tướng" ăn của dân không từ một thứ gì.
Những chiếc trục thăng đời mới Mỹ đặc biệt sản xuất cho "chiến tranh biển đảo", được bán cho Việt Nam. Với giàn "thủy quân lục chiến" tinh nhuệ (nghe nói Việt Nam nhờ Mỹ huấn luyện), ta có thể hy vọng sắp tới Việt Nam có thể "chơi tay ngang" với Trung Quốc trong cuộc chiến giành chủ quyền ở các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính sách "đi dây" của cộng sản Việt Nam hy vọng chấm dứt. Biết bao lần tôi đã cảnh báo, "Việt Nam không đi với nước này chống nước kia", nhưng không ai cấm Việt Nam đi tìm "đồng minh" để ký kết một "liên minh phòng thủ".
Nhưng nếu "tự vệ" thôi thì vẫn chưa đủ. Tự vệ là nhằm bảo vệ lãnh thổ không để bị "mất thêm". Chiến tranh là giải pháp "tệ hại" cuối cùng để giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Trong khi giải pháp "tối ưu" vẫn là pháp lý.
Bài viết dưới đây tóm lược những ý kiến chủ đạo của cá nhân tôi trong "hồ sơ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa" viết từ nhiều năm trước, đăng hồi đầu năm 2017. Mục đích cảnh báo chính sách "quốc tế hóa Biển Đông" của nhà nước cộng sản Việt Nam đang thất bại.
Thử xét vấn đề "kế thừa" và sự "liên tục quốc gia" về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa Trên nền tảng các công ước Vienne 1969, 1978 và Hiệp định Paris 1973.
"Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở Hoàng Sa và Trường Sa" là câu nói mà ta thường nghe nơi cửa miệng của các phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Việt Nam. Mỗi khi phía Trung Quốc có một hành vi nào đó xâm phạm đến quyền và lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông, lập tức điệp khúc này lại thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông của nhà nước.
Mặc dầu lời phát biểu trên là cần thiết để phản đối những hành vi của Trung Quốc (đồng thời khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở các vùng lãnh thổ này), nhưng ngày qua ngày nếu chỉ lặp đi lặp lại một lời nói, một luận điệu, thì ý nghĩa của câu nói tự nhiên sẽ giảm đi.
Trong khi trên thực tế, các hành vi mạnh mẽ thể hiện quyền chủ quyền (Droit de souvraineté - Right of sovereignty) của Trung Quốc tại biển Đông, toàn bộ khu vực biển chung quanh Hoàng Sa đã trở thành việc "nội bộ" của Trung Quốc. Còn thái độ của "quốc tế", nếu Việt Nam không có phản ứng gì khác, thì nó trở thành "việc đã rồi".
Cái gọi là "thành phố Tam Sa" được thành lập từ tháng 7 năm 2012, thủ phủ đặt ở đảo Phú Lâm (thuộc HS). Như cái tên gọi, Tam Sa được đặt ra để "quản lý" ba nhóm đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa), Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) và Trung sa (gồm bãi chìm Macclesfield và Scarborough). Trong khoảng thời gian không dài lắm Trung Quốc đã hoàn tất việc "quân sự hóa" Hoàng Sa. Đảo Phú Lâm được mở rộng, trở thành một "pháo đài" với độ qui mô không kém các căn cứ của Mỹ ở Guam (Thái Bình dương) hay Diego Garcia (Ấn Độ dương). Đảo Quang Hòa, thuộc nhóm Nguyệt Thiềm, chiếm của Việt Nam bằng vũ lực ngày 19/1/1974, cũng được bồi đắp mở rộng. Một phi trường được xây dựng đồng thời các giàn cao xạ, hỏa tiễn phòng không cũng được bố trí trên đảo này.
Trung Quốc cũng cho phép tổ chức du lịch các đảo HS, cùng lúc đuổi, bắn các tàu đánh cá của Việt Nam không cho phép đến gần khu vực. Trung Quốc cũng ra lệnh "cấm đánh cá" trong một vùng biển rộng lớn, từ 12 vĩ độ về phía bắc, tức bao gồm các ngư trường truyền thống của Việt Nam, từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.
Vấn đề là Trung Quốc không ngừng ở Hoàng Sa. Họ tiếp tục chiến thuật "tằm ăn dâu" ở khu vực Trường Sa.
Trung Quốc đã xây dựng trong một thời gian nhanh kỷ lục một hoặc hai năm (2013-2015) các bãi san hô (trong đó 6 bãi chiếm của Việt Nam bằng vũ lực 14 tháng 3 năm 1988, gồm các bãi Chữ Thập, Gạc Ma, Huy Gơ, Ga Ven, Rubi và Châu Viên) thành những đảo nhân tạo có bề rộng vượt trội bất kỳ căn cứ quân sự của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Trung Quốc cũng hoàn tất việc "quân sự hóa" tại các đảo nhân tạo này với những phi trường, công sự cũng như hệ thống cao xạ, hỏa tiễn phòng không.
Những phản kháng "chiếu lệ" của Việt Nam trong suốt thời gian qua cho thấy hoàn toàn không hiệu quả. Điều này kéo dài, dư luận quốc tế nhìn nhận "sự việc đã rồi" của Trung Quốc. Tính hợp pháp các hành vi "effectivité" của Trung Quốc trên vùng biển này sẽ được khẳng định.
Việt Nam cần chấm dứt "điệp khúc" nhàm chán của phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao.
Mỗi ngày một ít, nếu tính từ năm 2012 đến nay, cái mà quốc tế gọi là "xắt lát xúc xích" (Việt Nam gọi là tằm ăn dâu), mỗi ngày Trung Quốc "cắn một chút", kết quả trở thành to lớn kinh khủng. Đe dọa Trung Quốc thành lập vùng Nhận dạng phòng không - ADIZ" bao gồm cả vùng biển Trường Sa là có thật.
1. Vấn đề "quốc tế hóa tranh chấp"
Để biện hộ cho sự bất lực của mình, bộ Ngoại giao Việt Nam thường vịn vào lý lẽ "quốc tế hóa việc tranh chấp" và "tranh đấu với Trung Quốc bằng biện pháp ngoại giao" .
Thế nào "quốc tế hóa" một "tranh chấp" về chủ quyền lãnh thổ giữa hai hay nhiều quốc gia ?
Ý nghĩa của việc "quốc tế hóa" một tranh chấp về lãnh thổ thường được hiểu như là việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia vì lợi ích của một số nước hay các tổ chức quốc tế".
Việc "giới hạn chủ quyền lãnh thổ" ở đây có thể hiểu là quyền tài phán của quốc gia ở vùng lãnh thổ liên hệ bị giới hạn, hay bị thay thể bằng quyền tài phán do quốc tế công pháp qui định.
"Quốc tế" ở đây có thể là Liên Hiệp Quốc, là các cơ quan trọng tài hay phán quyết của tòa án quốc tế…
"Lợi ích" này có thể là sự hòa bình, các quyền (của các quốc gia, tổ chức khác…) đã được qui định bởi luật pháp quốc tế v.v...
Nhưng nhân danh "bảo vệ lợi ích" các nước có thể can thiệp vào nội bộ một nước khác.
Mỹ và một số nước đồng minh, vì quyền lợi và an ninh quốc gia, nên đã can thiệp vào nội bộ các nước Afghanistan, Irak... Bây giờ, giả sử quyền lợi của Mỹ (và các nước khác) ở Biển Đông bị đe dọa (như bị giới hạn quyền tự do hàng hải và hàng không ở khu vực Biển Đông do vùng ADIZ của Trung Quốc), các nước này có thể sẽ "can thiệp" vào khu vực (để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ).
Theo thời gian Việt Nam cũng thay đổi lập trường yêu sách về biển đảo, để vừa phù hợp với luật quốc tế, vừa ép mình do hệ quả của việc "quốc tế hóa", điển hình qua hồ sơ "Thềm lục địa mở rộng" nộp LHQ hay các việc ủng hộ Tòa CPA trong vụ xử Phi-Trung Quốc cũng như hoan nghênh sự có mặt của hải quân Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhưng hiệu quả vẫn là "không có gì". Việc "quốc tế hóa" không hề ngăn chặn được bước tiến của Trung Quốc. Còn việc gọi là "đấu tranh với Trung Quốc", kết cuộc Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc.
Các bản "Tuyên bố chung" của hai bên luôn nhấn mạnh ở việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo "theo nhận thức chung đạt được của lãnh đạo cấp cao trong quá khứ". Bản "Tuyên bố chung" năm nay (2017) "lãnh đạo hai nước" khẳng định thêm một điều là Việt Nam và Trung Quốc "cùng chia sẻ một tương lai chung". Nếu suy diễn ra Biển Đông, những gì của Việt Nam cũng là của Trung Quốc.
Theo tôi, lãnh đạo Việt Nam phải thấy, và nhìn nhận, sự thất bại ngày càng sâu sắc trong các chính sách của mình. Nếu cứ tiếp tục như vậy, khu vực biển TS không bao lâu sẽ cùng số phận với vùng biển HS.
Việc Mỹ vừa thay đổi lãnh đạo. Nhận thức về quyền lợi và cách "tiếp cận" để bảo vệ quyền lợi của họ ở Biển Đông có thể sẽ thay đổi. Việc này sẽ tạo cho Việt Nam một "thời cơ" để phá vỡ cái "hiện trạng tù mù" hiện nay.
Kỹ niệm 44 năm ngày Hiệp định Paris 27 tháng giêng 1973 được ký kết cũng là cơ hội để nhắc lại một điều cơ bản của Hiệp định này về việc "bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam của các đại cường. Yếu tố này có thể đem lại cho các học giả trong nước một quan niệm khác về luật học, cũng như cho giàn lãnh đạo mới của Việt Nam một cái nhìn khác (hơn lãnh đạo cũ) và một phương cách mới nhằm giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.
2. Sự "liên tục" và "thừa kế" quốc gia về vấn đề lãnh thổ
"Kế thừa quốc gia" và "liên tục quốc gia" là những khái niệm thuộc Quốc tế công pháp, thể hiện qua các điều ước thuộc các công ước Vienne, điển hình là các công ước 1969 và 1978 về sự kế thừa lãnh thổ và hiệu lực các kết ước quốc tế.
Việc kế thừa quốc gia được (công ước Vienne 1978) đặt ra trong những tình huống : 1/ một vùng lãnh thổ của quốc gia này trở thành lãnh thổ của quốc gia khác. 2/ Quốc gia vừa dành được độc lập (Phần IV, điều 16 đến điều 30 Công ước Vienne) 3/ sự thống nhứt giữa hai quốc gia và 4/ một quốc gia bị phân rã thành nhiều quốc gia
"Kế thừa" quốc gia được định nghĩa là việc thay thế một quốc gia bởi một quốc gia khác ở các quan hệ quốc tế, về những vấn đề liên quan đến lãnh thổ.
Việc kế thừa quốc gia thể hiện qua các thủ tục pháp lý nhằm tái xác định (hay phủ định), trách nhiệm của quốc gia thừa kế đối với vùng lãnh thổ mới cũng như hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước tiền nhiệm đã thể hiện trước các định chế quốc tế, hay đối với các quốc gia khác.
Trường hợp hai miền Việt Nam sau 30-4-1975 :
Câu hỏi đặt ra là các sử gia và học giả Việt Nam sẽ phải dựa vào trường hợp nào (trong 4 trường hợp dẫn trên) để khẳng định danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ?
Trường hợp nào sẽ chứng minh cho sự "liên tục" của "quốc gia" Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa ? tức chứng minh được tính pháp nhân của "quốc gia" Việt Nam luôn tồn tại, cũng như danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn "liên tục", từ thời xa xưa các vua chúa Việt Nam khám phá, khai thác và quản lý (không gián đoạn) đến nay, bất chấp những biến cố đã làm thay đổi về lãnh thổ, dân số, chính trị, hay tên nước… ?
Đồng thời trường hợp nào sẽ xóa bỏ hiệu lực các kết ước, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, các tài liệu lịch sử... phát xuất từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà phía Trung Quốc sử dụng lâu nay như là những bằng chứng pháp lý ?
3. Thế bí về các lập luận chủ quyền của các học giả Việt Nam
a) Về lập luận "có hai quốc gia Việt Nam"
Hầu hết các học giả Việt Nam đều quan niệm rằng có hai "quốc gia Việt Nam" độc lập, có chủ quyền trong khoảng thời gian từ 1954 đến 30-4-1975. Quan điểm này có (rất) nhiều điều không ổn, về pháp lý cũng như trên thực tế. Hệ quả là không thuyết phục được dư luận quốc tế.
Quan điểm này cho rằng chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa được thụ đắc từ sự "kế thừa" : Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa từ Việt Nam Cộng Hòa chuyển sang Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó thực thể này thống nhứt với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trở thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày hôm nay.
Về pháp lý, nếu Việt Nam Cộng Hòa là một "quốc gia độc lập, có chủ quyền", thì việc Trung Quốc chiếm HS là việc "nội bộ" giữa hai "quốc gia độc lập, có chủ quyền" là Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là "quốc gia" thứ ba, không có liên can.
Tức là, khi quan niệm có "hai quốc gia" Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì sẽ không còn tranh cãi nào về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chiếm HS là chiếm trên tay Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lấy tư cách gì để phản đối ?
Ngoài ra, Tuyên bố đơn phương của "quốc gia" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn gọi là công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, nội dung nhìn nhận yêu sách về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc. Mặc dầu một số học giả Việt Nam cho rằng đó là "vũ khí tuyên truyền của Trung Quốc", nhưng thực tế cho thấy đây là một bằng chứng quan trọng của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của họ ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo tập quán quốc tế, việc im lặng trong trường hợp (bắt buộc một quốc gia phải lên tiếng) đã là sự "đồng thuận ám thị". Huống chi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa còn ra tuyên bố công khai "nhìn nhận" yêu sách của Trung Quốc.
Tức là, khi quan niệm "có hai quốc gia Việt Nam", thì mọi vận động, mọi chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ là điều vô ích.
Trong trường hợp này Việt Nam Cộng Hòa đơn giản là một "quốc gia" bị "giải thể", không có thừa kế. Lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa được "sáp nhập" đơn thuần vào lãnh thổ một nước khác. Mọi kết ước của Việt Nam Cộng Hòa ký kết với các tổ chức quốc tế hay các quốc gia khác, trở thành "vô hiệu lực - caduc".
b) Về lập luận "quốc gia vừa dành được độc lập"
Đây (có lẽ) là quan điểm chính thức của Việt Nam hiện nay, vì nó thể hiện đúng trên lý thuyết "trình tự lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa".
Nguyên tắc (pháp lý) áp dụng trong trường hợp này là "table rase". Có nghĩa là quốc gia (vừa mới độc lập) không bị chi phối bởi các kết ước do quốc gia tiền nhiệm ký kết.
Nhưng điều này không còn thuyết phục.
Trên thực tế, Mỹ không hề có tham vọng về lãnh thổ ở miền Nam. Sự có mặt của Mỹ ở miền Nam không khác với việc quân Mỹ có mặt ở Tây Đức (trước khi thống nhứt với Đông Đức đầu thâp niên 90), hay ở Nam Hàn, Nhật hoặc ở các nước đồng minh hiện nay.
Mặt trận giải phóng miền Nam "trương cờ giải phóng" dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm. Vấn đề là không ai trưng ra được bằng chứng cho thấy chính quyền ông Diệm bị chi phối, hay bị khuynh loát bởi bất kỳ thế lực ngoại bang nào, kể cả Mỹ. Ngược lại, ông Diệm bị chết vì lý do chống Mỹ đổ quân vào Việt Nam.
Ngay cả dưới thời chính phủ ông Kỳ, Thiệu… Không có chính phủ nào của Việt Nam Cộng Hòa bị lệ thuộc và Mỹ, theo kiểu thực dân hết cả.
Việt Nam Cộng Hòa không hề lệ thuộc vào Mỹ như một chính phủ "bù nhìn" với "đế quốc thực dân" là Mỹ. Mặt trận giải phóng miền Nam lấy lý do gì để trương cờ "giải phóng" ?
Đồng thời sự thật lịch sử cho thấy thực thể chính trị Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là "cánh tay nối dài" của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do đảng cộng sản Việt Nam lập nên, nhân Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba.
Vì vậy làm gì có thể vịn vào lý do "quốc gia vừa dành được độc lập" để "xù" tất cả những kết ước trong quá khứ ?
Ngay cả khi chấp nhận lập luận này, thì quốc gia gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hôm nay vịn vào cái gì để chối bỏ di sản của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Không có lý do nào thuyết phục cả. Đơn giản vì Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia "tiếp nối" quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lãnh đạo luôn Mặt trận giải phóng miền Nam (do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo).
Làm cách nào để hiện hữu hai lập trường đối nghịch, theo kiểu Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam (kế thừa Mặt trận giải phóng miền Nam) và Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc (tiếp nối Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với công hàm 1958) ?, Lịch sử đã bạch hóa, không lẽ cứ tiếp tục ngụy biện bằng "bịa sử" ?
Trước sự lấn lướt của Trung Quốc, trước đây ở HS, bây giờ áp lực mạnh mẽ ở TS, Việt Nam hoàn toàn không có phản ứng nào khác, ngoài luận điệu cũ mòn đã nói ở phần dẫn nhập. Các học giả Việt Nam đã tự "đào mồ" chôn mình, vì đã đưa trường hợp thống nhứt Việt Nam vào dưới ánh sáng của "luật quốc tế".
Các lập luận sai lầm của các học giả Việt Nam cần phải chấm dứt.
4. Hiệp định Paris 27/1/1973
Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng giêng năm 1973. Trên nhiều phương diện nó giống như một "bản sao" của Hiệp định Genève 27/3/1954. Bởi vì, thứ nhứt, cả hai hiệp định không nhằm giải quyết dứt khoát cuộc "chiến tranh" mà chỉ tạo một "khoảng trống cơ hội" gọi là "đình chiến". Cơ hội này giúp cho Hoa Kỳ "tháo chạy trong danh dự". Nhưng phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhân cơ hội (đồng minh đã tháo chạy) dồn quân đánh bại Việt Nam Cộng Hòa, thâu tóm lãnh thổ chỉ hai năm sau.
Thứ hai, Hiệp định Paris 1973 và Hiệp định Genève 1954 cùng khẳng định nguyên tắc "một quốc gia Việt Nam duy nhứt".
Điều 1, chương I Hiệp định Paris 1973 qui định "Hoa Kỳ và các nước tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, như hiệp định Genève 1954 đã xác nhận".
Cả hai Hiệp định đều được "quốc tế" bảo trợ, bao gồm Trung Quốc. Riêng hiệp định Paris 1973, đại diện phía Trung Quốc là Bộ trưởng bộ ngoại giao Cơ Bằng Phi (Chi Peng Fei).
Tức là, trong khoản thời gian 1954 đến 1975, hai thực thể chính trị có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, đều thuộc về một "quốc gia Việt Nam duy nhứt".
Từ điểm này ta thấy quan điểm "hai quốc gia Việt Nam" của các học giả Việt Nam đã sai. Tư cách pháp nhân của hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa trước quốc tế cần phải được xác định. Nhưng dứt khoát Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa không phải là "hai quốc gia độc lập, có chủ quyền".
Trên quan điểm công pháp quốc tế, "quốc gia", là thực thể pháp nhân duy nhứt, bất khả phân. Tư cách pháp nhân của hai thực thể chính trị Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia chưa hoàn tất" (Etat partiel). Cả hai miền đều thuộc về một quốc gia duy nhứt gọi là Việt Nam. Trường hợp tương tự Đông và Tây Đức, Nam và Bắc Hàn hay Trung Quốc lục địa và Đài Loan cho ta thấy điều này.
Và nếu hai thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đều thuộc về một "quốc gia duy nhứt là Việt Nam", thì việc "thống nhứt" hai miền là việc "nội bộ" của quốc gia Việt Nam. Việc "thống nhứt đất nước" đã thể hiện theo "cái cách" của Việt Nam.
Vấn đề "liên tục quốc gia" hay "kế thừa quốc gia", như các công ước Vienne đòi hỏi, cũng không đặt ra. Đơn giản vì chỉ có một "quốc gia Việt Nam duy nhứt". Việt Nam trước sau vẫn là Việt Nam, luôn là Việt Nam, thì tự nó đã "liên tục", tự nó đã "truyền tục" trong nội bộ.
Trong khi, nếu quan niệm Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là hai "quốc gia", vấn đề "thừa kế quốc gia" phải xét theo các qui định của luật quốc tế. Các tuyên bố đơn phương, các tài liệu lịch sử… từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xuất phát cũng được xét dưới ánh sáng của luật quốc tế.
5. Trở lại Lá thư mở ngày 29/5/2014 gởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Tháng 5 năm 2014 tôi có viết thư mở gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhằm thuyết phục ông này kiện Trung Quốc sau vụ giàn khoan HY 981. Nội dung phản đối quan điểm của quan chức cũng như học giả Việt Nam cho rằng "có hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975".
Lá thư viết :
"Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được xác định theo Hiệp định Paris năm 1973 : "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận".
Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước Việt Nam : đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhứt. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhứt. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần tôn trọng "độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam" của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Cộng Hòa hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa).
Điều này hiển nhiên không đúng.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc".
6. Vấn đề hòa giải quốc gia
Như vậy lối thoát pháp lý của Việt Nam hiện nay để khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa là phải dựa vào nội dung các hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 đồng thời tiếp nhận di sản của Việt Nam Cộng Hòa.
Nước Việt Nam hôm nay không thể "ôm" mãi mối mâu thuẫn do lịch sử để lại là sự xung đột giữa hai miền. Phe chiến thắng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã áp đặt lý lẽ của mình trong toàn xã hội Việt Nam từ 1975 đến nay. Vì vậy làm sao thuyết phục được dư luận quốc tế, khi lập luận về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là lập luận của phe chiến bại Việt Nam Cộng Hòa ?
Sau một cuộc nội chiến, một nhà nước bình thường, mong muốn đất nước phát triển lành mạnh, luôn áp dụng một chính sách "hòa giải quốc gia" để hóa giải mọi oán thù gây ra do cuộc chiến. Các bài học như cuộc nội chiến nước Mỹ, hay các xung đột quốc tế như Thế chiến thứ II… cho thấy các nước giàu mạnh nhứt thế giới đều là các nước có chính sách "hòa giải" được áp dụng hữu hiệu.
Việt Nam hôm nay vẫn luôn đứng sau các nước phát triển Châu Á, mặc dầu Việt Nam có dư tiềm năng để qua mặt các nước Thái Lan, Đài Loan, Nam Hàn… Thậm chí Việt Nam đang bị Campuchia qua mặt trên một số lãnh vực. Trong khi trên phương diện chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc ngày càng lấn tới.
Nguyên nhân là mâu thuẫn nội bộ của Việt Nam quá lớn, trở thành một sức trì, Việt Nam không nỗ lực tiến tới là sẽ thụt lùi.
Hòa giải quốc gia không phải là vấn đề "sỉ diện" của đảng cộng sản Việt Nam mà là mệnh lệnh của tương lai dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 10/08/2017