Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Lương tâm và trách nhiệm chính trị

Vaclav Havel - Trần Quốc Việt dịch

Sau khi Cách mạng Nhung thành công, Vaclav Havel trở thành tổng thống Tiệp Khắc. Hai tháng sau ông đọc diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Chúng tôi trích dịch phần sau bài diễn văn này. Tựa đề của người dịch. (TQV)

vaclav1

Tổng thống Václav Havel trong phòng đọc sách tại nhà riêng - Ảnh chụp năm 1989

--------------------------

Tôi làm tổng thống chỉ mới hai tháng, và tôi đã không theo học trường lớp đào tạo tổng thống nào. Trường học duy nhất của tôi chính là trường đời. Vì thế, tôi không muốn làm phiền quý vị nữa với quan điểm chính trị của mình, mà thay vì thế tôi sẽ chuyển sang lĩnh vực gần gũi hơn với tôi, sang điều tôi muốn gọi là khía cạnh triết học của những thay đổi mà mọi người vẫn còn quan tâm ấy mặc dù chúng đang diễn ra ở đất nước xa xăm của chúng tôi.

Chừng nào con người là con người, dân chủ theo ý nghĩa trọn vẹn của từ này sẽ mãi mãi vẫn chỉ là lý tưởng ; ta có thể tiến đến gần lý tưởng ấy như ta tiến đến gần chân trời, theo những cách có thể tốt hơn hay tệ hơn, nhưng ta không bao giờ có thể hoàn toàn đạt đến lý tưởng ấy. Theo nghĩa này quý vị cũng chỉ đang tiến đến gần dân chủ. Giống như những nước khác, quý vị cũng có hàng ngàn vấn đề đủ loại. Nhưng quý vị có lợi thế rất lớn : quý vị đã và đang không ngừng tiến đến gần dân chủ trong suốt hơn 200 năm, và cuộc hành trình về hướng chân trời ấy của quý vị chưa từng bao giờ bị gián đoạn bởi chế độ toàn trị. Dù truyền thống nhân văn của họ có từ thiên niên kỷ thứ nhất nhưng Czech và Slovak tiến đến gần dân chủ chỉ trong hai mươi năm, giữa hai cuộc thế chiến, và bây giờ trong ba tháng rưỡi kể từ ngày 17 tháng Mười Một năm ngoái.

Lợi thế quý vị có so với chúng tôi thấy rõ ràng ngay.

Chế độ toàn trị cộng sản đã để lại cho hai nước chúng tôi, Czech và Slovak, cũng như tất cả các nước ở Liên Xô, và các nước khác mà Liên Xô đã nô dịch dưới thời của nó di sản vô số những người chết, chuỗi dài đau khổ vô tận của con người, kinh tế hoàn toàn suy sụp, và nhất là sự tủi nhục vô cùng lớn của con người. Chế độ đã mang đến cho chúng tôi biết bao kinh hoàng mà may mắn thay quý vị đã không biết đến.

Đồng thời, tuy vô tình, tất nhiên chế độ cũng cho chúng tôi điều tích cực : khả năng đặc biệt để đôi lúc nhìn hơi xa hơn người đã không trải qua kinh nghiệm cay đắng này. Người mà không thể nào đi lại và sống cuộc đời bình thường vì y bị tảng đá lớn đè thì có nhiều thời gian suy nghĩ về bao hy vọng của mình hơn người không bị rơi vào hoàn cảnh như thế.

Điều tôi muốn nói là thế này : Tất cả chúng tôi đều phải học hỏi rất nhiều điều từ quý vị, từ cách giáo dục con cái, cách bầu các dân biểu, cho đến cách tổ chức hoạt động kinh tế để từ đấy đưa tới thịnh vượng chứ không phải bần cùng. Nhưng không phải chỉ sự giúp đỡ từ những người học cao, những người quyền thế và những người giàu có cho người không có gì cho lại.

Chúng tôi cũng có thể cho lại quý vị : kinh nghiệm của chúng tôi và kiến thức phát xuất từ kinh nghiệm ấy.

Đây là chủ đề cho nhiều cuốn sách, trong số ấy nhiều cuốn đã được viết và nhiều cuốn chưa được viết.

Kinh nghiệm cụ thể tôi đang đề cập đến đã cho tôi niềm xác tín lớn lao : Ý thức có trước Tồn tại, chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa Marx tuyên bố.

Vì lý do này, sự cứu khổ của thế giới con người này không nằm ở đâu khác hơn ở trong tim người, trong sức mạnh suy tư của con người, trong sự khiêm tốn của con người và trong trách nhiệm của con người.

Không có cuộc cách mạng toàn cầu trong lĩnh vực ý thức con người thì sẽ chẳng có thay đổi gì tốt hơn trong lĩnh vực tồn tại với tư cách con người của chúng ta, và thế giới này tất đi đến tai họa không thể nào tránh khỏi, cho dù tai họa ấy thuộc về sinh thái, xã hội, dân số hay sự sụp đổ nói chung của nền văn minh. Nếu chúng ta không còn bị đe dọa bởi thế chiến hay bởi nguy cơ là những núi vũ khí hạt nhân chồng chất phi lý biết đâu sẽ nổ tung thế giới, thì điều này không có nghĩa chúng ta đã thắng chắc chắn. Thật ra chúng ta hoàn toàn không đạt đến chiến thắng chắc chắn.

Chúng ta vẫn còn cách rất xa "gia đình nhân loại" ấy ; thật ra thay vì đến gần gia đình lý tưởng ấy chúng ta dường như đang xa dần nó. Đủ mọi loại quyền lợi : quyền lợi cá nhân, ích kỷ, nhà nước, dân tộc, nhóm và, tất nhiên công ty vẫn quan trọng hơn rất nhiều quyền lợi thật sự chung và toàn cầu. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của niềm tin tai hại và hoàn toàn ảo tưởng rằng con người là đỉnh cao của sáng tạo, mà không chỉ một phần của sáng tạo, và vì thế mọi thứ đều được cho phép. Có nhiều người còn nói họ không quan tâm đến bản thân mà quan tâm đến sự nghiệp chung, mặc dù họ rõ ràng chỉ mưu cầu cho bản thân chứ hoàn toàn không cho sự nghiệp chung. Chúng ta vẫn đang tàn phá hành tinh đã được phó thác cho chúng ta, và môi trường hành tinh. Chúng ta vẫn nhắm mắt làm ngơ trước bao xung đột xã hội, sắc tộc và văn hóa ngày càng tăng trên thế giới. Thỉnh thoảng chúng ta nói xã hội kỹ thuật tẻ nhạt chúng ta tạo ra cho mình không còn phục vụ chúng ta nữa mà nô lệ chúng ta, tuy nhiên chúng ta vẫn không làm gì về chuyện này.

Nói cách khác, chúng ta vẫn không biết cách đặt đạo đức trước chính trị, khoa học và kinh tế. Chúng ta vẫn không thể hiểu rằng nếu tất cả các hành động của chúng ta hợp với đạo đức thì nền tảng thật sự duy nhất cho tất cả các hành động ấy chính là trách nhiệm. Trách nhiệm với cái gì đấy cao hơn gia đình tôi, tổ quốc tôi, công ty tôi, sự thành đạt của tôi. Trách nhiệm với trật tự Tồn tại, nơi tất cả các hành động của chúng ta đều được ghi lại vĩnh viễn và nơi, và chỉ ở nơi ấy chúng sẽ được phán xét đúng đắn.

Người thông dịch hay người trung gian giữa chúng ta và quyền lực cao hơn này là điều mà từ xưa đến nay thường được đề cập đến như là lương tâm con người.

Nếu tôi đặt hành vi chính trị của mình dưới quyền của mệnh lệnh lương tâm này, tôi không thể nào đi quá sai. Ngược lại nếu tôi không được tiếng nói lương tâm này hướng dẫn thì ngay cả mười trường đào tạo tổng thống với 2.000 nhà khoa học chính trị giỏi nhất trên thế giới cũng không thể nào giúp được tôi.

Vì vậy sau một thời gian dài chống lại cuối cùng tôi quyết định chấp nhận gánh vác trách nhiệm chính trị.

Tôi không phải là trí thức đầu tiên và cũng chẳng phải là trí thức cuối cùng nhận lấy trách nhiệm này. Trái lại, tôi tin thời nào cũng sẽ có càng nhiều trí thức như vậy. Nếu hy vọng của thế giới nằm ở ý thức con người, thì rõ ràng rằng trí thức không thể nào mãi mãi tránh né phần trách nhiệm của mình đối với đời và che giấu sự chán ghét chính trị của họ dưới nhu cầu được tuyên bố là độc lập.

Thật là dễ dàng có sự độc lập trong chương trình của mình và rồi để cho những người khác thực hiện chương trình ấy. Nếu mọi người nghĩ như thế, chẳng bao lâu sẽ không có ai độc lập.

Tôi nghĩ người Mỹ nên hiểu cách suy nghĩ này. Há chẳng phải những đầu óc lỗi lạc nhất của nước quý vị, những người quý vị có thể gọi là trí thức, những người đã thảo ra Tuyên ngôn Độc lập lừng danh của quý vị, Tuyên ngôn Nhân quyền của quý vị và Hiến pháp của quý vị và trên hết cũng chính là những người tự mình gánh vác trách nhiệm áp dụng chúng vào thực tế ? Người công nhân thuộc quận Branik ở Prague, người đã được tổng thống quý vị nhắc đến trong Thông điệp Liên bang vào năm này, hoàn toàn không phải là người duy nhất ở Tiệp Khắc, chứ đừng nói trên thế giới, được khích lệ bởi các văn kiện vĩ đại này. Chúng khích lệ tất cả chúng ta. Chúng khích lệ chúng ta dù chúng đã hơn 200 tuổi. Chúng khích lệ chúng ta hãy trở thành công dân.

Khi Thomas Jeferson viết "Nhân dân lập ra chính quyền và đồng thuận ban cho chính quyền quyền lực hợp pháp", đấy là hành động đơn giản nhưng quan trọng của tinh thần con người.

Tuy nhiên điều ban ý nghĩa cho hành động ấy chính là sự thật là tác giả đã suốt đời ủng hộ hành động ấy. Không chỉ bằng lời nói của ông mà cũng bằng chính hành động của ông.

Tôi sẽ kết thúc nơi tôi bắt đầu. Lịch sử đã tăng tốc. Một lần nữa tôi tin rằng chính tinh thần con người sẽ nhận thấy sự tăng tốc này, đặt tên cho nó, và biến những lời ấy thành hành động.

Vaclav Havel

Nguyên tác : "Václav Havel European Dialogues", trích dịch từ bài diễn văn của Vaclav Havel trước Lưỡng Viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 21/2/1990.

Trần Quốc Việt dịch

**********************

Sau độc tài, nhân dân phải hành động

Anne Applebaum - Trần Quốc Việt dịch

Sau khi tiếng súng ngưng bắn vào năm 1945, hàng ngàn trẻ em và thiếu niên bị bỏ mặc bơ vơ giữa cảnh Berlin đổ nát hoang tàn. Cứ trong năm học sinh thì có một học sinh mất cha hay mẹ. Tuyệt vọng liệm kín cõi lòng những người lớn ở thủ đô mà vẫn còn đặt dưới sự kiểm soát toàn bộ của Liên Xô.

vaclav2

Ở quận Neukölln phía tây, một nhóm những người trẻ quyết định tự mình giải quyết lấy vấn đề. Tuyên bố vào ngày trước chiến thắng Đồng Minh rằng họ sẽ thành lập một nhóm dân sự và gọi nó là "nhóm chống phát xít". Hai tuần sau, họ đã có 600 thành viên, và họ đã dọn sạch những đống gạch vụn ra khỏi hai sân vận động thể thao và tổ chức được năm trại mồ côi.

Khích lệ trước tấm gương của họ, những người Đức trẻ tuổi khác bắt đầu tổ chức những nhóm chống phát xít ở Berlin, nhưng tất cả những nhóm này đều không tồn tại lâu. Vào ngày 31 tháng Bảy, Chính quyền Quân đội Xô viết cấm tất cả những tổ chức không đăng ký. Sau đó, nhiều nhóm, câu lạc bộ và hội đoàn không được phép tồn tại.

Quyết định này không phải là điều bất thường. Những hồ sơ lưu trữ được bạch hóa mới đây chứng tỏ rằng mục tiêu trấn áp các nhà hoạt động dân sự, mà thường xuyên được thực hiện bằng bạo lực, thường được ưu tiên hơn các mục tiêu chính trị và kinh tế khác ở trong khối Xô viết vào thời đó. Bạo lực được họ chọn lọc và cẩn thận nhắm vào các tầng lớp tinh hoa trong xã hội- trí thức, thương gia, linh mục, cảnh sát, và những người kháng chiến chống phát xít- và nhất là nhắm vào bất kỳ ai có khả năng thành lập và lãnh đạo bất kỳ tổ chức tự phát nào, cho dù tổ chức ấy có phi chính trị như thế nào chăng nữa. Những nhóm hướng đạo, các hội Tam Điểm và các nhà lãnh đạo thanh niên Công giáo đều là những nạn nhân đầu tiên của những chế độ này.

Trong những thập niên về sau, hình thái"toàn trị hóa" Xô viết này - theo đuổi sự kiểm soát toàn bộ tất cả các khía cạnh của cuộc sống dân sự - đã được bắt chước rộng rãi ở nhiều nơi. Iraq của Saddam Husein và Muammar el-Qaddafi của Libya đã tìm kiếm những lời khuyên từ Liên Xô và Đông Đức về các phương pháp công an mật, cũng như các chính quyền Trung Quốc, Ai Cập, Syria, Angola, Cuba và Bắc Hàn đã tìm kiếm những lời khuyên về các phương pháp này và về những khía cạnh khác nhằm kiểm soát xã hội.

Như bây giờ chúng ta biết, những phương pháp này đã không bao giờ thành công ở Đông Âu như họ mong muốn, và chúng cũng không bao giờ hoàn toàn thành công ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh, hay như chúng ta mới thấy gần đây, ở thế giới Ả rập. Tuy nhiên, chúng đã gây ra những tổn hại rất lớn.

Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực, những người Bôn sê vích và các tay sai của họ tại Đông Âu đã loại bỏ hay phá hoại các giáo hội, tổ chức từ thiện, báo chí, nghiệp đoàn, hội văn chương và giáo dục, công ty và cửa hàng bán lẻ, thị trường chứng khoán, công đoàn, ngân hàng, câu lạc bộ thể thao và các trường đại học lâu đời hàng thế kỷ. Nếu không có gì khác, lịch sử hậu chiến Đông Âu chứng tỏ những tổ chức của con người thật mỏng manh biết chừng nào. Nếu có đủ người quyết tâm vừa đủ, họ có thể hủy diệt hoàn toàn tất cả những thể chế lâu đời và tưởng chừng như trường tồn thuộc đủ mọi loại về pháp lý, chính trị, giáo dục và tôn giáo.

Vì những tổn hại ghê gớm này, các nước hậu cộng sản cần không chỉ các cuộc bầu cử, các cuộc vận động chính trị và các đảng chính trị để trở lại thành xã hội tự do hoạt động bình thường, và cần không chỉ một vài cải cách kinh tế để trở nên thịnh vượng. Các nước này cũng cần truyền thông độc lập, kinh tế tư nhân, cuộc sống dân sự phát triển tốt và lành mạnh, hệ thống pháp lý và kiểm tra, và một văn hóa chấp nhận những tổ chức và các nhóm độc lập.

Không phải ngẫu nhiên mà những nước hậu cộng sản thành công nhất là những nước đã cố gắng gìn giữ được trong suốt giai đoạn cộng sản một phần nhỏ nhoi của xã hội dân sự, hay những nước náo nức muốn bắt chước luật pháp và thái độ của Tây Âu về văn hóa dân sự. Những nước ít thành công nhất, như Nga, là những nước nơi ký ức về xã hội dân chủ cơ sở đã mờ nhạt vào năm 1991.

Mặc dù về phương diện văn hóa và chính trị Châu Âu hậu toàn trị chẳng chung gì nhiều với thế giới Ả rập, nhưng hai vùng này lại chung nhau ở điểm này : các nhà độc tài ở nước họ đã đàn áp (hay đã cố gắng đàn áp) phong trào đấu tranh dân sự và các tổ chức độc lập. Một lý do Huynh đệ Hồi giáo và những người Hồi giáo cực đoan xuất hiện trong thế giới Ả rập hậu cách mạng với rất nhiều quyền lực chính trị và được đông đảo dân chúng ủng hộ là rất nhiều đối thủ cạnh tranh chính trị tiềm tàng với họ đã bị tiêu diệt từ lâu.

Những người Hồi giáo cực đoan kiên cường hơn trước sự trấn áp vì nhiều lý do - vì đức tin và tinh thần dân sự đã khích lệ những người ủng hộ họ, vì họ có những mối quan hệ ở phía bên kia biên giới và nhận được tài trợ từ các nước Vịnh Ba Tư - cho nên, giờ đây, ở nhiều nơi, họ là những nhóm duy nhất ít nhiều có khả năng tổ chức hay có danh tiếng ở nơi cuộc đấu tranh diễn ra.

Nhưng khi họ cạnh tranh quyền lực, họ đặt ra những câu hỏi lớn cho Trung Đông. Liệu họ sẽ tái tạo lại những phương pháp của các chế độ độc tài và đàn áp những tổ chức khác ? Hay họ sẽ khuyến khích những hình thức đấu tranh dân sự đa dạng hơn và phong phú hơn ? Cuộc tranh luận ấy bây giờ đang diễn ra trong nội bộ Huynh đệ Hồi giáo : người thì muốn tổ chức này vẫn luôn luôn đoàn kết, nhất trí và nắm quyền, nhưng người khác lại kêu gọi sự đa dạng hơn cả trong tổ chức lẫn trong quốc gia.

Ở nơi khác - tuy ta không biết nơi ấy qua các tin tức chính - có những dấu hiệu về sự động viên xã hội rộng lớn hơn. Trong chuyến đi Libya vào mùa xuân vừa qua tôi có cuộc gặp gỡ quả thật nức lòng nhất với một nhóm tên Làm sạch Tripoli, mà tổ chức những tổ tình nguyện viên đi thu gom rác. Những người đứng đầu nhóm đang thương lượng với sở vệ sinh thành phố về địa điểm của một bãi rác mới, một việc làm đơn giản mà những người trẻ chống phát xít ở Berlin vào năm 1945 chắc sẽ tán đồng.

Có lẽ những việc làm như thế sẽ giúp Libya xây dựng nền văn hóa chính trị mà dân chủ theo nghĩa tốt đẹp nhất - với những công dân cùng tham gia vào những quyết định ảnh hưởng đến họ. Nhưng cơ sở hạ tầng cần thiết cho hoạt động như thế vốn phức tạp. Để duy trì hoạt động như thế, Libya sẽ cần những luật tốt về các tổ chức bất vụ lợi, quy định về việc đóng góp từ thiện, báo chí tự do và đủ chuyên nghiệp để ghi chép lại những việc làm như thế, và những viên chức chính quyền phải trả lời trước nhân dân.

Mặc dù tôi thích tin khác đi, nhưng sự ủng hộ từ thế giới bên ngoài dành cho những thay đổi như thế chẳng giúp ích gì nhiều. Các tổ chức tư nhân và chính phủ có thể giúp đỡ vật chất, và các tổ chức phi chính phủ có thể tư vấn, đặc biệt về những vấn đề về pháp lý và quy định mà thường không được lưu tâm đến. Các viên chức và những nhà hoạt động xã hội đã trải qua những thời kỳ quá độ đầy sóng gió ở nơi khác có thể chia sẻ kinh nghiệm, như người Ba Lan và người Tiệp hiện đang chia sẻ kinh nghiệm với người Tunisia và người Ai Cập.

Nhưng quan trọng nhất, một xã hội bị đè nén cần một nhân dân đầy nhiệt huyết nếu xã hội ấy sẽ phải trở lại đầy sức sống chính trị. Hay chính xác hơn, xã hội ấy cần lòng yêu nước, ý thức lịch sử, giáo dục, tham vọng, lạc quan và, đặc biệt, kiên nhẫn. Những tàn phá do các chế độ toàn trị gây ra luôn luôn phải mất đến hàng chục năm trời thậm chí đến hàng bao thế hệ mới gầy dựng trở lại.

Anne Applebaum

Nguyên tác : After Tyrants, the People Must Act, The New York Times, 04/11/2012

Trần Quốc Việt dịch

Tác giả Anne Applebaum chuyên viết về đối ngoại cho tờ báo The Washington Post.

 

Published in Diễn đàn