Mô hình kinh tế hiện thời được hình thành dựa trên tư tưởng thực dụng giữ nguyên chế độ đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo toàn bộ xã hội đồng thời với áp dụng kinh tế thị trường. Nó bắt đầu từ Đổi mới năm 1986, và mặc dù nó bị coi là "phi lô-gíc về lý luận", có điểm yếu và bất ổn, nhưng đã thành công nhờ có tăng trưởng và giảm được đói nghèo. Tuy nhiên, gần đây sự tồn vong của chế độ đang bị đe doạ. Thực tế càng ngày càng cho thấy rằng nguyên nhân tự đánh giá là do suy thoái tư tưởng, đạo đức cán bộ công chức là chưa đầy đủ, chủ quan, và bởi vậy yêu cầu cải cách thể chế chính trị đã được đặt ra.
AFP
Củng cố Đảng – Nhà nước "trong sạch vững mạnh" là chính sách trọng tâm tại Đại hội 13 của Đảng cộng sản Việt Nam. Nghĩa là, mọi điều hiện giờ được thực hiện là để Đảng cộng sản Việt Nam củng cố ảnh hưởng và tầm kiểm soát không chỉ đối với Nhà nước mà toàn bộ xã hội, không chỉ chính trị, xã hội mà cả kinh tế. Tuy nhiên, Đảng – Nhà nước không thể "mạnh" nếu thiếu mô hình kinh tế tương thích, và câu hỏi đặt ra là việc thay đổi mô hình kinh tế hiện tại thế nào ?
"Mô hình kinh tế hiện thời"
Mô hình kinh tế hiện thời mang đặc điểm và dựa trên những trụ cột chủ yếu chứa đựng sự thiếu bền vững, thậm chí một số yếu tố mong manh trước bối cảnh khó lường. Trước hết, tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu. Đây là thực tế đặt ra từ khi Đổi mới, là thành tích đồng thời cũng là điều kiện để chế độ tồn tại. Mục tiêu tăng trưởng nhanh là do chính quyền đặt ra, mang tính pháp lệnh tạo ra sức ép tập trung nguồn lực, nỗ lực hoàn thành của "cả hệ thống chính trị" bất chấp những thay đổi khó lường. Chẳng hạn, năm 2022 này tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP là 6,5%. Các nhà chuyên môn nói về các kịch bản cao thấp hay trung bình mang tính tham khảo, nhưng việc điều chỉnh là hãn hữu và 8% "dự kiến" vẫn sẽ có thể đạt được mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và các nguy cơ, rủi ro đe doạ bao trùm các trụ cột tăng trưởng như các lĩnh vực đầu tư, tài chính, bất động sản. Ngoài ra, việc theo đuổi tăng trưởng nhanh khiến nguồn lực khó dành cho chất lượng và năng suất, thậm chí không tránh nhiều trường hợp đánh đổi môi trường hay dân chủ.
Hai lĩnh vực đầu tư và bất động sản là các trụ cột thiết yếu nhưng ngày càng bộc lộ bất cập, thách thức. Chiến lược mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài, với sự hỗ trợ của nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ, đã cho phép duy trì tỉ lệ tăng trưởng tương đối cao. Mặc dù, ký kết tham gia nhiều hiệp định tự do thương mại, nhưng khả năng hấp thụ vốn, công nghệ hạn chế, một phần do thiếu đột phá, chẳng hạn như các đặc khu hành chính kinh tế, và chủ yếu dựa vào gia công và xuất khẩu nông, hải sản nên hiệu quả không cao.
Sau khi khống chế thành công đại dịch Covid-19 các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chuyến công du nước ngoài với tần suất cao vì mục tiêu kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư, nhưng liệu có khắc phục được những nhược điểm cố hữu của chính sách là các khoản đầu tư ngày càng ít sinh lời. Ngoài ra, đầu tư công trong nước vốn được coi là cứu cánh cho tăng trưởng cũng đang bị nghẽn do thể chế, khiến khó khăn ngày càng lớn.
Hơn thế, trụ cột bất động sản luôn giữ vai trò động lực trung tâm do quá trình đô thị hóa và nhu cầu xã hội về nhà ở, du lịch, nghỉ dưỡng tăng nhanh. Lĩnh vực này chiếm khoảng 10,49 % GDP năm 2019 nhưng nếu tính cả các lĩnh vực có liên quan, như vật liệu xây dựng : xi măng, sắt thép, trang trí, đồ nội thất, tỉ lệ này còn cao hơn nhiều. Trên thực tế, lĩnh vực bất động sản liên quan chặt chẽ với thị trường tài chính, ngân hàng, và sự lệ thuộc mạnh mẽ lẫn nhau ngày càng trở nên nhạy cảm, chỉ cần xảy ra khó khăn ở một mắt xích khiến tất cả đều suy yếu. Và đó chính là điều đang xảy ra hiện nay trong nền kinh tế, có khởi nguồn từ trái phiếu doanh nghiệp bị phát hành lạm dụng "dưới chuẩn". Để "giải cứu", biện pháp cấp bách được đưa ra là "nới room" tín dụng thêm 1,5 – 2% (khoảng 240 nghìn tỷ) cho năm 2022, và việc kiểm soát dòng tiền đi đúng địa chỉ và kịp thời trở nên thách thức khi thời gian chỉ còn chưa đầy một tháng !
Công nhân tại một nhà máy may xuất khẩu ở Hưng Yên, ngày 30/12/2020 (minh hoạ). Reuters
"Chưa sẵn sàng"
Về cơ cấu quyền lực, so với phái kỹ trị, phái đảng – đoàn, lực lượng vũ trang đang chiếm ưu thế, nhưng để tạo ra sự thay đổi trong cải cách, trong đó quan trọng là một mô hình điều hành nền kinh tế dường như "chưa sẵn sàng".
Quan sát những động thái điều hành trước các sự kiện kinh tế - xã hội diễn ra từ đầu năm 2021, năm đầu của nhiệm kỳ 13 đến nay cho thấy hình ảnh ông Thủ tướng Chính phủ như vị tư lệnh chiến trường với "các tổ công tác đặc biệt" xông pha, đối diện với các điểm nóng, chẳng hạn như phong toả Covid-19 trong đợt dịch thứ tư tại Thành phố Hồ Chí Minh, thúc đẩy đầu tư công tại các dự án trọng điểm đường cao tốc Bắc – Nam, giải toả khan hiếm xăng dầu cục bộ hay kiểm soát nguy cơ rối loạn thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tài chính Tất cả dường như phản ánh sự ứng phó nhanh với tình hình nhưng là bị động thay vì một phương thức điều hành mới.
Sau "cú sốc" bất ổn kinh tế vĩ mô và thể chế việc tìm kiếm mô hình kinh tế thích hợp với sự lãnh đạo toàn diện của ĐCS trở nên cấp bách. Trong nhiệm kỳ 12, giai đoạn 2016-2021 mô hình "Chính phủ kiến tạo" được vận hành, trong đó ưu tiên tạo lập môi trường kinh doanh, "vướng đâu sửa đó" với việc sử dụng guồng máy hành chính trong hệ thống chính trị hiện hành và hạn chế gây hiệu ứng bất ngờ. Tuy nhiên, mô hình này đã không còn thích hợp khi chiến dịch chống tham nhũng được tăng cường, mở rộng với hàng nghìn vụ án nghiêm trọng, các cán bộ lãnh đạo các cấp bị kỷ luật… Tuy nhiên, một mô hình thay thế dường như chưa sẵn sàng. Ông Thủ tướng chính phủ nhiệm kỳ 13 nhiều lần nhấn mạnh về "nền kinh tế độc lập tự chủ" và "chủ động hội nhập quốc tế" nhưng chưa được "hưởng ứng" bởi giới chuyên gia cũng như đội ngũ cán bộ thực thi trong guồng máy hành chính như một mô hình điều hành.
"Bất chấp sự tiến triển"
Một mô hình kinh tế phải đáp ứng nhu cầu phát triển chứ không chỉ là yêu cầu chủ quan. Đảng – Nhà nước mạnh về quyền lực dễ làm nảy sinh khả năng bất chấp sự tiến triển của các quy luật kinh tế trong khi mô hình kinh tế có độ mở cao đang được thúc đẩy, như nêu ở trên, để hội nhập sâu với thế giới, khuyến khích đầu tư và thương mại đang đặt ra những nhiệm vụ và nhu cầu tuân thủ cho cải cách thể chế trong bối cảnh mới.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1922-2008) các phương tiện truyền thông nhà nước tôn vinh ông như một nhà lãnh đạo "có tâm, có tầm", có bản lĩnh thể hiện vai trò tiên phong, cải cách "đột phá" trong thời kỳ đầu Đổi mới. Các cơ hội cho chính sách hay hành động "đột phá" đang được "thăm dò" trước bản chất chế độ khó có thể chấp nhận cho những bất ngờ. Liệu có thể hy vọng sự đột phá cho sự thay đổi mô hình kinh tế hiện hành ?
Phạm Quý Thọ
Nguồn : RFA, 09/12/2022
Mô hình kinh tế của Đảng tương thích mô hình nào trên toàn cầu ?
Mai Lan, VNTB, 26/09/2020
(Trích phát biểu bằng văn bản của ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, tại "cuộc trao đổi với báo chí", chủ đề về một số đóng góp của Ban Kinh tế Trung ương trong việc tham mưu Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị (khóa XII), nhiệm kỳ 2016 – 2020 ban hành một số nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội của đất nước).
Như vậy cụm từ lâu nay hay dùng "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", là mô hình kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra để buộc Nhà nước Việt Nam phải tuân thủ trong xây dựng nền kinh tế. Căn cứ pháp lý cho việc bắt buộc này là Điều 4.1, Hiến pháp 2013 : Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam sẽ chịu mọi trách nhiệm về yêu cầu Nhà nước Việt Nam đi theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – theo Điều 4.2, Hiến pháp 2013 : Đảng cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
Sở dĩ người viết cẩn trọng rào trước – đón sau như vậy vì muốn tránh bị cơ quan công quyền cáo buộc là đã dám có các ý kiến đi ngược lại với đường lối – chủ trương của Đảng.
Căn cứ Điều 28.1, Hiến pháp 2013 về việc công dân có quyền tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cả nước, bài viết này xin nêu một ý kiến giới hạn trong phạm vi hẹp : Liệu mô hình kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam có thể tương thích tới đâu trong nền kinh tế chia sẻ toàn cầu hiện nay ?
Sở dĩ đặt vấn đề như trên, vì theo lời xác nhận của ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, thì "đây là mô hình chưa có tiền lệ trên thế giới".
Những mô hình nổi bật thuộc nền kinh tế chia sẻ có sự lan tỏa nhất định trên toàn cầu, có thể kể tới như :
Trên thế giới, khái niệm "kinh tế chia sẻ" hoặc "mô hình chia sẻ" đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên phải đến năm 2009, mô hình kinh doanh này mới thực sự phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng, người dân buộc phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với bối cảnh khó khăn. Việc chia sẻ những tài nguyên sẵn có bằng các ứng dụng công nghệ cùng những khoản lợi nhuận khổng lồ đem lại cho nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho thuê và sử dụng tài nguyên.
Điều này đã khiến mô hình kinh doanh này nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới Mỹ, lan rộng khắp Châu Âu và toàn thế giới.
"Trong suốt 35 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không ngừng chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đột phá" – ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban Kinh tế Trung ương nói, và điều này cho thấy cần làm rõ hơn về tính tương thích toàn cầu của mô hình kinh tế mà Đảng đang yêu cầu đeo đuổi, với các mô hình của "kinh tế chia sẻ" – đặc biệt là bối cảnh thế giới đang nỗ lực phòng chống dịch Covid-19.
Có thể kể một số mô hình chia sẻ, các con số mang tính thống kê là năm 2018 :
Mô hình RelayRides : Đây là mô hình chia sẻ xe ô tô trong cộng đồng, tận dụng nguồn tài nguyên đang bị lãng phí là những chiếc xe ôtô được tư nhân sở hữu.
Giá đặt ra trên nền tảng RelayRides thấp hơn giá của các công ty cho thuê xe khác khoảng 35%. Chủ sở hữu xe có thể cho thuê xe của mình trên nền tảng và thu về trung bình 300 – 500 USD/tháng, có thời điểm lên tới 1.000 USD/tháng. Đối tượng được thuê xe là những người được đánh giá là lái xe an toàn trong ít nhất 2 năm (không gây tai nạn, không bị phạt). Kết thúc quá trình giao dịch, người thuê và người cho thuê có thể đánh giá lẫn nhau.
Mô hình Airbnb : Mô hình Airbnb chia sẻ nhà ở cho người đi du lịch, tận dụng nguồn tài nguyên đang lãng phí là những căn phòng không dùng đến. Thông qua nền tảng này, chủ sở hữu căn nhà cho thuê và người thuê nhà sẽ gặp được nhau và ký kết hợp đồng thuê nhà. Giá thuê nhà định ra trên nền tảng Airbnb luôn thấp hơn giá thuê phòng khách sạn khoảng 3 lần.
Theo ước tính, chỉ trong 1 đêm đã có đến 40.000 người thuê chỗ ở từ một dịch vụ cung ứng 250.000 phòng tại 30.000 thành phố ở 192 nước và mọi thanh toán đều qua mạng internet.
Điều đáng nói là những căn phòng hay chỗ ngủ này không phải do một chuỗi khách sạn nào đó cung cấp mà do các cá nhân. Những người cần thuê và chủ cho thuê được "mai mối" nhờ Airbnb – một công ty có trụ sở tại San Francisco (Mỹ). Sau giao dịch người thuê và người cho thuê cũng có thể đánh giá lẫn nhau trên nền tảng này. Hiện nay, Airbnb được định giá gần 20 tỷ USD và đã hiện diện ở rất nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nền tảng Uber : Nền tảng Uber tận dụng nguồn tài nguyên ô tô, xe gắn máy ít được đưa vào lưu thông và người lao động không kiếm được việc làm trong cộng đồng. Thời gian đầu, Uber chỉ kinh doanh trong lĩnh vực xe hạng sang, sau đó mở rộng ra các lĩnh vực khác như xe bình dân, xe SUV, vận chuyển… Mức giá của Uber thường rẻ hơn các dịch vụ cung cấp bởi công ty truyền thống. Hiện nay, Uber được định giá 18,2 tỷ USD.
Tham gia mô hình này, chủ sở hữu xe ô tô, xe gắn máy thực hiện việc đăng ký trên nền tảng, làm bài kiểm tra khả năng lái xe. Khách hàng muốn đặt xe thông qua nền tảng này sẽ click vào nền tảng Uber, chọn địa chỉ nơi đi, nơi đến và nhấn nút đặt xe, ứng dụng này sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một phương tiện gần với khách hàng nhất. Khi đã kết nối, lái xe và người đặt xe liên lạc và thông báo điểm đón thông qua điện thoại di động. Sau sử dụng dịch vụ, người lái xe và người sử dụng dịch vụ cũng có thể đánh giá lẫn nhau trên nền tảng.
Mô hình TaskRabbit : Còn gọi là mô hình giúp đỡ nhau trong cộng đồng, được đầu tư 38 triệu USD vào năm 2012. Mô hình này được hiểu một cách đơn thuần là những người có công việc cần thực hiện nhưng không đủ khả năng (thiếu thời gian, kỹ năng…) sẽ đẩy thông tin lên nền tảng để tìm kiếm người lao động phù hợp (kỹ năng, mức giá, vị trí). Người có nhu cầu cần làm việc sau khi hoàn thành công việc sẽ được thanh toán online. Kết thúc công việc, người lao động và người thuê cũng có cơ hội đánh giá lẫn nhau trên nền tảng.
Mô hình KickStarter : Còn gọi là mô hình gọi vốn từ cộng đồng để thực hiện các dự án. Người có dự án nghệ thuật, phát triển phần mềm, nghiên cứu khoa học công nghệ sẽ đăng tải nội dung dự án của mình lên nền tảng để cộng đồng người dùng KickStarter xem xét cấp vốn.
Người cấp vốn có thể thu lại những sản phẩm như áo phông, phần mềm sử dụng, sản phẩm mẫu… của dự án mà họ cấp vốn, tùy theo mức tiền mà họ bỏ ra để ủng hộ. Mô hình này thu hút sự tham gia của số đông những người trẻ khởi nghiệp. Số vốn KickStarter đã thu hút cho hơn 100.000 dự án đạt gần 1 tỷ USD.
Mô hình cho vay trong cộng đồng Peer lending : Là mô hình trong đó các đối tượng trong cộng đồng cho vay lẫn nhau, không thông qua trung gian là ngân hàng. Ví dụ, các làng xã, khu dân phố thành lập quỹ chung dùng để hỗ trợ cho người trong khu gặp việc khẩn cấp.
Nền tảng đánh giá người vay thông qua dữ liệu quá khứ và tập hợp dữ liệu thu thập được từ nhiều nguồn để đưa ra mức độ an toàn của khoản vay. Các khoản vay trên nền tảng này thường có lãi suất thấp hơn nhưng người cho vay lại thu được nhiều hơn gửi vào ngân hàng, theo công ty là do chi phí tổ chức của công ty thấp hơn của ngân hàng.
Bartering giữa các doanh nghiệp : Các doanh nghiệp có những tài sản, máy móc thừa, nhà kho chưa dùng đến, sản phẩm tồn kho… có thể trao đổi với nhau để cả 2 bên cùng có lợi, đồng thời tiết kiệm thời gian do không phải thông qua việc chuyển tiền. Hoặc các doanh nghiệp có những kỹ năng chuyên môn riêng biệt có thể thực hiện đào tạo cho một nhóm doanh nghiệp, chia sẻ kỹ năng của mình, nhận về thông tin hữu ích… Thị trường chia sẻ doanh nghiệp với doanh nghiệp có thể còn lớn hơn so với thị trường chia sẻ giữa người dân.
(…)
Không quá khó để nhận ra rằng "kinh tế chia sẻ" đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà quản lý chính sách tại Việt Nam khi đang theo đuổi mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm bảo hài hòa lợi ích đối với các mô hình kinh doanh dịch vụ truyền thống ; Kiểm soát việc minh bạch về thông tin ; Quản lý giao dịch điện tử, thanh toán quốc tế về thương mại bằng thẻ ; Quản lý chất lượng dịch vụ, sản phẩm ; Chống thất thoát thuế và nảy sinh một số vấn đề xã hội khác như lao động, việc làm và an sinh xã hội…
Mai Lan
Nguồn : VNTB, 26/09/2020
*********************
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét, nhưng rõ nét gì ?
Võ Hàn Lam, VNTB, 26/09/2020
Nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Ban Kinh tế Trung ương (30/9/1950 – 30/9/2020), ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương đã có các phát biểu được chuẩn bị bằng văn bản, được thể hiện bằng hình thức "cuộc trao đổi với báo chí về một số đóng góp của Ban Kinh tế Trung ương trong việc tham mưu Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị (khóa XII), nhiệm kỳ 2016 – 2020 ban hành một số nghị quyết quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội của đất nước".
Trưởng ban Kinh tế Trung ương nói rằng, "Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong suốt 35 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không ngừng chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đột phá".
(Mở ngoặc về ý kiến của người viết ở đoạn phát biểu trên : việc ông Nguyễn Văn Bình dùng từ "nhân dân ta không ngừng chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là áp đặt ý chí chủ quan của ông, vì nếu thực sự có việc "nhân dân ta không ngừng chăm lo" thì chắc chắn khó thể nào loay hoay suốt 35 năm rồi mà mô hình này vẫn dừng ở chuyện "ngày càng rõ nét" !).
"Đến nay, có thể khẳng định rằng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đồng bộ, đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nhờ đó, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và xem là hình mẫu của các nước đang phát triển mà như đồng chí Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói chưa bao giờ đất nước ta có cơ đồ tốt đẹp như ngày nay"- Trích lời của ông Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Bình, đây là mô hình chưa có tiền lệ trên thế giới, do vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tránh khỏi các ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, có lúc khá gay gắt. Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên chống phá, xuyên tạc, kích động.
Xin thưa với ông Nguyễn Văn Bình, người từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011-2016) về câu từ "mô hình kinh tế".
Theo "Giáo trình Kinh tế học vi mô" của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, thì "mô hình" (model) là sự đơn giản hóa hiện thực một cách có chủ định. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề nghiên cứu.
Ví dụ, mô hình xác định sản lượng cân bằng bỏ qua nhiều yếu tố tác động vào tổng sản lượng của nền kinh tế, chỉ giữ lại các thành tố lớn của tổng cầu, nhưng rất hữu ích đối với việc nghiên cứu nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái, vì trong nhiều trường hợp, tình trạng suy thoái có nguyên nhân ở sự biến động trong các thành tố của tổng cầu, đặc biệt đầu tư.
Cần chú ý rằng xét về bản chất, mô hình kinh tế cũng là lý thuyết kinh tế, vì cả hai đều bỏ qua những mặt thứ yếu, tập trung vào mối quan hệ giữa các yếu tố chủ yếu.
Mô hình kinh tế (Economic model) là mô hình liên kết hai hay nhiều biến số kinh tế. Mô hình kinh tế được sử dụng cho ba mục đích : Một là mô tả mối quan hệ tồn tại giữa các biến số kinh tế. Hai là xác định kết cục kinh tế rút ra từ các mối liên hệ của các biến số kinh tế. Ba là dự báo ảnh hưởng của những thay đổi trong các biến số kinh tế đối với kết cục kinh tế.
Thử điểm qua một số mô hình trong kinh tế học :
Mô hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mô hình H-O, là một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia.
Mô hình IS-LM, cũng được biết đến như là mô hình Hicks-Hansen, được nhà kinh tế học người Anh John Hicks (1904-1989) và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin Hansen (1887-1975) đưa ra và phát triển.
Mô hình IS-LM đã được sử dụng để kết hợp các hoạt động khác nhau của nền kinh tế : nó là sự kết hợp của thị trường tài chính (tiền tệ) với thị trườnghàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế đóng thì mô hình không chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài nền kinh tế : xuất khẩu ròng (NX), tỷ giá hối đoái, lãi suất thế giới…
Mô hình Solow-Swan là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển.
Mô hình này được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số, và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ. Bản chất của nó là hàm tổng sản xuất tân cổ điển, thường là dưới dạng hàm Cobb-Douglas, cho phép mô hình "liên kết được với kinh tế học vi mô".
Mô hình tổng cầu và tổng cung hay còn gọi là mô hình AD-AS. Đây là mô hình dùng để giải thích hai biến số. Biến số thứ nhất là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực tế. Biến số thứ hai là mức giá được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số điều chỉnh GDP.
Mô hình Mundell-Fleming là một mô hình kinh tế học vĩ mô sử dụng 2 đường IS và LM để phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô được thực hiện trong một nền kinh tế mở cửa.
Hoài nghi vì chưa ai rõ thuật toán ở mô hình kinh tế của Đảng
Trở lại với ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Theo lời của ông Bình thì đang có không ít các ý kiến hoài nghi nếu vận hành đầy đủ, đồng bộ các quy luật kinh tế thị trường thì khó giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa ; có ý kiến tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế nhà nước, e ngại, dè dặt đối với kinh tế tư nhân.
Ngược lại, có ý kiến lại tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế tư nhân, cho rằng kinh tế tư nhân sẽ quyết định tất cả và do vậy phải là động lực duy nhất, trong khi nghi ngờ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhất là trong bối cảnh một số doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động kém hiệu quả. Có ý kiến quá đề cao vai trò của nhà nước và xem nhẹ vai trò của thị trường và xã hội ; ngược lại có ý kiến lại tuyệt đối hóa vai trò của thị trường và xã hội, cho rằng thị trường quyết định tất cả, xem nhẹ vai trò quản lý, điều tiết, dẫn dắt của nhà nước…
"Do vậy, để đi đến thống nhất nhận thức" – ông Nguyễn Văn Bình lập luận – "Phải giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kế thừa và phát triển, giữa kiên định và đổi mới trên cơ sở phải thấm nhuần sâu sắc những nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm xuyên suốt của Đảng nhất là cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, phải nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết thực tiễn đổi mới ở nước ta, bảo đảm vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội".
Từ yêu cầu trên của ông Trưởng ban Kinh tế Trung ương, xin được đặt câu hỏi "hồi tố" với với ông Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011-2016) : Mô hình toán trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay là gì ?
Lý thuyết mà sinh viên kinh tế được học trên giảng đường, là cần lưu ý một số vấn đề khi xây dựng mô hình toán trong kinh tế, như sau :
Một, trước hết là vấn đề độ đo trong kinh tế. Các đại lượng trong kinh tế rất đa dạng, vì thế để có thể khảo sát cần có một công cụ để so sánh giữa các đại lượng.
Chúng ta có thể hình dung vấn đề này qua một ví dụ đơn giản như sau : Trong mùa đông có thể bạn cần một bộ quần áo ấm hơn một thiết bị giải trí, vì thế bạn sẽ đánh giá bộ quần áo có giá trị hơn dù chúng có cùng giá thành như nhau. Nhưng khi đã có một vài bộ quần áo rồi thì bạn lại đánh giá ngược lại. Thiết bị giải trí kia có giá trị hơn bộ quần áo.
Chúng ta cần phải tìm được một công cụ trong toán để so sánh 2 đối tượng này.
Hai, bao quát được các tính chất đặc trưng. Khi muốn khảo sát một đối tượng nào đó chúng ta phải hiểu về nó. Như vậy để xây dựng được các mô hình toán trong kinh tế cần có những hiểu biết nhất định về kinh tế, các quan hệ giữa các đại lượng kinh tế, tầm quan trọng của một vài tham số đối với vấn đề chúng ta đang quan tâm.
Cần phải nắm được điều quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định tới vấn đề cần khảo sát là gì.
Ba, tính toán các tham số. Các tham số sẽ quyết định kết quả khảo sát trên mô hình nhận được. Các tham số này nhận được từ quá trình theo dõi, nghiên cứu các số liệu thực tế của vấn đề cần khảo sát. Quá trình tính toán các tham số đôi khi chiếm phần lớn thời gian trong quá trình xây dựng một mô hình toán.
Điều này đặc biệt khó khăn tại Việt Nam vì trên thực tế chưa có hệ thống các dữ liệu thống kê chuẩn phục vụ cho nghiên cứu.
Võ Hàn Lam
Nguồn : VNTB, 26/09/2020
*************************
Nếu Đảng sai lầm thì toàn dân lãnh đủ ?
Vân Khanh, VNTB, 26/09/2020
"Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương. Ảnh VGP
Trên trang điện tử thông tin tổng hợp của Ban Kinh tế Trung ương hôm 22/9/2020 đã đăng bài báo dạng phỏng vấn, có tựa khá lủng củng : "Hướng tới truyền thống 70 năm Ban Kinh tế Trung ương, Đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương trả lời phỏng vấn nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Ban Kinh tế Trung ương" (*).
Bài báo phỏng vấn được ký tên tác giả là "Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế".
Ông Nguyễn Văn Bình nói rằng Ban Kinh tế Trung ương được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao chủ trì tham mưu, xây dựng một số Nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 11-NQ/TW Trung ương khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bài báo mang tính lễ nghi cho phục vụ sự kiện kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Ban Kinh tế Trung ương, người đọc không tìm thấy được cụ thể kết quả mà Ban Kinh tế Trung ương làm được cho yêu cầu "hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Trên nguyên tắc thì Ban Kinh tế Trung ương chỉ là cơ quan tham mưu – tức "thầy dùi". Như vậy dẫu "dùi trúng – trật" ra sao đi nữa thì chịu trách nhiệm trước quốc dân, trước lịch sử vẫn là Đảng cộng sản Việt Nam với cụ thể từng cá nhân trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư ở từng nhiệm kỳ quản lý.
Từ bài học trong quá khứ Đảng vấp nhiều sai lầm trong chính sách kinh tế như : Cải cách ruộng đất tại miền Bắc từ 1953 đến 1956 ; Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam lần I. Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết 254/NQ/TW về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 12/1976, chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản lần II. Tiếp theo, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam tháng 3/1977 quyết định hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam trong 2 năm 1977-1978.
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh :
"Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976.
Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam…
Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)" (dừng trích).
Tuy nhiên cho đến nay trên các phương tiện truyền thông và cả sách lịch sử, người dân vẫn chưa rõ việc quy lỗi, quy trách nhiệm cụ thể ra sao đối với những chính sách sai lầm mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra ?
Liệu có vấp lại sai lầm của bài học duy ý chí khi – nói như xác nhận của ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương : vì đây là mô hình chưa có tiền lệ trên thế giới, nên Việt Nam đã trải qua thời gian 35 năm rồi, nay vẫn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vân Khanh
Nguồn : VNTB, 26/09/2020
Chú thích :