Việt Nam muốn phát triển như Nhật thì phải có một bản Hiến pháp "do người Mỹ" viết và một "Samurai da trắng" lãnh đạo. Còn muốn phát triển như Trung Quốc thì phải tức khắc từ bỏ tâm thức "lấy đất nước và dân tộc để xây dựng xã hội chủ nghĩa".
Bản Hiến pháp Nhật Bản 1947 - Ảnh minh họa
Thật vậy, Việt Nam và Nhật giống nhau ở điểm là "tôn thờ bạo lực". Lịch sử Việt Nam và lịch sử Nhật tương đồng ở chỗ nội chiến liên miên. Hai bên cùng có thói quen tôn thờ những vị tướng lẫy lừng nơi trận mạc.
Nhật, "nhờ" thua trận Thế chiến II nên "được" Mỹ áp đặt một bản Hiến pháp. Người ta thường nói đây là bản hiến pháp "hòa bình". Nhưng điểm quan trọng khác của bản hiến pháp này là nền "dân chủ", trong đó vai trò của hoàng đế chỉ có giá trị tiêu biểu về "đại diện". Mọii quyền bính của ông vua bị tước đi và giao lại cho "toàn dân". Quan chức nhà nước đều có trách nhiệm trước pháp luật như một công dân bình thường. Tức là mô hình thực chất là "Etat de Droit - Quốc gia pháp trị".
Sau khi thua Thế chiến II lãnh thổ Nhật bị đặt dưới chế độ "quân quản" của Mỹ, do tướng McArthur cầm đầu. Có thể vì lo ngại dân Nhật ngả theo cộng sản chống lại "nền thực dân" của Mỹ, McArthur chủ trương cai trị bằng "bàn tay nhung" với nhiều sự dễ dãi dành cho hoàng gia cũng như đối với nhân viên hành chánh Nhật (mà điều này trái với ý chí của chính phủ Mỹ cũng như của các nước Đồng minh). McArthur thuyết phục chính phủ Mỹ thành lập một chương trình "xây dựng và khôi phục lại nước Nhật", tương tự chương trình Marshall dành cho Châu Âu. Ông quan niệm rằng chỉ có cách này dân Nhật mới không theo cộng sản và nhà nước Nhật mới có khả năng trả nợ chiến tranh cho các quốc gia khác. Nhờ McArthur nước Nhật được hồi phục. Dân Nhật yêu mến và tôn thờ McArthur, gọi ông này là "Samurai da trắng". Bây giờ Nhật không còn tôn thờ bạo lực như trước nữa, mặc dầu ngôi đền Yasukuni vẫn còn thờ bài vị của những vị tướng thời Đệ nhị Thế chiến (bị xếp vào tội phạm chiến tranh).
Người Việt mình hay ngưỡng mộ ý chí sắt đá của người Nhật mà quên đi rằng ý chí đó đã bị chuyển hướng sang hòa bình do bản Hiến pháp. Nước Nhật phát triển hôm nay không phải do tính hiếu sát hiếu thắng của người Nhật trước Thế chiến II mà do bản Hiến pháp (dân chủ và hòa bình) của ông Samurai da trắng là tướng McArthur (và chương trình viện trợ của Mỹ).
Với bản Hiến pháp này Nhật chỉ mất 15 năm để trở thành cường quốc kinh tế.
Từ sau 1945, nước Nhật đã hồi sinh trên những hoang tàn và đổ nát
Về phía Trung Quốc, Việt Nam từ (rất) lâu đã rập khuôn mô hình phát triển của Trung Quốc. Trung Quốc làm cái chi là Việt Nam làm cái đó. Thời Mao, miền Bắc Việt Nam là một bản sao Trung Quốc của Mao. Bây giờ Việt Nam là một bản sao Trung Quốc, bắt đâu từ thời Đặng Tiểu Bình.
Vấn đề là Việt Nam lấy quyền lợi của đất nước và dân tộc để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề "thế nào là xã hội xã hội chủ nghĩa" ? Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là xây dựng cái gì ? Thời còn chiến tranh lạnh, việc này cụ thể qua câu nói của Lê Duẩn "ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc".
Nhưng thời bây giờ, ông Trọng có thú nhận là 100 năm nữa không biết có thấy xã hội xã hội chủ nghĩa hay chưa. Tức là việc xây dựng xã hội "xã hội chủ nghĩa" không thể định nghĩa được. Việc này khiến cho nguyên khí quốc gia bị tiêu hao. Tài nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm. Đạo đức, văn hóa xã hội suy đồi. Cán bộ đảng viên cộng sản nhập nhằng khái niệm, đục nước béo cò. Cán bộ đảng viên nào cũng giàu sụ trong khi người dân thì nghèo đói.
Trong khi Trung Quốc họ lấy xã hội chủ nghĩa để phục vụ cho quyền lợi và đất nước của họ. Quan điểm mới đây của Tập Cận Bình về đảng : "lý do duy nhứt cho sự hiện hữu của Đảng cộng sản Trung Quốc là phục vụ cho lợi ích của toàn dân". Hôm kia tôi có nói sơ qua lý do vì sao Trung Quốc thành công trong công cuộc "dò đá qua sông". Là vì họ đặt mục đích phục vụ quyền lợi của ngườ i dân.
Ta thấy tài phiệt (tư nhân) Trung Quốc bây giờ có ảnh hưởng đến toàn cầu. Hàng hóa của Trung Quốc bây giờ đang chinh phục cả thế giới. Ngay cả bây giờ Mỹ gây chiến tranh thương mại với Trung Quốc, việc này cũng không thể cản trở Trung Quốc lên hàng đầu thế giới.
Trung Quốc đã mất 40 năm để phát triển thành công, từ sau cuộc chiến biên giới với Việt Nam kết thúc 1979.
VN muốn tiếp tục theo mô hình Trung Quốc hay mô hình Nhật (như ý muốn một số đông trí thức VN) ?
Nếu đặt đúng mục tiêu phục vụ, Việt Nam theo mô hình Trung Quốc sẽ mất từ 60 năm đến 80 năm để phát triển tương tự như Trung Quốc bây giờ. Trong đó 20 năm phải mất để đào tạo các thế hệ hạt nhân lãnh đạo trong sạch, có thực tài.
Còn nếu theo mô hình của Nhật, với một bản hiến pháp (không cần hòa bình) mà chỉ giới hạn quyền lực của đảng Đảng cộng sản Việt Nam, theo đúng mô hình xây dựng quốc gia trên nền tảng các hệ thống luật lệ (Etat de Droit - nhà nước pháp trị). Quan chức nhà nước làm gì cũng phải theo luật mà làm. Quan chức bình đẳng với dân chúng trước pháp luật.
Nếu áp dụng mô hình Nhật thì Việt Nam sẽ mất từ 15 đến 20 năm để phát triển (như Nam Hàn hay Đài loan bây giờ).
Còn nếu tiếp tục như hôm nay, thì cán bộ tiếp tục lạm dụng quyền lực để làm giàu. Dân cả nước sẽ sa vào vòng nô lệ, làm công cho tài phiệt nước ngoài.
Trương Nhân Tuấn
Nguồn : fb.nhantuan.truong, 06/05/2022
"Cơ đồ ta xây dựng 75 năm nay sụp đổ hay không cũng do mình, ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta".
(Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư, 25/12/2019).
Những ngôi nhà hiện đại, cao cấp nằm ngay phía sau những khu nhà ổ chuột ven sông Sài Gòn, TP. HCM
Phát triển là một nhu cầu khách quan và tất yếu của xã hội loài người. Nhu cầu đó càng cấp bách tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Sau khi đổi mới "vòng một", Việt Nam phát triển với tốc độ cao vào loại "nhất nhì khu vực". Theo báo chí tuyên truyền, Việt Nam có nhiều thành tích đứng đầu, làm thế giới khâm phục. Phải chăng đó là bệnh thành tích ?
Việt Nam càng phát triển nhanh thì đất nước càng tụt hậu, mà vẫn chưa công nghiệp hóa. Trong khi tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt và môi trường bị xâm hại nặng nề thì Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi "bẫy thu nhập trung bình". Trong khi một số đại gia đã trở thành tỷ phú thì đa số người dân nghèo đi. Phải chăng đó là nghịch lý phát triển ?
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Việt Nam theo "mô hình không chịu phát triển". Nói cách khác, phát triển ở Việt Nam không theo đúng quy luật. Đây là một vấn đề cần đặt ra không chỉ cho các chuyên gia kinh tế hay các quan chức chính phủ, mà còn cho toàn xã hội. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải đổi mới thể chế. Trong khi chờ các chuyên gia kinh tế lý giải về nghịch lý phát triển của Việt Nam, hãy điểm qua vài vấn đề nổi cộm.
Đà Nẵng là "thành phố đáng sống" ?
Công bằng mà nói, ông Nguyễn Bá Thanh có công phát triển Đà Nẵng nhưng chủ yếu là "hạ tầng cứng", chứ chưa phải là "hạ tầng mềm". Ông ấy có ý tưởng biến Đà Nẵng thành "nơi đáng sống". Nhưng dự án định biến Làng Vân thành một "Little Ma Cao" không thành. Ông ấy có kế hoạch định kết nghĩa với thành phố Yokohama của Nhật để xây dựng Đà Nẵng theo mô hình "thành phố xanh" (green city) như thành phố Cebu của Philippines.
Đó là những "giấc mơ ", nhưng Đà Nẵng chưa trở thành "nơi đáng sống" thì ông Nguyễn Bá Thanh đã chết. Sau khi lãnh chúa Bá Thanh qua đời thì Đà Nẵng biến thành chiến địa vì các phe phái đấu đá quyết liệt để tranh giành quyền lực. Kết cục là cậu ấm Nguyễn Xuân Anh mất chức bí thư và bị kỷ luật, trong khi người hùng Vũ Nhôm phải vào lò.
Như "phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí", người dân Đà Nẵng chưa thoát họa sứ quân do tranh giành quyền lực thì nay thành phố lại biến thành tử địa vì Covid-19 bùng phát. Nhưng tại sao lại là Đà Nẵng ? Phải chăng "phong thủy" Đà Nẵng có vấn đề, làm chính trị bất ổn và kinh doanh đổ bể ? Du lịch Đà Nẵng vừa mở cửa lại thì bị Covid-19 đóng sập cửa.
Theo thống kê, Hà Nội có gần mười vạn người vào Đà Nẵng, chủ yếu đi du lịch (vì giá rẻ), nay đang phải truy tìm để làm xét nghiệm và khoanh vùng. Đà Nẵng vừa nổi lên như "ngọn cờ đầu" của ngành du lịch, thì nay chìm xuống như tội đồ của ngành y tế. Tuy Trung ương kịp thời chi viện để cứu Đà Nẵng, nhưng nguy cơ khó lường nếu không dập được dịch.
Nhiều người chủ quan và nôn nóng muốn mở cửa nhanh để phục hồi du lịch, mà không đề phòng nguy cơ Covid-19 bùng phát "vòng hai" như "thập diện mai phục". Đó là bài học đắt giá vì để "mất bò mới lo làm chuồng". Trong khi người Việt cần thận trọng mở cửa từng bước để tránh nguy cơ khó lường, họ đã quên "chống dịch như chống giặc". Nguyên nhân lây nhiễm cộng đồng có thể từ những người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp.
Sài Gòn là "hòn ngọc Viễn Đông" ?
Sau khi Singapore tách khỏi liên bang Malaysia (8/1965) và trở thành độc lập, ông Lý Quang Diệu từng mong Singapore được như Sài Gòn (lúc đó là "hòn ngọc Viễn Đông"). Nhưng chỉ sau 2-3 thập kỷ phát triển thần kỳ, Singapore đã vượt xa Sài Gòn. Theo số liệu năm 2020, GDP PPP của Singapore nay là 103.000 USD (chỉ thua Qartar và Luxembourg).
Khi Phú Quốc muốn trở thành "đặc khu kinh tế", nhiều người ảo tưởng Phú Quốc sẽ phát triển như Singapore. Tuy diện tích và dân số hai hòn đảo không khác nhau mấy, Phú Quốc cũng có cơ hội phát triển, nhưng thể chế và bối cảnh khác xa nhau. Khi ông Lý Quang Diệu được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời làm "cố vấn", ông ấy đã chia sẻ kinh nghiệm và góp ý, nhưng thất vọng vì chẳng ai thực sự lắng nghe, nên ông ấy muốn quên đi chuyện đó.
Tuy Sài Gòn phát triển nhanh, nhưng chủ yếu là bất động sản (hạ tầng cứng) theo "mô hình Thủ Thiêm", gây ra hệ lụy tham nhũng và mâu thuẫn xã hội. Vụ Thủ Thiêm làm dư luận bức xúc, nhưng cách xử lý Nguyễn Thành Cang chỉ là "phần nổi của tảng băng chìm". Trong khi Nguyễn Thành Cang chỉ bị "phê bình", thì Lê Thanh Hải vẫn "bình an vô sự".
Về hạ tầng, Sài Gòn càng xây dựng nhiều (về phía Đông) thì nạn ngập lụt ngày càng tăng mỗi khi mưa lớn, vì quy hoạch thoát nước kém. Trong khi các kênh rạch ở Bangkok vẫn giao thông được, thì kênh rạch ở Sài Gòn hoặc bị biến mất hoặc bị ô nhiễm và tắc nghẽn nên không giao thông được. Báo Pháp luật thành phố (9/8) có bài "Cách lái ô tô thoát hiểm vượt qua đường ngập nước". Dư luận chỉ chú ý đến đối phó với hậu quả (là cái ngọn).
Muốn tháo gỡ ách tắc để phát triển bền vững, dư luận cần chú ý đến nguyên nhân (là cái gốc). Ngập lụt không chỉ do thiên tai (như biến đổi khí hậu), mà còn do nhân họa (như quy hoạch đô thị ). Trước đây, chỉ có Hà Nội thường xuyên bị ngập lụt khi mưa to, nhưng nay Sài Gòn cũng thường xuyên bị ngập lụt khi đổi mùa, như chuyện "bình thường mới".
Trong khi đại dịch vẫn đang bủa vây, thành phố phải vừa chống dịch, vừa làm kinh tế để sống. Trong bối cảnh đó, "kinh tế ngầm" có vai trò như "phao cứu sinh" (safety net) cho người dân. Thủ Tướng khuyến khích "kinh tế ban đêm" là một ví dụ. Hành động "dẹp vỉa hè" của ông Đoàn Ngọc Hải (Quận I) trước đây là một bài học về tư duy và hành xử ấu trĩ.
"Hà Nội không vội được đâu" ?
Hệ thống tuyên truyền của Hà Nội thường tự hào rằng trong gần 100 ngày Việt Nam không có trường hợp nào mắc Covid-19 mà bị chêt, và không có ai lây nhiễm cộng đồng. Đó là một thành tích rất ấn tượng, nhưng "cái gì phải đến sẽ đến", nếu chủ quan và tự sướng với thành tích mà nhà báo David Hutt gọi là "quá tốt để thành sự thật" (too good to be true).
Khi dịch lại bùng phát ở Đà Nẵng (vào cuối tháng bảy), nó lan nhanh ra cả nước (bao gồm Hà Nội và Sài Gòn), với tốc độ chóng mặt. Theo lãnh đạo Bộ Y tế, đó là chủng virus mới có thể lây lan nhanh gấp ba lần so với trước đây. Với tâm thức chủ quan, hàng vạn người Hà Nội đã hồn nhiên đi Đà Nẵng du lịch, mà quên rằng "Hà Nội không vội được đâu".
Trước khi dịch Covid-19 bùng phát (đầu năm nay), dư luận Hà Nội lo ngại ô nhiễm không khí vượt mức cảnh báo. Nhiều người đã phải bán nhà mặt đất để chuyển lên ở căn hộ tại các chung cư cao tầng, để tránh ô nhiễm. Nhưng mỗi khi mở cửa sổ thì chỉ mấy phút sau đèn hiệu máy lọc không khí chuyển từ màu xanh sang da cam và đỏ (mức cảnh báo).
Cách đây 5 năm, Hà Nội định chặt hạ 7,600 cây xanh như một quyết định điên rồ, làm dư luận trong nước và quốc tế phản ứng mạnh, nên phải dừng lại, tuy hàng trăm cây to đã bị chặt hạ trên mấy tuyến đường (như Nguyễn Chí Thanh). Một số cán bộ các sở có liên quan đã bị kỷ luật để xoa dịu dư luận, nhưng vụ bê bối này đã để lại một vết đen cho Hà Nội.
Trong khi đó, Hà Nội nổi tiếng thế giới vì tắc đường và tai nạn giao thông, trong khi hệ thống các cột điện với dây điện cuốn nhằng nhịt như mạng nhện làm Bill Gates phải kinh ngạc. Tại Hà Nội, người ta vẫn đào đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, như chuyện "bình thường mới", làm thành phố lúc nào cũng ngổn ngang như một công trường thời chiến.
Trước đây, khi dự án "Thủy cung Thăng Long" bị dư luận thủ đô phản đối, đã phải dừng lại. Nhưng sau này, khi các nhóm lợi ích muốn mở rộng Hà Nội thì không ai có thể cản được. Tuy thành phố có quy định không cho xây nhà cao tầng xung quanh Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Tây, nhưng một tòa chung cư cao tầng đã mọc lên sừng sững giữa Hồ Tây tại Quảng An. Chỉ có thể lý giải thời thế đã thay đổi khi chủ nghĩa thân hữu trở thành trụ cột.
Sau khi các tập đoàn thân hữu chiếm hết đất vàng, đất bạc ở thành phố, họ đang vươn tới các rừng quốc gia (như Tam Đảo) và các khu sinh thái (như Cần Giờ) để làm khu nghỉ dưỡng. Lịch sử phát triển Việt Nam thời kỳ quá độ (hoang dã) của kinh tế thị trường sẽ ghi nhận công lao của họ về "phát triển bất động sản bằng mọi giá". Nhưng kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy "bong bóng bất động sản" và các "đô thị ma" là một quả bom nổ chậm.
Thay lời kết
Chính phủ "kiến tạo và liêm chính" cũng như Thủ đô Hà Nội "văn minh và thanh lịch" không thể để hệ thống loa phường và các cột điện như mạng nhện vẫn tồn tại như biểu tượng của thế kỷ trước, không thể để người ta chặt hạ cây xanh, đào bới đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, không thể để ô nhiễm không khí vượt mức báo động vì quá nhiều xe cơ giới, không thể để tắc đường và tai nạn giao thông làm chết nhiều người như thời chiến.
Những câu chuyện đó không chỉ về hạ tầng đô thị của một đất nước "không chịu phát triển" mà còn về dân trí của một xã hội "không chịu đổi mới". Nếu hệ thống lô cốt của Pháp từ thập niên 1950 vẫn tồn tại như một di tích của "chủ nghĩa thực dân cũ", thì đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông là một biểu tượng của "chủ nghĩa thực dân mới". Dư luận đang tranh cãi xem có nên lấy các trạm thu phí BOT làm biểu tượng của "chủ nghĩa thân hữu".
Nếu Việt Nam "chống dịch như chống giặc" thì phải kiểm soát chặt biên giới, và không để tụ tập đông người như hàng chục vạn học sinh thi tốt nghiệp (đầy rủi ro). Nếu Việt Nam kiểm soát được đại dịch thì không có lý do gì không chịu đổi mới thể chế để phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông. Trước bước ngoặt mới khó lường, Việt Nam phải phát triển theo đúng quy luật và thoát Trung để ứng phó với thách thức và cơ hội mới.
Nguyễn Quang Dy
Nguồn : Viet-studies, 11/8/2020