Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Con nít Việt trước mê hồn trận ‘học ngoại ngữ’

Mai Lan, VNTB, 10/03/2021

Mê hồn trận vì phải biết lựa chọn sao đây : tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Hàn.

lop01

Học sinh xứ Việt, từ lớp 3 trở đi bắt đầu phải học ngoại ngữ, gọi là ‘ngoại ngữ thứ nhất’. ‘Ngoại ngữ thứ hai’ thì không bắt buộc.

Tính đến tháng 3-2021, có đến 7 ngoại ngữ để học trò lớp 3 lựa chọn : Anh, Nga, Trung, Pháp, Nhật, Đức, Hàn.

Thế chế chính trị Việt Nam tuy tiếp tục là đơn nguyên, nhưng trong chuyện học tập thì chỉ cần liếc sơ qua bản danh sách ‘ngoại ngữ thứ nhất’ này lại cho thấy quả tình rất… ‘đa nguyên’ đàng khác, khi cho phép học sinh lựa chọn dựa trên nhu cầu cá nhân – tuy nhiên, nó cũng cho thấy chuyện ôm đồm…, bởi ‘ngoại ngữ 1’ mà có tới 7 thứ ngôn ngữ, thì rõ ràng là đã không hề có những ‘mũi nhọn’ để ưu tiên.

Bộ Giáo dục và Đào tạo lý giải như sau về chuyện ‘ngoại ngữ 1’ – ở đây là dẫn chứng về tiếng Đức :

"Môn Tiếng Đức là Ngoại ngữ 1 (sau đây gọi tắt là môn Tiếng Đức) được tổ chức giảng dạy từ lớp 3 đến hết lớp 12. Môn Tiếng Đức giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ và các năng lực chung, phát triển những phẩm chất tốt đẹp của bản thân, mở rộng tầm nhìn quốc tế để học tốt các môn học khác, để sống và làm việc hiệu quả, tạo nền tảng phục vụ nhu cầu học tập suốt đời.

Môn Tiếng Đức cung cấp cho học sinh một công cụ giao tiếp quốc tế quan trọng, giúp học sinh trao đổi thông tin, tri thức khoa học và kỹ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hóa trên thế giới nói chung và các nền văn hóa của các quốc gia nói tiếng Đức nói riêng, qua đó góp phần tạo dựng sự hiểu biết giữa các dân tộc, hình thành ý thức công dân toàn cầu, góp phần vào việc phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân.

Thông qua việc học tiếng Đức và tìm hiểu các nền văn hóa khác nhau, học sinh có thể hiểu rõ hơn, thêm yêu ngôn ngữ và nền văn hóa của dân tộc mình" – Trích Quyết định số 712/QĐ-BGDĐT ngày 09 tháng 02 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Nếu xem xét điểm thi để hình dung kết quả của giáo dục, thì trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm ngoái, điểm trung bình môn tiếng Anh chỉ 4,577. Điểm số có nhiều thí sinh đạt được nhất là… 3,4. Thậm chí 543 em có từ 1 điểm trở xuống. Một kết quả tồi tệ khiến tiếng Anh trở thành môn "đội sổ" trong kỳ thi.

Có câu, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.

Có lẽ, chúng ta cần một tư lệnh ngành giáo dục quyết đoán để chọn 1 thứ làm ngoại ngữ số 1. Ít nhất, để tránh rơi vào cảnh cái gì cũng học nhưng rồi lại chẳng thông thạo cái gì.

Thế nhưng nếu thực hiện yêu cầu ‘nhất nghệ tinh’ như đề xuất ở trên thì cũng không mấy ổn khi quy ngược trách nhiệm đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và tiếp theo đó là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Lý do : chuyện có ‘7 ngoại ngữ’ của ‘ngoại ngữ thứ nhất’, là kết quả của Đề án "Dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020".

Theo mục tiêu của Đề án đã đặt ra, riêng với tiếng Anh, tới năm 2020 sẽ có 100% học sinh lớp 3 được học chương trình tiếng Anh 10 năm với tổng kinh phí 9.378 tỉ đồng.

Thực tế ra sao về ‘ngoại ngữ 1’ tiếng Anh, chắc không cần phải luận bàn nhiều.

Hãy cứ nhìn lại kết quả kỳ thi năm ngoái một lần nữa mà xem : Nó tệ hại vô cùng, và đó cũng là một hệ lụy của nền giáo dục duy ý chí, răm rắp theo nghị quyết "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" – Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 04/11/2013.

Mai Lan

Nguồn : VNTB, 10/03/2021

***********************

Nên cho học sinh chọn nhiều ngoại ngữ khác nhau

Bùi Văn Phú, 08/03/2021

Khi có thông tin về việc lãnh đạo giáo dục đưa thêm ngoại ngữ gồm tiếng Hàn và tiếng Đức vào chương trình học từ lớp 3 đến lớp 12, tôi không ngạc nhiên với đề nghị này, vì Việt Nam đang trên đường phát triển và hội nhập với thế giới nên việc học sinh học thêm ngoại ngữ của những quốc gia tiến bộ là điều cần thiết trong mô hình giáo dục của một quốc gia phát triển.

lophoc1

Một lớp học Việt ngữ cuối tuần ở California (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Lãnh đạo giáo dục Việt Nam muốn quân bình Đông Tây trong chương trình dạy ngoại ngữ cho học sinh Việt Nam, dù tiếng Anh đang được dạy tại nhiều trường ngay từ cấp Một. Vấn đề là nếu muốn đem vào chương trình học những ngoại ngữ khác, hiện đã có giáo viên đủ trình độ để giảng dạy hay không và trên đại học có khoa sư phạm để huấn luyện thày cô cho những ngoại ngữ này chưa.

Ở Mỹ dạy học từ lớp 1 đến lớp 12 giáo viên phải có bằng sư phạm, ít nhất là 4 năm đại học. Dạy cấp Một cần bằng sư phạm tổng quát, lên cấp Hai và cấp Ba là bằng sư phạm chuyên cho môn học muốn dạy.

Ngoại ngữ chưa được dạy nhiều ở cấp Một tại Hoa Kỳ, chỉ chưa đến 30% các trường và đa số trong khu vực khá giả. Lên đến cấp Hai cũng chưa có nhiều, chừng 50% các trường có dạy ngoại ngữ. Cấp Ba thì hầu như trường nào cũng dạy ngoại ngữ, vì học sinh tốt nghiệp phổ thông nếu muốn được nhận vào các đại học 4 năm thì rất nhiều trường đòi điều kiện học sinh đã có học một ngoại ngữ ít nhất hai năm và được điểm C hay cao hơn.

Các ngoại ngữ được dạy trong chương trình phổ thông tại Hoa Kỳ thì tiếng Tây Ban Nha (Spanish) là phổ thông nhất, sau đến tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý. Ở California ngoài những ngoại ngữ kể trên, trong chương trình phổ thông còn có tiếng Nhật, tiếng Trung và tiếng Việt.

Cần hiểu rằng ở Mỹ không có một chương trình giáo dục toàn quốc mà các quyết định về giáo trình đều do cấp địa phương quyết định, từ những hội đồng giáo dục (Board of Education) được cư dân bầu lên, vì thế chính sách phản ánh nhu cầu thực tế tại địa phương.

Nhiều khu vực vì trình độ học sinh kém toán và Anh ngữ nên chương trình học dành nhiều thời gian và chú trọng đến các môn học này để giúp các em tiến bộ hơn. Việc học ngoại ngữ hay các bộ môn như âm nhạc, hội hoạ, nghệ thuật không được quan tâm nhiều.

Từ hơn hai thập niên qua tiếng Việt cũng đã được chính thức công nhận là một ngoại ngữ ở California, sau khi người Việt vận động để tiểu bang công nhận và đưa vào chương trình phổ thông.

Các trường cấp Ba nhiều nơi tại California có dạy môn Việt ngữ, như tại một số trường ở Quận Cam và vùng San Jose.

Lên bậc đại học cũng có môn học Việt ngữ hay ở cấp cao hơn là văn chương Việt nằm trong giáo trình hai năm đầu đại học. Trong vùng Vịnh San Francisco các trường San Jose City College, College of Alameda là các trường cao đẳng 2 năm, hay các trường California State University-East Bay, U.C. Berkeley là đại học 4 năm là nơi có môn Việt ngữ cho sinh viên học ngoại ngữ.

Dưới miền nam California các đại học từ Orange Coast College, Cal State Long Beach đến U.C. Los Angeles đều có dạy môn tiếng Việt.

Ở đại học, các ngoại ngữ phổ thông là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý. Nhiều trường cũng có dạy tiếng Trung, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập và ngay cả những ngôn ngữ ít phổ thông hơn như tiếng Hebrew, tiếng Hàn, tiếng Hy Lạp, tiếng Hmong nhiều trường đại học Mỹ cũng mở lớp mỗi niên khoá.

Riêng Đại học Berkeley có đến hơn 60 ngoại ngữ được giảng dạy, từ các ngôn ngữ thông dụng đến các cổ ngữ cần biết để nghiên cứu.

lophoc2

Đại học U.C. Berkeley nơi có trên 60 ngoại ngữ được giảng dạy (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Nếu phụ huynh muốn cho con em học ngoại ngữ từ nhỏ thì có các trường chuyên dùng ngoại ngữ để giảng dạy cho học sinh ngay từ cấp Một, nhưng là các trường tư. Ở Berkeley có trường tiếng Pháp, Oakland và San Francisco có nhiều trường tiếng Trung. Học sinh cấp Một tại các trường này vẫn theo giáo trình với các môn học chính như Anh ngữ, toán, khoa học thường thức, nhưng ngôn ngữ giảng dạy được dùng là ngoại ngữ mà phụ huynh muốn con em được học, gọi là chương trình "immersion".

Không có các trường "immersion" bằng tiếng Việt, nhưng nhiều phụ huynh muốn con học tiếng Việt, hiểu văn hóa nguồn cội nên mỗi cuối tuần đã đưa các em đi học tiếng mẹ đẻ tại hàng trăm trung tâm Việt ngữ khắp nơi ở Hoa Kỳ. Đây cũng là cách giúp cho con em học thêm một ngoại ngữ và nếu chăm chỉ, khi hết bậc phổ thông các em sẽ biết ba ngôn ngữ.

Tại Việt Nam hiện nay có nhiều trường quốc tế hoàn toàn sử dụng Anh ngữ trong các sinh hoạt tại trường.

Việc biết thêm một ngôn ngữ có nhiều điểm lợi cho học sinh, sinh viên trong tương lai. Tôi đã trải nghiệm và nhận ra khả năng tiếng Việt đã giúp mình nhiều.

Đến Mỹ được hai năm, tôi xin vào học Đại học U.C. Berkeley và bị từ chối với lý do không hội đủ điều kiện đã có học một ngôn ngữ khác, ngoài Anh ngữ được coi là chính khi nộp đơn. Tôi khiếu nại, với lý do là tôi thành thạo tiếng Việt, như thế nhà trường có thể chấp nhận là tôi biết một ngoại ngữ hay không.

Nhà trường trả lời họ chấp nhận tiếng Việt là một ngoại ngữ và để chứng minh khả năng, họ yêu cầu tôi lấy một bài khảo sát Việt ngữ của trường đưa ra.

Tôi đi thi tiếng Việt. Đề thi là một bài văn viết về cái chết của triết gia Camus, trong đó 100 từ vựng được xóa đi và tôi phải điền vào chỗ trống những từ cho hợp nghĩa. Kết quả tôi đủ điểm để chứng minh là người sành sõi tiếng Việt, nghĩa là biết một ngoại ngữ, và được nhận vào trường.

Mười lăm năm sau. Khi đã có bằng sư phạm toán, tôi muốn có bằng sư phạm Việt ngữ để nếu cần có thể dạy môn này, vì tôi yêu mến tiếng mẹ đẻ. Khi California công nhận tiếng Việt là một ngoại ngữ trong chương trình giáo dục, tôi lại đi thi. Kỳ thi do một trung tâm giáo dục của Đại học California State University-San Diego phụ tráchgồm thi viết và vấn đáp với ba giáo sư. Kết quả tôi được cấp văn bằng sư phạm Việt ngữ của tiểu bang California.

Tôi không dạy Việt ngữ bậc phổ thông, nhưng thỉnh thoảng có hướng dẫn hội thảo cho giáo chức địa phương về ngôn ngữ, văn hóa Việt hoặc tình nguyện dạy Việt ngữ cho các em nhỏ trong khu vực.

Kể chuyện học ngoại ngữ để cho thấy biết thêm một ngôn ngữ nhiều khi đem lại những lợi ích cho bản thân.

lophoc3

Tại Hoa Kỳ có hàng trăm trung tâm Việt ngữ cho các em học tiếng Việt vào cuối tuần (Ảnh : Bùi Văn Phú)

Ngày nay tiếng Anh đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, việc dạy tiếng Anh cho học sinh Việt từ nhỏ là điều cần thiết và cần mở rộng. Tuy nhiên không vì thế mà không cho học sinh cơ hội học thêm các ngoại ngữ khác như tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha vì tương lai Việt Nam sẽ có nhiều phát triển quan hệ với những quốc gia sử dụng những ngôn ngữ đó và trong nhiều ngành nghề tương lai sẽ cần người thông thạo nhiều ngoại ngữ và có hiểu biết về những nền văn hóa khác.

Vấn đề là hệ thống giáo dục Việt Nam đã có đủ điều kiện tài chính và vật chất để đào tạo thày cô với đầy đủ kiến thức và khả năng chuyên môn để dạy những ngoại ngữ đó hay chưa.

Bùi Văn Phú

Nguồn : © 2021 Buivanphu, 08/03/2021

***********************

Học sinh Việt Nam 'học bơi sai' trong biển ngoại ngữ ?

Nguyễn Phương Mai, BBC, 07/03/2021

Là một người gốc Việt đã sống hơn hai mươi năm ở Hà Lan, vậy mà tiếng Hà Lan của tôi vẫn không trôi chảy như người bản xứ.

lophoc5

Một lớp học ngoại ngữ cho học sinh tiểu học Hà Lan

An ủi cho tôi là rất nhiều dân nhập cư có cùng niềm than vãn. Lý do thì có nhiều, nhưng lý do lớn nhất là vì người Hà Lan nói tiếng Anh ngang ngửa tiếng mẹ đẻ của chính họ. Mỗi lần thấy người nước ngoài hoặc người nhập cư chỉ cần hơi trúc trắc trong việc tìm câu chữ là họ nhanh nhẹn muốn giúp đỡ, đổi ngoặt sang tiếng Anh.

Có một thời gian, tôi quên quá nhiều tiếng Hà Lan nên nằng nặc đòi người bán hàng đừng nói tiếng Anh. Ông ta nhìn tôi như thể một kẻ thừa hơi rỗi việc, tự ôm rơm rặm bụng vậy.

Tại sao người Hà Lan giỏi ngoại ngữ ?

Trong bảng biểu năm 2018 những quốc gia nói tiếng Anh tốt nhất, Hà Lan đứng đầu cùng Thuỵ Điển và Singapore.

Giáo dục ở Hà Lan  từ thế kỷ thứ 16 đã coi trọng việc nói tiếng Pháp và tiếng Flemish.

Một thời gian dài tầm đầu thế kỷ 20, giáo dục Hà Lan nở bung những phương pháp dạy ngoại ngữ khác nhau để tìm ra một giải pháp học tốt nhất.

Người Hà Lan thực dụng, luôn lấy hiệu quả công việc làm trọng tâm. Vì vậy, để đánh giá vấn đề học ngoại ngữ, câu hỏi lớn nhất họ đặt ra là : "Phương cách này có đạt mục đích hay không ?"

Nhu cầu học tiếng nước ngoài của người Hà Lan, vì vậy, cũng rất mang tính thực dụng.

Thế kỷ thứ 17, nhiều người Pháp, Tây Ban Nha di cư đến Hà Lan, đem theo tiền bạc và kiến thức.

Dòng dân cư này tạo ra một thời kỳ hoàng kim cho kinh tế Hà Lan, lịch sử gọi là the The Golden Age.

Các chiến thuyền và công ty tư nhân của Hà Lan sánh vai cùng các cường quốc thuộc địa khác như Tây Ban Nha, Anh, Bồ Đào Nha vươn cánh ra khắp năm Châu, dùng tiền bạc và sức mạnh để thống trị thế giới.

Hà Lan trở thành nơi sinh ra sàn chứng khoán đầu tiên và Amsterdam trở thành một trung tâm kinh tế văn hóa hùng mạnh của Châu Âu.

Với lịch sử buôn bán thông thương quốc tế như vậy, người Hà Lan không quá coi trọng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

Giờ đây, ý thức được mình là một đất nước nhỏ, phải mở cửa thì mới phát triển, họ hiểu rằng ngôn ngữ là công cụ kinh tế.

Các nhạc sĩ ca sĩ ở Hà Lan cũng hát và sáng tác bằng tiếng Anh. Một vài người hát tiếng Hà Lan được coi là của độc. Các chương trình TV nước ngoài đều không lồng tiếng và dùng phụ đề.

Gần như 100% các nhà khoa học Hà Lan đều viết báo cáo khoa học và công bố các công trình khoa học bằng tiếng Anh, thậm chí các tạp chí khoa học bằng tiếng Hà Lan nhiều khi không được tính là tạp chí khoa học.

Hiện nay, trẻ em Hà Lan đều học tiếng Anh từ nhỏ. Phương pháp học thực dụng lấy mục tiêu để đánh giá nên chủ yếu thiên về nghe nói, rất ít ngữ pháp.

Ngoài ra, các em học sinh Hà Lan cũng ý thức rất rõ TẠI SAO phải học ngoại ngữ.

Hỏi bất kỳ một em học sinh trung học nào, em đó cũng có thể trả lời rằng Hà Lan có truyền thống thông thương, đất đai nhỏ hẹp, phải học ngoại ngữ để phát triển kinh tế.

Ngày càng nhiều trường ở cấp phổ thông trở thành bilingual school - tức là một nửa các môn học được dạy bằng tiếng Anh. Ngoài ra, các em còn học thêm 1 hoặc 2 ngôn ngữ khác như tiếng Pháp và tiếng Đức.

Bậc học cao nhất ở trung học học thêm tiếng Latin. Rất nhiều trường dạy thêm tiếng Tây Ban Nha, Nga, Trung, Nhật.

Ở bậc đại học, các em vẫn tiếp tục học thêm ngôn ngữ, kể cả khi tiếng Anh là ngôn ngữ giảng dạy.

Tại sao học ngoại ngữ ở Việt Nam chưa hiệu quả ?

Người Việt Nam tiếp xúc với tiếng Trung, tiếng Hán từ xa xưa, nhưng chỉ giới hạn trong giới trí thức.

Tiếng Anh và tiếng Pháp du nhập vào Việt Nam tầm thế kỷ thứ 19 trong các trường dòng của Pháp.

Dưới chính quyền miền Nam, tiếng Anh là ngoại ngữ nhưng chỉ từ lớp 6.

Sau đó, tiếng Nga thống trị nền giáo dục do mối quan hệ chính trị kinh tế giữa hai quốc gia.

Chỉ tới thời kỳ đổi mới tầm năm 1986, tiếng Anh mới bắt đầu trở thành ngoại ngữ chính trong giáo dục phổ thông.

Tuy nhiên, gần 40 năm trôi qua, giáo dục ngoại ngữ ở Việt Nam chưa khởi sắc.

Trong bảng danh sách các nước thành thạo tiếng Anh, Việt Nam đứng thứ 41. Tuy là tầm trung so với thế giới nhưng chưa thực sự đúng với mong đợi của sự đầu tư.

Cụ thể là đề án ngoại ngữ quốc gia từ 2008-2020  tốn gần 10 tỉ đồng nhưng không hiệu quả. Theo báo cáo cuả báo Giáo dục , trong kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2016, số bài đạt điểm từ 9 đến 10 chỉ chiếm 0,52%, điểm trung bình là 3,48. Năm 2017 điểm trung bình là 4,6. Năm 2018 còn tệ hơn : 3,9.

lophoc6

Với cách dạy nặng về ngữ pháp, coi nhẹ yếu tố thực hành, học sinh Việt Nam có thể viết câu chỉn chu, nhưng khi gặp người nước ngoài lại bối rối không biết cách giao tiếp

Những nguyên nhân dẫn đến sự kém cỏi này thì có nhiều, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là phương pháp học sai.

Để so sánh, giáo dục Hà Lan đặt trọng tâm vào nghe nói và thực hành. Điều này khác với Việt Nam nặng về ngữ pháp.

Giở một cuốn sách tiếng Anh lớp 6 thôi mà chính bản thân tôi còn thấy có từ mới mình không hề biết, cùng những cấu trúc câu phức tạp ít dùng trong giao tiếp sơ đẳng.

Vì vậy, một bạn nhỏ ở Việt Nam có thể viết một câu tiếng Anh rất đầy đủ, nhưng khi gặp người nước ngoài thì sau "How are you ? I'm fine, thank you, and you ?" xong là có khi không nói được gì nữa.

Nguyên nhân thứ hai là mục đích học cũng bị hiểu sai.

Tại Việt Nam, học ngoại ngữ được coi là để thi đậu và lấy bằng. Các hình thức đánh giá hiệu quả dạy học chỉ tập trung vào đọc hiểu, nhất là các kỳ thi chuyển cấp. Vì vậy, giáo viên dạy để học sinh thi đậu, và học sinh học để thi đậu.

Mục đích học để giao tiếp bị đo ván trong trận so găng với mục đích học để đọc hiểu. Đó là chưa nói đến những mục đích lớn hơn như kết nối thông tin, mở rộng kiến thức, tăng cơ hội nghề.

Nguyên nhân thứ ba gồm các khó khăn vốn tồn đọng với tất cả các bộ môn khác như lớp đông, trình độ giáo viên, và cơ sở vật chất.

Học ngoại ngữ gì cho phù hợp ?

Bộ Giáo dục cho phép học sinh và nhà trường chọn trong năm ngoại ngữ 1 để giảng dạy. Đó là tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, Nhật.

Mới đây, Bộ đưa thêm tiếng Đức và tiếng Hàn, vốn là ngoại ngữ 2, gộp vào với danh sách ngoại ngữ 1.

Như vậy, một trường có thể chọn trong 7 ngoại ngữ. Điều này thoạt tiên gây hiểu lầm là học sinh nay phải học tiếng Đức, tiếng Hàn.

Nhiều người cho rằng ngoại ngữ 1 như vậy là quá nhiều lựa chọn, ôm đồm, và không có mũi nhọn.

Nếu chỉ được chọn một ngoại ngữ để dạy thì như vậy còn khiến tiếng Anh - vốn là ngôn ngữ văn hóa thương mại quan trọng nhất, bị mất cơ hội.

Có thể trên thực tế, những nơi chọn ngoại ngữ ngoài tiếng Anh thì học sinh đã có cơ hội học tiếng Anh đâu ra đó rồi.

Tuy nhiên, để khiến bức tranh giáo dục ngoại ngữ đỡ phức tạp, Bộ Giáo dục nên cân nhắc một quan điểm khá phổ biến ở các nước đi trước : Tiếng Anh là đương nhiên bắt buộc, các thứ tiếng còn lại là ngoại ngữ lựa chọn.

Bộ Giáo dục cũng nên cân nhắc việc truyền đạt thông tin một cách đơn giản cụ thể đến cho các em học sinh.

Học mà không có động lực rõ ràng thì các em sẽ chỉ học để thi. Giống như một em học sinh Hà Lan có thể mạch lạc giải thích tại sao em cần học tiếng Đức, một em học sinh Việt Nam cũng cần biết tại sao mình nên học tiếng Đức, tiếng Hàn.

Những thông tin đó có thể rất đơn giản, như việc cho các em thấy con số 2.000 doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam cùng gần nửa triệu khách du lịch.

Hay hấp dẫn hơn, nếu em học tiếng Đức thành thạo, đây là một trong số ít các quốc gia cho em học đại học miễn phí bằng tiếng Đức.

Tiếng nói và nhận thức của trẻ em cần được coi trọng hơn, vì khi thực sự ham học, các em sẽ tự học, không cần ai ép buộc.

Một chiến lược về số lượng ngoại ngữ thường dựa trên các phân tích xã hội và kinh tế cẩn trọng, ví dụ dựa vào đối tác thương mại của Việt Nam.

Tuy nhiên, bất kể chiến lược ấy tốt ra sao, nếu phương pháp dạy của giáo viên không hiệu quả và mục đích học của học sinh không đủ mạnh mẽ, hàng nghìn tỷ sẽ tiếp tục đổ sông đổ bể.

Đến tiếng Anh quan trọng như thế, lợi ích rõ rệt như thế mà còn kết quả còn dở tệ, thì vấn đề nan giải của Bộ không phải là học ngoại ngữ gì, mà là học thế nào.

Nguyễn Phương Mai

Nguồn : BBC, 07/03/2021

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai làm việc tại Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan. Bà nghiên cứu quản trị đa văn hóa bằng phương pháp liên ngành kết hợp với kiến thức thần kinh não bộ (neuroscience). Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Additional Info

  • Author Mai Lan, Bùi Văn Phú, Nguyễn Phương Mai
Published in Diễn đàn