Lẫm lúa ở miền Tây
Trần Dzạ Dzũng, VNTB, 26/03/2020
Nước mắt nhà nông khi ruộng lúa bị khô hạn và nhiễm mặn
Lúa sau khi thu hoạch thì được phơi khô, giê sạch và bảo quản bằng nhiều vật dụng khác nhau như bồ lu, bồ nan, bùng binh, xe rương và cái lẫm hay còn gọi là lẫm lúa. Nhà nào có nhiều lúa để dự trữ thì phải dùng đến cái lẫm.
Chữ lẫm (廩) là từ Hán Việt có nghĩa là kho đụn chứa lương thực. Cái lẫm chứa lúa thường chỉ có ở những nhà địa chủ lớn, một vụ thu vô 3-4 muôn lúa (3-4 ngàn giạ) trở lên mà các vật dụng như kể trên không thể chứa hết được.
Trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) người ta phần nào hình dung được diện mạo nông thôn miệt sông nước đồng bằng ngày trước. Lúa gạo nhiều thì phải bán,người mua lúa gạo kêu là lái lúa,bạn hàng xáo. Bạn hàng xáo đi thu mua lúa từ trong đồng trong bái, chất lên ghe chở ra chành lúa.
Xuất hiện từ "chành lúa", chành là tiếng Tiều của người Hoa, vì người Tiều thâu mua lúa đầu tiên. Chành là cái kho chứa lúa của người mua lúa. Nếu của điền chủ thì kho kêu là "lẫm lúa". Khắp lục tỉnh nơi nào cũng có chành lúa.
Cái lẫm thường được thiết kế trong một ngôi nhà rộng ba gian, xây dựng ở những vùng cao không bị ngập lụt. Hai gian hai bên có diện tích rộng thiết kế thành 2 cái lẫm. Gian giữa hẹp hơn là nơi người ta chuyển lúa vào hay xuất lúa ra. Gian làm lẫm ba mặt là vách tường. Còn một mặt trong nhà hoặc đóng kín bằng ván gỗ hay tường làm bằng đất, có chừa một cái cửa bề cao lên đến cây trính, bề rộng phải lớn hơn cái thúng cái khi đưa thúng đổ lúa vào. Cửa này là nơi người ta đổ lúa vào. Có những tấm ván tấn chặn ở cửa, cao khoảng 0,5m.
Khi đổ lúa vào lẫm đầy đến 0,5m, người ta tấn tấm ván khác lên trên để tiếp tục đổ lúa vào. Rồi cứ thế mà đổ cho đến tầng 3, tầng 4… đến khi nào lẫm đầy lúa thì thôi. Nơi vách gần cửa lẫm, người ta chừa một cái ngách tra vào đó bằng một cái máng xuôi miệng, một miếng gỗ đặt nơi miệng máng.
Khi lẫm đầy lúa, cần xuất lúa từ lẫm thì rút miếng ván ở miệng máng cho lúa chảy ra, lấy đủ số thì đóng miếng ván lại. Trong nền lẫm, người ta lót gạch, cho trấu vào trên lớp gạch cao khoảng vài tấc, rồi lót những tấm bồ nan cách ly giữa trấu và lúa sẽ đổ vào sau này.
Người ta đổ lúa vào lẫm, tầng 1 dưới cùng, dùng thúng lường có 2 người khiêng. Những tầng kế trên đưa lúa vào bằng thúng cái và cao hơn nữa thì bằng thúng con cho nhẹ.
Ở những vùng thường xuyên bị lũ lụt, người ta vẫn xây nhà lẫm, nhưng trong nhà làm gác lửng có độ cao quá mức ngập lụt. Trên gác lửng đó, người ta làm khung bằng cây che kín bốn bên, đổ thóc lúa vào, hay lúa ít, họ quay bồ trên sàn gác để chứa lúa. Lên xuống lẫm này bằng cái thang gỗ…
Đó là lẫm lúa thường thấy thời trước của điền chủ, hay ở nhà ông hội đồng.
Việt Nam hiện nay thì có hẳn bộ quy chuẩn về ‘lẫm lúa’ với tên gọi trên văn bản là ‘kho chứa thóc’ – dân miền Nam gọi gọn là ‘kho lúa’. Bộ quy chuẩn này nằm ở Thông tư 12/2013/Tổng thống-BNNPTNT do Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bùi Bá Bổng ký ban hành 06-02-2013.
Khác lẫm lúa ngày xưa, ‘kho chứa thóc’ theo quy chuẩn còn buộc phải có các thiết bị như máy sấy thóc có khả năng xử lý được độ ẩm của thóc đạt yêu cầu kỹ thuật, công suất sấy đáp ứng được năng lực của kho chứa.
Các dạng máy sấy gồm : Máy sấy dạng tháp ; Hệ thống (cụm) máy sấy tầng sôi kết hợp với sấy tháp ; Máy sấy vỉ ngang ; Thiết bị vận chuyển phục vụ xuất, nhập kho ; Thiết bị xử lý những sự cố bất lợi trong quá trình bảo quản ; Thiết bị đo lường kiểm tra, giám sát các chỉ tiêu yêu cầu kỹ thuật ; Hệ thống chiếu sáng…
Bộ quy chuẩn cũng đề cập đến kho silo. Theo đó kho silo có thân kho hình trụ (hoặc hình hộp) đáy dạng hình chóp hoặc đáy phẳng với cơ cấu tháo liệu, đường kính từ 6 m đến 20 m, chiều cao từ 10 m đến 30 m, có nắp kín và các cửa thông hơi. Vật liệu làm silo là bê tông, kim loại, hoặc tôn tráng kẽm ; Số lượng silo tối thiểu là hai chiếc, đảm bảo đảo trộn nguyên liệu trong quá trình bảo quản…
Giải pháp chọn lựa phổ biến ở nước nông nghiệp là xây dựng silo. Đây là một kết cấu bằng thép hay bê tông được xây dựng để bảo quản nông sản dạng hạt rời, được trang bị hệ thống kiểm định chất lượng lúa đầu vào, thiết bị làm sạch và sấy khô. Hệ thống nộp lúa vào và tháo lúa ra bằng cơ giới, trang bị hệ thống tự động theo dõi, điều tiết nhiệt độ và làm mát trong quá trình bảo quản, nhờ vậy có thể bảo quản lúa thời gian hơn một năm phù hợp với diễn biến lúa gạo trên thị trường. Nhờ có thể xây dựng theo chiều cao, silo ít tốn kém mặt bằng, chứa được khối lượng lớn. Nhờ được bảo quản tốt nên trong quá trình xay xát hạt gạo đạt chất lượng cao và ổn định.
Ở miền Nam trước 1975, tư liệu về nông nghiệp cho biết đã có một số các cụm silo, như ở Cao Lãnh (48.000 tấn), Trà Nóc (10.000 tấn), Bình Chánh (12.000 tấn), nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên sau 1975 không được sử dụng đúng công năng, hoặc bỏ trống.
Khi có hệ thống tổng kho, nếu giá lúa thấp, nông dân không bán và mang lúa gạo đến ký gửi ở tổng kho của Nhà nước. Khi nhận được đơn xác nhận ký gửi hàng hóa từ Nhà nước, nông dân có thể đến ngân hàng vay một khoản tín dụng tương đương với giá trị lúa đã ký gửi trong tổng kho. Số tiền vay này có thể dùng trang trải trong cuộc sống hàng ngày, mua sắm vật tư chuẩn bị cho vụ mùa mới. Giá cả luôn được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu.
Khi nguồn cung giảm, giá sẽ tăng, khi đạt được mức giá mong đợi, nông dân bán lúa (gạo) ra và giải chấp vốn vay ở ngân hàng. Với mô hình này, nông dân sẽ có mức lời mong đợi, không phải bán tháo hàng hóa khi giá ở mức thấp. Hệ thống tổng kho không phải là nơi giữ hàng hóa miễn phí cho nông dân, doanh nghiệp mà đây còn là một ngành kinh doanh mang lại lợi nhuận.
Ông Đoàn Đình Hoàng, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, nhận định với nguồn lực trong tay, Nhà nước có trách nhiệm đầu tư xây dựng hệ thống tổng kho, và tổ chức đấu thầu cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia khai thác.
Ví dụ một hệ thống tổng kho vùng có năng lực lưu trữ 1 triệu tấn hàng hóa sẽ được chia thành bốn hệ thống kho phụ, mỗi kho có sức chứa 250.000 tấn sẽ được chia nhỏ ra cho các đơn vị khai thác. Nhà nước cần đưa ra giá sàn với mức phí hợp lý mà nông dân và doanh nghiệp đều có khả năng ký gửi hàng hóa, và đặt ra thời hạn thu hồi vốn cho các hệ thống kho này.
Nếu có hệ thống tổng kho, người nông dân sẽ ít lệ thuộc vào thương lái hơn, hàng hóa không đi qua nhiều khâu trung gian. Ví dụ hệ thống tổng kho ở khu vực phía Nam có thể đặt ở Long An, Cần Thơ, Bạc Liêu và An Giang. Nông dân ở đây có thể đưa sản phẩm của mình đến kho gần nhất để ký gửi hàng hóa…
Những lo lắng về biến động của mùa dịch đến từ con virus corona rồi cũng sẽ đến hồi kết thúc. Mùa mưa đến, vậy là miền Tây vừa giải hạn mặn, vừa no nước để làm những vụ mùa.
Câu chuyện về một hệ thống tổng kho lúa gạo cho đồng bằng sông Cửu Long được nhiều lần xới đi xới lại ở các hội nghị, hội thảo từ thập niên 80 ở thế kỷ trước, cho tới tận hôm nay, có lẽ lại chìm vào lãng quên ; hay ít ra là cũng tiếp tục bị ‘bỏ quên’ trong năm 2021, khi đây là năm bộn bề công việc nhân sự cho nhiệm kỳ mới của đảng chính trị và của cả quốc hội và chính phủ Việt Nam.
Tuy nhiên trong góc nhìn khác, một nhà báo chuyên trách về logistics ở miền Tây Nam bộ nói rằng cần coi lại chuyện thủ tục cho vay và lãi vay ngân hàng ở nông thôn. Nông dân thường không đủ vốn liếng để làm các vụ lúa tiếp theo, nếu như vì tình thế nào đó mà họ buộc phải ‘ký gửi’ lúa vào ‘lẫm lúa’ để chờ giá. Nên nhớ ‘lẫm lúa’ là dành cho điền chủ, cho ông bà hội đồng giàu có tiền muôn, bạc vạn.
Trần Dzạ Dzũng
Nguồn : VNTB, 26/03/2020
******************
Nguy cơ sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau hạn mặn
Diễm Thi, RFA, 26/03/2020
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long năm nay ở mức độ được nói gay gắt và khốc liệt. Tình trạng thiếu nước ngọt xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống dân sinh.
Ảnh minh họa bờ sông bị sạt lở - Photo : moitruong.net
Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, do nước sông Mekong từ thượng nguồn về Đồng bằng sông Cửu Long ở mức rất thấp nên xâm nhập mặn nghiêm trọng. Dự báo đến cuối tháng 4 mới kết thúc đợt hạn hán, xâm nhập mặn năm nay.
Khi hạn mặn đang ảnh hưởng nặng nề đến đời sống người dân cũng như hệ sinh thái nơi này thì các chuyên gia lại cảnh báo hiện tượng sạt lở trong mùa mưa sắp tới.
Theo Cục Quản lý Tài nguyên nước thuộc Bộ Tài nguyên- Môi trường, lũ lụt, xâm nhập mặn và sạt lở là những thách thức lớn mà Đồng bằng sông Cửu Long phải đối diện hàng năm. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, các trận lũ hầu hết xuất hiện vào giữa tháng 10 và chủ yếu là lũ vừa và nhỏ, số trận lũ lớn đã giảm so với trước đó. Nguyên nhân là do việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thủy điện ở thượng lưu sông Mekong đổ về vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi quy luật tự nhiên của dòng chảy.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, chuyên gia môi trường và tài nguyên, chỉ ra nguyên nhân làm cho tình trạng sạt lở hàng năm ngày càng nặng nề :
"Vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng rất là nhạy cảm đối với sự thay đổi khí hậu thủy văn. Khi dòng chảy trên sông Mekong thay đổi do yếu tố như mưa hay do điều kiện đặc biệt khác thì nó ảnh hưởng đến hệ sinh thái rất là nhiều. Đậy là khu vực đồng bằng rất thấp và phẳng lại nằm cuối hạ lưu của một con sông lớn. Thêm vào đó là tác động từ con người như đập thủy điện làm cho tình trạng càng khó khăn hơn".
Mấy năm gần đây, mặc dù đang là mùa khô nhưng vẫn có hiện tượng sạt lở những căn nhà dọc bờ sông.
Hôm 18 tháng 6 năm 2019, tại diễn đàn ‘Quản lý tài nguyên nước, lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long’ do Bộ Tài nguyên Môi trường và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, một báo cáo cho thấy vùng Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 560 điểm sạt lở với tổng chiều dài hơn 800km và xâm nhập mặn hơn 90 km.
Cùng ngày, 6 căn nhà liền kề tại khu vực ven bờ sông Vàm Cỏ Tây, xã Lợi Bình Nhơn, tỉnh Long An đã bị sạt lở.
Ngày 29 tháng 7 năm 2019, năm căn nhà cặp sông Cái Sắn, ven quốc lộ 80 huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ bị sạt lở gây hư hỏng nặng nề và hai căn nhà đã bị cuốn trôi.
Tối ngày 29/8/2019, 58 m đường ven kênh Rạch Vọp, tỉnh Sóc Trăng bị sạt lở, nhấn chìm hoàn toàn chín căn nhà bán kiên cố xuống sông.
Những vụ sạt lở trên xảy ra không lâu khi mùa mưa đến. Vì thế năm nay, khi mùa khô hạn còn chưa hết, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long đã cảnh báo tình trạng sạt lở vào mùa mưa sắp tới.
Báo trong nước dẫn lời Thạc sĩ Thiện rằng, vào đầu mùa mưa tới, khi mực nước sông còn thấp nhưng bắt đầu chảy mạnh, nước lũ từ thượng nguồn Mekong đổ về làm tăng áp lực bào mòn vào chân bờ sông ở bên dưới. Dòng chảy đã khoét rỗng chân bờ sông, tạo "hàm ếch" bên dưới trong khi người sống ở trên không biết cho đến khi toàn bộ khối đất đổ ụp xuống. Vì vậy, dù đang trong tình trạng hạn mặn, chúng ta vẫn cần đề phòng chuyện này khi mùa mưa đến.
Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, cho rằng hạn mặn và sạt lở về mặt tự nhiên không liên quan đến nhau, nhưng mặt nhân tai thì có, bởi khi hạn hán thì bà con buộc phải khai thác nước ngầm. Khi khai thác như vậy làm cho nền đồng bằng bị tụt xuống khá nhanh. Điều đó làm ảnh hưởng đến chuyện sụt lở. Nhưng đó không phải là tác động trực tiếp và ngay bây giờ. Theo ông thì chuyện sạt lở là chuyện năm nào cũng có. Ông giải thích :
"Chuyện sạt lở bên bờ sông là do tốc độ dòng chảy của sông bất ổn. Có những lúc rất chậm nhưng có những lúc rất nhanh. Nguyên nhân thứ nhất là những năm lũ lớn, nước trên thượng nguồn lại đổ về do người ta xả đập nên lũ chồng lũ.
Nguyên nhân thứ hai là vùng thượng nguồn họ đắp đê bao kín để làm lúa ba vụ hoặc trồng cây ăn trái nên nước không có đường thoát trên thượng nguồn mà nó tràn xuống bên dưới với tốc độ nhanh hơn.
Nguyên nhân thứ ba là lòng sông những năm gần bị khai thác cát, sỏi rất nhiều nên lòng sông rộng và sâu tạo nên những vùng sụt lở. Ngoài ra những đập nước trên thượng nguồn nó chặn rất nhiều phù sa xuống hạ nguồn cho nên việc bồi đắp phù sa cho lòng sông bị giảm đi".
Chuyện sạt lở là chuyện xảy ra hàng năm. Đây là một thực tế mà vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã phải chịu từ nhiều năm qua. Nguyên nhân do thiên tai cũng có mà nhân tai cũng có.
Giáo sư Võ Tòng Xuân nhận định :
"Thứ nhất là người ta ăn cắp cát. Gọi là ăn cắp chứ thật ra họ câu kết với chính quyền địa phương để bơm cát. Khi họ lấy cát thì đáy sông sâu hơn nên dòng nước chảy bị xoáy. Khi nước xoáy vậy thì nó cuốn chân bờ sông khiến bờ sông sụp.
Thêm nữa là khi dòng chảy mạnh thì nó dễ làm cho bờ bị lở. mà sông Tiền, sông Hậu chịu ảnh hưởng của triều bên biển Đông nên cũng có hai con nước lớn hai con nước nhỏ. Mỗi ngày hai lần như vậy. Khi lưu lượng chảy nhanh nó sẽ cuốn bờ sông. Một phần hữa là do dân mình lấn sông cất nhà làm trầm trọng thâm khả năng bị sạt lở".
Chuyện khai thác cát mà Giáo sư Võ Tòng Xuân đề cập đã xảy ra cả chục năm nay.
Theo thống kê của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, các sở Khoa học Công nghệ, Sở tài nguyên Môi trường, Sở Xây dựng của các địa phương đã cấp phép cho các doanh nghiệp khai thác cát dọc sông Tiền và sông Hậu mỗi năm 28 triệu mét khối. Con số này chỉ tính từ năm 2010 đến năm 2013, khi viện này thực hiện đề tài khoa học công nghệ độc lập cấp Nhà nước "Nghiên cứu ảnh hưởng hoạt động khai thác cát đến thay đổi lòng dẫn sông Cửu Long (sông Tiền, sông Hậu) và đề xuất giải pháp quản lý, quy hoạch khai thác hợp lý".
Diễm Thi
Nguồn : RFA, 26/03/2020
******************
Vì đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị nên… ở đâu ngồi đó !
Trân Văn, 24/03/2020
Dịch viêm phổi Vũ Hán đã chất thêm gánh nặng cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long – khu vực vốn bị xem là đang hấp hối vì hạn hán và nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu vào ruộng, vườn.
Đồng Bằng Sông Cửu Long với cảnh hạn hán khốc liệt năm 2016. [nguồn : Việt Nam Express 3/11/2016]
Hạn hán và nhiễm mặn không mới. Tình trạng này từng lặp đi, lặp lại nhiều lần. Yếu tố "mới" chỉở mức độ trầm trọng. Khi so lần sau với những lần trước, dù muốn hay không thì từ các viên chức hữu trách đến cư dân cũng phải cùng thừa nhận là… chưa từng có !
Hậu quả của hạn hán và nhiễm mặn càng ngày càng đa dạng : Khai thác nước ngầm để bù vào lượng nước ngọt cần thiết cho cả sinh hoạt lẫn trồng trọt, chăn nuôi... vốn càng ngày càng giảm khiến bề mặt Đồng bằng sông Cửu Long biến dạng.
Được sự tiếp sức của việc cho phép khai thác – tận thu cát vô tội vạ, sạt lở, sụt lún đã xảy ra khắp nơi. Giờ, "tan rã" không còn là nguy cơ. "Tan rã" đã trở thành hiện thực, đe dọa hủy diệt khu vực mà sản vật tự nhiên vốn đa dạng, phong phú nhất Việt Nam !
***
Cho dù mức độ trầm trọng của thảm trạng đang diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long có sự góp phần của những con đập ở thượng nguồn sông Mekong và thời tiết dị thường do biến đổi khí hậu nhưng xét cho đến cùng, nguyên nhân chính vẫn nằm ở tư duy quản trị và năng lực điều hành quốc gia…
Cho dù còn không ít khác biệt về biện pháp giải cứu Đồng bằng sông Cửu Long nhưng ít nhất, các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam luôn đồng thuận : Hạn hán ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không càng ngày càng đáng sợ như đã thấy nếu "đảng ta" không ra lệnh cải tạo những vùng trũng từng là nơi tích nước cho Đồng bằng sông Cửu Long (Đồng Tháp Mười...) thành ruộng lúa.
Hệ thống đê bao, những dự án kiểu như "Ngọt hóa bán đảo Cà Mau"... những nghị quyết nhằm tăng sản lượng gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long để vươn lên dẫn đầu về xuất cảng gạo, để nâng kim ngạch xuất cảng thủy sản, giúp "chỉ tiêu tăng trưởng" của năm sau cao hơn năm trước...
Tương tự, để thu hút đầu tư, vì "chỉ tiêu tăng trưởng" mà gật đầu liên tục với đủ loại dự án đầu tư, cho phép xây dựng những nhà máy mà hoạt động hủy hoại cả môi trường sống lẫn nguồn nước (bột giấy, đốt than để phát điện...) đã khiến nguồn nước của sông rạch ô nhiễm trầm trọng, phải bù đắp bằng gia tăng khai thác nước ngầm.
Hạn hán, sông rạch và ruộng vườn nhiễm mặn, sạt lở, sụt lún ở Đồng bằng sông Cửu Long liệu có trầm trọng như đang thấy nếu không có những chủ trương, những nghị quyết như đã kể, không có việc thi nhau cho phép khai thác cát để tăng nguồn thu ? Chắc chắn là không ! Đã có ai, nơi nào nhận hoặc bị truy cứu trách nhiệm về những chủ trương, nghị quyết đó không ?
***
Trước tình trạng càng ngày càng bi đát của Đồng bằng sông Cửu Long, cuối năm 2017, chính phủ Việt Nam ban hành thêm một nghị quyết nữa để giúp Đồng bằng sông Cửu Long "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững" (Nghị quyết 120/NQ-CP).
Nghị quyết 120/NQ-CP được chính các viên chức hữu trách lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam ví von là "Nghị quyết thuận thiên" : Quản trị và điều hành hoạt động kinh tế - xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ "tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên" (1).
Cho dù cuối cùng đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta cũng thấy, ít nhất với trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long, quản trị, điều hành phải thuận… thiên nhưng trên thực tế, đảng ta, quốc hội ta, nhà nước ta, chính phủ ta vẫn muốn dùng nghị quyết thế… thiên !
Tuần trước, khi tham gia "Tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận 53 của Bộ Chính trị về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020", ông Nguyễn Xuân Phúc – người thường tỏ ra hết sức tâm đắc với "Nghị quyết thuận thiên" - tuyên bố : "Ta" đang đối diện với "thử thách lớn", phải "nuôi ăn 104 triệu người", do đó cần "chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hàng năm" và sẽ sớm trình Bộ Chính trị đề nghị giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo (2)…
Cách nay hơn ba thập niên, "an ninh lương thực" mở đường cho nhiều chủ trương, nghị quyết "cải tạo toàn diện" Đồng bằng sông Cửu Long, đẩy khu vực này trước thảm trạng như đang thấy. Giờ khi các chuyên gia ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đã hiến nhiều giải pháp nhằm giúp Đồng bằng sông Cửu Long cầm cự, "an ninh lương thực" lại ngóc đầu gượng dậy.
Thiếu nước ngọt, ruộng vườn nhiễm mặn là thực tế khó lòng xoay chuyển nhưng "thuận thiên" có thể giúp cho Đồng bằng sông Cửu Long tồn tại và phát triển theo những hướng khác nhưtôm, cá... Một "nghị quyết" kiểu nhưphải giữ hơn 3,5 triệu héc ta đất trồng lúa để ít nhất cũng có 22 triệu tấn gạo có thể sẽ tiếp tục sổ toẹt vai trò, tri thức của các chuyên gia.
Bây giờ là lúc để những cá nhân có thực học trong nhiều lĩnh vực (thủy lợi, nông nghiệp, thủy sản, kinh tế, thương mại...) cùng nhau thảo luận, lựa chọn những giải pháp hợp lý nhất, khả thi nhất giúp Đồng bằng sông Cửu Long có thể thật sự "thích ứng với các tác động của biến đổi khi hậu" và "phát triển bền vững". Nếu chưa "tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc và tự nhận các hình thức kỷ luật tương xứng" về trách nhiệm đối với hiện trạng Đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị nên ngồi im.
Thực tế đã cho thấy những cá nhân thủ đắc "cao cấp lý luận chính trị" hay "xây dựng đảng" hoặc có chuyên môn sâu về những lĩnh vực tương tự không thể và không nên can dự vào việc tìm lối thoát hiểm cho Đồng bằng sông Cửu Long. Phá đến như thế mà vẫn thấy chưa đủ ?
Trân Văn
Nguồn : VOA, 24/03/2020
Chú thích