Vì sao Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại bộc lộ động tác "xin tiền" một cách công khai và đã được báo chí nhà nước tường thuật cũng công khai, trong cuộc gặp Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Ousmane Dione vào buổi chiều 20/9/2017 tại trụ sở Chính phủ ?
Hình minh họa. (Lê Anh Hùng)
"Lời đề nghị khiếm nhã"
Chín tháng sau khi bật ra cảm thán cảnh báo chưa từng có trong giới quan chức cao cấp về "sụp đổ tài khóa quốc gia", ông Phúc vừa phải "đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay".
"Lời đề nghị khiến nhã" trên lại xuất hiện trong bối cảnh ngân sách quốc gia Việt Nam có quá nhiều dấu hiệu cạn kiệt và thậm chí có thể vỡ nợ như trường hợp của Argentine vào các năm 2001 và 2014.
Nguyễn Xuân Phúc - nhân vật đang trở nên quá cám cảnh bởi tư thế phải "đổ vỏ" cho thời thủ tướng trước, giờ đây rơi vào một vòng xoáy "cơm áo gạo tiền" cho đảng và chính phủ cầm quyền ở Việt Nam. Đã quá đủ cho vài chục năm vay nợ nước ngoài, chi xài vô tội vạ và bỏ mặc tham nhũng hoành hành của chính phủ cùng chính quyền các địa phương Việt Nam, để lại núi nợ công lên đến ít nhất 210 % GDP, tương đương khoảng 431 tỷ USD.
Sau "triều đại Nguyễn Tấn Dũng" để lại một núi nợ nần, đến "triều đại Nguyễn Xuân Phúc" từ đầu năm 2016 đến nay, người ta thấy vị thủ tướng này bắt đầu tỏ ra kiên quyết những động tác ‘thắt lưng buộc bụng". Lần đầu tiên sau nhiều năm, Chính phủ không còn dám bảo lãnh cho vay bạt mạng như thời Nguyễn Tấn Dũng.
Con số vay ODA của nước ngoài từ năm 1993 đến năm 2014 đã lên tới 90 tỷ USD. Sau khi trừ đi 10 - 12% vốn vay không hoàn lại trong số đó, mỗi năm ngân sách Việt Nam phải có trách nhiệm trả nợ quốc tế hàng chục tỷ USD. Mà muốn trả được số nợ này, Việt Nam lại phải tìm cách "vay đảo nợ" của các tổ chức tín dụng quốc tế. Trước đây, những tổ chức này vẫn cho Việt Nam vay vốn "đầu tư phát triển" và vay đảo nợ khá dễ dàng. Nhưng đến năm 2015, WB bất ngờ thông báo hai "tin buồn" cho Việt Nam : Việt Nam đã "tốt nghiệp IDA" mà sẽ không được xếp vào loại quốc gia "xóa đói giảm nghèo" ; và từ tháng 7/2017 sẽ không được vay với lãi suất ưu đãi 0,7 - 0,8%/năm cùng thời gian ân hạn đến 30 - 40 năm như trước đây, mà mức lãi suất vay sẽ được nâng lên gấp ba và thời gian ân hạn giảm xuống một nửa.
Trong khi đó, ngân sách Việt Nam vẫn buộc phải làm cái chuyện vừa lo trả nợ vừa phải tiếp tục vay mượn vượt hơn đến 30% số trả nợ hàng năm để phục vụ các khoản chi tiêu thường xuyên khổng lồ của bộ máy gần 4 triệu công chức viên chức và lực lượng vũ trang.
Mới đây, Tiến sĩ Vũ Quang Việt - cựu chuyên viên tài chính của Liên hiệp quốc - đã công bố một tính toán của cá nhân ông : tỷ lệ chi cho lực lượng công an ở Việt Nam lên đến 12% chi ngân sách - một mức chi cực kỳ lớn, chưa kể gần 5 tỷ USD chi cho bộ máy quốc phòng hàng năm.
Phương án "ăn sẵn"
Trong tình thế nước sôi lửa bỏng "chỉ ăn không làm" và "tiền chỉ ra không vào" ấy, dù Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính vẫn có thể thu xếp các khoản trả nợ trong nước bằng cách in thêm tiền, nhưng nguồn ngoại tệ để trả nợ cho nước ngoài thì lại rất hạn hẹp. Đó hẳn là nguồn cơn để Thủ tướng Phúc và Ngân hàng nhà nước như "lên đồng" với chiến dịch thúc giục "huy động vàng và đô la trong dân".
Và hẳn đó cũng là nguồn cơn khiến trong thời gian gần đây, đã xuất hiện một luồng quan điểm từ giới chóp bu chính phủ về "vay không hiệu quả thì không cần vay". Theo đó, hàng loạt đề nghị chính phủ bảo lãnh vay vốn bổ sung từ nước ngoài của Tập đoàn Dầu khí quốc gia (PVN) - một doanh nghiệp khổng lồ đang khốn quẫn trong chiến dịch được xem là "chống tham nhũng" của Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng - đã gần như chỉ nhận được cái lắc đầu quầy quậy của Chính phủ.
Thay vào đó, dường như giới quan chức chính phủ đang tính đến phương án "ăn sẵn" : thay vì phải đi vay mượn nhưng sẽ cột chặt thêm trách nhiệm phải trả nợ, cần cố gắng xin được viện trợ không hoàn lại mà sẽ không gắn với bất kỳ trách nhiệm thanh toán nào.
Từ lâu nay ở Việt Nam, viện trợ không hoàn lại nằm trong cơ chế vay vốn ODA vẫn được xem là "tiền chùa".
Chỉ có điều, "xin tiền" nước ngoài vào lúc này cũng không còn dễ dàng nữa.
Không hề hứa hẹn
Chi tiết đáng chú ý là trong buổi gặp Thủ tướng Phúc, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Ousmane Dione đã không có bất kỳ hứa hẹn hay cam kết cụ thể nào về những khoản vay không hoàn lại và có hoàn lại. Dù ông Phúc nói nhiều và không quên ca ngợi "tình bạn của Ngân hàng thế giới với Việt Nam", chẳng có bất kỳ con số nào được thốt ra từ miệng Ousmane Dione.
Tính từ năm 2016 khi Nguyễn Xuân Phúc trở thành thủ tướng đến nay, phía WB đã có một số lần gặp gỡ với giới quan chức lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam. Nhưng khác hẳn với thời gian trước, họ trở nên rất kiệm lời, đặc biệt liên quan đến phát ngôn về con số.
Hình như sau khi phải chứng kiến cảnh "ăn của dân không chừa thứ gì" ở Việt Nam, mối quan hệ giữa Ngân hàng thế giới và Hà Nội đã nhòa nhạt đi nhiều.
Nhưng lại khá khó hiểu về việc tại sao Nguyễn Xuân Phúc - nhân vật đã có thâm niên lâu năm trong Văn phòng chính phủ và có thể đã quá biết, quá hiểu về quốc nạn tham nhũng ODA (nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức) lên tới 40-50% giá trị dự án tại Việt Nam, vẫn có thể "trơ mặt" đến mức đề nghị "các khoản không hoàn lại" với WB.
Trong khi đó, chính thể Việt Nam đã "khai thác có hiệu quả ODA" như thế nào ?
Nhân nào quả nấy
Từ nhiều năm qua, ODA đã trở thành một trong những quốc nạn về tham nhũng. Tỷ lệ thất thoát bình quân tại nhiều dự án ODA được đồn đoán khoảng 20 - 25%. Nhưng đó chỉ là mức "hợp pháp". Thậm chí tỷ lệ "lại quả" ODA còn lên đến 40% - được chứng thực bởi một dự án xây dựng trường tiểu học ở Hà Tĩnh và giai đoạn 2009 - 2010. Ngoài ra, còn rất nhiều bằng chứng về lãng phí và "ăn dày" ODA.
Nhưng vẫn chưa phải hết. Từ trước tới nay, nguồn vốn ODA do các tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ nước ngoài đều quy định hết sức chặt chẽ về việc chính phủ Việt Nam không được sử dụng số tiền cho vay sai mục đích. Tuy nhiên trong thực tế "đúng quy trình" của ngân sách Việt Nam, tiền vay nước ngoài, đặc biệt là vay vốn ODA, có nhiều dấu hiệu đã bị chi sai mục đích và chi xài vô tội vạ. Tình trạng này rất phổ biến trong 8 năm cầm quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Kể cả đến thời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, cũng có ít nhất một bằng chứng cho thấy vốn ODA bị chi sai mục đích.
Tại một phiên họp thường kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 22/12/2016, phía Chính phủ đã đề nghị dùng 4.482 tỷ đồng vốn ODA để cấp vốn điều lệ cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội. Câu hỏi đặt ra là ai và cơ quan nào đã tham mưu cho chính phủ để lấy vốn ODA cấp cho ngân hàng - một cơ chế thuần túy kinh doanh ?
Việc Chính phủ đề nghị Quốc hội cấp vốn ODA cho giới chủ ngân hàng cũng là một bằng chứng mới cho thấy dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ rất có thể đã quen với việc dùng tiền ODA để chi cho những mục đích khác, như thay vì sử dụng đúng mục đích ODA cho các dự án hạ tầng cơ sở và môi trường, họ đã cắt nguồn vốn này cho các khoản chi tiêu thường xuyên của chính phủ, thậm chí còn có thể cắt ODA cho các dự án xây dựng trụ sở hành chính và tượng đài từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn tỷ đồng đầy tai tiếng và cực kỳ đáng lên án.
Trong khi đó, ở Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ tổ chức giám kiểm độc lập nào cho một khu vực được coi là nhạy cảm như ODA. Những tổ chức phi chính phủ Việt Nam muốn làm việc này thì không được cho phép thành lập, trong khi đó những tổ chức phi chính phủ nước ngoài vốn có truyền thống kiểm định những dự án lớn như thế này lại chưa hoạt động ở Việt Nam, và cũng chưa được được một cơ quan nhà nước Việt Nam nào mời.
Quá hiển nhiên, đó là lý do vì sao ngay cả những quốc gia được coi là có "thiện cảm" với Việt Nam như Đan Mạch, Thụy Điển, Úc… cũng phải thẳng tay cắt giảm viện trợ ODA đối với một chính quyền "ăn của dân không chừa thứ gì".
Bây giờ thì không còn có thể mơ đến viện trợ không hoàn lại từ trên trời rơi xuống như nhiều năm trước.
Tiền nào cũng là tiền. Viện trợ không hoàn lại là tiền của người dân các nước phát triển đóng thuế cho chính phủ, và những người dân này sẽ phẫn nộ đến mức nào khi biết tiền của họ đã bị một quốc gia nằm trong nhóm đầu thế giới về tham nhũng như Việt Nam "ăn không chừa thứ gì".
Gieo nhân nào gặt quả nấy. Từ khoảng ba năm qua, không chỉ các dự án cho vay mà cả viện trợ không hoàn lại từ phương Tây vào Việt Nam đã trở nên rất ít…
Ít đến mức thảm thiết.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA, 06/10/2017
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt đầu có những phát ngôn "lạ" về kinh tế
Gần một năm sau cuộc chuyển giao quyền lực chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt đầu có những phát ngôn "lạ" về kinh tế ngay vào khoảng thời gian chuyển thời giữa năm 2016 và 2017.
Bắt đầu ‘mở miệng’
"Nợ công sát trần cho phép và nếu tính đủ thì có thể đã vượt trần", Thủ tướng Phúc đột ngột phát biểu không hẳn là chỉ đạo tại Hội nghị Chính phủ với địa phương vào cuối năm 2016.
Đây là lần đầu tiên một quan chức có trách nhiệm đề cập đến thực tế nợ công đã vượt trần, tức vượt ngưỡng nguy hiểm 65% GDP. Trước đó, tất cả các quan chức chính phủ, từ nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… đều khăng khăng nói rằng nợ công vẫn dưới ngưỡng nguy hiểm. Đây cũng là lần đầu tiên một cấp phó của nguyên Thủ tướng Dũng dám có cách nhìn trái với cựu thủ trưởng của mình.
Sau phát ngôn "lạ" vừa nêu, ông Nguyễn Xuân Phúc càng làm dư luận sửng sốt với nhận xét "Tôi nghe chuyên gia báo cáo, cả nh báo, nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia không thể tránh khỏi" trong hội nghị tổng kết ngành tài chính được tổ chức chiều ngày 6/1/2017.
Phát ngôn đặc biệt vừa kể đã được chính Thông tấn xã Việt Nam đăng lại với tựa đề "Nợ công tăng nhanh, Thủ tướng cảnh báo ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’", nhưng sau đó có lẽ bị Ban Tuyên giáo trung ương chỉnh huấn nên lại đổi thành "Thủ tướng đề nghị kiểm soát nợ công và đảm bảo khả năng trả nợ".
Có thể cho rằng, đây là lần đầu tiên một quan chức cao cấp của Việt Nam đề cập đến nguy cơ sụp đổ tài khóa quốc gia, đặc biệt đã sử dụng từ "sụp đổ", vốn là một từ ngữ bị coi là cực kỳ "nhạy cảm chính trị" mà hệ thống đảng và chính quyền từ trước tới nay chưa bao giờ nói đến một cách công khai.
Hãy hồi tưởng, trong suốt những năm làm Phó Thủ tướng, ông Phúc đã chẳng có bất kỳ phát ngôn công khai nào về "nợ công đã vượt trần" hay "sụp đổ tài khóa quốc gia". Ngược lại, ông nhẫn nại hòa nhịp với cấp trên trực tiếp của mình.
Nhưng bây giờ thì khác.
Theo Hiến pháp, Nguyễn Xuân Phúc đang là thủ tướng. Có thể hiểu tâm thế của Thủ tướng Phúc ra sao khi ông dám nói thẳng về "nợ công đã vượt trần" trong hiện tại và đặc biệt là "sụp đổ tài khóa quốc gia", dù chỉ dùng để nói về tương lai ?
Đời thủ tướng khó khăn nhất
Một năm sau Đại hội XII, lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đủ thời gian để cho thấy chưa bao giờ có một đời thủ tướng nào lại phải gánh chịu quá nhiều hậu quả và di họa như Nguyễn Xuân Phúc. Không chỉ nợ công mà còn là đủ thứ di họa khác về nợ xấu, ngân sách, môi trường, tham nhũng…
Chưa kể tình trạng "đồng chí không đồng lòng" ngày càng lan rộng trong nội bộ mà chỉ một chút sơ sẩy là "toi".
Trong khi các cơ quan trung ương của đảng vẫn cứ theo thói quen chỉ tay năm ngón, chẳng phải chịu trách nhiệm nào về mặt pháp lý nhưng vẫn đều đều nhận ngân sách ưu tiên, thì người đứng đầu nền hành pháp Việt Nam mới là nhân vật cao cấp nhất phải "đưa đầu chịu báng". Nếu không thể xử lý được một phần nào đó trong vô số hậu quả do vị thủ tướng tiền nhiệm để lại, đặc biệt là vấn đề nợ công và ngân sách, ông Phúc rất dễ bị "đòn dưới thắt lưng" của một số nhân vật chẳng ưa thích gì ông, và hậu quả là tương lai chính trị của ông Phúc cũng chẳng hề được bảo đảm.
Khác với những nhận định lạc quan thường bị một số người chế nhạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về các chỉ số kinh tế quốc gia, những phát biểu về kinh tế của Nguyễn Xuân Phúc có độ khả tín cao hơn do được dựa trên một số cơ sở nhất định.
Trong những năm làm phó thủ tướng dưới quyền ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Phúc được phân công theo dõi khối văn phòng chính phủ và là quan chức tiếp cận với nhiều báo cáo, đề án kinh tế…, nói chung là một người làm cụ thể chứ không mắc căn bệnh quan liêu chỉ tay năm ngón của Thủ tướng Dũng. Chính vì thế, có thể xem ông Phúc là "tay hòm chìa khóa" và am hiểu về tình hình thực chất của nợ công và túi tiền ngân sách.
Khi trở thành thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc càng có điều kiện được Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước và Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo chi tiết về tiền trong ngân sách còn nhiều hay ít và có lẽ cả triển vọng khi nào ngân sách sẽ cạn kiệt, hoặc khi nào có thể vỡ nợ công. Rất có thể, Thủ tướng Phúc đã biết về một kịch bản cạn kiệt ngân sách và dẫn đến "sụp đổ tài khóa quốc gia", thậm chí là trong tương lai gần.
Minsky nợ công
Vào cuối năm 2015, tỷ lệ nợ công mà Chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng nêu ra như một thành tích để "tiến tới Đại hội XII" vẫn chỉ dưới 60% GDP. Nhưng sau Đại hội, khi ông Nguyễn Tấn Dũng "rớt đài", những kỳ họp Quốc hội đã cho thấy giới quan chức Bộ Tài chính bắt đầu dao động. Tỷ lệ nợ công dần được nâng lên đến 60% GDP và gần đây là 62% GDP.
Tuy nhiên, những tỷ lệ báo cáo trên vẫn còn quá thấp so với thực tế.
Trong suốt giai đoạn hai chục năm từ 1994 đến 2014, Việt Nam đã vay mượn đến 80 tỷ USD vốn ODA, nâng nợ công lên đến vài ngàn USD mỗi đầu người.
Vào tháng 5/2016, một chuyên gia kinh tế là Tiến sĩ Lê Ðăng Doanh cho rằng nếu tính đủ các khoản nợ từ cấp xã đến nợ xây dựng cơ bản của các bộ ngành, địa phương, nợ của doanh nghiệp nhà nước thì nợ công của Việt Nam có lẽ lên đến 110-120% GDP, khoảng trên 4,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 220 tỷ USD.
Thậm chí có những đánh giá không chính thức cho rằng tỷ lệ nợ công của Việt Nam đang vào khoảng 150%/GDP, tức lên đến khoảng 300 tỷ USD, hoàn toàn có thể làm cho nền kinh tế Việt Nam bị phá sản trong ít năm tới - không khác mấy với trường hợp Argentina bị vỡ nợ đến hai lần vào năm 2001 và năm 2014.
Vậy "nếu tính đủ" về nợ công có nghĩa là thế nào ?
Trong thực tế, Luật Nợ công của Việt Nam đã cố tình bỏ qua một tiêu chí tính nợ vay nước ngoài của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, trong khi tiêu chí này nằm trong số 5 tiêu chí bắt buộc của cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc. Theo con số nợ tương đối của các doanh nghiệp nhà nước được công bố từ tận… năm 2011, loại nợ này đã đạt đến khoảng 25-30 tỷ USD, chiếm khoảng 15% GDP. Cho tới nay, không ai biết số nợ này sẽ được trả bằng cách nào.
Sau hai chục năm vay mượn và đầu tư khiến phát sinh hàng núi nợ công và nợ xấu, cuối cùng thì thời điểm Minsky - các khoản nợ đến kỳ đáo hạn nhưng còn lâu mới trả được - đang lồ lộ hơn bao giờ hết.
‘Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ’
Với những phát ngôn "lạ" mới đây về kinh tế, hẳn Thủ tướng Phúc không muốn bị biến thành nhân vật trong tục ngữ "kẻ ăn ốc, người đổ vỏ".
Một lý do khác khiến Thủ tướng Phúc trở thành nhân vật "kiến tạo" những phát ngôn chưa từng có tiền lệ về "nợ công đã vượt trần" và "sụp đổ tài khóa quốc gia" là nếu không đủ can đảm nói ra một sự thật mà trong cả nước chỉ có đảng là cố bịt tai nhắm mắt, ngay bây giờ hoặc chẳng bao lâu nữa ông Phúc sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả ghê gớm được để lại từ đời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Không chỉ bị đảng có thể xếp loại "đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ", ông Phúc có thể còn bị những đối thủ chính trị vin vào lý do "điều hành yếu kém" để tìm cách loại ông khỏi chức vụ thủ tướng…
Nhưng tạm gác lại nạn đấu đá triền miên trong nội bộ, chúng ta có thể nhận ra rằng một khi chính Thủ tướng Phúc đã phải xác nhận về nguy hiểm "sụp đổ tài khóa quốc gia", đây không còn là một giả thiết mà có nhiều khả năng sẽ trở thành sự thật.
Nếu không tìm cách nói thật, ông Phúc sẽ không thể nào thanh minh được với Bộ Chính trị và bàn dân thiên hạ rằng ông "vô can" với một số hậu quả kinh tế và xã hội. Ông chỉ chịu trách nhiệm từ nay trở đi, chẳng hạn nếu Chính phủ phải gồng mình bảo lãnh cho Tập đoàn Tôn Hoa Sen của ông Lê Phước Vũ - người anh em cọc chèo với Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh - được vay vốn nước ngoài để bảo đảm 10 tỷ USD đầu tư vào Dự án Thép Cà Ná - Ninh Thuận, một dự án đặc biệt bị dư luận phản đối vì có triển vọng trở thành một "Formosa thứ hai".
Bởi thế những quan chức khác cũng sẽ dần theo gương Thủ tướng Phúc. Chẳng có gì phải che chắn cho những hậu quả gây ra bởi "triều đại Nguyễn Tấn Dũng".
Trớ trêu thay, có khi lúc đó báo chí nhà nước lại có cớ để ngợi ca về một chính phủ "kiến tạo và minh bạch". Bất chấp nhiều năm trước Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) đã đòi Việt Nam phải bạch hóa các số liệu kinh tế và tài chính nhưng chẳng quan chức Việt nào thèm để tâm.
Phạm Chí Dũng
Nguồn : VOA tiếng Việt, 18/01/2017