Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Chúng tôi xin được trình bày ba vấn đề, hay ba câu hỏi là nguyên nhân và cảm hứng để chúng tôi nghiên cứu và tìm ra cách tiếp cận mới trong xây dựng thể chế dân chủ.

toa1

Tòa án Nhân quyền Châu Âu ở Strasbourg - Ảnh minh họa 

Câu hỏi 1 : Tại sao trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ, mà chỉ có chưa đầy 30 quốc gia (bao gồm Mỹ, Tây Âu, Nhật, Úc và mới đây là Đài Loan, Hàn Quốc...) là người dân thực sự được tự do. Còn lại, hơn 120 quốc gia cũng có thể chế dân chủ, ví dụ Mexico, Thái Lan, Nga, Indonesia... người dân lại không có được tự do ? Những nước này thường chỉ được gọi là có dân chủ trong tuyển cử.

Câu hỏi 2 : Khi các chế độ độc tài sụp đổ, ví dụ Ai Cập, Tunisia... nếu có một cuộc khảo sát với người dân ở các quốc gia này : tự do là gì, nhân quyền bao gồm những quyền gì ? như thế nào ? Dân chủ là gì ?... thì có bao nhiêu phần trăm người dân biết, hiểu được những khái niệm đó ? Vậy mà, tất cả các nhà khoa học chính trị, các nhà chính trị học đều nói rằng, người dân là chủ thể tham gia xây dựng nên thể chế dân chủ để bảo đảm tự do và lợi ích của chính người dân ? Như vậy, có sự lệch pha trong nhận thức của người dân và việc tham gia xây dựng thể chế dân chủ, việc xây dựng thể chế dân chủ có thực sự bảo đảm tự do và lợi ích của người dân hay không ?

Câu hỏi 3 : Trên thế giới hiện nay đã có định nghĩa, khái niệm chung, thống nhất về dân chủ hay chưa ? Nếu có thì đó là định nghĩa nào ?

Theo chúng tôi được biết, hiện nay trên thế giới chưa có khái niệm, định nghĩa chung, thống nhất về dân chủ. Có tài liệu nói rằng, tính đến những năm 60 của thế kỷ XX, đã có trên 500 định nghĩa về dân chủ. Từ những năm đó tới hiện nay, tức là hơn 50 năm sau, thì có thêm bao nhiêu định nghĩa nữa về dân chủ ? Tại sao lại như vậy, nếu không có định nghĩa chung, khái niệm thống nhất thì liệu có phải chưa có sự thống nhất về bản chất của dân chủ hay không ?

Suy tư về câu hỏi thứ nhất, chúng ta buộc phải công nhận, thể chế dân chủ hiện hành trên thế giới có khuyết tật chung. Phải có khuyết tật chung mới dẫn tới tình trạng ¾ số quốc gia cũng có thể chế dân chủ mà người dân lại chưa được tự do. Kết hợp với câu hỏi thứ ba, tức là thế giới chưa xác định được định nghĩa, khái niệm chung, thống nhất về dân chủ... dẫn tới kết luận rằng, thế giới chưa tìm ra được bản chất thực sự của dân chủ. Điều này có nghĩa là, trong rất nhiều định chế của thể chế dân chủ, chúng ta chưa tìm ra được định chế dân chủ cốt lõi, thể hiện bản chất của dân chủ, hay chưa tìm ra được định chế dân chủ cốt lõi bảo đảm được tự do của con người. Chỉ khi xác định được định chế dân chủ cốt lõi, bảo đảm được tự do của con người và xây dựng thể chế dân chủ xoay quanh định chế dân chủ cốt lõi mới bảo đảm được tự do của con người.

Trên mạch lo-gic đó, chúng tôi đã nghiên cứu và tìm ra được định nghĩa, khái niệm dân chủ thể hiện được bản chất của dân chủ. Chúng tôi đi từ khái niệm chung nhất về dân chủ, được nhiều người công nhận nhất : dân chủ là phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất tự do của con người. Vấn đề cần xác định trong định nghĩa này, tự do là gì ? Và chúng tôi đã xác định : "tự do là các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân". Như vậy, chúng ta cần có, cần xây dựng được một định chế cốt lõi mà ở đó mỗi cá nhân có thể, có khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mình.

Đó chính là định chế Tòa án nhân quyền ở tất cả các cấp. Chúng tôi đã nghiên cứu và đưa ra Dự án xây dựng thể chế dân chủ xoay quanh định chế cốt lõi Tòa án nhân quyền, để bảo đảm tự do của con người.

Liên quan đến câu hỏi thứ hai, chúng tôi xác định, cần trang bị đầy đủ kiến thức cho toàn thể nhân dân về tự do, dân chủ, nhân quyền để người dân có đầy đủ nhận thức tham gia vào xây dựng thể chế dân chủ. Chỉ có những con người có đủ kiến thức về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền mới có thể tham gia xây dựng lên thể chế dân chủ bảo đảm tự do và quyền lợi của mình. Toàn bộ vấn đề này nằm trong mục các bước đi và cách thức xây dựng thể chế dân chủ của dự án.

Dự án của những người Việt Nam, đất nước chưa bao giờ có tự do, dân chủ, lại bàn về những vấn đề thế giới đã đi qua hàng trăm năm không khỏi gây ra những hoài nghi, thắc mắc. Cộng thêm việc dự án được nghiên cứu và trình bày theo lối tư duy Á Đông sẽ làm cho nhiều người cảm thấy khó đọc và tiếp cận. Nhưng chúng tôi tin rằng, những người trăn trở với các câu hỏi được nêu ở đầu bài viết, sẽ vượt qua được những trở ngại rất nhỏ này.

Trân trọng mời quý vị tham khảo Dự án xây dựng thể chế dân chủ và các tài liệu liên quan trên trang nghiencuutheche.com của chúng tôi.

Hà Nội, ngày 16/10/2007

Nguyễn Vũ Bình

Nguồn : RFA, 16/10/2017 (nguyenvubinh's blog)

Published in Diễn đàn

Phần I

Một số khái niệm và nhận thức chung

I. Một số khái niệm

Thể chế chính trị : Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị, các chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức và vận hành của một chế độ chính trị. Nó là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính trị thuộc thượng tầng kiến trúc và là cơ sở chính trị, xã hội quy định tính chất, nội dung của chế độ xã hội.

danchu0

Hiện nay trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ, nhưng chỉ có chưa tới 30 quốc gia có thể chế dân chủ tự do

Định chế : Toàn bộ quy định có tính chất pháp lí đối với một vấn đề nhất định.

Dân chủ : là phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.

Thể chế dân chủ : Là hệ thống các định chế, các giá trị, các chuẩn mực về tự do, dân chủ hợp thành những nguyên tắc tổ chức và vận hành của chế độ dân chủ bảo đảm cao nhất các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.

II. Nhận thức chung

Căn cứ vào các khái niệm và sự quan sát trong thực tế, chúng ta thấy rằng, việc xây dựng thể chế dân chủ là vấn đề lớn và vô cùng phức tạp. Quá trình này cần bảo đảm hai yêu cầu quan trọng : Một là, bảo đảm việc vận hành của các định chế, đại diện là hệ thống bộ máy nhà nước được nhịp nhàng, trôi chảy không bị khuyết hãm, ách tắc và thiên lệch. Hai là, phải bảo đảm các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.

Trên thực tế, như chúng ta biết, hiện nay trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ, nhưng chỉ có chưa tới 30 quốc gia người dân được tự do, hay còn gọi là các quốc gia có thể chế dân chủ tự do. Số còn lại, hơn 120 quốc gia chỉ có dân chủ trong tuyển cử. Có hai nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên.

Thứ nhất, Việc xây dựng thể chế dân chủ chưa gắn kết được mục tiêu tối thượng bảo đảm các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân. Nói cách khác, những lý thuyết về dân chủ cũng như việc xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới chưa xác định và chỉ ra được, định chế nào trực tiếp bảo đảm các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân ? Chỉ có xác định được định chế trực tiếp và cốt lõi này, và xây dựng thể chế dân chủ tập trung và xoay quanh định chế cốt lõi đó mới bảo đảm được tự do cho cá nhân con người.

Thứ hai, cách thức xây dựng thể chế dân chủ, các bước tiến hành và thời gian chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ chưa đúng đắn, chuẩn xác để bảo đảm xây dựng hành công một chế độ dân chủ.

Như vậy, phần lớn các quốc gia mới chỉ bảo đảm được một yêu cầu về xây dựng thể chế dân chủ, đó là sự vận hành của hệ thống các định chế, hay bộ máy nhà nước. Một số quốc gia đã thực hiện thêm được một phần yêu cầu quan trọng thứ hai, đó là bảo đảm các quyền con người. Tuy nhiên, ngoại trừ Hoa Kỳ (và cả Hoa Kỳ cũng chưa có định chế cụ thể, trực tiếp), chưa có quốc gia nào thực hiện được phần quan trọng nhất trong yêu cầu thứ hai : khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.

Dự án xây dựng thể chế dân chủ này, được trình bày và phổ biến nhằm khắc phục khiếm khuyết trong nội dung nhận thức về dân chủ, và xây dựng thể chế dân chủ cũng như cách thức tiến hành xây dựng thể chế dân chủ.

Chúng tôi đã nghiên cứu và xác định được, cần có một định chế để người dân tự bảo vệ các quyền con người của mình, đó là định chế về tòa án nhân quyền. Với định chế này, người dân có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình khi bị xâm phạm. Trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ và vận hành bộ máy nhà nước, xu thế vi phạm các quyền con người là không thể tránh khỏi. Chỉ có tòa án nhân quyền, với đầy đủ sự độc lập và quyền lực tuyệt đối, với sự chủ động của chính người dân bị vi phạm, mới bảo vệ được quyền con người của họ. Để định chế tòa án nhân quyền có thể hoạt động được thực chất và hiệu quả, chúng ta cần có thêm một số định chế khác hỗ trợ. Đó là các định chế trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do, dân chủ cho người dân ; định chế về cơ quan thông tin - nhân quyền và hỗ trợ pháp lý cho người dân ; cuối cùng là định chế quan trọng, miễn phí cho người dân khi tham gia tự bảo vệ các quyền con người của mình. Định chế này rất quan trọng, vì những người dân nghèo vẫn có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình.

Tựu trung lại, trên cơ sở cách thức xây dựng thể chế dân chủ của thế giới hiện nay, chúng ta cần bổ sung thêm một số định chế, trong đó có định chế cốt lõi tòa án nhân quyền để bảo đảm được mục tiêu tối thượng của một nền dân chủ, đó là bảo đảm và bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân.

****************

Phần II

Xây dựng thể chế dân chủ - nội dung và cách thức thực hiện

Chúng ta cần minh định lại một lần nữa, việc xây dựng thể chế dân chủ, về cơ bản vẫn dựa vào cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới. Chỉ có một khác biệt, đó là bổ sung định chế cốt lõi, và các định chế hỗ trợ định chế cốt lõi có thể vận hành trôi chảy, hiệu quả. Đồng thời có sự điều chỉnh về cách thức (thời gian và các bước tiến hành) xây dựng so với trước đây. Trong phần xây dựng các định chế, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược bản chất, ý nghĩa và những đặc thù của các định chế.

I. Xây dựng các Định chế

1. Hiến pháp dân chủ

Hiến pháp dân chủ là một văn kiện quy định một hệ thống những nguyên tắc chính trị căn bản để kiến thiết và xây dựng chính quyền cũng như dẫn dắt cuộc sống và tiến hóa của một cộng đồng quốc gia.

Hiến pháp là một đạo luật cơ bản của một nhà nước, nó thể hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân.

a. Yêu cầu cơ bản nhất của một hiến pháp dân chủ. Yêu cầu cơ bản nhất của một hiến pháp dân chủ là xác quyết các quyền con người (quyền cơ bản và quyền công dân), đồng thời xác quyết cách thức (định chế) quan trọng nhất để bảo đảm và bảo vệ các quyền con người. Trong thực tế, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và các công ước kèm theo chính là văn bản đầy đủ nhất về quyền con người. Hiến pháp dân chủ có thể sử dụng ngay văn bản có giá trị phổ quát này. Hiến pháp dân chủ cũng cần xác quyết định chế quan trọng, trực tiếp nhất bảo đảm các quyền con người của mỗi cá nhân, trong dự án này chính là định chế Tòa án Nhân quyền.

b. Xác quyết các định chế quan trọng làm cơ sở xây dựng thể chế dân chủ. Hiến pháp dân chủ cần xác quyết về các định chế quan trọng như : Tam quyền phân lập ; Đa nguyên đa đảng ; Kinh tế thị trường ; Nhà nước liên bang (tản quyền) ; Bầu cử, ứng cử tự do ; Tự do ngôn luận....

c. Một số yêu cầu quan trọng với hiến pháp dân chủ

- Hiến pháp dân chủ cần bền vững nhưng không bất động. Yêu cầu bền vững cực kỳ quan trọng vì hiến pháp là đạo luật cơ bản, luật chơi cơ bản nhất của xã hội. Nếu thay đổi có thể gây ra xáo trộn trong sinh hoạt quốc gia và gây đổ vỡ nhiều dự án. Sự bền vững của dự án là điều không thể thiếu, bởi có bền vững người dân mới yêu tâm đầu tư vào tương lai. Ngược lại, bền vững không có nghĩa là bất động, hiến pháp phải thích nghi với thời đại. Không nên tu chỉnh hiến pháp một cách tùy tiện, nhưng cũng không nên khóa chặt cánh cửa đối với những tu chỉnh cần thiết.

- Hiến pháp dân chủ cần hướng tới sự hội nhập và toàn cầu hóa trong tương lai. Quá trình toàn cầu hóa đã và đang khởi động, tuy lúc thăng lúc trầm nhưng đó là xu hướng không thể đảo ngược. Một hiến pháp hiện đại cần chuẩn bị sẵn các phương án để hội nhập cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị với trào lưu chung của nhân loại.

2. Tam quyền phân lập

Định chế Tam quyền phân lập là định chế cơ bản để xây dựng nhà nước dân chủ. Định chế này ra đời cùng với sự xuất hiện của các nhà nước dân chủ. Trước khi chế độ dân chủ xuất hiện, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân hoặc một nhóm người. Việc tập trung tất cả quyền lực như vậy đã dẫn tới sự độc tài, chuyên chế của nhà nước. Đồng thời, theo nhiều nghiên cứu, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Chính vì vậy, việc phân chia quyền lực để chống lại sự độc tài, lạm quyền và chuyên chế là giải pháp quan trọng.

Tam quyền phân lập là định chế phân chia quyền lực nhà nước theo nguyên tắc kiềm chế và đối trọng để ngăn chặn lạm dụng quyền lực, độc tài và chuyên chế. Sau khi quyền lực được phân chia, phải làm cho các nhóm quyền lực đó chỉ được phép hoạt động trong quy định của pháp luật.

Việc phân chia quyền lực của nhà nước thành ba nhánh, với các chức năng chính, cụ thể như sau :

- Lập pháp : Biểu hiện ý chí chung của quốc gia. Nó thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân - quốc hội.

- Hành pháp : Là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.

- Tư pháp : Là việc giải quyết xung đột giữa các cá nhân, trừng trị tội phạm. Các thẩm phán được lựa chọn từ nhân dân và chỉ xét xử theo pháp luật.

Đối với định chế Tam quyền phân lập, điều quan trọng cần lưu ý là việc phân chia quyền lực giữa các nhánh cần cân bằng, hợp lý không để xảy ra sự lấn át quyền lực từ nhánh này với nhánh khác, đồng thời cần có cơ chế ngăn chặn sự kết hợp có tính chất móc ngoặc, đi đêm giữa các nhánh quyền lực. Kinh nghiệm của thế giới trong vấn đề này khá đầy đủ, phong phú và hiệu quả...

3. Đa nguyên đa đảng

Đa nguyên hiểu theo nghĩa của từ ngữ, đó là nhiều nguồn gốc, nhiều khởi nguồn. Trong chính trị, đa nguyên được hiểu là sự đa dạng về ý thức hệ. Ý thức hệ là hệ thống nhận thức giải thích thực tại và định hướng cho tương lai. Như vậy, đa nguyên có nghĩa là có nhiều cách tiếp cận giải thích thực tại và định hướng tương lai. Định chế đa nguyên là những quy định để công nhận, xác nhận xã hội có nhiều xu hướng, con đường nhận thức thực tại khách quan cũng như nhiều cách thức xây dựng và phát triển xã hội.

Đa đảng là sự thể chế hóa của đa nguyên, tức là mỗi đảng đại diện cho một ý thức hệ, và các đảng cọ sát để hoàn thiện ý thức hệ, đồng thời đấu tranh để được cầm quyền, và sử dụng ý thức hệ của đảng mình dẫn dắt đất nước, điều hành và quản lý bộ máy nhà nước.

Đảng chính trị là một tập hợp người cùng theo đuổi một ý thức hệ có mục tiêu đấu tranh giành chính quyền (thông qua bầu cử) để triển khai và áp dụng con đường, cách thức quản lý và điều hành đất nước của đảng mình. Một chế độ dân chủ là một chế độ chấp nhận và công nhận có nhiều con đường và cách thức phát triển đất nước cũng như dẫn dắt, quản lý, điều hành bộ máy nhà nước để có được tiến bộ xã hội. Đảng chính trị khi vận động bầu cử, muốn thu hút được cử tri phải phản ánh được nguyện vọng của đông đảo nhân dân. Chính vì vậy, định chế đa nguyên đa đảng góp phần tích cực vào việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài ra, đảng chính trị đối lập còn là đối trọng quyền lực, luôn giám sát và chỉ ra những khiếm khuyết của đảng cầm quyền để bộ máy của nhà nước ngày càng hoàn thiện và hoạt động hiệu quả hơn.

Khi đảng được xây dựng thành tổ chức và có bộ máy hoạt động, sẽ có nhiều doanh nghiệp tài trợ cho hoạt động của đảng. Quá trình này nếu không có cơ chế và sự giám sát thường xuyên sẽ dẫn tới sự méo mó trong hoạt động đảng phái. Cần phải có quy định trích kinh phí hoạt động cho các đảng phái với những điều kiện nhất định.

4. Bầu cử

Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của người dân để chọn ra người nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền. Bầu cử là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước.

- Các nguyên tắc bầu cử :

+ Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu : bảo đảm để mọi công dân không phân biệt sắc tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, thời hạn cư trú, đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử.

+ Nguyên tắc bình đẳng : mọi công dân có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau, không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo...

+ Nguyên tắc bầu cử trực tiếp : công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, công dân trực tiếp bầu ra đại diện của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào.

+ Nguyên tắc bỏ phiếu kín : không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri nhằm bảo đảm tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.

Bầu cử là định chế không chỉ bảo đảm tìm ra được những người tài đức, có khả năng đảm nhận những chức vụ trong chính quyền mà còn là hoạt động phản ánh được nguyện vọng của nhân dân về các chương trình hành động của các đảng phái trong từng giai đoạn.

5. Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.

Định chế kinh tế thị trường bảo đảm quyền sở hữu tài sản, một quyền tự do cá nhân cơ bản của con người Đây là một quyền quan trọng của con người. Không có quyền sở hữu tài sản, tất cả các quyền khác là bất khả thi. Bởi vì con người phải tự duy trì đời sống của mình, cho nên người nào không có quyền đối với sản phẩm do nỗ lực cá nhân mình tạo ra thì sẽ không có cách nào sống được. Người nào sản xuất mà bị những kẻ khác chiếm đoạt sản phẩm, thì ắt là nô lệ. Dưới một góc quy chiếu khác, kinh tế thị trường chính là thể chế trong kinh tế, để bảo đảm tự do cho cá nhân trong việc kinh doanh, trong lĩnh vực kinh tế.

Định chế kinh tế thị trường cần bảo đảm những vấn đề cơ bản sau đây.

a. Nguyên lý kinh tế thị trường

Trước hết và trên hết, một nền kinh tế thị trường muốn vận hành và hoạt động hiệu quả, cần phải tuân thủ các nguyên lý, mà những nguyên lý này không thể bị vi phạm và can thiệp nếu không muốn có một sự biến dạng hoàn toàn hoạt động sản xuất kinh doanh của nên kinh tế.

- Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong các sách về kinh tế thị trường, các tác giả thường ít đề cập tới yếu tố này. Lý do là, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là điều đương nhiên trong các nước tư bản, nơi các tác giả viết sách về kinh tế thị trường. Trong nguyên lý này, yếu tố sở hữu tư nhân về đất đai là yếu tố quan trọng, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường và còn là yếu tố xúc tác quan trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường.

- Thị trường quyết định giá cả tất cả các loại hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Cung - Cầu sẽ quyết định giá cả các loại hàng hóa là tiền đề quan trọng cho việc thị trường phân bổ có hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất như vốn, lao động, công nghệ…Bất kỳ một sự can thiệp, tác động nào dẫn tới việc giá cả hàng hóa không được định đoạt bởi tương quan cung - cầu sẽ làm biến dạng và méo mó toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.

- Tương quan giữa lượng tiền tệ được phát hành và lưu thông với lượng hàng hóa được sản xuất ra ở mỗi quốc gia cần được tuân thủ nghiêm ngặt. Tỷ lệ giữa lượng tiền phát hành cần tương ứng với lượng hàng hóa mà quốc gia (nền kinh tế) sản xuất được. Nếu mối tương quan này bị phá vỡ, ví dụ lượng tiền in ra lớn hơn tỷ lệ tương quan với lượng hàng hóa sản xuất được sẽ dẫn tới lạm phát, làm đảo lộn các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.

b. Môi trường thể chế của nền kinh tế thị trường

Ngoài việc bảo đảm các nguyên lý của nền kinh tế thị trường, các quốc gia cũng cần xây dựng môi trường thể chế cho hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng môi trường thể chế bao gồm xây dựng các bộ luật, các quy tắc ứng xử, cũng như môi trường xã hội xung quanh các hoạt động kinh tế. Các yếu tố quan trọng nhất của môi trường thể chế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường bao gồm :

- Tính trung thực, công khai và minh bạch của thông tin trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta đều biết rằng, muốn quyết định sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có đầy đủ các thông tin về mọi vấn đề liên quan tới các mặt hàng, ngành hàng mà họ dự định tham gia kinh doanh. Nếu không có đầy đủ các thông tin khách quan, trung thực, các doanh nghiệp sẽ không dám đầu tư. Nếu cứ quyết định kinh doanh trong khi không có đầy đủ các thông tin trung thực, sự thất bại là không tránh khỏi.

- Tạo lập sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế thị trường. Bất kể quốc gia nào, muốn nền kinh tế thị trường phát triển và hiệu quả, đều phải tạo dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần tham gia, trong toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Đây cũng chính là một trong số các chức năng của chính phủ trong nền kinh tế thị trường.

- Xây dựng môi trường lành mạnh cho các hoạt động chung của xã hội cũng như các hoạt động trong nền kinh tế. Đây chính là việc xây dựng cơ chế luật pháp và giáo dục để hạn chế và ngăn chặn tham nhũng ở các quốc gia. Tham nhũng là yếu tố tác động rất tiêu cực vào sự phát triển và hiệu quả của bất kỳ nền kinh tế nào.

Ngoài các yếu tố trên, việc tạo lập đồng bộ các thị trường (thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai…), và một số yếu tố khác góp phần xây dựng nên môi trường thể chế cho một nền kinh tế thị trường lành mạnh.

c. Tác động chính sách

Song song với việc bảo đảm các nguyên lý của kinh tế thị trường, xây dựng môi trường thể chế trong nền kinh tế thị trường, các Chính phủ còn có các chính sách tác động vào nền kinh tế nhằm làm phẳng bớt các chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, cũng như thực hiện các mục tiêu cụ thể của Chính phủ trong các nhiệm kỳ cụ thể. Ví dụ, các chính sách tiền tệ, là việc tăng hay giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế ; chính sách tài chính, là việc tăng giảm chi tiêu của Chính phủ, tác động tới đầu tư ; ngoài ra là các chính sách trợ giá nông sản, chính sách xuất nhập khẩu…Tuy nhiên, các chính sách của các chính phủ dân chủ tác động tới nền kinh tế thị trường bao giờ cũng căn cứ vào : 1- nhu cầu thực tế của thị trường, đồng thời bảo đảm không vi phạm các nguyên tắc, nguyên lý và quy luật của thị trường ; 2- các chính sách phải rõ ràng, minh bạch, đồng bộ và ổn định.

6. Tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận là sự tự do phát biểu mà không bị kiểm duyệt hoặc hạn chế. Tự do ngôn luận cũng đồng nghĩa với tự do biểu đạt, diễn đạt và tự do thể hiện.

Quyền tự do ngôn luận được thừa nhận như là một quyền cơ bản của con người trong điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và trong những công ước quốc tế khác.

Tự do ngôn luận trong thời hiện đại được hiểu là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt hay phát tán thông tin và tư tưởng, mà còn bao gồm ba khía cạnh sau.

- Quyền tìm kiếm thông tin và tư tưởng

- Quyền tiếp nhận thông tin và tư tưởng

- Quyền chia sẻ thông tin và tư tưởng

Quyền tự do ngôn luận được áp dụng cho mọi phương tiện truyền thông, dù bằng cách nói, viết, tài liệu in ấn, qua internet hay các hình thức nghệ thuật. Điều này có nghĩa rằng, việc bảo vệ tự do ngôn luận như một quyền không chỉ nói đến nội dung mà còn nói đến phương tiện biểu đạt.

7. Nhà nước liên bang (tản quyền)

Nhà nước liên bang là một định chế quan trọng, nó phân chia quyền lực nhà nước theo chiều dọc, và phát huy tối đa tiềm năng của các vùng, miền có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau trong một quốc gia. Tuy là một định chế quan trọng của thể chế dân chủ, nhưng nó chưa được nhìn nhận một cách chuẩn xác và đầy đủ. Định chế này mới chỉ hiện diện ở xấp xỉ 30 quốc gia có thể chế dân chủ. Về cơ bản, nhà nước liên bang có những ưu thế vượt trội sau đây.

- Thứ nhất, nhà nước liên bang hay tản quyền là một sự bảo đảm cho dân chủ. Các tiểu bang không thể xuất hiện độc tài vì thẩm quyền chỉ giới hạn trong các vấn đề kinh tế, văn hóa và xã hội và có sự giám sát, chế tài của chính quyền trung ương. Ngược lại, chính quyền trung ương cũng không thể là độc tài vì phần lớn sinh hoạt của người dân nằm trong tay chính quyền tiểu bang. Nếu chính quyền trung ương không được tín nhiệm sẽ bị nhân dân thay thế, vì chính quyền trung ương không thể khống chế được dân chúng. Như vậy, do sự giám sát và chế ước lẫn nhau, các sinh hoạt chính trị sẽ bảo đảm dân chủ.

- Thứ hai, phát huy tốt nhất những tiềm năng của các vùng miền, cũng như giảm bớt những phiền phức về mặt thủ tục, hành chính. Trong sinh hoạt kinh tế, việc không phải đưa vấn đề lên cấp trung ương mà có thể quyết định ngay tại chính quyền vùng, miền sẽ giảm bớt nhiều phí tổn và thời gian. Đồng thời, chính quyền vùng miền, hay tiểu bang sẽ được phản ánh ngay lập tức những khó khăn của tiểu bang, và có phương án giải quyết tức thì. Nếu tập trung ở trung ương, vấn đề của các tiểu bang lớn, đô thị lớn sẽ thu hút sự chú ý, còn các vùng miền thường bị lãng quên. Tản quyền đóng góp một cách quyết định vào sự ổn vững của quốc gia. Nó khoanh vùng những vấn đề và tránh cho quốc gia nhiều khủng hoảng đáng lẽ chỉ xảy ra ở một vùng, đối với chính quyền vùng. Hơn nữa, nó còn giúp cho quốc gia thực hiện những cải tổ lớn mà không rơi vào hỗn loạn.

- Thứ ba, tản quyền làm giảm bớt xung đột đảng phái, bảo đảm cho hòa hợp dân tộc và văn minh trong sinh hoạt chính trị. Một chính đảng có thể cầm quyền cấp trung ương, nhưng lại là đối lập trong nhiều tiểu bang. Xung khắc chính quyền với đối lập sẽ giảm bớt sự gay gắt.

Muốn thực hiện thành công định chế nhà nước liên bang, cần có những điều kiện sau. Một là, mỗi vùng, hay tiểu bang phải có đủ khả năng tự tồn tại và phát triển được. Có nghĩa là phải có đủ các điều kiện về dân số, diện tích, tài nguyên hoặc điều kiện địa lý. Hai là, tản quyền không khuyến khích ý đồ ly khai. Để giải quyết vấn đề lý khai cần giới hạn thẩm quyền của chính quyền tiểu bang. Đó là các tiểu bang không được có quân đội, luật pháp tiểu bang không được mâu thuẫn với luật pháp liên bang, không có tiền tệ riêng, không được tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý có nội dung chính trị, các vùng, tiểu bang không được ký các hiệp ước với nhau... (tham khảo sách Tổ Quốc Ăn năn của tác giả Nguyễn Gia Kiểng).

Trên đây là một số định chế quan trọng nhất, không có không được đối với việc xây dựng thể chế dân chủ. Tuy nhiên, như ở phần đầu đã đề cập, những định chế này mới chỉ bảo đảm cho hệ thống bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, trôi chảy không thiên lệch và không bị lạm quyền. Vấn đề quyền con người bị vi phạm, toàn bộ những định chế này vẫn chưa thể khắc phục và giải quyết được. Cần có một định chế trực tiếp để cá nhân có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình. Chúng tôi xin trình bày định chế Tòa án Nhân quyền và một số định chế đi kèm, hỗ trợ để định chế cốt lõi (Tòa án Nhân quyền) có thể hoạt động hiệu quả, thực chất.

II. Định chế Tòa án Nhân quyền và các định chế hỗ trợ

1. Định chế Tòa án Nhân quyền

Tòa án Nhân quyền là cơ quan xét xử những vi phạm về quyền con người của cá nhân, nhóm người, cơ quan, chính quyền đối với cá nhân hoặc nhóm người khác. Định chế Tòa án Nhân quyền là định chế bảo đảm các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân. Nói cách khác, đó là định chế bảo đảm tự do của con người.

a. Tại sao cần phải có định chế Tòa án Nhân quyền ?

- Việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người là vấn đề quan trọng nhất, nhưng chưa có bất kỳ một định chế nào trực tiếp thực thi việc này. Có một số quyền con người, hoặc quyền dân sự, có được các định chế để thực thi, ví dụ tự do ngôn luận, tự do báo chí ; hoặc sở hữu tư nhân trong kinh tế thị trường...nhưng về tổng thể, vẫn chưa có một định chế nào bảo đảm và bảo vệ tất cả các quyền của con người.

- Quá trình xây dựng thể chế dân chủ là quá trình vô cùng phức tạp và khó khăn, chưa có tiền lệ ở các quốc gia bắt đầu xây dựng thể chế dân chủ. Trong quá trình đó, chưa hề có luật, chưa khoanh vùng được các quyền con người trong từng lĩnh vực của thực tế cuộc sống, chính vì vậy, sự vi phạm các quyền con người là không thể tránh khỏi.

- Kể cả các quốc gia đã có các định chế dân chủ, thì vấn đề quyền con người trong thực tế cuộc sống cũng vô cùng phức tạp, luật cũng chưa bao quát hết được, nên khi xảy ra các vấn đề liên quan, người ta cũng chưa có hệ thống quy chuẩn để điều chỉnh, nên vẫn vi phạm các quyền con người là đương nhiên (vô tình vi phạm)

- Xu hướng lạm quyền của những người có quyền lực, cơ quan quyền lực là tất yếu, trong khi không có các quy định cụ thể về các quyền con người trong từng lĩnh vực, từng khía cạnh thực tế cuộc sống sẽ dẫn tới việc vi phạm các quyền con người (cố tình vi phạm để trục lợi).

b. Định chế Tòa án Nhân quyền ra đời sẽ giải quyết được những vấn đề gì ?

+ Trước hết, nó đặt cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người một cách tổng thể, cụ thể và trực tiếp. Khi đã có Tòa án Nhân quyền thì đồng nghĩa với việc các quy chuẩn pháp luật về quyền con người sẽ được xây dựng và đi vào thực tế. Hệ thống quy chuẩn về quyền con người sẽ trả lời các câu hỏi : quyền con người là gì, hệ thống các quyền con người trong thực tế ở các lĩnh vực cụ thể là gì ? thế nào là vi phạm quyền con người ? Khi bị vi phạm quyền con người thì tới đâu, gặp ai để giải quyết...

+ Làm cơ sở cho việc giải quyết, cho hoạt động của tất cả các định chế khác. Khi xây dựng thể chế dân chủ, hoặc khi đã có các định chế dân chủ khác nhưng việc thực thi sẽ rất khó khăn vì các định chế không thể bao hàm hết được những phát sinh từ thực tế cuộc sống. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề, nếu không có các quy định, quy chuẩn pháp luật về quyền con người, sẽ rất dễ dẫn tới vi phạm quyền con người. Khi đã có các quy chuẩn pháp luật về quyền con, người ta có thể thoải mái giải quyết các vấn đề phát sinh mà không sợ vi phạm quyền con người. Điều này đồng nghĩa với việc, người ta sẽ không thể lạm dụng quyền để trục lợi sau đó bao biện bằng những điều luật khác.

+ Bản thân việc đặt ra định chế Tòa án Nhân quyền, và dành sự quan tâm đặc biệt cho định chế này cũng đã là sự cảnh báo, lời nhắc nhở cho toàn bộ hệ thống chính trị, góp phần vào việc vận hành và bảo vệ tự do cho con người.

Tóm lại, khi đã có định chế Tòa án Nhân quyền, và các định chế hỗ trợ để hoạt động thực chất, hiệu quả, chúng ta sẽ bảo đảm được tự do của con người. Khi con người đã có, đã được tự do, thì mới có cơ sở để thực hiện tất cả những vấn đề khác, kể cả việc xây dựng thể chế dân chủ. Đồng thời, tự do là cơ sở cho sự sáng tạo, tạo ra các giá trị mới, thúc đẩy phát triển toàn xã hội.

c. Vấn đề tổ chức, vận hành

Tòa án Nhân quyền là định chế hoàn toàn mới, nhưng lại là định chế quan trọng nhất. Chính vì vậy cần dành cho nó một vị trí trung tâm, xứng đáng. Không gì hay và chuẩn xác hơn, nên đặt trong hệ thống Tòa án Hiến pháp. Điều đó có nghĩa là Tòa án Hiến pháp của các quốc gia dân chủ sẽ không chỉ còn là một tòa án duy nhất nữa, mà có hệ thống chân rết ở các tiểu bang và các địa phương. Ở cấp độ quốc gia, liên bang, tên gọi vẫn sẽ là Tòa án Hiến pháp, nhưng ở các tiểu bang và các địa phương sẽ gọi là Tòa án Nhân quyền, chỉ tập trung xét xử về vấn đề vi phạm nhân quyền. Chức năng của Tòa án Hiến pháp liên bang vẫn được giữ nguyên, nhưng có thêm lĩnh vực xét xử vi phạm nhân quyền cấp quốc gia, đồng thời phụ trách ngành dọc về chuyên môn với hệ thống tòa án nhân quyền cấp tiểu bang và địa phương.

Để xây dựng thành công Tòa án Nhân quyền và cơ chế thực thi, cần thực hiện những việc sau đây :

- Sự độc lập hoàn toàn và quyền lực tuyệt đối trên cơ sở hiến pháp và luật pháp của ngành tư pháp nói chung và Tòa án Nhân quyền nói riêng. Nếu không có sự độc lập, và quyền lực tuyệt đối của Tòa án Nhân quyền, chúng ta không thể nói tới việc người dân có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình.

- Xây dựng đội ngũ luật sư nhân quyền độc lập và chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ pháp lý và cùng tham gia bảo vệ quyền con người của công dân.

2. Trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do và dân chủ cho nhân dân

Có hai lý do quan trọng để thực hiện việc trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do và dân chủ cho người dân. Việc đầu tiên, trong bất cứ lý thuyết nào về dân chủ, cũng đều nói rằng, người dân tham gia vào xây dựng lên thể chế dân chủ. Nhưng trên thực tế, hình như chưa có quốc gia nào khi xây dựng thể chế dân chủ, người dân được tham gia một cách đúng nghĩa. Tức là người dân có đầy đủ nhận thức và hiểu biết, thông tin để lựa chọn những người xứng đáng đại diện cho mình, hoặc những nguyện vọng của mình được phản ánh trong các định chế, cũng như đường lối, chính sách của chính quyền. Chính vì vậy, cần phải trang bị kiến thức để người dân có đầy đủ nhận thức tham gia vào quá trình xây dựng thể chế dân chủ. Chưa làm được điều này, tất cả chỉ là hình thức mượn danh nhân dân để thực hiện việc xây dựng thể chế dân chủ.

Lý do thứ hai, quan trọng hơn. Với định chế Tòa án Nhân quyền chỉ là định chế, cơ chế để người dân tự bảo vệ các quyền con người của mình mỗi khi bị xâm phạm. Chỉ có tự mình bảo vệ quyền lợi của mình mới thiết thực và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, người dân phải biết, phải hiểu được quyền của mình như thế nào, bị vi phạm ra sao, đòi lại quyền của mình ở đâu, như thế nào. Như vậy, việc trang bị kiến thức cho người dân về nhân quyền, tự do, dân chủ là việc tối quan trọng, để người dân có đủ nhận thức và hiểu biết để tự bảo vệ các quyền con người của mình bằng định chế Tòa án Nhân quyền.

Việc trang bị kiến thức dân chủ cho người dân ban đầu nên thực hiện bằng một cơ quan thống nhất từ trung ương tới địa phương. Cơ quan này chịu trách nhiệm phổ biến thông tin, các vấn đề quan trọng của đất nước và hỗ trợ về mặt pháp lý. Cơ quan đó có thể là Trung tâm thông tin - Nhân quyền và hỗ trợ pháp lý bao gồm các chức năng sau.

- Thông tin tình hình đất nước, các đảng phái chính trị, tình hình thế giới, khu vực và địa phương.

- Trang bị kiến thức về nhân quyền, tự do, dân chủ cho nhân dân

- Hỗ trợ pháp lý cho người dân trong mọi vấn đề, trọng tâm là bảo vệ các quyền con người của nhân dân

Cơ quan này có trách nhiệm thông tin, trang bị kiến thức đến từng người dân ở tất cả các thôn, bản, làng trên toàn quốc, không bỏ sót bất cứ một cá nhân nào.

Sau khi thể chế dân chủ được xây dựng và đi vào vận hành, vấn đề trang bị kiến thức cho người dân về dân chủ sẽ được chuyển sang ngành giáo dục, các trường học. Các cấp học, từ tiểu học, trung học và đại học, đều phải giảng dạy và phổ biến các kiến thức về nhân quyền, tự do và dân chủ và cách thức xây dựng thể chế dân chủ. Làm sao để người dân hiểu và thuộc các quyền con người của mình như thuộc bảng cửu chương trong toán học !

Chúng ta phải thực hiện công việc này như một định chế, bởi vì chỉ có như vậy, việc thực hiện có cơ quan phụ trách, có đầu tư, có người chịu trách nhiệm, có giám sát thì mới hi vọng có hiệu quả. Vấn đề quan trọng này, nếu không thực hiện nghiêm túc như một định chế, sẽ chỉ là hình thức và ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của nhân dân, tức là ảnh hưởng tới khả năng tự bảo vệ các quyền con người của nhân dân, cũng có nghĩa ảnh hưởng tới tự do của nhân dân.

3. Quy định miễn phí đối với nạn nhân bị vi phạm nhân quyền

Những người bị vi phạm nhân quyền, thực hiện quyền tự bảo vệ các quyền con người của mình, tức là người đứng đơn kiện người, nhóm người hoặc cơ quan, tổ chức vi phạm nhân quyền sẽ được miễn phí hoàn toàn. Thông thường, những người bị vi phạm các quyền con người là những người dân thường, nghèo khổ, thấp cổ bé họng. Những người này không có tiền để thanh toán cho các vụ kiện nếu không được hỗ trợ. Cách hỗ trợ hiệu quả và công bằng nhất đó là miễn phí hoàn toàn cho những người bị vi phạm nhân quyền, đứng đơn kiện những kẻ vi phạm. Không chỉ miễn phí tòa, người đi kiện còn được chỉ định luật sư miễn phí ở trung tâm Thông tin - Nhân quyền và hỗ trợ pháp lý. Trung tâm này luôn có đội ngũ luật sư nhân quyền, để tham gia tố tụng hỗ trợ các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền. Những kẻ vi phạm nhân quyền, sau khi bị kết án, sẽ phải trả phí tòa tùy theo quy định.

Đây là một định chế quan trọng, không thể thiếu được nếu muốn thực hiện thành công định chế Tòa án Nhân quyền. Chỉ có hỗ trợ về pháp lý và tài chính, người dân mới có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình. Tất cả các nguồn kinh phí này, đều được lấy ra từ ngân sách quốc gia, cũng tức là tiền thuế của người dân, để người dân bảo vệ các quyền con người, tự do của họ.

III. Các bước thực hiện - một số vấn đề cần lưu ý

Trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ, đã và đang diễn ra trên thế giới, ngoài việc nội dung xây dựng thể chế dân chủ chưa có định chế cốt lõi thì việc tiến hành, các bước đi cũng có những khiếm khuyết không nhỏ. Đó là việc xác định thời gian chuẩn bị cho việc bắt tay xây dựng thể chế dân chủ quá ngắn, thông thường từ 6 tháng đến một năm. Trong thời gian đó, các quốc gia thường thuê các chuyên gia, có thể kết hợp với các học giả trong nước viết hiến pháp, đồng thời ấn định thời gian cho tổng tuyển cử. Sau đó, tất cả thể chế dân chủ đều được bắt tay xây dựng khi đã có các cơ quan lập pháp và hành pháp là quốc hội và chính phủ. Cách thức này, quá trình này, chúng ta chỉ có thể gọi là chuẩn bị cho tổng tuyển cử chứ hoàn toàn không phải là quá trình chuẩn bị xây dựng thể chế dân chủ.

Khi chúng ta đặt vấn đề, chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ thì điều đó hoàn toàn khác với việc chuẩn bị cho ra đời bản hiến pháp và việc tổng tuyển cử để tạo ra quốc hội và chính phủ. Toàn bộ quá trình xây dựng thể chế dân chủ trên thế giới đều bỏ qua một vấn đề quan trọng nhất, đó là thông tin tới từng người dân về các quyền con người, về tự do, dân chủ, về tình hình các đảng phái và tình hình đất nước...dẫn tới việc người dân không có đủ thông tin, không có kiến thức để tham gia vào tiến trình xây dựng thể chế dân chủ và vận hành, thực thi, thực hiện các quyền con người của mình.

Như vậy, trong việc tiến hành chuẩn bị xây dựng thể chế dân chủ, chúng ta cần thời gian tối thiểu là từ 2-3 năm để thực hiện những công việc quan trọng sau đây.

- Thứ nhất, định hình các đảng phái và lực lượng chính trị. Đây là việc quan trọng và cần có thời gian để thực hiện. Việc đăng ký của các đảng phái và việc phổ biến, quảng bá, xây dựng mối liên hệ giữa các đảng phái và người dân cần có thời gian nhất định.

- Thứ hai, thông tin đến người dân về tình hình đất nước, về các tổ chức chính trị, đảng phái đồng thời trang bị kiến thức cho người dân về quyền con người, về tự do, dân chủ (dưới dạng sơ lược nhất). Đây là nhiệm vụ quan trọng, không có không được để người dân thực sự tham gia xây dựng thể chế dân chủ, cũng như làm cơ sở để tự bảo vệ các quyền con người của họ sau này.

- Thứ ba, cần lưu ý đặc biệt vào việc xây dựng thể chế dân chủ cơ sở, là đơn vị hành chính mà người dân trực tiếp tham gia. Đây là điều khác biệt với phần lớn cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới. Trọng tâm của thể chế dân chủ cần phải đặt ở đơn vị cơ sở, là nơi người dân có thể tham gia trực tiếp lên việc xây dựng các điều luật bảo đảm các quyền con người trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của họ. Một khuynh hướng quan trọng của thế giới là toàn cầu hóa đã giúp giảm bớt các gánh nặng vai trò quốc gia, cũng có nghĩa là giảm bớt sự tập trung quyền lực và nguồn lực của trung ương trong xây dựng thể chế dân chủ. Như vậy, thời điểm để xây dựng thể chế dân chủ tập trung trên bình diện cơ sở là rất thuận lợi đối với các quốc gia...

*****************

Phần III

Xây dựng thể chế dân chủ Việt Nam - Những đặc thù cần chú trọng

I. Những thách thức đặc thù Việt Nam trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ

Việt Nam là một nước có thể chế chuyên chính, độc tài toàn trị Cộng sản. Nhưng có sự khác biệt hơn so với Liên Xô và các quốc gia Đông Âu trước khi sụp đổ, đó là Việt Nam đã có một thời gian khá dài hội nhập với thế giới. Nền kinh tế đã tiếp xúc, làm quen với kinh tế thị trường, các quan hệ quốc tế đã rộng mở, nhận thức của người dân có rất nhiều thay đổi từ tiến trình này. Tuy nhiên, về khía cạnh chính trị, nhà cầm quyền Việt Nam đã thành công trong việc độc quyền tồn tại một đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo đất nước. Cũng chính vì sự độc quyền về chính trị này, với sự can thiệp của chính trị vào tất cả các lĩnh vực (dù cách thức can thiệp có khác trước đây), nền kinh tế Việt Nam đã phá sản hoàn toàn, xã hội Việt Nam bị dồn nén cùng cực và sự sụp đổ của chế độ Cộng sản Việt Nam đã hiển hiện trước mắt. Hậu quả của việc chỉ có một đảng chính trị (đảng Cộng sản Việt Nam) thật là tai hại trong hoàn cảnh chế độ sụp đổ không có lực lượng chính trị thay thế.

1. Thách thức lớn - không có lực lượng chính trị thay thế

Chúng ta đều biết rằng, khi một chế độ sụp đổ, nếu có lực lượng chính trị thay thế, xã hội sẽ giảm bớt được rất nhiều sự hỗn loạn, không có khoảng trống quyền lực, một hoàn cảnh nguy hiểm đưa tới thời cơ cho những kẻ cơ hội chính trị. Bối cảnh về các lực lượng chính trị tại Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, là đảng Cộng sản, các lực lượng đối lập có một số tổ chức ở hải ngoại nhưng chưa xây dựng được cơ sở tại Việt Nam (về cơ bản). Khi sự sụp đổ chế độ xảy ra, đảng Cộng sản là thủ phạm đưa đất nước vào ngõ cụt dẫn tới sự sụp đổ chắc chắn không còn vai trò, tiếng nói gì (với tư cách một lực lượng chính trị) trong việc xây dựng chế độ mới. Các đảng phái hải ngoại, dù có chuyển toàn bộ bộ máy từ nước ngoài về trong nước, cũng không thể kịp xây dựng thành một tổ chức hoàn chỉnh để có thể thay thế vai trò của đảng Cộng sản Việt Nam. Người dân trong nước, trừ một số người tham gia và quan tâm tới vấn đề đấu tranh dân chủ, phần lớn còn chưa biết tới sự tồn tại của các tổ chức, đảng phái đó. Chính vì vậy, cần có một thời gian để xây dựng các tổ chức chính trị. Hệ quả của việc không có một lực lượng chính trị thay thế, là các lực lượng chính trị, các tổ chức đảng phái sau này được lập ra, hoặc được đưa từ nước ngoài về (để hoàn thiện) có vai trò như nhau, không có lực lượng nào, tổ chức nào chiếm ưu thế. Điều này đòi hỏi một quá trình làm việc chung, vừa hợp tác vừa đấu tranh, những hoạt động rất xa lạ với phần lớn người dân trong nước.

2. Phần lớn người dân bất ngờ khi chế độ sụp đổ, cả xã hội chưa có sự chuẩn bị cho việc thay đổi chế độ.

Không chỉ có những người dân thường, kể cả những người đấu tranh dân chủ, rất nhiều người không nghĩ, và không tin chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ trong tương lai gần. Đây là điều hết sức bình thường, ngoài việc sự kiện sụp đổ của một chế độ là vấn đề quá lớn, quá phức tạp thì nguyên nhân khiến cho phần lớn người dân bất ngờ và không nghĩ có sự thay đổi chế độ trong thời gian ngắn tới đây là do :

- Hàng ngày, hàng giờ người dân tiếp xúc với hệ thống công quyền của chế độ, vẫn thấy nó hùng vĩ và không có gì thay đổi so với trước đây.

- Người dân bị bưng bít thông tin về những vấn nạn kinh tế, xã hội, chính trị. Về kinh tế, số liệu không chính xác và bị bóp méo, cũng như cách giải thích né tránh khủng hoảng sâu sắc và toàn diện của nền kinh tế. Về xã hội, chính trị, họ không biết được quá trình cướp đất của quan chức, của nhà nước đã tạo ra đội ngũ dân oan hàng triệu người trên khắp mọi miền đất nước. Sự đàn áp và dồn nén không trừ một tôn giáo nào khiến cho hàng triệu tín đồ phẫn nộ. Sự nhu nhược của nhà cầm quyền trước sự thôn tính và bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và trên khắp đất nước khiến cho bao thanh niên, trí thức căm phẫn, uất hận… tất cả là một sự dồn nén đến cùng cực của xã hội.

- Điều quan trọng nhất, rất nhiều người không nghĩ và không tin có sự thay đổi chế độ trong tương lai gần là do người ta không nhìn thấy lực lượng nào, tổ chức nào thách thức sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt nam. Người ta luôn nghĩ, muốn thay đổi một chế độ thì phải có lực lượng thách thức, đánh đổ đảng Cộng sản và thể chế hiện thời. Người ta không biết, không nghĩ và không tin rằng, chế độ Cộng sản Việt Nam có thể sụp đổ chỉ giản dị là hết tiền để nuôi, duy trì hệ thống khổng lồ, giúp cho đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước. Người ta không biết rằng, sự cạn kiệt nguồn lực của chế độ đã đến cùng lúc với một nền kinh tế hoang tàn, niềm tin đổ vỡ hoàn toàn, cùng sự dồn nén cùng cực của rất nhiều giai tầng trong xã hội. Chính vì vậy mà tuy sống trong khó khăn, cảm nhận sự bức bối, nhưng phần lớn người dân không nghĩ rằng sẽ có sự sụp đổ của chế độ trong tương lai gần.

Đây là thách thức không nhỏ, cho quá trình xây dựng thể chế dân chủ. Bởi vì người dân quá bất ngờ, sự hoảng loạn sẽ diễn ra rất khốc liệt gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai.

3. Phần lớn người Việt nam chưa có kỹ năng làm việc tập thể một cách tự nguyện, các tổ chức, lực lượng chính trị chưa có kinh nghiệm hợp tác, đối thoại trong những công việc chung.

Như chúng ta biết, người dân Việt Nam có nhiều phẩm chất tốt, cao đẹp, nhưng cũng có nhiều nét tính cách hạn chế, khiếm khuyết. Một trong số hạn chế lớn là khả năng, kỹ năng làm việc chung, tập thể. Có nhiều người gọi khiếm khuyết này, ở phạm vi hẹp, là kỹ năng làm việc theo nhóm. Ở quy mô lớn hơn, gọi là văn hóa tổ chức. Đây đúng là hạn chế, khiếm khuyết lớn trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai. Thực ra, từ trước tới nay, người Việt Nam chúng ta cũng vẫn làm việc trong nhiều tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, đó là việc làm có tính chất bắt buộc (tham gia các đoàn thể), làm việc ở cơ quan. Nhưng những công việc xây dựng thể chế dân chủ, tính chất tự nguyện rất rõ nét và chiếm ưu thế, thì chúng ta yếu và thiếu trầm trọng kỹ năng cũng như kinh nghiệm làm việc. Mặt khác, do chưa có các tổ chức chính trị, đoàn thể tự nguyện, nên chúng ta cũng rất hạn chế trong việc phối hợp, hợp tác và đối thoại giữa các tổ chức, đơn vị đoàn thể với nhau cho các công việc chung. Ở hải ngoại, chúng ta cũng có một số tổ chức, đoàn thể nhưng kinh nghiệm qua nhiều năm cho thấy, hiệu quả phối hợp, làm việc chung và đối thoại rất hạn chế và khiêm tốn.

Đi sâu vào nghiên cứu lịch sử, chúng ta biết rằng, trước đây tổ tiên của chúng ta, thậm chí đời ông của chúng ta hiện nay, cũng không phải không có kinh nghiệm làm việc chung. Chúng ta có "lệ làng" ở tất cả các vùng nông thôn, được tổ chức và điều hành hoạt động rất hay và hiệu quả. Nhưng đến thời kỳ Cộng sản, những nét tính cách, văn hóa đó bị phá hủy vì bị đánh đồng với văn hóa phong kiến. Đây là điều vô cùng đáng tiếc. Sau khi mở cửa, hội nhập, những nét văn hóa và lễ hội đang dần được phục hồi, đi kèm theo là cách thức làm việc chung, tự nguyện đang được gây dựng trở lại.

Trên đây là khái quát những khó khăn, thách thức đặc thù trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai. Còn rất nhiều thách thức đặc thù Việt Nam trong việc này, như tâm lý bầy đàn khá đậm nét của người Việt Nam, thói háo danh, hư danh và sĩ diện cũng rất trầm trọng. Hạn chế về những kiến thức xã hội, nhân văn và quản trị xã hội trong môi trường giáo dục Việt nam cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình xây dựng nền dân chủ.

II. Những vấn đề cần quan tâm, thực hiện khi chế độ thay đổi

Qua nhiều phân tích về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam, rất nhiều người nghĩ rằng, sẽ có một sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ diễn ra trong một tương lai rất gần. Khi chế độ sụp đổ, việc quan trọng nhất là ổn định tình hình. Vấn đề chuẩn bị xây dựng thể chế dân chủ đã trình bày ở các phần trên, chúng ta không nhắc lại.

Chúng ta có thể hình dung ra, một số nét cơ bản của tình hình, khi chế độ sụp đổ toàn diện, không có lực lượng chính trị nào thay thế ngay được. Khi một chế độ sụp đổ, nhất là chế độ cộng sản với biết bao nhiêu cơ quan, chủ thể trong hệ thống, đồng thời phần lớn người dân bị bất ngờ sẽ xảy ra một tình trạng hoảng loạn vô cùng rộng lớn. Sự dồn nén, căm phẫn của người dân, sự lo sợ hoảng loạn của các quan chức cộng sản... sẽ tạo ra một bức tranh cực kỳ hỗn loạn và lộn xộn. Đây là hậu quả trực tiếp của việc ngăn chặn, không cho ra đời bằng mọi giá một lực lượng đối lập có tổ chức của nhà cầm quyền Việt Nam. Như vậy, tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ chắc chắn xảy ra cho tới khi các tổ chức, hội nhóm bàn bạc và lập ra được một Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời. Quãng thời gian này, chúng ta không thể biết được có thể xảy ra những điều gì, và hầu như chưa ai có thể can thiệp được, trừ sự can thiệp của đội quân gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, nếu tình trạng hỗn loạn dẫn tới bạo loạn. Như vậy, khi xuất hiện Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời thì nhiệm vụ quan trọng nhất là vấn đề ổn định tình hình.

Muốn ổn định tình hình, chúng ta cần phải xác định được thành phần và nguyên nhân gây ra sự hỗn loạn, và giải quyết theo các nguyên nhân đó. Có hai nhóm người chính, có thể là chủ thể dẫn tới sự hỗn loạn, đó là người dân với sự dồn nén, bức xúc và căm thù chế độ khi chế độ sụp đổ sẽ có hành động trả thù. Việc trả thù sẽ kéo dài và lan rộng nếu như họ nghĩ rằng không có luật pháp và không ai ngăn cản và chế tài được họ. Như vậy ở đây, cần có những luật lệ khẩn cấp, cần có những lực lượng ngăn cản sự trả thù một cách tự phát của người dân. Ngoài ra, sẽ có các cá nhân lợi dụng tình hình để cướp phá, hôi của cũng cần được ngăn chặn. Một thành phần khác, đó là những cựu quan chức, công nhân việc chức của chế độ cũ, nhất là công an và an ninh lo sợ sự trả thù, lo sợ cho tương lai có thể tập hợp nhau lại để đi theo hướng chống lại chính quyền mới để (họ nghĩ) có thể tự bảo vệ mình. Việc này đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết, cần có một chương trình, chính sách minh bạch, rõ ràng, công bằng và nhân bản đối với đối với những người thuộc chế độ cũ.

Tóm lại, để ổn định tình hình, Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời cần thực hiện những công việc thiết yếu sau.

- Công khai mục đích, mục tiêu, thời hạn của Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời.

- Công khai tiến trình, thời gian biểu, các bước chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ.

- Công bố chính sách đối với những người, những vụ việc liên quan tới chế độ cũ.

- Công bố, thông báo và có lực lượng hỗ trợ ngăn chặn các hành vi quá khích có tính chất trả thù cá nhân hoặc gây bạo loạn.

Về cơ bản, với những gương mặt có uy tín, một chương trình hành động rõ ràng, minh bạch, có thời hạn đồng thời có phương án giải quyết các vấn đề nổi cộm được thông tin tới toàn thể người dân, sẽ là cơ sở để ổn định tình hình trong lúc nước sôi lửa bỏng.

Hà Nội, ngày 24/02/2017

Nguyễn Vũ Bình

Nguồn : RFA tiếng Việt, 21-24/02/2017

Additional Info

  • Author Nguyễn Vũ Bình
Published in Diễn đàn