Võ Sa Hà, RFA 25/01/2022
Trung Quốc đe dọa hầu hết các quốc gia láng giềng
Trong thập kỷ qua, các bên tranh chấp ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam, ngày càng cảm thấy lo ngại với Trung Quốc, khi Bắc Kinh tăng cường các hành động hung hăng trên Biển Đông và xây dựng đảo nhân tạo trên các thực thể thuộc quần đảo Trường Sa.
Reuters
Tháng 11 năm qua, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tìm cách trấn an các nước láng giềng Đông Nam Á bằng một lời hứa rằng ông "tuyệt đối sẽ không tìm kiếm bá quyền hoặc bắt nạt những quốc gia nhỏ". Ngay sau đó, các tàu tuần duyên của Trung Quốc lại làm điều hoàn toàn ngược lại. Trung Quốc ra sức quấy rối các tàu thăm dò dầu khí của Indonesia và Malaysia, để chứng tỏ quyết tâm của Bắc Kinh đối với Biển Đông.
Bắc Kinh đã "can thiệp" vào các nỗ lực khảo sát vùng biển Malaysia để tìm khí đốt và dầu mỏ khiến Kuala Lumpur triệu tập phái viên Trung Quốc hai lần trong năm ngoái để phản đối. Bắc Kinh cũng đã ra lệnh cho Jakarta ngừng khoan gần quần đảo Natuna với lý do quần đảo này nằm trong "lãnh thổ Trung Quốc". Bắc Kinh đã cử một tàu khảo sát, đi cùng với các tàu tuần duyên và hải quân, để quấy rối hoạt động thăm dò này.
Việt Nam, Malaysia, Philippines và khu vực Đài Loan từ lâu đã cáo buộc Bắc Kinh sử dụng các tàu cá bán quân sự để thực thi các yêu sách của mình. Tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên đều gặp phải sự phản đối quyết liệt của Trung Quốc khi thực hiện các hoạt động khai thác dầu và khí đốt trong vùng biển của họ.
Tranh chấp Biển Đông chỉ là một trong nhiều tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia láng giềng khác của Trung Quốc. Ấn Độ cũng cáo buộc Trung Quốc chiếm đóng tới 38.000km2 diện tích vùng Aksai Chin (1). Bắc Kinh cũng ra yêu sách với bang Arunachal Pradesh (2) và vùng lãnh thổ Ladakh. Hai nước từng xung đột tại thung lũng Galwan phía Đông Ladakh (3) hồi năm 2020.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang vướng vào các tranh cãi về biên giới với Nepal tại 3 khu vực quan trọng tại Dolakha, và 2 địa điểm gần dãy Everest. Một số nguồn tin cho biết Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép 10 khu vực chiến lược trên khắp Nepal và ra yêu sách với một phần lãnh thổ quốc gia này viện cớ chứng cứ lịch sử từ chiến tranh Trung Hoa-Nepal (1788-1792) (4). Thậm chí, Bắc Kinh còn tuyên bố một số vùng đất của Nepal thuộc về Tây Tạng, và vì vậy đương nhiên phải thuộc về Trung Quốc.
Trung Quốc cũng nhiều lần đưa ra những chứng cứ lịch sử để tuyên bố chủ quyền với các khu vực thuộc Mông Cổ, Hàn Quốc và Triều Tiên. Bắc Kinh cũng đòi hỏi quyền kiểm soát một phần lãnh thổ của Lào, Campuchia, Kyrgyzstan, Kazakhstan, và Tajikistan với luận điệu tương tự. Bhutan, Nga, Singapore, Thái Lan và Nhật Bản cũng có các tranh cãi với Trung Quốc về một số vùng lãnh thổ (5).
Các tham vọng lãnh thổ ẩn giấu
Có nhiều lý do dẫn đến nhiều tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc như vậy. Thứ nhất, đó là thời xa xưa, Trung Quốc đã xâm chiếm và cai trị nhiều quốc gia láng giềng. Sau này, nhiều quốc gia đã nổi dậy, giành độc lập nhưng vấn đề lãnh thổ không được giải quyết thấu đáo.
Ngoài ra, tư duy luật pháp để xây dựng đường biên giới bắt đầu từ phương Tây, sau này mới lan sang Trung Quốc. Chính vì vậy, có nhiều bất đồng về các hiệp định biên giới mà Trung Quốc cho rằng họ đã bị các nước phương Tây ép buộc ký kết các hiệp ước biên giới bất lợi cho họ.
Tuy nhiên, cũng có lý do Trung Quốc lợi dụng những điều không rõ ràng này, cộng với sức mạnh của mình, để nhằm chiếm đoạt lãnh thổ của các quốc gia khác, mà Biển Đông là ví dụ tiêu biểu. Nhà nghiên cứu Helena Legarda từ Viện Nghiên cứu Trung Quốc Mercator cho biết phần lớn đường biên giới trên đất liền của Trung Quốc được vẽ khi quốc gia này thành lập thực sự rất mơ hồ và thậm chí không được phân định rõ ràng ở một số nơi (6).
Thêm nữa, "cơn khát" tài nguyên và tham vọng trở thành bá chủ khu vực là lý do tiềm ẩn đằng sau những tranh chấp lãnh thổ lâu năm của Trung Quốc. Quần đảo Trường Sa và các khu vực lân cận ở Biển Đông giàu tài nguyên và việc chiếm quyền kiểm soát khu vực này sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho nền kinh tế Trung Quốc, một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, cùng tinh thần tự hào dân tộc và lịch sử gắn liền với các triều đại thành công trị vì đất nước trong quá khứ đã tồn tại từ lâu. Cách đây khoảng 8 năm, một bài báo được đăng tải trên cổng thông tin trực tuyến Sohu (có trụ sở tại Bắc Kinh), đã liệt kê sáu cuộc chiến tranh "không thể tránh khỏi" mà Trung Quốc phải thực hiện trong giai đoạn 2020-2050 (7). Theo tác giả bài viết, đó là cuộc chiến thống nhất Đài Loan vào năm 2025, tiếp theo là việc đánh chiếm quần đảo Trường Sa trước năm 2030, sáp nhập Nam Tây Tạng (Arunachal Pradesh) từ Ấn Độ vào năm 2040 và giành lại quần đảo Senkaku từ Nhật Bản vào năm 2050, hợp nhất vùng Ngoại Mông và lấy lại những vùng đất đã mất từ Nga. Tác giả bài viết trên Sohu cũng cho rằng những bước đi này sẽ là những cột mốc quan trọng trước khi Trung Quốc giành được vị thế bá chủ toàn cầu.
Đây chính là chỉ báo khá rõ ràng về tư duy của người Trung Quốc cũng như tham vọng và tư tưởng dân tộc mà họ đã dung dưỡng suốt nhiều năm.
Tàu hải cảnh của Trung Quốc đi vào vùng nước gần quần đảo Senkaku do Nhật kiểm soát ở biển Hoa Đông hồi năm 2016. AFP
Làm sao để chống lại các đe dọa này từ Trung Quốc ?
Sự gia tăng sức mạnh quân sự một cách nhanh chóng cùng với các tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc đã gây ra quan ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ đã phát động một cuộc cạnh tranh nhiều mặt để nhằm "kiềm chế" các hành động hung hăng, phá huỷ "trật tự thế giới dựa trên luật lệ" mà Mỹ và và các nước phương Tây đã tạo dựng ra từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2.
Trong bối cảnh đó, thách thức rất lớn đối với các nước nhỏ như Việt Nam là phải tạo thế "cân bằng" tương đối trong quan hệ với các nước lớn, không quá thiên về bất kỳ nước lớn nào để trở thành đối đầu với cường quốc khác, hứng chịu xung đột vũ trang và chiến tranh.
Mặc dù Việt Nam đang cố gắng tận dụng thời cơ này khi tăng cường quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc, không nghiêng hẳn về bên nào, không để bị biến thành lệ thuộc vào nước lớn nào. Tuy nhiên, với các tham vọng lãnh thổ và cách hành xử hung hăng của Trung Quốc, sớm hay muộn, Việt Nam cũng sẽ bị Trung Quốc uy hiếp.
Thực tế hiện nay, sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc cũng đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong việc tập hợp lực lượng. Các nước không còn chú trọng gắn kết với nhau theo ý thức hệ như trước, mà dựa trên những lợi ích đan xen về kinh tế, chính trị, an ninh với mục tiêu chính là phục vụ cho lợi ích quốc gia, đồng thời bảo vệ lợi ích của mình trên thế giới. Đây chính là tư duy quan trọng để Việt Nam cần tỉnh táo trước những "cám dỗ" của Trung Quốc như cùng nhau xây dựng "Cộng đồng chung vận mệnh", trong đó Trung Quốc luôn đưa ra ý tưởng lừa mị như cùng nhau xây dựng "Chủ nghĩa xã hội".
Việt Nam cần phải một mặt xây dựng sức mạnh quốc phòng đủ mạnh để đáp trả và gây thiệt hại đáng kể nếu Trung Quốc có hành vi xâm lấn lãnh thổ. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy một "trật tự thế giới dựa trên luật lệ", mà ở đó, những nước nhỏ như Việt Nam sẽ được hưởng lợi trước sự đe dọa của cường quốc như Trung Quốc.
Võ Sa Hà
Nguồn : RFA, 25/01/2022
Tham khảo :
1. https://www.indiatoday.in/india/story/how-china-captured-aksai-chin-1691562-2020-06-22
5. https ://eurasiantimes.com/19-territorial-disputes-china-aims-to-settle-scores-with-all-neighbours/
6. https://www.dw.com/en/whats-behind-chinas-border-disputes/av-54332051
7. https://eurasiantimes.com/china-will-conquer-taiwan-by-2025-indias-arunachal-pradesh-by-2040/
**********************
Lưu Kiếm Thanh, RFA, 24/01/2022
"Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm"
Mới đây, trong một diễn đàn trực tuyến do Đại sứ quán Trung Quốc tại Philippines và một nhóm vận động địa phương tổ chức ở thủ đô Manila, Philippines ngày 17/01, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cho biết nước này sẽ không dùng sức mạnh để "bắt nạt" các láng giềng, nhấn mạnh sẽ giải quyết bất đồng ở Biển Đông một cách hòa bình. Ông này nói : "Việc chỉ chú trọng vào tuyên bố chủ quyền của một bên và áp đặt ý chí của mình lên những bên khác không phải cách mà các láng giềng đối xử với nhau. Điều này đi ngược lại triết lý phương Đông về sự hòa hợp giữa con người" (?). Với Philippines, ông mong muốn hai bên có thể "giải quyết hợp lý các vấn đề dựa trên tinh thần thiện chí và thực tế", đồng thời khẳng định Bắc Kinh sẽ "không sử dụng sức mạnh của mình để chèn ép các nước nhỏ hơn" (1).
- AFP
Tuyên bố này của Ngoại trưởng Trung Quốc đưa ra sau chỉ vài ngày khi Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 12/1 đã công bố một báo cáo trong đó đưa ra những lập luận pháp lý bác bỏ các yêu sách phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời kêu gọi nước này ngừng các hoạt động cưỡng ép và bất hợp pháp ở khu vực.. Bắc Kinh đã phản ứng gay gắt với báo cáo này.
Với tuyên bố của ông Vương Nghị, liệu Trung Quốc thay đổi quan điểm ? hay đơn thuần đây chỉ là động thái "lừa phỉnh" để "trấn an" các nước ở Biển Đông ?
Có rất nhiều hành động của Trung Quốc gần đây đã cho thấy những lời nói trên của ông Vương Nghị không thể tin được.
Từ "đường chín đoạn" cho đến "Tứ Sa"
Báo chí mới đây dẫn lời Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah phát biểu hồi tuần trước lưu ý rằng Bắc Kinh hiện "không nhắc đến 'đường 9 đoạn", mà tập trung nhiều hơn để biện minh về cái mà họ gọi là "Tứ Sa". Ông Saifuddin Abdullah nói rằng các nước ASEAN cũng đã nhận ra sự thay đổi này trong cách lập luận của Bắc Kinh và yêu sách này "thậm chí nguy hiểm hơn" yêu sách cũ (2).
Khu vực mà Trung Quốc gọi là "Tứ Sa" là bốn nhóm đảo ở Biển Đông mà Bắc Kinh nói rằng họ có "quyền lịch sử" đối với nhóm đảo này, gồm Đông Sa (Dongsha Qundao), quần đảo Hoàng Sa (Xisha Qundao), khu vực bãi ngầm Macclesfield (Zhongsha Qundao) và quần đảo Trường Sa (Nansha Qundao). Còn yêu sách mà Bắc Kinh có thể đang muốn làm lu mờ - yêu sách "đường 9 đoạn" - là một đường hình chữ U bao quanh hầu hết Biển Đông mà Trung Quốc lâu nay đã và đang sử dụng đòi hỏi và tuyên bố yêu sách chủ quyền của họ trên vùng biển tranh chấp này.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, sự "lươn lẹo" của Trung Quốc đối với các vấn đề chủ quyền ở Biển Đông ra sao.
Các hành động đe dọa vẫn tiếp diễn
Ông Vương Nghị nói rất hay, nhưng mà người ta vẫn chưa dễ quên được khi mà chỉ chưa đầy hai tháng trước, Trung Quốc còn phái ba tàu hải cảnh phun vòi rồng, buộc hai tàu tiếp tế dân sự của Philippines phải quay đầu tại bãi Cỏ Mây thuộc quần đảo Trường Sa.
Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) ngày 19/1 lại đưa tin các lực lượng thuộc Chiến khu miền Nam của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) vừa tiến hành tập trận huấn luyện bắn đạn thật ở Biển Đông. (3)
Các hành động hung hăng, đe dọa các quốc gia nhỏ yếu khác ở Biển Đông luôn xảy ra như vậy mà ông Vương Nghị nói chuyện đạo lý, liệu nghe có lọt tai chăng ?
Vu vạ dân quân biển Việt Nam
Cũng cách đây không lâu, tờ Nhân Dân Nhật Báo của Trung Quốc ngày 7/1 đăng bài bài của Ding Duo, Phó giám đốc Viện nghiên cứu Quốc gia Trung Quốc về Biển Hoa Nam (Biển Đông), phân tích về lực lượng "tàu đánh cá vũ trang" của Việt Nam với chiến thuật du kích nhằm chống lại lực lượng Trung Quốc trên biển (4).
Tác giả bài báo viết rằng : "Các ngư dân từ Trung Quốc, Malaysia và Indonesia cho biết họ đã bị các tàu đánh cá nước ngoài cướp và đe dọa ở Biển Đông trong những năm gần đây. Hơn chục thuyền viên trẻ trên những tàu đánh cá dị thường này có thể nói thông thạo tiếng Việt và họ cũng được trang bị vũ khí hạng nhẹ như súng lục và súng tiểu liên. Theo mô tả của ngư dân các nước, những tàu đánh cá vũ trang này rất có thể là của lực lượng dân quân biển Việt Nam.
Trong hơn một thập kỷ, Việt Nam đã sử dụng nguồn nhân lực và vật lực rất lớn để phát triển lực lượng dân quân biển. Lực lượng dân quân biển đóng vai trò là "con mắt" của Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam, thậm chí còn tham gia các cuộc đối đầu trên biển, không chỉ chèn ép mà còn đe dọa trực tiếp đến hoạt động và an toàn của tàu cá và tàu chấp pháp Trung Quốc".
Cái kiểu "vu vạ", "ngậm máu phun người" này của Trung Quốc, người dân thế giới không lạ gì.
Khoản 1, Điều 2 của Luật dân quân tự vệ 2019 của Việt Nam quy định rõ : "Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, được tổ chức ở địa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ". Khoản 5 điều 2, Luật Dân quân tự vệ định nghĩa : "Dân quân tự vệ biển là lực lượng làm nhiệm vụ trên các hải đảo, vùng biển Việt Nam".
Như vậy, ta có thể thấy mục tiêu lớn nhất của lực lượng dân quân biển Việt Nam là lực lượng tại chỗ để tích cực tham gia các hoạt động phòng tránh, giảm nhẹ và khắc phục hậu quả thiên tai. Ngoài ra, do thực tế tình hình các ngư dân Việt Nam vẫn còn có các hoạt động đánh bắt thủy hải sản trên vùng biển thuộc chủ quyền của nước ngoài, dẫn đến nhiều hệ lụy về pháp lý quốc tế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Do đó, lực lượng dân quân tự vệ biển còn có nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến pháp luật về chủ quyền quốc gia, về tuân thủ các điều luật quốc gia và quốc tế, giữ gìn vùng biển và hải đảo hòa bình, ổn định và phát triển. Thêm nữa, tùy theo vị trí chiến lược và tầm quan trọng của cơ sở sản xuất, khai thác tài nguyên biển mà các đơn vị dân quân tự vệ được trang bị các loại vũ khí, khí tài phù hợp, được huấn luyện kỹ chiến thuật thích hợp để phối hợp với Hải quân Nhân dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tích cực để bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Trong một lần trả lời báo chí, Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương từ Việt Nam cho biết : Dân quân biển của Việt Nam phần lớn là ngư dân bản địa, hàng ngày vẫn đi đánh cá, ít được huấn luyện, chỉ được hưởng phụ cấp, không có lương… hầu hết tàu cá của Việt Nam chỉ là tàu vỏ gỗ, chủ yếu đánh bắt gần bờ trong khi tàu dân quân biển Trung Quốc đều là tàu vỏ thép, được trang bị thiết bị vệ tinh, có thể đi xa bờ dài ngày và có khả năng chịu va chạm tốt" (5).
Như vậy là chúng ta đã thấy sự khác nhau rõ rệt giữa dân quân biển Việt Nam và dân quân biển Trung Quốc. Dân quân biển Trung Quốc là công cụ của nhà nước, sử dụng chiến thuật "vùng xám" để đi gây hấn, xâm chiếm, cưỡng bức, đe dọa tại vùng biển của các quốc gia khác. Còn dân quân biển Việt Nam chỉ hoạt động tại vùng biển Việt Nam, chủ yếu là hoạt động đánh bắt trên biển và hỗ trợ ngư dân.
Chính vì vậy, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng cho rằng thông tin từ China Daily là thông tin không đúng sự thật và Việt Nam hoàn toàn bác bỏ : "Việt Nam kiên trì chính sách quốc phòng an ninh hòa bình và tự vệ. Hoạt động của các lực lượng chức năng Việt Nam tuyệt đối tuân theo pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Cùng với đó, Việt Nam luôn nỗ lực đóng góp vào việc duy trì khu vực Biển Đông hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hợp tác và phát triển, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS năm 1982. Chúng tôi kêu gọi các quốc gia trong và ngoài khu vực cùng đóng góp thiết thực và có trách nhiệm vào mục tiêu này" (6)
Lưu Kiếm Thanh
Nguồn : RFA, 24/01/2022
Tham khảo :
3. https://www.globaltimes.cn/page/202201/1246499.shtml
4. https://global.chinadaily.com.cn/a/202201/07/WS61d7a545a310cdd39bc7fb50.html