Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Đảng cộng sản Việt Nam đang lo tối mặt vì "mạng xã hội" và "xã hội dân sự" đã thúc đẩy tình trạng "suy thoái tư tưởng, "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong đảng đến hố chôn vùi chế độ.

thu1

Hơn 200 nhân sự được giới thiệu vào quy hoạch Trung ương khóa XIII

Quan ngại và cảnh giác khúc quanh nội bộ này đã công khai phơi bầy trên các phương tiện truyền thông của Đảng và Bộ Quốc phòng trong khi công tác quy hoạch trên 200 cán bộ cấp chiến lược cho nhiệm kỳ đảng Khóa XIII 2021-2026 được Bộ Chính trị phê duyệt ngày 21/06/2019.

Bằng chứng đe dọa chế độ của "mạng xã hội" đã được Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng tiết lộ trong bài viết "Truyền thông xã hội đối với ổn định chính trị, xã hội ở Việt Nam", ngày 17/06/2019.

Ông Thưởng tố cáo rằng : "Một số được nuôi dưỡng, cấp phát từ các tổ chức thù địch bên ngoài. Lợi dụng những bất cập trong quản lý nhà nước về Internet, mạng xã hội, chúng thâm nhập vào các nền tảng truyền thông xã hội, "nuôi" nick (tên tài khoản), lập ra hàng trăm nghìn tài khoản ảo và nhiều trang giả mạo cá nhân, tổ chức. Với nhiều thủ đoạn tinh vi được hỗ trợ bởi công nghệ, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội bộ Đảng và nhân dân".

Sau đó 19 ngày (05/07/2019), ông Võ Văn Thưởng lại xác quyết " tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay" nhằm chống điều ông gọi là "các quan điểm sai trái, thù địch" (Thanh Niên, 07/07/2019)

Nhưng tại sao lại khẩn trương như thế, vào lúc tưởng như tư tưởng đảng viên đã vững như bàn thạch để bước vào Đại hội đảng khóa XIII, dự trù diễn ra vào tháng 01 năm 2021 ?

Thì ra, theo ông Thưởng, đảng cộng sản Việt Nam đang phải đối phó với "Thủ đoạn chống phá muôn hình vạn trạng".

Ba nhóm chống Đảng

Người đứng đầu ngành tuyên truyền quy kết hành động muốn hạ bệ đảng tập trung vào 3 nhóm, theo báo Thanh Niên :

Nhóm 1 bao gồm những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh chính trị giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Nhóm thứ 2 là lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài kết hợp với số chống đối, bất mãn trong nước để lập ra các tổ chức mà chúng ta hay nghe như Việt Tân, Việt Nam phục quốc…

Nhóm "thế lực thù địch" thứ 3, theo ông Thưởng, là lực lượng len lỏi, phức tạp không khó để nhận ra nhưng lại rất khó về đấu tranh đó là cán bộ đảng viên, kể cả có những đảng viên từng giữ chức vụ trung cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị của chúng ta, suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến, tự chuyển hoá".
Như thế rõ ràng đã có sự liên hoàn tự nhiên và nhịp nhàng giữa trong và ngoài nước trong sứ mệnh chống đảng cộng sản Việt Nam, dù không có ai tổ chức. Sự liên kết hành động, trong trường hợp này, chỉ có thể đến từ những con người Việt Nam có trái tim yêu chuộng tự do, dân chủ và đoàn kết đấu tranh muốn chấm dứt chế độ độc tài, đảng trị cộng sản trên lãnh thổ Việt Nam.

Quan trọng nhất là giữa hai nhóm 2 và 3. Nhưng nguyên nhân hình thành của thành phần "chống đối, bất mãn trong nước" đến từ đâu ? Đó là hậu quả của hơn 30 năm gọi là "Đổ mới", từ 1986, vì đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam chỉ muốn "đổi mới kinh tế" để làm giầu cho đảng và cho các nhóm lợi ích đảng viên để duy trì quyền lực và ăn chia độc quyền. Lãnh đạo đảng đã nhiều lần từ chối "đổi mới chính trị", không cho dân ra báo, lập đảng đối lập, hay trực tiếp bầu ra một chính quyền thật sự "của dân, do dân và vì dân".

Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ngụy biện chữ nghĩa khi nói rằng :

"Tiếp tục đi sâu phân tích làm rõ hơn các đề xuất liên quan đến vấn đề "đổi mới đồng bộ hơn giữa chính trị và kinh tế". Phải nắm vững và khẳng định : Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta, mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia".

(trích Diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 10/Khóa đảng XI ngày 12/01/2015)

Đó là lý do tại sao đã có "chống đối và bất mãn trong nước". Có đối lập vì đảng chỉ lo bảo vệ đặc quyền và đặc lợi cho đảng để duy trì quyền cai trị và quyền được thu vén công sức lao động bằng mồ hôi và nước mắt của của nhân dân. Nhưng đảng lại để cho cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ có chức và có quyền, tự do tham nhũng và hành dân trên mọi lĩnh vực và trong mọi cơ hội.

Trong nhiều trường hợp, đảng lại che chở và bảo vệ những kẻ đã cướp miếng cơm và manh áo của dân, nhưng lại không dám quyết liệt lấy lại tài sản chúng đã ăn cắp hay nhờ tham nhũng mà có như màn kịch kê khai tài sản đã chứng minh trong Luật phòng, chống tham nhũng mới, có hiệu lực từ ngày 01/07/2019.

Ngoài ra, lý do có "chống đối và bất mãn" trong dân vì dân đã thấy, trong khi đảng chèn ép , bịt miệng dân và tước bỏ các quyền tự do cơ bản của dân, dù đã được quy định trong Hiến pháp 2013, thì đảng lại đàn áp dân khi họ đứng lên chống quân Tầu đàn áp ngư dân, đâm chìm tầu đánh cá và chiếm đóng biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông. Đảng cũng không dám tổ chức truy niệm những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong các cuộc chiến chống quân Tầu xâm lược ở Hoàng Sa 1974, biên giới phía Bắc 1979-1989 và ở Gạc Ma tháng 3/1988 (Trường Sa), nhưng lại ngăn cấm dân tổ chức tri ân và tưởng nhớ những anh hùng, liệt sĩ đã đổ máu bảo vệ giang sơn.

Thử hỏi những hành động khiếp nhược và thuần phục Tầu xâm lược như thế thì làm sao dân không căm phẫn ?

Việt kiều - suy thoái tư tưởng

Ngoài ra, trong bài phát biểu dài hơn giờ đồng hồ tại Hội nghị báo cáo viên các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương ngày 05/07/2019, ông Võ Văn Thưởng, người cầm đầu ngành tuyên truyền còn cáo buộc "lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài" đã tham gia chống đảng qua Internet. Việc này không mới vì từ hơn 40 năm qua, nhưng chưa khi nào đảng cộng sản Việt Nam có thật lòng muốn nói chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt tị nạn ở nước ngoài.
Ngược lại, các mánh khóe chiêu dụ "Việt kiều" và tìm cách "đầu độc chính trị" các thế hệ con cháu lớp "Việt kiều" tiền bối đã phản ảnh trong Nghị quyết 36 "về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", ban hành năm 2004.

Để đạt các mục tiêu thu hút "Việt kiều", nhà nước cộng sản Việt Nam đã bỏ ra không biết bao nhiêu tiền bac để vận động và mua chuộc, nhưng vẫn thất bại ở mọi nơi có đông người Việt tị nạn định cư. Bằng chứng chỉ có rất ít, đếm trên đầu ngón tay, trong số trên 300.000 trí thức, chuyên viên "Việt kiều" mà Hà Nội từng mơ mộng sẽ chiêu dụ được, đã trở về giúp nước. Một số khác chỉ về giúp không thường xuyên vào mỗi dịp Hè.

Ngoài ra, lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa vẫn tiếp tục tung bay ở mọi nơi mọi chốn có người Việt tị nạn, trong khi cờ Đỏ Sao Vàng của cộng sản Việt Nam chỉ có thể ngóc đầu hạn chế trong một ít dịp do các cơ quan ngoại giao của Hà Nội tổ chức. Tuy vậy, ông Võ Văn Thưởng đã có lần nói nghênh ngang :

"Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý" (Pháp luật Online, 18/05/2017).

Ngày ấy Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng cho biết "đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước".

Nhưng nay đã hơn 2 năm, võ miệng của ông Thưởng đã đi vào quên lãng. Có lẽ vì vậy, cộng với những thiệt thòi và bất công mà lớp cán bộ, đảng viên thấp cổ bé miệng phải gánh chịu trước sự giầu sang bí ẩn "bất chiến tự nhiên thành" của lãnh đạo, nên một lực lượng chống đảng mới,nằm ngay trong lòng chế độ, đã xuất hiện.

Đó là những người, theo cách vạch lá tìm sâu của ông Thưởng thuộc "Thế lực thù địch" thứ 3" gồm "cán bộ đảng viên, kể cả có những đảng viên từng giữ chức vụ trung cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị".

Những đảng viên này đã bị ông Thưởng nhận diện có "suy thoái tư tưởng" , "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" đang làm cho đảng mất ăn mất ngủ.

Nguy cơ này, nói ngắn , là những đảng viên đã chán đảng, nhạt đoàn và công khai phủ nhận Chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lênin-Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của đảng. Họ cũng không chịu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như đảng yêu cầu.

Báo Thanh Niên viết tiếp : "Về phương thức, thủ đoạn chống phá của các đối tượng này, theo Trưởng ban Tuyên giáo trung ương, là muôn hình vạn trạng, trong đó đặc biệt là sử dụng truyền thông đại chúng, sử dụng internet và truyền thông xã hội để chống phá".

Ông Thưởng nói : "Cái kẻ chống mình, mọi thủ đoạn, mọi phương thức, thấy cái gì cũng chống. Một cái băng rôn sai chính tả, một băng rôn sai ngày tháng năm cũng thành câu chuyện để đả phá và tấn công vào đội ngũ của chúng ta. Nhưng người đấu tranh bảo vệ và phản bác lại thụ động hơn, lại phải chờ định hướng, thậm chí là chờ chế độ chính sách…".

Cán bộ tuyên giáo mà rệu rã như thế thì hèn chi đảng không lâm nguy, nhưng còn nguy hơn khi hấy báo Thanh Niên ghi lời ông Thưởng tiết lộ :"Nhiều câu chuyện tiếu lâm chính trị mang tác dụng xấu không xuất phát ở các quán nước vỉa hè mà xuất phát từ chính những giảng viên chính trị, do đó, ông yêu cầu phải tăng cường bồi dưỡng, cập nhập kiến thức, xây dựng đội ngũ giáo viên lý luận chính trị đạt yêu cầu".

Ít năm qua, bộ máy tuyên truyền của đảng đã luống cuống không giải thích được phải mất bao nhiêu năm nữa thì lộ trình gọi là "qúa độ lên xã hội chủ nghĩa" của Việt Nam mới hoàn thành. Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo cũng tối tăm hoa mắt trước thắc mắc tại sao Việt Nam đã chủ trương làm kinh tế thị trường của Tư bản mà còn móc thêm cái đuôi "theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa" để làm gì ?

Vì vậy, những thứ lấn cấn này, nhiều khi đã biến thành chuyện tiếu lâm tại các quán bia hơi, qúan nhậu vỉa hè hay trên các mạng xã hội khiến ông Thưởng nhức nhối.
Nhưng mỉa mai đảng cũng có lý do vì Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói vào ngày 23/10/2013 rằng :"Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa".

Có lẽ vì mất định hướng và mơ hồ như thế mà ông Thưởng đã trấn an cán bộ tuyên truyền rằng : "Internet là một xa lộ thông tin, chúng ta cho 4 làn, 6 làn hay 20 làn xe chạy, xe 4, 6, 8 bánh chạy là quyền của chúng ta. Đừng lo tự do internet là ảnh hưởng nhân quyền, tự do ngôn luận gì hết. Cả thế giới đều lo lắng trước sự phát triển của mạng xã hội, truyền thông xã hội".

Rồi ông đề nghị : "Từ nay tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mỗi địa phương chắt lọc đối tượng trên địa bàn, xử lý một vài đảng viên vi phạm, xử lý một vài cá nhân, công dân sử dụng internet, mạng xã hội vi phạm luật An ninh mạng, thì tình hình sẽ tốt hơn rất nhiều".

Xã hội dân sự

Ông Thưởng nói có vẻ tự tin như người điếc không sợ súng, nhưng ngoài "mạng xã hội", đảng cộng sản Việt Nam còn phải đối mặt với "xã hội dân sự".

Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của Trung ương đảng cộng sản Việt Nam viết ngày 11/06/2019 rằng :

"Hiện nay, vấn đề "xã hội dân sự" đã và đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Sau thất bại trong hoạt động chống phá Việt Nam ở các giai đoạn trước, hiện nay, các thế lực thù địch xem việc củng cố, thúc đẩy "xã hội dân sự" theo mô hình phương Tây là một hướng đi mới, là một trong những phương thức tác động cơ bản của chiến lược "diễn biến hòa bình" với mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Mục tiêu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề "xã hội dân sự" là tìm cách thúc đẩy sự xuất hiện các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập, làm suy yếu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, hình thành "xã hội dân sự độc lập về chính trị" là một "lối thoát" cho sự ra đời công khai, hợp pháp của các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, buộc Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Chúng ra sức cổ vũ cho hình thành ở Việt Nam một mô hình "xã hội dân sự độc lập về chính trị" kiểu phương Tây, nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước".
Viết như thế là nói lấy được, theo lối cả vú lấp miệng em, một chiều và có ác ý muốn xúi bẩy người đọc vào hùa với đảng phủ nhận các quyền tự do của dân đã được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận.

Theo Điều 25 thì : "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định".

Nhưng đảng cộng sản Việt Nam đã tự cho mình quyền vi phạm điều này khi cấm tư nhân ra báo ; ra Luật an ninh mạng để kiểm soát dư luận ; không ra luật lập hội và luật biểu tình để tước bỏ các quyền hiến định của dân. Hai dự luật Lập hội và Biểu tình đã trình hay dự trù trình ra Quốc hội rồi rút lại nhiều lần với lý do "còn nhiều ý kiến khác biệt cần bổ sung".

Bằng chứng chà đạp quyền lập hội đã được chứng minh tiếp theo trong bài của Tạp chí Cộng sản :

"Hòng thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng tính chất chính trị, xã hội phức tạp của "xã hội dân sự" để tác động vào hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tuyên truyền lừa bịp, thổi phồng, cường điệu hóa vai trò của xã hội dân sự, cung cấp tài chính, phương tiện hoạt động đến gây sức ép với Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại. Các đối tượng chống đối nhân danh chiêu bài "xã hội dân sự", "dân chủ", "nhân quyền"... để tập hợp lực lượng, lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích dễ gây "ấn tượng" với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như "Diễn đàn xã hội dân sự", "Hội tù nhân lương tâm", "Hội phụ nữ nhân quyền", "Hội bầu bí tương thân", "Hội nhà báo độc lập", "Hội anh em dân chủ"...

Đảng sợ bị lôi kéo

Tất nhiên khi viết ra như thế thì phải dính thêm các "âm mưu" để bêu rếu hại người, do đó không lạ khi bài báo kể tiếp rằng :

"Thủ đoạn mà các đối tượng chống đối sử dụng phổ biến hiện nay là thông qua các trang web, diễn đàn trực tuyến, nhất là mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia ; sử dụng các phần mềm bảo mật để liên lạc, tổ chức huấn luyện, đào tạo trực tuyến cho thành viên ; công khai viết "đơn kiến nghị" đòi thành lập đảng chính trị đối lập, tự do thành lập hội mà không tuân theo quy định pháp luật, đòi khởi kiện, vu cáo, xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về quyền dân sự... Ngoài ra, các đối tượng này còn tìm cách chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, lợi dụng các khuyết điểm trong quản lý đất đai, môi trường... để kích động khiếu kiện, tụ tập đông người, biểu tình, xuyên tạc tình hình, hạ uy tín cán bộ ; thông qua các hoạt động này để tập hợp lực lượng, gây thanh thế, từng bước nhen nhóm và thành lập tổ chức chính trị đối lập... Tại các địa bàn chiến lược, các đối tượng chống đối đẩy mạnh xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo ; kích động tư tưởng ly khai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khơi gợi, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, tuyên truyền phát triển các tổ chức tôn giáo phi pháp, tụ tập "xưng vua"... 

"Bên cạnh đó", Tạp chí Cộng sản viết tiếp, "dưới danh nghĩa đại diện các tổ chức "xã hội dân sự", một số đối tượng chống đối đã tham gia các buổi điều trần ở nước ngoài, vu cáo Việt Nam vi phạm "dân chủ", "nhân quyền", đề nghị can thiệp trả tự do cho các đối tượng chống đối trong nước bị bắt do vi phạm pháp luật... Đặc biệt, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận đảng viên, tình trạng yếu kém, sai phạm của một số cán bộ để thổi phồng, cường điệu hóa khuyết điểm, "hạ bệ" uy tín chính trị của Đảng, lôi kéo người dân tham gia các tổ chức mang danh nghĩa "xã hội dân sự" để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài rất quan tâm đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội ở nước ta và tìm cách xâm nhập, tác động, hướng lái hoạt động, chuyển hóa dần các tổ chức này khi chưa đủ điều kiện, thời cơ thành lập tổ chức đối lập. Thông qua các hoạt động, như triển khai dự án, tài trợ tài chính, tổ chức hội thảo với các NGO Việt Nam, một số tổ chức nước ngoài đã đi sâu xâm nhập, tìm hiểu nội bộ, xu hướng quan điểm của các NGO Việt Nam, kích động các tổ chức này thoát ly vai trò lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước, cổ vũ quyền "tự do lập hội" theo tiêu chí phương Tây. Ngoài ra, một số tổ chức nước ngoài còn hỗ trợ tài chính cho một số NGO Việt Nam để xuất bản, phát hành tài liệu nghiên cứu, văn bản luật nước ngoài nhằm tuyên truyền quan điểm, pháp luật phương Tây đến với công chúng Việt Nam một cách công khai".

Cuối cùng, Tạp chí Cộng sản cảnh báo :

"Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, ý thức công dân, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân còn hạn chế ; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, quản lý của chính quyền còn nhiều lỗ hổng ; lại có những đặc điểm phức tạp, đa dạng về tôn giáo, dân tộc, di tồn lịch sử của chế độ thực dân... Do đó, sự hình thành và phát triển các yếu tố của xã hội dân sự luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng dẫn đến chia rẽ, xung đột, hỗn loạn, vô chính phủ, mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước….. Thực tế cho thấy, tuyệt đối hóa vai trò các tổ chức của xã hội dân sự, xem nhẹ quản lý của Nhà nước, chỉ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, tiền đề cho rối loạn, bất ổn. Do tính chất đa dạng và phức tạp này mà xã hội dân sự luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các đối tượng, tổ chức thù địch cả trong và ngoài nước mua chuộc, chi phối, lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối".

Kiên quyết chống

Để chống lại xã hội dân sự, tác giả bài viết trên Tạp chí Cộng sản mách nước :

"Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ xã hội dân sự với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến xã hội dân sự chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển "xã hội dân sự" sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia". 

Bài viết kêu gọi nhân dân làm "chỉ điểm viên" cho nhà nước với những câu chữ thúc giục hãy : "Kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dân sự mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam".

Để hoàn thành nhiệm vụ, bài báo yêu cầu : "Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về xã hội dân sự, các yếu tố của xã hội dân sự, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của xã hội dân sự ; xã hội dân sự và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của xã hội dân sự ; các hình thức của xã hội dân sự gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ; cấu trúc của xã hội dân sự và quan hệ của xã hội dân sự với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình ; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của xã hội dân sự ; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của xã hội dân sự ; các hình thức lợi dụng xã hội dân sự của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức xã hội dân sự". 

Như vậy, rõ ràng tình hình nội bộ đảng cộng sản Việt Nam đang rối như canh hẹ trước thềm Đại hội đảng XIII. Dù "mạng xã hội" hay "xã hội dân sự", hoặc "suy thoái tư tưởng" để "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho đến tình trạng cán bộ, đảng viên ngày một "suy thoái đạo đức", "không nhúc nhích" để cứ ì ra cho "trên nóng dưới lạnh" thì đâu phải tại vì "diễn biến hòa bình", hay do "các thế lực thù địch" gây ra.

Tất cả đều là của đảng, do đảng và vì đảng chứ nhân dân có ăn nhậu gì đền mấy chuyện nội bộ này mà bắt phải nghe ngóng, học tập để làm tay sai không công cho nhà nước ?

Phạm Trần

(11/07/2019)

Published in Diễn đàn

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng có bài viết nói về "chủ nghĩa tư bản thân hữu" thấy đăng đi đăng lại nhiều lần trên các trang web. Bài này cũng thấy đăng trên trang facebook của ông. Các "fan" của Tiến sĩ Dũng không tiếc lời khen ngợi.

cntb1

Việt Nam là "chủ nghĩa thực dân", Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng "nội xâm". "Nó ăn của dân không từ một thứ gì".

Theo tôi tác giả có nhiều "ngộ nhận" về "chủ nghĩa tư bản", vì vậy nên đã kết luận sai về sự hiện hữu của "chủ nghĩa tư bản thân hữu" ở Việt Nam.

Việt Nam làm gì có "chủ nghĩa tư bản" ?

Một cách sơ lược, chủ nghĩa tư bản, đối lập với chủ nghĩa cộng sản, là thuật từ thường thấy phe cộng sản sử dụng. Các quốc gia Âu, Mỹ, đã thành hình và phát triển trên nền tảng "chủ nghĩa tư bản", từ nhiều thế kỷ qua, như con cá hiển nhiên sống dưới nước, như con người hít thở không khí. Vì vậy ở các nước "tư bản" người ta ít khi nói đến "chủ nghĩa tư bản". Ngược lại, chủ nghĩa cộng sản "sinh sau", nhằm mục đích đối kháng với "tư bản chủ nghĩa". Các tác phẩm của các ông tổ chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels, hầu như đều viết (phê bình) chung quanh chủ nghĩa tư bản. Cuốn "kinh thánh" của những người cộng sản là cuốn "tư bản" (của Karl Marx).

Các nét đặc trưng cơ bản của một quốc gia xây dựng trên nền tảng "chủ nghĩa tư bản" là "dân chủ đa nguyên" trong "chính trị, "tự do" trong "xã hội" và "cạnh tranh" trong "kinh doanh".

Trong "xã hội tư bản" quyền "tư hữu" là "bất khả xâm phạm", dĩ nhiên bao gồm luôn quyền sở hữu về "tư liệu sản xuất". Trong hoạt động kinh tế các doanh nhân có quyền "cạnh tranh" và "lợi nhuận" được xem là mục tiêu tối thượng. Nhà nước "đứng ngoài", không "can thiệp" vào các hoạt động kinh tế.

Việt Nam có điều gì tương đồng, ở các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, để có thể kết luận rằng "chủ nghĩa tư bản" đã "mọc rể" ở đây ?

Năm ngoái, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ J. Kerry có nói về Việt Nam hôm 10 tháng 10 năm ngoái : "Ở đó là chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt". Không biết nguyên văn tiếng Anh là gì, BBC dịch ra là "Chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt".

Tôi e rằng đây là một thứ "ngôn ngữ ngoại giao". "Chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt" không phải là "chủ nghĩa tư bản". (Ở đây tôi không có ý so sánh kiểu Công tôn Long "bạch mã phi mã" con ngựa trắng không phải là con ngựa).

Xã hội Việt Nam, Kerry nhìn nhận "đó vẫn là một quốc gia độc đảng độc đoán, và không may là vẫn còn vi phạm nhân quyền, nhiều thứ khác...".

Độc tài, đảng trị, duy ý chí với "định hướng xã hội chủ nghĩa", đối lập với "kinh tế thị trường".

Thế giới vẫn không công nhận nền kinh tế Việt Nam là một nền "kinh thế thị trường" đúng nghĩa.

Quyền tư hữu, nhứt là về "tư liệu sản xuất", vẫn chưa được luật pháp bảo vệ. Đất đai, một loại "tư liệu sản xuất", vẫn thuộc quyền định đoạt của "nhà nước".

"Kinh tế quốc doanh" vẫn nắm vai trò "chủ đạo". Tư nhân chỉ có vai trò mờ nhạt. Nhà nước can thiệp "định hướng" đủ thứ vào mọi sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội… từ lãnh vực "công đoàn" của các công nhân cho tới chủ xí nghiệp, các lãnh vực tài chánh, ngân hàng…

Trong khi chủ nghĩa tư bản, nói theo một trí thức trong nước (rất tiếc quên tên rồi), là không có gì "định hướng" nó cả.

Việt Nam làm gì có chủ nghĩa tư bản để Tiến sĩ Dũng nói tới "chủ nghĩa tư bản thân hữu" ?

Trong khi đó ý nghĩa của "chủ nghĩa tư bản thân hữu" ở các xứ Âu, Mỹ mỗi nơi một khác.

Ở Mỹ, người ta biết tới nó qua các hình thức "lobbying". Ở Pháp, ta biết tới "trường Quốc gia Hành chánh - l’ENA". Hầu hết thành phần lãnh đạo các xí nghiệp lớn ở Pháp đều xuất thân từ các "trường lớn", trong đó ENA chiếm phần lớn. Nguyên tắc "công bằng" trong "cạnh tranh" của kinh tế thị trường hiển nhiên đã bị "xâm phạm".

Nhưng các hình thức "quan hệ thân hữu" ở đây vẫn nằm trong vòng "luật pháp cho phép" hay do "kẻ hở của pháp luật".

Còn Việt Nam làm gì có "thân hữu".

Thí dụ, hầu hết các dịch vụ khách sạn, giải trí, du lịch... ở Việt Nam là do phe công an kiểm soát.

Công an là một "thế lực" đứng ngoài, nếu không nói là đứng trên pháp luật quốc gia, đồng thời cũng là một quyền lực "siêu nhà nước". "Nhà nước" không làm gì được thế lực này.

Làm gì có "thân hữu" trong quan hệ "công an - nhà nước" ?

"Nhà nước" ở đây là "ai" ? Theo "qui ước", chính phủ đại diện nhà nước. Ở Việt Nam, công an ra lệnh "nhà nước" chạy có cờ.

Làm gì có "cạnh tranh" trong các sinh hoạt kinh tế (về khách sạn, giải trí, du lịch…) ?

Thí dụ khác, ngoài công an, quân đội cũng là một "thế lực" đừng ngoài, đứng trên pháp luật. Đây cũng là một thế lực "siêu quyền lực" đứng trên nhà nước. Thế lực này bao thầu các lãnh vực về đất đai, địa ốc.

Vụ sân golf ở Tân Sơn Nhứt là thí dụ điển hình. Sân bay cần mở rộng, quân đội "đéo" trả đất, nhà nước làm gì được quân đội ?

Làm gì có "thân hữu" trong quan hệ "quân đội - nhà nước" ?

Hầu hết, nếu không nói là tất cả, tài sản các đại gia địa ốc ở Việt Nam đều có nguồn gốc bất minh. Họ dựa vào các thế lực "siêu quyền lực" để cưỡng bức "mua" quyền sử dụng đất của dân với giá rẻ mạt, sau đó bán ra với giá trên trời.

Anh chỉa súng vào đầu người ta, bắt người ta ký giấy bán đất cho anh. Đây là "tư bản thân hữu" sao ?

Đã nói nhiều lần, Việt Nam là "chủ nghĩa thực dân", Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng "nội xâm". "Nó ăn của dân không từ một thứ gì".

Vì vậy nghe trí thức Việt Nam là lầm chết. Khổ cái là các trang báo, trang web (kiểu của các trí thức bô xít) hay đăng các bài mà tác giả có nhãn "tiến sĩ" phía trước. Dân ngu (bền vững) là phải.

Trương Nhân Tuấn

Nguồn : fb nhantuan.truong, 23/05/2017

***********************

Chủ nghĩa tư bản thân hữu

Tác giả : Nguyễn Sĩ Dũng,10/05/2017

cntb2

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng

Chủ nghĩa tư bản thân hữu là thuật ngữ được dùng để mô tả một nền kinh tế mà trong đó thành quả kinh doanh phụ thuộc vào các mối quan hệ thân thiết giữa các doanh nhân và các quan chức chính quyền. Nó được biểu hiện bằng cách cư xử thiên vị của chính quyền cho các doanh nghiệp thân hữu trong việc cung cấp tài chính, giấy phép, các khoản miễn giảm thuế và các hình thức can thiệp khác.

Thế thì tình hình của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Việt Nam chúng ta như thế nào ? Dưới đây, không phải là sự khám phá ra Châu Mỹ, mà chỉ là những biểu hiện cụ thể ai ai cũng biết.

Trước hết, xây dựng mối quan hệ với các quan chức là rất quan trọng để có thể làm ăn dễ dàng. Rất nhiều doanh nghiệp coi đây không chỉ là một sự cần thiết, mà còn là một cách đầu tư sinh lợi dễ dàng và hiệu quả. Dự án đầu tư vào các quan chức bắt đầu từ việc tài trợ cho chuyện chạy chức, chạy quyền.

Theo dư luận, một số doanh nghiệp thậm chí còn trực tiếp đứng ra vận động và mua phiếu cho không ít các quan chức. Đây là mối quan hệ hai chiều : các doanh nghiệp có thể xin phép được tài trợ, mà các quan chức cũng có thể kêu gọi tài trợ. Nói thẳng ra hay không nói thẳng ra thì cả hai bên đều hiểu cam kết bất thành văn ở đây : "Bọn em giúp anh lên thì sau này anh hỗ trợ cho bọn em" ; "Các chú giúp anh lên, thì sau này anh tạo điều kiện cho các chú". Nhiều nơi sự việc nghiêm trọng đến mức nếu không được các doanh nghiệp ủng hộ thì ít ai có thể chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh. Đây, có lẽ, đang là cách phổ biến nhất hình thành lên hệ thống các doanh nghiệp sân sau, doanh nghiệp thân hữu.

Một cách khác để xây dựng quan hệ với các quan chức là chăm lo hết lòng cho các thủ trưởng và vợ con của họ. Được coi là dự án đầu tư, nên các doanh nghiệp rất chịu khó và rất tinh tế ở đây. Họ tìm hiểu không chỉ gu thời trang, món khoái khẩu của các ông anh, bà chị, các cậu ấm, cô chiêu, mà còn tất tần tật về ngày sinh nhật, ngày giỗ chạp, về lễ kỷ niệm ngày cưới, ngày khánh thành nhà… Không cần phải gợi ý, chỉ cần có cơ hội hoặc chỉ cần đoán ra ông anh, bà chị thích gì là họ khuân đến nhà ngay hoặc tìm cách đáp ứng ngay. Sự tận tụy được đáp lại bằng mối quan hệ thân hữu. Không chỉ người dân, mà nhiều khi các quan chức cấp dưới gặp được thủ trưởng còn khó. Thế nhưng cậu em/cô em bên doanh nghiệp X, Y Z… gọi điện là anh bắt máy liền; mời đến là anh đến liền.

Quan hệ thân hữu còn được hình thành lên theo một cách tự nhiên hơn. Đó là hiện tượng người nhà của các quan chức đứng ra thành lập doanh nghiệp. Khi có cha, anh làm quan to, thì vợ con, em út lập tức đứng ra thành lập doanh nghiệp. Họ kinh doanh rất nhàn hạ và giàu có lên một cách nhanh chóng nhờ mối quan hệ thân hữu không cần phải đầu tư mà vẫn có sẵn của mình. Những doanh nghiệp kiểu này chẳng cần vốn, mà cũng chẳng cần có kiến thức, kỹ năng kinh doanh, họ chỉ cần đón lõng và cắt phần trăm đối với tất cả các dự án mà người nhà của họ có quyền quyết định.

Với những biểu hiện cụ thể như vậy, nền kinh tế của chúng ta có phải là chủ nghĩa tư bản thân hữu không? Xin để điều này cho bạn đọc tự suy xét.

Tuy nhiên, cách làm ăn dựa vào quan hệ thân hữu đang để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước.

Trước hết, nó làm cho môi trường kinh doanh bị hủy hoại nghiêm trọng. Thời gian qua, Chính phủ đã cố gắng rất nhiều trong việc thúc đẩy cải cách hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh. Thế nhưng cải cách hành chính sẽ làm được gì, nếu muốn làm ăn dễ dàng cứ phải đầu tư cho quan hệ ? Không có quan hệ, có vẻ như mọi cơ hội đều đóng lại đối với các doanh nghiệp hoặc chi phí kinh doanh của họ bị đội lên đến mức không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị phá sản. Ở một số địa phương, việc gia nhập thị trường là gần như là không thể đối với các doanh nghiệp không nằm trong nhóm thân hữu hoặc ở địa phương khác đến. Các doanh nghiệp không hiểu điều này sẽ được các cơ quan công quyền hoặc thậm chí xã hội đen "dạy dỗ" đến nơi đến chốn ngay.

Thứ hai, cạnh tranh lành mạnh như là một động lực thúc đẩy phát triển hoàn toàn bị triệt tiêu. Chất lượng cao ư ? Giá rẻ ư ? Chẳng quan trọng ! Quan trọng là phải có quan hệ thân hữu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao các doanh nghiệp ở Việt Nam ít đầu tư vào khoa học-công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Hệ quả tiếp theo là năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế cũng rất thấp.

Thứ ba, bất công và bất bình xã hội đang bị tích tụ lại ngày một nhiều hơn. Nếu mọi cơ hội đều do nhóm thân hữu tận hưởng hết, thì cái gì sẽ còn lại cho những người dân ? Không ai không nhìn thấy nhiều doanh nghiệp đang giàu lên nhanh chóng nhờ được hưởng chênh lệch địa tô, được ưu tiên, ưu đãi trong việc tiếp cận các nguồn lực của đất nước, tiếp cận hợp đồng, tiếp cận thương quyền ; các quan chức cũng giàu lên nhanh chóng nhờ được doanh nghiệp lại quả và cung phụng. Điều này quả thực đi ngược lại với những giá trị về bình đẳng và công bằng xã hội mà chúng ta đã đổ máu xương ra gìn giữ.

Thứ tư, chủ nghĩa tư bản thân hữu dẫn đến tham nhũng. Tham nhũng là gì nếu chẳng phải là lạm dụng quyền lực công vì lợi ích tư. Nhiều quan chức đã sử dụng quyền lực được nhân dân trao cho để ưu tiên, ưu đãi cho nhóm thân hữu và hưởng lợi từ sự lại quả của nhóm này. Chính vì vậy, chủ nghĩa tư bản thân hữu tràn lan cũng đang làm cho tham nhũng xảy ra tràn lan.

Cuối cùng, cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là rất quan trọng đối với sự tồn vong của chế độ. Chính chủ nghĩa tư bản thân hữu đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 làm cho xã hội ở Thái Lan bị mất ổn định nghiêm trọng, còn chính quyền ở In-đô-nê-xia thì bị sụp đổ. Với mô hình thể chế chỉ có một Đảng lãnh đạo như ở ta, cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu có rất nhiều khó khăn, nhưng không phải là không có những thuận lợi. Khó khăn là vì không có lực lượng đối lập thì cơ chế giám sát từ bên ngoài là rất yếu, nhưng thuận lợi là vì khi đã quyết tâm thì không có một thế lự nào khác có đủ sức mạnh ngăn cản. Vấn đề là chế độ có thật sự quyết tâm chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu vì sự tồn vong của chính mình hay không.

Nguyễn Sĩ Dũng

Nguồn : FB Đức Bảo Phạm, 10/05/2017

*********************

Chống chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản thân hữu - Yêu cầu sống còn (QĐND, 06/05/2017)

"Chủ nghĩa tư bản thân hữu" là thuật ngữ được dùng để mô tả một nền kinh tế mà trong đó thành quả kinh doanh phụ thuộc vào các mối quan hệ thân thiết giữa các doanh nhân và các quan chức chính quyền.

Nó được biểu hiện bằng cách cư xử thiên vị của chính quyền đối với các doanh nghiệp thân hữu trong việc cung cấp tài chính, giấy phép, các khoản miễn, giảm thuế và các hình thức can thiệp khác. Nó đang là một nguy cơ lớn đối với nước ta, đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.

Sự nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản thân hữu và một số biểu hiện tại Việt Nam

Câu hỏi đặt ra là : Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở Việt Nam chúng ta hiện nay ra sao, nhất là khi đất nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng hơn với thế giới, khi chúng ta vận hành đầy đủ các quy luật của nền kinh tế thị trường, được hưởng lợi từ những mặt tích cực và chịu thiệt hại từ những mặt tiêu cực. Trong đó, có những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường được tác động rõ từ những đặc thù của thể chế chính trị của đất nước ta.

Hiện nay, hầu hết giới doanh nghiệp tại Việt Nam đều hiểu rằng, xây dựng mối quan hệ với các quan chức là rất quan trọng để có thể làm ăn dễ dàng. Rất nhiều doanh nghiệp coi đây không chỉ là một sự cần thiết, mà còn là một cách đầu tư sinh lợi hiệu quả. Dự án đầu tư vào các quan chức bắt đầu từ việc tài trợ cho chuyện "chạy" chức, "chạy" quyền. Đây là mối quan hệ hai chiều : Các doanh nghiệp có thể xin phép được tài trợ, mà các quan chức cũng có thể kêu gọi tài trợ. Có nói hay không thì cả hai bên đều hiểu cam kết bất thành văn ở đây : "Giúp anh thành công thì anh mới có điều kiện hỗ trợ" ; "...Lên được mới tạo điều kiện được...". Đây có lẽ đang là cách phổ biến nhất hình thành nên hệ thống các doanh nghiệp "sân sau", doanh nghiệp thân hữu. Nhiều doanh nghiệp còn tấn công qua "cửa sau" là vợ, con của quan chức để tạo sự thân tình, được hưởng mối quan hệ thân hữu.

Mặt khác, quan hệ thân hữu còn được hình thành theo cách tự nhiên nữa là người nhà của cán bộ đứng ra thành lập doanh nghiệp. Họ kinh doanh nhờ mối quan hệ mà không cần phải đầu tư trí, lực. Những doanh nghiệp này chẳng cần nhiều vốn, chẳng cần nhiều kiến thức, kỹ năng kinh doanh, chỉ cần đón lõng và hiểu "phép chia" đối với công lao những người giúp mình có được dự án là thành công. Với những biểu hiện cụ thể như vậy, nền kinh tế của chúng ta có phải bị chi phối bởi chủ nghĩa tư bản thân hữu không ?

cntb3

Cần tiếp tục có giải pháp để người dân ở mọi vùng, miền đều được hưởng thành quả của phát triển kinh tế đất nước. Trong ảnh : Giờ lên lớp của cô và trò Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc. Ảnh : NGUYỄN TUẤN HUY

Cách làm ăn dựa vào quan hệ thân hữu đang để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước, đồng thời sẽ còn tiếp tục tạo ra những nguy cơ, những rủi ro chưa thể lường hết.

Trước hết, nó làm cho môi trường kinh doanh bị hủy hoại nghiêm trọng. Chính phủ thời gian qua đã cố gắng rất nhiều trong việc thúc đẩy cải cách hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh. Nhưng cải cách hành chính sẽ làm được gì khi "đầu tư cho quan hệ" đang chi phối. Không ít doanh nghiệp phàn nàn rằng, ở một vài địa phương, việc gia nhập thị trường gần như là không thể đối với các doanh nghiệp không nằm trong nhóm thân hữu hoặc ở địa phương khác đến. Các doanh nghiệp như vậy sẽ khó có được các hợp đồng, dự án, chi phí kinh doanh luôn bị đội lên, không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị phá sản. Trong khi đó, nhóm doanh nghiệp thân hữu lại tận dụng được cơ hội nhờ được ưu tiên, ưu đãi trong việc tiếp cận các nguồn lực của đất nước bao gồm đất đai, tài nguyên, tiếp cận hợp đồng, thương quyền. Quan chức cũng hưởng lợi nhờ mối quan hệ này. Nạn hối lộ và tham nhũng cũng sinh ra từ đây.

Thứ hai, cạnh tranh lành mạnh như là một động lực thúc đẩy phát triển hoàn toàn bị triệt tiêu. Đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hay áp dụng các phương thức quản lý tốt nhất để hạ giá thành sản phẩm không quan trọng bằng việc đầu tư để có các mối quan hệ thân hữu với các cán bộ quản lý. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao các doanh nghiệp ở Việt Nam ít đầu tư vào khoa học-công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh dẫn đến hệ quả là năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nước ta cũng rất thấp.

Thứ ba, bất công và bất bình xã hội đang bị tích tụ lại ngày một nhiều hơn. Nếu mọi cơ hội đều do một nhóm thâu tóm thì sẽ còn lại gì cho những người làm ăn chân chính? Điều này đi ngược với những giá trị về bình đẳng và công bằng xã hội mà chúng ta đang dày công xây dựng. Nó cũng dẫn đến tham nhũng và lạm dụng quyền lực công vì lợi ích tư.

Thứ tư, vì những mục đích của nhóm thân hữu mà những cán bộ có quyền có thể quyết định cả những việc đi ngược lại lợi ích quốc gia, hủy hoại môi trường.

Do đó, đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là rất quan trọng đối với sự tồn vong của chế độ. Chính chủ nghĩa tư bản thân hữu đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 làm cho xã hội ở Thái Lan bị mất ổn định nghiêm trọng, còn chính quyền ở In-đô-nê-xi-a thì sụp đổ. Với mô hình thể chế ở ta, việc xây dựng một cơ chế giám sát hiệu quả là rất quan trọng, nó giúp kiểm soát được sự chi phối của "lợi ích nhóm", bảo đảm công bằng xã hội, cân đối được các nguồn lực và tạo cơ hội cho mọi thành phần kinh tế có môi trường, điều kiện phát triển như nhau. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã công khai hóa và nêu lên sự cần thiết phải đấu tranh với "lợi ích nhóm"-một cách gọi khác của chủ nghĩa tư bản thân hữu tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI). Trong thời gian qua, bằng Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", việc chống chủ nghĩa tư bản thân hữu dường như đã được phát động thành một "cuộc chiến". Liên tiếp các vụ án tham nhũng lớn được đưa ra xét xử, một số lãnh đạo, nguyên lãnh đạo ở các bộ, ngành, địa phương đã bị xử lý kỷ luật, thậm chí là cách chức. Cùng với đó, quy định về 19 điều đảng viên không được làm đã được hoàn thiện hơn, cụ thể hơn, trong đó đã nghiêm cấm cán bộ để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, nhận những dự án ở mảng lĩnh vực mình đang phụ trách để trục lợi ; 27 biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng-chính trị, đạo đức-lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ cũng đã được chỉ rõ. Điều này cho thấy quyết tâm và hành động ngày càng quyết liệt của Đảng trong việc làm trong sạch đội ngũ cán bộ.

Làm gì để ngăn chặn sự xâm lấn của chủ nghĩa tư bản thân hữu ?

Để chống những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản thân hữu, giữ vững định hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi, có lẽ cần phải lưu ý đến những vấn đề sau :

Thứ nhất, phải có cơ chế để khống chế quyền lực. Mà cơ chế để khống chế quyền lực có hiệu quả nhất là thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch để người dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ; khắc phục sự thiếu minh bạch trong chính sách, thông tin và cả trong hệ tiêu chí đánh giá, đo lường chất lượng, hiệu quả đầu tư ; tăng yêu cầu giải trình, sự phản biện và giám sát xã hội. Đồng thời, cần vận hành hiệu quả Luật Đầu tư công và làm rõ quyền tự chủ địa phương với yêu cầu quản lý nhà nước tập trung, thống nhất (đặc biệt là trong quy hoạch tổng thể chung và quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc thị trường).

Thứ hai, cần xây dựng một nhà nước pháp quyền mạnh, đồng thời nỗ lực cải cách hành chính. Pháp luật là tối cao, rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, đồng thời mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp, thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng. Bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi luật định, mọi công việc nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hình sự cụ thể, rõ ràng.

Kiểm soát chặt việc tự vay, tự trả của các doanh nghiệp nhà nước, các địa phương và cả khu vực tư nhân liên kết với các doanh nghiệp nhà nước hay bảo lãnh của Nhà nước. Công khai, minh bạch đầu tư công và các số liệu của các doanh nghiệp nhà nước để có giám sát từ cộng đồng, cùng phối hợp với giám sát của cơ quan nhà nước. Cần công khai việc công bố các dự thảo và văn bản chính thức luật lệ, quy định có liên quan đến người dân để nhân dân có thể đóng góp, hiểu rõ và thi hành đúng. Cần thi hành hệ thống thông tin điện tử thống nhất, dễ tra cứu về các thu, chi liên quan đến thu, chi ngân sách và đầu tư công trên internet để có thể theo dõi, giám sát.

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác thông tin. Chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính lại có vai trò nhạy cảm, quan trọng như hiện nay, cả trong phát triển, quản lý kinh tế. Trên cấp độ quốc gia, khi tình trạng các thông tin bất đối xứng, bị hạn chế, chậm trễ, thiếu thốn và thiếu chính xác càng nặng nề và phổ biến, thì căn bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ càng trầm trọng, kéo dài. Vì vậy, cần tăng cường và thể chế hóa các phát ngôn, cung cấp thông tin chính thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao định kỳ, không định kỳ của các cơ quan, đại diện nhà nước, các tổ chức kinh doanh có liên quan ; bảo đảm các biến động chính sách phải tường minh và có thể dự báo được trong xu hướng ổn định, nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị trường và yêu cầu cam kết hội nhập, các thông lệ thế giới cũng như các tín hiệu thị trường khách quan.

Thứ tư, cần đổi mới công tác cán bộ theo hướng đề cao quy chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu ; khắc phục tình trạng bổ nhiệm đúng quy trình hình thức nhưng không bảo đảm chất lượng cán bộ ; coi trọng phát hiện, đào tạo, sử dụng và tôn vinh người tài, đặc biệt là đối với những người đứng đầu đủ tâm và đủ tầm gánh vác trọng trách ; kiên quyết chống những biểu hiện tham nhũng trong công tác cán bộ cũng như thường xuyên phát hiện, xử lý, loại bỏ kịp thời những cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, vô trách nhiệm, mất uy tín và trở thành lực cản phát triển ; cần thường xuyên luân chuyển cán bộ, tái lựa chọn cán bộ, tránh để một cán bộ tồn tại ở một vị trí quá lâu.

Thứ năm, chủ động và không ngừng hoàn thiện cơ sở lý luận đường lối, pháp luật, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và đề án xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững. Nên xem xét cẩn trọng tính hợp lý của các quy hoạch, bởi có thể lẩn khuất trong đó những lợi ích nhóm, gây thiệt hại cho cộng đồng, cho đất nước.

Thứ sáu, coi trọng các nhân tố chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững. Cần đa dạng hóa các phương thức huy động và đầu tư (BOT, BT, PPP...) ; tích cực thu hồi, "bóc tách" và thương mại hóa những tài sản đất đai và bất động sản cùng các tài nguyên công cộng khác trên địa bàn bị chiếm hữu trái phép, sử dụng sai mục đích, quá tiêu chuẩn hoặc không hiệu quả… để đưa vào thị trường vốn.

Do lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị từ việc cố kết với nhau giữa các cá nhân có tiền, có quyền trong xã hội, nên việc "hóa giải" những cản trở cho phát triển đất nước là điều không hề đơn giản. Vấn đề là chúng ta có thật sự quyết tâm, từ đó có những giải pháp phù hợp, thực hiện quyết liệt để chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu vì sự tồn vong của chính chúng ta hay không. Chống chủ nghĩa tư bản thân hữu, chống "lợi ích nhóm" là để kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện đúng tính chất của nó. Đó là phát triển kinh tế theo quy luật của kinh tế thị trường-một thành tựu của nhân loại, đồng thời thành quả của phát triển được phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích của xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rất phù hợp trong giai đoạn hiện nay để tiến tới đạt được mục tiêu lớn của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội phát triển và hạnh phúc.

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng,

Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong,

Hoàng Gia Minh,

Hồ Quang Phương

Published in Diễn đàn