Thông Luận

Cơ quan ngôn luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Những người đứng đầu nhà nước Việt Nam là những người giàu mơ ước. Họ mơ ước Sài Gòn trở thành Paris, Hà Nội trở thành Singapore, Nha Trang trở thành Hawaii, Cần Thơ trở thành Venise… Và mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã mơ ước Việt Nam là bạn "của những người giỏi nhất". Liệu ước mơ này có trở thành sự thật ?

chim1

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc : "Việt Nam không đặt tham vọng là người giỏi nhất, nhưng muốn là bạn của những người giỏi nhất trong nền kinh tế toàn cầu".

"Việt Nam không đặt tham vọng là người giỏi nhất, nhưng muốn là bạn của những người giỏi nhất trong nền kinh tế toàn cầu", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu như vậy tại Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam (VBS) 2018 ngày 13/9 (1).

Thủ tướng Phúc đã không đưa ra tiêu chí thế nào là người giỏi nhất khi mà người giỏi trộm cắp, người giỏi lừa đảo, người giỏi cờ bạc, người giỏi đâm chém, người giỏi chém gió... đều được hiểu là người tài giỏi. Nếu xác định "người giỏi nhất" theo tiêu chí là người có tài kinh doanh, người có nhiều ý tưởng, nhà quản trị và điều hành giỏi, chuyên gia giỏi, người có khả năng sáng tạo và phát minh…, liệu nhà nước Việt Nam có trở thành người bạn tốt của "những người giỏi nhất", hay nói cách khác, có thu hút được nhân tài của thế giới ? Hãy ngược dòng lịch sử !

Ngay sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã dùng nhiều giải pháp để lôi kéo đội ngũ trí thức đứng vào hàng ngũ của mình. Nhiều trí thức người Việt sống ở nước ngoài vốn không hiểu chủ nghĩa cộng sản đã nhanh chóng gia nhập, trong đó có những trí thức lừng danh như Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo.

Ngoại trừ kỹ sư chế tạo vũ khí Trần Đại Nghĩa có phần nào phát huy được phẩm chất kỹ thuật, đa phần các trí thức khác đều bị thui chột tài năng, và sống một cuộc sống đầy u uẩn. Triết gia Trần Đức Thảo là một thí dụ điển hình. Nhiều trí thức tài hoa đi theo Việt Minh cũng nhanh chóng bỏ ngũ, mà sự "dinh tê" (về thành phố, về vùng Pháp đóng) của nhạc sĩ Phạm Duy là một ví dụ sinh động. Có thể nói trong giai đoạn 1946-1953, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không thất bại nhưng cũng chẳng thành công trong việc thu hút nhân tài.

Mọi chuyện bắt đầu khác đi, hay nói cách khác, chính quyền Hà Nội kể từ ngày trở thành ông chủ của Hà Nội vào năm 1954 đã nhận thất bại trong việc chiêu dụ và giữ chân nhân tài.

Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, đã có khoảng một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam, trong đó có gần 310.000 người được đưa đến miền Nam bởi Hải quân Hoa Kỳ, và 500.000 dân được đưa đến miền Nam bởi quân đội Pháp. Trong khi đó 14.000–45.000 cư dân và 100.000 binh sĩ chính quy của Việt Minh từ miền Nam tập kết ra miền Bắc. Sự chênh lệnh về số lượng người lựa chọn di cư chắc chắn phản ánh một điều rằng, có sự chênh lệch về sự lựa chọn di cư của tầng lớp tinh hoa.

Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, vào cuối năm 1954, cả miền Bắc có 1.800 sinh viên nhưng đã có 1.200 sinh viên lựa chọn di cư vào miền Nam. Đa phần các trí thức miền Bắc vốn yêu thích văn hóa Pháp cũng chọn con đường Nam tiến để tìm đến bến bờ mới. Có thể nói, kể từ năm 1955, miền Bắc chỉ có tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa có đặc tính tuân theo, thụ động, không phản biện và không có tư duy sáng tạo.

Cũng từ năm 1955 trở đi, trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã có hàng trăm trí thức và văn nghệ sĩ đã bị cầm tù, cải tạo, giam giữ do có những tiếng nói khác với tiếng nói của chính quyền. Trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền, giới trí thức và văn nghệ sĩ đành phải chôn mình vào sự cô đơn như những con ốc mượn hồn.

Không có tầng lớp trí thức đúng nghĩa, không có tầng lớp doanh nhân tinh hoa đúng nghĩa, trong suốt hàng chục năm trời miền Bắc đã không cho ra đời một sản phẩm có uy tín.

Còn ở miền Nam Việt Nam thì sao ? Có thể nói đó là nơi hội tụ tinh hoa Việt để làm nên những giá trị và thành tựu khá rực rỡ. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là minh chứng rõ nét. Vị giáo sư không gian này sinh ra ở Yên Bái nhưng đã lựa chọn miền Nam tự do làm quê hương chính. Ông được cả thế giới khoa học không gian biết đến và ngưỡng mộ khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền Apollo của NASA. Những lý thuyết của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền Con thoi trở về trái đất an toàn.

Có đội ngũ trí thức giỏi, Việt Nam đã sản xuất được những sản phẩm công nghệ cao dù ngập tràn binh lửa. Vào năm 1972, Sài Gòn chế tạo thành công máy bay huấn luyện quân sự hai chỗ ngồi mang tên Tiền Phong 001. Vào năm 1974, Sài Gòn cho xuất xưởng mẫu xe hơi La Dalat. Trước năm 1975, miền Nam có những thương hiệu và nhãn hàng nổi tiếng Châu Á như xà bông Cô Ba, kem đánh răng Hynos (sau đó đổi tên thành P/S và đã bán lại cho một hãng Mỹ), dầu gió Nhị Thiên Đường, sơn Đông Á, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín, dầu gội Lan Hảo, kem đánh răng Dạ Lan….

Sau biến cố 30/4/1975, Việt Nam được thống nhất. Nhưng các chính sách tàn bạo và sai lầm của Hà Nội như chính sách cải tạo (thực chất là tù không án) đối với quân nhân và viên chức Việt Nam Cộng Hòa, chính sách cải tạo công thương nghiệp (thực chất là quốc hữu hóa), thay thế các chuyên gia giỏi bằng những người tầm thường trưởng thành từ rừng rú… đã nhanh chóng biến miền Nam thịnh vượng thành một miền Nam tan hoang.

Từ năm 1976 đến năm 1989, có khoảng 1,5 triệu người Việt Nam, trong đó có tầng lớp tinh hoa nhất, đã bỏ nước ra đi để tìm đến bến bờ mới dù biết có thể phải bỏ mạng trên biển cả. Cuộc di cư đau đớn nhất trong lịch sử nhân loại đã làm nảy sinh một từ vựng mới đau lòng : thuyền nhân. Trong thời gian đó, ở Việt Nam xuất hiện hai câu thơ khuyết danh tác giả nhói lòng : "Người tài thì đã vượt biên- ở lại một lũ vừa điên vừa khùng".

Sau khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế vào năm 1986, Việt Nam cũng thất bại trong việc thu hút nhân tài từ nước ngoài và giữ chân người giỏi trong nước. Cho dù được ưu đãi về các loại thuế và giá thuê đất, không có một hãng công nghệ nào đặt đại bản doanh hoặc cơ sở nghiên cứu tại Việt Nam. Khu công nghệ cao Hòa Lạc hay khu công nghệ cao quận 9- Sài Gòn vẫn chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp trong nước, và những tay chơi nước ngoài có vị thế làng nhàng. Không có trường đại học danh tiếng nào của thế giới mở cơ sở nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam, và dĩ nhiên là không có một đội ngũ giáo sư người nước ngoài ở sống, nghiên cứu và giảng dạy chuyên nghiệp ở Việt Nam. Các trí thức Việt kiều cũng không chọn Việt Nam là điểm đến để sống, lao động, sáng tạo và cống hiến.

Những giáo sư lừng danh như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn... cũng chọn con đường định cư ở nước ngoài để có điều kiện cống hiến cho khoa học và cho sự tiến bộ của nhân loại. Hiện tại, mỗi năm có hàng chục ngàn du học sinh Việt Nam vẫn chọn con đường ở lại nước ngoài để có cơ hội tốt hơn. 100% người chiến thắng cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia của Đài truyền hình Việt Nam sau khi tốt nghiệp đại học ở Úc đã ở lại Úc để làm việc. Họ hiểu, họ chỉ phát huy được năng lực và trí tuệ của mình ở một môi trường khác hẳn Việt Nam.

Việt Nam chưa bao giờ thu hút được người giỏi, người tài trong tất cả mọi lĩnh vực. Tại sao lại thế ? Có thể người giỏi của thế giới sợ hãi một Việt Nam có giao thông lộn xộn ? Có thể họ sợ Việt Nam có môi trường ô nhiễm, thực phẩm độc hại ? Có thể là thế, nhưng chưa đủ.

Điều quan trọng nhất, những người giỏi, người tài cần có tự do tuyệt đối để thể hiện, để khẳng định mình và để sáng tạo. Nhưng ở Việt Nam, tự do là một món hàng xa xỉ. Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do sáng tạo, tự do học thuật, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do xuất bản, tự do biểu diễn... những tiền đề nền móng cho sáng tạo. Không có sáng tạo, người giỏi, người tài không thể hiện được mình, và họ cùn mòn đi. Và dĩ nhiên, khi không có sáng tạo, đất nước sẽ không theo kịp bước tiến thần tốc của kỷ nguyên số, đất nước mãi mãi rơi vào bế tắc và đói nghèo.

Người tài giỏi bao giờ cũng tìm đến những xứ sở tự do, hay nói cách khác, môi trường tự do luôn có sức hấp dẫn với những người tài giỏi. Không phải ngẫu nhiên mà các cường quốc như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, New Zealand... luôn luôn là những đích đến của những người thông minh và tài giỏi.

Nếu "muốn làm bạn với những người giỏi nhất", Việt Nam phải xây dựng bằng được một thiết chế xã hội thật sự tự do và các khung pháp lý để bảo vệ tự do. Chim bao giờ cũng đến đậu ở những mảnh đất hiền lành, không bao giờ đậu ở những mảnh đất đầy rẫy cạm bẫy và cấm đoán.

Tam Don

Nguồn : VNTB, 24/09/2018

(1) https://vnexpress.net/tin-tuc/wef-asean/phat-bieu/thu-tuong-viet-nam-muon-lam-ban-voi-nhung-nguoi-gioi-nhat-3808776.html

Published in Diễn đàn
vendredi, 03 mars 2017 16:13

Một mảnh đất lành

Tôi thấy lũ trẻ "phượt" ào ào nên cũng vội vã phóng theo (chớ ở nhà hoài buồn quá) dù chả có chút ý niệm gì, về những nẻo đường sắp tới.

Đi đâu đây cà ?

datlanh1

Hàng quán san sát, thức ăn ê hề, rẻ rề, ngon miệng

Ngần ngừ chút xíu rồi tôi quyết định là mình nên khởi sự bằng cách trở lại một chốn đã quen – Thái Lan – nơi mà tôi bắt đầu cuộc đời tị nạn, gần bốn mươi năm trước !

Vì không biết rằng tiếng anh có từ ngữ "guest house" nên tôi gu gồ (đại) "bangkok hotel" và tìm ra một cái khách sạn, ở giữa thủ đô, với giá 40 USD mỗi ngày. Kể cũng chả mắc mỏ gì, nếu so với loại phòng bình dân ở California.

Ngủ qua đêm, sáng hôm sau đi lơn tơn mới thấy trên cùng một dẫy phố nhưng có rất nhiều nhà trọ mà chỉ phải trả 18 Mỹ Kim hà. Thế là tôi lật đật xách ba lô, chạy sang chỗ mới.

Qua đêm sau nữa, tôi "khám phá" ra rằng không chỉ ở mặt tiền mà trong những con hẻm (lủa tủa) hai bên cũng có cả đống guest house. Giá cả, tất nhiên, nhẹ nhàng hơn thấy rõ : mười hai đô la chẵn. Còn nếu "chịu" ở chung (ở dorm) với vài ba mạng nữa thì chỉ nửa giá đó thôi – breakfast included !

Tôi "chịu" liền. Tưởng gì chớ "chung đụng" thì có hề chi. Số trại lính, trại tù, trại cải tạo, trại tị nạn... mà tôi từng sống qua – trên những cái giường đôi – nếu chỉ tính bằng đầu ngón tay, không kể ngón chân, dám thiếu !

Thêm vài ba bữa, sau khi la cà với một mớ đồng hương (mấy anh chị tị nạn, cùng với những em nhỏ chạy bàn, phụ hồ, bán kem, bán nước dừa, bán trái cây...) tôi được cho hay là có rất nhiều cao ốc, ở ngoại ô Bangkok, phòng thuê hàng tháng chưa tới ba ngàn tiền baht – tròm trèm chỉ cỡ 100 USD thôi – tính luôn wifi và điện nước.

Loại chung cư này thường cao tới bẩy tám tầng, nằm cạnh bên nhau, tạo nên những con hẻm nhỏ song song, vô cùng xầm uất. Hàng quán san sát, thức ăn ê hề, rẻ rề, ngon miệng, và chưa nghe có ai bị ngộ độc phải vô nhà thương hết trơn hết trọi. Vào giờ cao điểm, xe cộ – đôi khi – phải di chuyển cùng với tốc độ của... khách bộ hành nhưng không nghe tiếng còi và cũng không có tiếng người chèo kéo/mời mọc hay cãi cọ gì ráo trọi.

Tôi dọn vô thử. Ở tuốt trên tầng sáu. Tuy thang máy chậm, phòng hơi chật và hành lang hơi tôi tối nhưng sạch sẽ, và yên tĩnh đến không ngờ. Cũng như người Lào, người Thái không ồn. Tiếng duy nhất mà tôi nghe suốt ngày, từ sáng sớm đến chiều, chỉ là tiếng chim thôi.

datlanh2

Ảnh chụp tháng hai 2017

Dân Thái tin rằng chim chóc mang lại điềm lành nên để chúng được sống hoàn toàn tự do, và tha hồ ca hót. Nhiều loại chim lắm. Có con líu lo, có con rủ rỉ, có con tíu tít không ngừng nhưng tôi nhận ra ngay tiếng ríu rít quen thuộc của những con se sẻ.

 Loài chim này có lẽ hiện diện khắp địa cầu. Tiếng kêu thân quen của chúng, trong những lùm cây, vào lúc chiều tàn, đã nâng đỡ cho tâm hồn đa cảm và yếu ớt của tôi – không biết bao lần – suốt cả cuộc đời lưu lạc. Cứ nghe se sẻ huyên náo chuyện trò là tôi lại trạnh nhớ tiếng chim ngày cũ, dù bao kỷ niệm (không mấy êm đềm) đều đã phôi pha.

Từ một trại cải tạo heo hút, tôi nhận được giấy "tạm tha" cho trở về nhà, vào năm 1978. Mùa mưa nào mà Đà Lạt chả buồn nhưng mùa mưa năm ấy, tôi không chỉ buồn mà còn đói nữa. Ở tù bị đói, đã đành ; ở nhà, ai ngờ, cũng đói !

Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi không biết làm chi với cuộc đời mình nên đành chỉ nằm nghe mưa và chờ nắng. Mong có chút xíu nắng thôi cho trời bớt lạnh, cho bầy se sẻ túa lên mái nhà (âu yếm rỉa lông, rỉa cánh cho nhau) và tíu tít mừng vui, đón chào nắng ấm.

Đà Lạt hay có những cơn bão rớt, và những trận mưa dầm dề lê thê kéo dài cả tuần chứ không phải cả ngày. Tuy thế, vẫn có những lúc mặt trời cũng lấp ló ở một nơi nào đó. Nắng cũng làm sáng, và làm ấm phố phường đôi chút nhưng tiếng chim kêu rộn ràng (như những ngày xưa cũ) thì không còn nữa.

Thỉnh thoảng mới có tiếng kêu thương lạc lõng của một con chim se sẻ, trên mái ngói, rồi tiếng đáp trả nho nhỏ buồn buồn (nghe cũng cô đơn và não lòng không kém) từ một căn nhà xa xa nào đó. Cả một dãy phố mà dường như chỉ còn sót vài đôi chim bé bỏng thôi.

Cái đói của chính mình giúp cho tôi đoán được chuyện gì đã xẩy ra cho loài chim này trong mấy năm qua. Sự khắc nghiệt của chế độ hiện hành, hoá ra, không chỉ ảnh hưởng riêng chi đến con người.

Tôi không hiểu là loài se sẻ chết dần vì đói, hay chúng rời đi đến một phương trời nào khác, bỏ tôi ở lại với đói lạnh và buồn. Buồn quá, tôi cũng đi luôn và chưa bao giờ lần dò trở về chốn cũ.

datlanh3

Ảnh chụp tháng hai 2017

Gần nửa thế kỷ đã qua, không biết bây giờ thì bầy sẻ nhỏ ra sao nhưng đồng bào hay đồng hương của tôi thì vẫn vậy – vẫn cứ tiếp tục ra đi bằng mọi giá và mọi cách. Từ Việt Nam, luật sư Võ An Đôn mới buồn bã cho hay :

Tôi vừa nhận được tin gia đình chị Trần Thị Thanh Loan, Trần Thị Lụa và Trần Thị Phúc đang trên đường vượt biên từ Việt Nam qua Úc bằng đường biển, hiện tại ghe chở người vượt biên đã qua khỏi lãnh hải Indonesia, tiến vào hải phận nước Úc.

Cả 3 gia đình trước đây đã một lần vượt biên qua Úc, bị trả về Việt Nam 7/2015. Tòa án tỉnh Bình Thuận phạt tổng cộng hơn 6 năm tù giam về tội "Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép". Cụ thể : chị Loan 36 tháng tù giam, anh Hồ Trung Lợi (chồng chị Loan) 24 tháng tù giam, chị Lụa 30 tháng tù giam. Riêng anh Lợi đang chấp hành hình phạt tù được 20 tháng, chị Loan và chị Lụa được hoãn chấp hành hình phạt tù 1 năm, đến tháng 7/2017 thì đi tù.

Nếu lần vượt biên này bị Úc trả về thì chị Loan sẽ đối mặt với bản án 7 năm tù giam và chị Lụa 6 năm tù giam (cộng bản án cũ và bản án mới).

Qua điện thoại chị Loan và chị Lụa cho biết : Nếu lần vượt biên này chính phủ Úc không nhận hai chị tị nạn mà trả về nước, thì hai chị sẽ nhảy xuống biển tự tử, chứ không bao giờ chịu trở về Việt Nam lần thứ 2.

Cầu mong cho ba gia đình thượng lộ bình an và sớm đến được bến bờ tự do !

Ủa, chớ "bến bờ tự do" có gì quyến rũ mà dân Việt – từ thế hệ này sang thế hệ khác – cứ mãi khát khao đi tìm mãi thế ? Tôi đang sống ở Thái Lan, một đất nước "tự do" đây, có thấy chi hấp dẫn lắm đâu ?

Chả qua chỉ là một căn phòng nho nhỏ, vừa đủ cho đôi vợ chồng son, với những tiện nghi căn bản – trong một khu chung cư ở ngoại ô – mà số tiền phải trả hàng tháng chỉ bằng một phần tư lợi tức của một người công nhân, dù với đồng lương tối thiểu.

Nơi đây, tuy phần lớn chỉ là những người lao động có lợi tức thấp nhưng đời sống riêng tư của họ được tôn trọng hoàn toàn và tuyệt đối. Không có ông công an khu vực, bà tổ trưởng dân phố, hay chị hội trưởng phụ nữ (dấm dớ) nào lai vãng cả ! Cũng chả thấy bóng dáng đám công an giao thông, cảnh sát cơ động, hay lực lượng dân phòng lảng vảng (xớ rớ) kiếm ăn ở chung quanh !

Dọc theo mấy dẫy chung cư là một dòng sông nhỏ, nước tuy bẩn nhưng cá vẫn còn sống được. Kiên nhẫn ngồi câu, chừng hai ba tiếng, cũng chỉ kéo được hơn chục chú cá rô con.

Phần lớn bờ sông là đất trống, bỏ hoang, mọc tá lả đủ thứ loại trái cây thông thường của vùng nhiệt đới : vú sữa, mít, ổi, chuối, xoài, mãng cầu, đu đủ ... Với tay phía nào cũng có thể bẻ được một chùm tầm ruột, vừa mới chín hườm hườm, hay một quả khế (không biết chua/ngọt) vàng ươm.

Bên kia bờ sông – đôi chỗ – cũng thấy nhô lên một toà biệt thự kín cổng, cao tường. Còn phần lớn đều chỉ là những căn nhà nhỏ, vách ván đơn sơ, sắc mầu lộn xộn. Từ ngoài nhìn vào cũng có thể thấy hết đồ vật luộm thuộm bên trong : giường tủ, ghế bàn, tuyềnh toàng, cũ kỹ.

Cái nghèo cũng được bầy ra qua những mâm cơm chiều thanh đạm, dọn ngay trước sân nhà : cá khô, rau luộc, rổ đậu, đĩa trứng chiên nhỏ xíu, và mấy xâu thịt nướng mỏng tang, cùng vài chai bia (hoặc rượu) địa phương – met dze in Thai.

Tuy thế, trông người Thái nào tôi cũng cảm được là họ đang sống rất bình an. Nỗi an bình của một của cả một dân tộc chưa từng "dám" đánh thắng một đế quốc to nào ráo, đế quốc nhỏ cũng chưa !

Dân Thái – chắc chắn – chưa bao giờ nghe nói đến những thứ (thổ tả) đại loại như chủ nghĩa mác xít lê nin nít vô địch muôn năn, cải cách ruộng đất, hợp tác xã, đánh công thương nghiệp, đổi tiền, vượt biên, trại cải tạo, nợ công, lạm phát, vỡ qũi bảo hiểm xã hội, sự cố môi trường biển, Hội Nghị Thành Đô ...

Cộng lại tất cả những cái "chưa" này của dân tộc Thái Lan thì thành một giấc mơ xa vời (và mỗi lúc một thêm xa) của người dân Việt !

Tưởng Năng Tiến

Nguồn : RFA, 02/03/2017 (tuongnangtien's blog)

Published in Văn hóa