Sự trổi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn, và có thể nói lớn nhất, đối với Hoa Kỳ nói riêng, và trật tự thế giới hiện nay nói chung, trong nửa đầu thế kỷ này. Nhưng Hoa Kỳ có nên quá lo lắng để rồi đề ra các chiến lược đối phó với Trung Quốc thiếu hiệu quả và viễn kiến, hoặc phản tác dụng, hoặc nguy hiểm cho an ninh và hòa bình của nhân loại, là nội dung bài viết mới nhất của học giả Fareed Zakaria trên tạp chí Foreign Affairs (1). Zakaria hiện nay cũng là người điều hợp chương trình Global Public Square (GPS) trên CNN.
Zakaria công nhận Trung Quốc là nước đáng quan ngại trước những bằng chứng quá rõ ràng, đặc biệt trong 5 năm qua
Với tựa đề "Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới" (The New China Scare) đăng vào hôm qua 6 tháng 12, các lập luận của Zakaria mang đặc tính của người cổ võ và tin tưởng vào chủ nghĩa quốc tế cấp tiến (liberal internationalism, mặc dầu Zakaria phủ nhận là ông đứng hẳn về một xu hướng chính trị nào) : lạc quan, thực tế, và ôn hòa. Dù đồng ý hay không với Zakaria, những bài viết, phát biểu, tranh luận, điều hợp chương trình, và sách báo nghiên cứu của ông trong ba thập niên qua đáng để cho chúng ta tìm hiểu và suy ngẫm.
Bài viết này khá dài, nhưng tôi xin trình bày ba luận điểm chính của Zakaria để tóm tắc vào các ý tưởng đáng chú ý nhất : Mối lo ngại ; cách (nên) đánh giá ; cách đối phó.
Về mối lo ngại đối với Trung Quốc
Trước hết Zakaria công nhận Trung Quốc là nước đáng quan ngại trước những bằng chứng quá rõ ràng, đặc biệt trong 5 năm qua, qua các chính sách phi cấp tiến (illiberal policies) : từ việc cấm tự do ngôn luận đến quản thúc thiểu số sắc tộc tôn giáo ; từ việc gia tăng kiểm soát chính trị đến thực hiện nhà nước kinh tế (economic statism) ; ngoài nước, Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh, và có những nơi, là địch thủ của Hoa Kỳ. Chính vì thế mà lưỡng đảng, giới thành trì quân sự, các cơ quan truyền thông chính yếu tại Hoa Kỳ, hầu như đồng thuận với nhau rằng Trung Quốc hiện nay là mối đe dọa sống còn (vital threat) đối với Hoa Kỳ về kinh tế và chiến lược, và Washington cần có một chiến lược cương trực hơn để ngăn chặn Trung Quốc. Ngay cả người dân Hoa Kỳ, chiếm tỷ lệ 60 phần trăm, cũng có quan điểm không thuận đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.
Nhưng Zakaria đặt vấn đề là liệu các dữ kiện/sự thật nói trên có làm cho Trung Quốc trở nên mối đe dọa sống còn, và nếu là như thế thì mối đe dọa này nên được xử lý ra sao ? Lý do là vì nếu không đánh giá đúng mối đe dọa thì hệ quả của nó rất là tai hại, như đã từng thấy trong thời Chiến tranh Lạnh với Liên Xô đưa đến sự lạm dụng tai hại bởi Thượng nghị sĩ McCarthy ; đưa đến cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân v.v… Zakaria cho rằng chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể kéo dài hơn, tốn kém hơn, có khả năng tạo ra kết quả bất định. Hơn nữa, chiến tranh, từ chiến tranh Korea, đến Việt Nam, đến Afghanistan và Iraq, khi đã vào cuộc, thì sự ủng hộ của dân chúng Mỹ ngày càng suy giảm, để rồi sau đó hầu như mọi người đều đi tìm chiến lược rút lui (exit strategy), mà Henry Kissinger từng nhận xét.
Cho nên để tránh con đường mòn này, Hoa Kỳ cần dành thời gian để phân tích kỹ càng những giả định đằng sau sự đồng thuận mới về Trung Quốc. Zakaria liệt kê ba giả định rộng : một, chính sách tiếp cận/kết nối (engagement) đã thất bại vì nó không "chuyển hóa sự phát triển bên trong và cách hành xử bên ngoài của Trung Quốc" ; hai, chính sách ngoại giao của Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền lợi của Hoa Kỳ nói riêng và trật tự quốc tế cấp tiến nói chung mà Hoa Kỳ đã góp phần xây dựng sau năm 1945 ; ba, một chính sách tích cực đối đầu với Trung Quốc sẽ phản công lại mối đe dọa này tốt hơn là phương cách đã áp dụng trước đây. Zakaria phê bình cả ba giả định này.
Về cách đánh giá mối lo ngại này
Sự đồng thuận lưỡng đảng tại Hoa Kỳ được hình thành đối với những thay đổi đáng kể và những quan ngại về Trung Quốc. Tuy Zakaria đồng ý rằng Trung Quốc ngày càng tham vọng và quả quyết hơn, và biết kết hợp sự đàn áp chính trị với chính sách tuyên truyền mang đặc tính dân tộc chủ nghĩa thời Mao, nhưng để có một phản hồi hiệu quả đòi hỏi sự nhận thức rõ ràng về các chiến lược của Hoa Kỳ từ đó đến nay.
Zakaria cho rằng gần 5 thập niên qua, chiến lược của Hoa Kỳ từ thời của Richard Nixon đến nay không chỉ thuần tiếp cận (engagement) mà còn mang tính ngăn cản (deterrence). Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1970 kết luận rằng kết nạp Trung Quốc vào hệ thống chính trị và kinh tế quốc tế có lợi hơn thay vì để nó nằm ngoài, như thế làm cho nó bực bội và quậy phá. Cho nên Washington vừa ủng hộ Trung Quốc gia nhập vào cộng đồng quốc tế, đồng thời tiếp tục ủng hộ các quyền lực khác tại Á châu, kể cả việc bán vũ khí cho Đài Loan. Chủ trương/phương thức này còn được gọi là chiến lược phòng ngừa rủi ro (hedging strategy, để bảo vệ ngược lại các thiệt thòi bằng các biện pháp cân bằng).
Zakaria biện luận Washington làm như thế vì muốn quyền lực của Trung Quốc được kiểm soát và các quốc gia láng giềng cảm thấy an toàn. Zakaria cho rằng chiến lược/chủ trương này tiếp tục được các tổng thống kế nhiệm của cả hai bên duy trì. Zakaria biện luận nếu nói chiến lược này thất bại thì là thiếu cái nhìn lịch sử. Zakaria đưa ra bao nhiêu bằng chứng khác nhau từ trước khi Hoa Kỳ tiếp cận với Trung Quốc, mà Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông là một chế độ thối nát nhất, cho đến nay thì nó đã là một quốc gia có trách nhiệm hơn nhiều. Chẳng hạn, từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc đã ủng hộ182 trên 190 nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy tắc hoặc chuẩn mực quốc tế.
Về lĩnh vực kinh tế thôi, thì cách hành xử của Trung Quốc như chuyển giao công nghệ mang tính bắt buộc, thực hành thương mại không công bằng, tiếp cận hạn chế cho các công ty nước ngoài, thiên vị quy định cho người dân địa phương, thì theo Zakaria, cũng bằng Nhật Bản vào thập niên 1980 và 1990. Nhưng khi sự tăng trưởng tại Nhật giảm dần, những nỗi sợ hãi quá thái này cũng giảm xuống.
Tất nhiên, cách mà Tập Cận Bình quyết tâm sử dụng vai trò của nhà nước để chiếm vị thế áp đảo về kinh tế trong các địa hạt quan yếu sẽ đưa đến những thách thức mới. Nhưng theo Zakaria thì ưu thế lớn nhất của Trung Quốc không đến từ sự sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà từ chính tầm vóc của nó. Thật ra thì những quốc gia có ảnh hưởng nào mà không làm thế. Ngay cả Hoa Kỳ là quốc gia đứng đầu danh sách sử dụng các rào cản không dựa vào thuế quan (nontariff barriers) trong thương mại với các nước khác, rồi đến Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc đứng thứ 5. Đặng Tiểu Bình chủ trương "dấu sức mạnh, chờ thời gian", nhưng lúc đó Trung Quốc chỉ chiếm 1 phần trăm tổng sản lượng toàn cầu. Bây giờ chiếm 15 phần trăm. Trong vòng 10 đến 15 năm, nó sẽ có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất về mọi mặt. Khi càng lớn mạnh nó càng muốn thêm quyền lực, kiểm soát và ảnh hưởng, muốn đóng vai trò lớn hơn trong vòng và toàn cầu. Cho nên Zakaria cho rằng việc Trung Quốc trước sau gì cũng tìm kiếm một biện pháp ảnh hưởng độc lập lớn hơn là kết quả tự nhiên. Cho nên Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước khác cần ghi nhận như thế.
Zakaria biện luận nếu Washington định nghĩa mọi nỗ lực của Trung Quốc là nguy hiểm, nó sẽ thiết kế để Hoa Kỳ chống lại sự năng động tự nhiên trong quan hệ quốc tế, điều mà học giả Graham Allison gọi là bẫy Thucydides (the Thucydides trap). Đối phó với một quyền lực đang trổi dậy có khả năng đe dọa tư thế của mình kể từ năm 1945 là một thách thức mới và độc nhất kể từ năm 1945 cho đến nay.
Tóm lại, Zakaria kết luận rằng Trung Quốc đã hành động theo những cách được xem là can thiệp (interventionist), theo chủ nghĩa trọng thương và đơn phương (mercantilist and unilateral), nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường quốc khác. Tuy sự xâm phạm nhân quyền của Trung Quốc là một thách thức lớn đối với nhân loại, và có thể đe dọa các khía cạnh của trật tự quốc tế cấp tiến, nhưng theo Zakaria, chỉ nội điều này thôi thì không nên xem là mối đe dọa sống còn đối với hệ thống quốc tế rộng mở dựa trên quy tắc.
Về chiến lược đối phó với mối lo ngại này
Zakaria phê bình các chiến lược đối phó với Trung Quốc, nhất là chiến lược ngăn chặn (containment), tách rời (decoupling), xu hướng chống lại toàn cầu hóa, và cho rằng nó sẽ đưa đến nhiều thiệt hại và phí tổn đáng kể, kể cả các chính sách của chính quyền Trump trong thời gian qua (tuy Zakaria có đánh giá rằng chủ trương tách rời để tạo thế tương thuộc/interdependence là thông minh vì nó giúp Hoa Kỳ có ưu thế so với Trung Quốc).
Zakaria biện luận rằng "Một trật tự quốc tế bị bể gẫy, chia đôi, được đánh dấu bởi các hạn chế của chính phủ và thuế đối với thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn dai dẳng và triển vọng xung đột quân sự thực sự đối với tất cả những người liên quan".
Thay vì chọn các giải pháp trên, Zakaria cho rằng một chính sách thông thái hơn là biến Trung Quốc thành đối tác có trách nhiệm (responsible stakeholder), vì vẫn còn có thể thực hiện được (2). Zakaria liệt kê một loạt hành động mà Washington nên làm để Bắc Kinh hành xử có trách nhiệm hơn, như khuyến khích tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh mạnh mẽ hơn trong vùng và xa hơn nếu nó được sử dụng để củng cố hệ thống quốc tế. Nỗ lực tham gia của Trung Quốc để giải quyết nạn hâm nóng toàn cầu, lan rộng vũ khí hạt nhân, rửa tiền và khủng bố thì nên được khuyến khích và trân trọng. Điều quan trọng nhất là Washington cần cho Bắc Kinh biết lập trường rõ ràng của mình về những lằn ranh mà Bắc Kinh không thể vượt qua. Chẳng hạn, Washington nên cho biết rõ ràng rằng các chiến thắng của Bắc Kinh bằng quân sự lên Đài Loan và Hồng Kông sẽ gặp sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động nguy hiểm không cân nhắc tại Hồng Kông hoặc Đài Loan, thì chính sách hợp tác của Hoa Kỳ sẽ không thể thực hiện được trong nhiều năm. Zakaria biện luận Bắc Kinh đã hưởng lợi nhiều, đã phát thịnh trong thế giới mở và ổn định. Họ không muốn tàn phá thế giới này.
Zakaria kết luận bài viết bằng cách phê bình tác phẩm của "100 năm chạy đua" của Michael Pillsbury mà chính quyền Trump đã khen ngợi. Zakaria phản biện nếu cho rằng đây là cuộc chạy đua đường trường, từ đồng minh của Liên Xô đến sự rạn nứt sau đó, từ Bước Nhảy vọt Vĩ đại đến Cách mạng Văn hóa đến câu chuyện thành công trên con đường tư bản, từ sự thù nghịch sâu đậm với Tây phương cho đến quan hệ thân thiết với Hoa Kỳ, rồi trở lại thái độ thù nghịch v.v… thì nhiều trong số đó có thể kết thúc hoàn toàn (tức không thể gọi là đua đường trường). Theo Zakaria thì Hoa Kỳ nên tiếp tục chính sách tiếp cận cộng với ngăn cản, bắt Trung Quốc phải điều chỉnh trong khi Hoa Kỳ cũng tự điều chỉnh mình để tạo không gian cho nó, thì chiến lược chạy đua này sẽ đạt kết quả.
Vài suy nghĩ ngắn
Bài viết trên của Zakaria có nhiều luận điểm khá thuyết phục, và chắc chắn sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ, và sẽ gây lắm tranh cãi. Tạo được sự quan tâm và tranh luận đã là một phần thành công của tác giả.
Nhưng để đánh giá Trung Quốc cho chính xác hơn thì cần phải phân tích vai trò của Đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, Zakaria không phân tích nó trong bài này, và khi nhắc đến trong bài về phát biểu của Ngoại trưởng Mike Pompeo tại viện Hudson (mà Michael Pillsbury làm giám đốc) thì chủ yếu để bác bỏ cái nhìn này. Những nhà phân tích khác nhưJohn Garnaut, Michael Pillsbury, Richard McGregor, chẳng hạn, đều hiểu Tập Cận Bình là sự sống và tâm hồn của Đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay, và Đảng là tất cả trong mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v.v… tại Trung Quốc. Các tác giả này đều nghiền ngẫm sâu sắc những tài liệu mật của Đảng. 12 chiến lược bao vây Trung Quốc của tiến sĩ Pillsbury trên bình diện rộng cũng không đi ngược lại cách nhìn vấn đề của Zakaria (Nên nhớ nội dung của tác phẩm quan trọng hơn là tựa đề của tác phẩm).
Cho nên để đánh giá cho gần sự thật hơn, nhất là với các chế độ cộng sản, thì cần phải có thông tin tình báo, cần tiếp cận những bí mật mà những nghiên cứu học thuật với cặp mắt bình thường không thể nhìn thấy tường tận vấn đề và không thấy bức tranh tổng thể. Đây cũng là một thiếu sót lớn của bài này.
Phạm Phú Khải
Nguồn : VOA, 11/12/2019
********************
(1) Nỗi sợ hãi Trung Quốc mới - Tại sao Mỹ không nên hoảng sợ về kẻ thách thức mới nhất của mình
Fareed Zakaria [1], Foreign Affairs, 6/12/2019.
Khách tham quan trước bức ảnh của Tập Cận Bình tại Trung tâm Triển lãm Bắc Kinh, tháng 9/2019 - Ảnh Jason Lee / Reuters
Vào tháng 2/1947, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã hội ý với các cố vấn chính sách đối ngoại cao cấp nhất của ông ta, George Marshall và Dean Acheson, và một ít các nhà lãnh đạo quốc hội. Chủ đề là kế hoạch của chính quyền hỗ trợ chính phủ Hy Lạp trong cuộc chiến chống lại một cuộc nổi dậy của cộng sản. Marshall và Acheson đã trình bày lý lẽ của họ đối với kế hoạch ấy. Arthur Vandenberg, chủ tịch Ủy ban đối ngoại thượng viện, lắng nghe một cách kỹ lưỡng và sau đó đã đưa ra sự ủng hộ của mình kèm một lời cảnh báo. 'Cách duy nhất ngài sẽ có được những gì ngài muốn', ông được kể là đã nói với tổng thống, 'là phát biểu và hù dọa cả nước'.
Trong vài tháng sau đó, Truman đã làm đúng điều ấy. Ông ta đã biến cuộc nội chiến ở Hy Lạp thành một phép thử về khả năng của Mỹ đối đầu với chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Khi ngẫm tới lời hùng biện mở rộng của Truman về việc trợ giúp các nền dân chủ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, Acheson thú nhận trong hồi ký của mình rằng chính quyền đã đưa ra một lập luận 'còn rõ hơn cả sự thật'.
Một cái gì đó tương tự thế đang xảy ra ngày nay trong cuộc tranh luận của người Mỹ về Trung Quốc. Một sự đồng thuận mới, bao gồm cả hai đảng, nhóm nắm quyền quân sự và các thành tố chính của truyền thông, cho rằng Trung Quốc hiện là mối đe dọa sống còn đối với Mỹ cả về kinh tế lẫn chiến lược, rằng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc đã thất bại, và Washington cần một chiến lược mới, cứng rắn hơn nhiều để ngăn chặn nó. Sự đồng thuận này đã làm dịch chuyển lập trường của công chúng về phía một sự thù địch gần như có tính bản năng : theo thăm dò ý kiến, 60% người Mỹ hiện có quan điểm bất lợi về nước Cộng hòa Nhân dân này, một mức cao kỷ lục kể từ khi Trung tâm nghiên cứu Pew bắt đầu đặt câu hỏi đó vào năm 2005. Nhưng giới tinh hoa Washington đã làm cho lý lẽ của họ 'còn rõ hơn cả sự thật'. Bản chất của thách thức từ Trung Quốc khác xa và phức tạp hơn nhiều so với những gì đám gieo rắc hoang mang mới miêu tả. Về vấn đề chính sách đối ngoại quan trọng nhất độc nhất vô nhị trong vài thập kỷ tới đây, nước Mỹ đang tự sắp đặt cho mình một thất bại đắt giá.
Hãy nói cho rõ : Trung Quốc là một chế độ đàn áp sử dụng các chính sách hoàn toàn hẹp hòi, từ việc cấm tự do ngôn luận đến giam giữ các nhóm thiểu số tôn giáo. Trong năm năm qua, nó đã tăng cường kiểm soát chính trị và tập trung quyền lực kinh tế trong nước. Ở nước ngoài, nó đã trở thành người cạnh tranh và ở một số nơi thì là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu hỏi chiến lược cốt yếu cho người Mỹ ngày nay là liệu những thực tế này có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa sống còn [với Mỹ] hay không, và tới mức mà các thực tế ấy như thế, mối đe dọa đó nên được giải quyết như thế nào ?
Các hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô đã là rất lớn : những lạm dụng thô bạo trong nước trong thời kỳ McCarthy ; một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân nguy hiểm ; một cuộc chiến dài, vô ích và không thành công ở Việt Nam ; và vô số các can thiệp quân sự khác ở nhiều quốc gia được gọi là Thế giới thứ ba. Các hậu quả của việc không nắm được cái thách thức Trung Quốc ngay hôm nay sẽ còn lớn hơn. Mỹ có nguy cơ phung phí những lợi ích đã giành được một cách khó nhọc từ bốn thập kỷ can dự với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh áp dụng các chính sách đối đầu của riêng nó, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc xung đột nguy hiểm với quy mô và phạm vi không biết được mà nó sẽ gây ra nhiều thập kỷ bất ổn và không an toàn. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với chiến tranh lạnh đối với Liên Xô, với một kết cục không chắc chắn.
Cam kết đứt quãng
Henry Kissinger đã lưu ý rằng Mỹ đã tham gia vào tất cả các can dự quân sự lớn của mình kể từ năm 1945 - tại Hàn Quốc, Việt Nam, Afghanistan và Iraq - với sự nhiệt tình và hỗ trợ lưỡng đảng to lớn. 'Và sau đó, khi chiến tranh phát triển', Kissinger nói, 'sự hỗ trợ trong nước cho nó bắt đầu tan rã'. Một cách mau chóng, mọi người đều đã tìm kiếm một chiến lược [để] thoát ra.
Để tránh đi lại cái con đường đó, Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ các giả định đằng sau sự đồng thuận mới [về] Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, chúng là như sau. Thứ nhất, sự tham dự đã thất bại vì nó đã không 'làm chuyển đổi được sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của Trung Quốc', như các cựu quan chức Mỹ Kurt Campbell và Ely Ratner đã viết trong tạp chí này vào năm 2018. Thứ hai, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ, và bằng cách bành trướng, là mối đe dọa quan trọng nhất tới trật tự quốc tế dựa trên quy tắc mà Mỹ tạo ra sau năm 1945. Ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo, đã đi còn xa hơn, khi nói trong một bài phát biểu năm 2019 tại Viện Hudson rằng 'Đảng Cộng sản Trung Quốc là một đảng Marx-Lenin tập trung vào đấu tranh và thống trị quốc tế'. Và thứ ba, một chính sách đối đầu chủ động với Trung Quốc sẽ chống lại mối đe dọa đó tốt hơn là một sự tiếp tục cách tiếp cận trước đó.
Sự đồng thuận lưỡng đảng này đã hình thành để đáp lại những thay đổi đáng kể và đáng lo ngại theo nhiều cách ở Trung Quốc. Kể từ khi chủ tịch Tập Cận Bình trở thành người cầm quyền tối cao của đất nước, tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị của nó - trong mọi trường hợp đều hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh giờ đây kết hợp sự đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa tương tự như trong thời đại của Mao. Ở nước ngoài, Trung Quốc đầy tham vọng và quyết đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại. Nhưng chúng nên làm thay đổi chính sách của Mỹ như thế nào ?
Thành hình nên một phản ứng hiệu quả thì đòi hỏi phải bắt đầu với một sự hiểu biết rõ ràng về chiến lược [về] Trung Quốc của Mỹ cho tới thời điểm này. Điều mà sự đồng thuận mới đang bỏ lỡ là trong gần 5 thập kỷ kể từ việc mở cánh cửa vào Bắc Kinh của tổng thống Mỹ Richard Nixon, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ đơn thuần là cam kết tham dự cả ; nó đã là sự kết hợp của tham dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã kết luận rằng việc tích hợp Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu tốt hơn là để nó ngồi ngoài, bực bội và quậy phá. Nhưng Washington đã kết hợp nỗ lực đó với sự hỗ trợ nhất quán cho các quốc gia quyền lực Châu Á khác - bao gồm, tất nhiên, tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi khi được mô tả như là một 'chiến lược phòng ngừa rủi ro', đảm bảo rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó đã được kiểm tra và các nước láng giềng của nó cảm thấy an toàn.
Trong những năm 1990, không còn kẻ thù Liên Xô nào để mà ngăn chặn nữa, Lầu Năm Góc đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa các căn cứ và giảm số quân trên khắp thế giới - ngoại trừ ở Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương 1995 của Lầu Năm Góc, được gọi là Sáng kiến Nye, đã cảnh báo về các tham vọng chính sách đối ngoại và xây dựng quân đội của Trung Quốc và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự tại khu vực này. Thay vào đó, ít nhất 100 ngàn lính Mỹ sẽ ở lại Châu Á trong tương lai gần. Việc bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì lợi ích hòa bình ở eo biển Đài Loan - nghĩa là răn đe Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại hòn đảo tự trị ấy mà chính phủ đại lục coi là một phần của Trung Quốc.
Cách tiếp cận phòng ngừa rủi ro này được duy trì bởi các tổng thống của cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã lật ngược hàng thập kỷ chính sách lưỡng đảng và ôm lấy Ấn Độ như một cường quốc hạt nhân, phần lớn để thêm một kiểm tra khác về Trung Quốc. Dưới thời tổng thống Barack Obama, Mỹ đã tăng cường răn đe, mở rộng dấu chân ở Châu Á bằng các thỏa thuận quân sự mới với Úc và Nhật Bản, và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được thiết kế để cung cấp cho các nước Châu Á một nền tảng kinh tế cho phép họ chống lại sự thống trị của thị trường Trung Quốc. (Chính quyền Trump đã rút khỏi thỏa thuận đó vào đầu năm 2017). Cá nhân Obama đã đối đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng của Trung Quốc và áp thuế nhập khẩu lốp xe để trả đũa các chính sách thương mại không công bằng của Trung Quốc.
Nói rằng [chiến lược] bảo hiểm rủi ro đã thất bại thì toát lên tính thiếu quan điểm lịch sử. Đầu những năm 1970, trước khi Nixon mở cánh cửa vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã là chế độ đểu cáng vĩ đại nhất thế giới. Mao Trạch Đông bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng ông ta là người cầm lái một phong trào cách mạng sẽ hủy diệt thế giới tư bản phương Tây. Đã chẳng có biện pháp nào là quá cực đoan cho mục đích đó - kể cả sự hủy diệt hạt nhân cũng không loại trừ. 'Trong trường hợp xấu nhất và nếu một nửa nhân loại đã chết', Mao giải thích trong một bài phát biểu tại Moscow năm 1957, 'nửa còn lại sẽ còn lại trong khi chủ nghĩa đế quốc sẽ bị san phẳng tới tận mặt đất và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa'. Trung Quốc của Mao đã xúi bẩy và tài trợ cho các cuộc nổi dậy chống phương Tây, các phong trào du kích và các phong trào tư tưởng trên khắp thế giới, từ Mỹ Latinh đến Đông Nam Á. Theo một ước tính, Bắc Kinh đã chi từ 170 triệu đến 220 triệu USD từ năm 1964 đến 1985 chỉ riêng ở Châu Phi, đào tạo 20 ngàn chiến binh từ ít nhất 19 quốc gia.
Để so sánh, Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm đáng kể trên mặt trận địa chính trị và quân sự. Nó đã không tham chiến từ năm 1979. Nó đã không sử dụng lực lượng quân sự giết chóc ở nước ngoài kể từ năm 1988. Nó cũng đã không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng ủy nhiệm hay các cuộc nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu những năm 1980. Kỷ lục không can thiệp đó là độc nhất vô nhị trong số các cường quốc trên thế giới. Tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đều đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở nhiều nơi trong vài thập kỷ qua - một danh sách, tất nhiên, do Mỹ dẫn đầu.
Trung Quốc cũng đã đi từ chỗ tìm cách làm suy yếu hệ thống quốc tế đến chi một khoản lớn để củng cố nó. Bắc Kinh hiện là nhà tài trợ lớn thứ hai của Liên Hiệp Quốc và chương trình gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Nó đã triển khai 2.500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng bảo an cộng lại. Từ năm 2000 đến 2018, Trung Quốc đã ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng bảo an áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm các quy tắc hoặc chuẩn mực quốc tế. Hẵng cứ cho là như thế này, các nguyên tắc neo giữ chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay - 'tôn trọng chủ quyền', 'toàn vẹn lãnh thổ', và 'không can thiệp' - được cổ vũ phần lớn bởi một mong muốn chống lại sự can thiệp của phương Tây. Tuy nhiên, chúng nhấn mạnh một sự chuyển dịch đáng chú ý từ một chương trình nghị sự cách mạng cấp tiến sang một mối quan tâm bảo thủ về sự ổn định. Ai đó đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên trạng quốc tế, song ít ai đã tin được điều đó là có thể.
Địa vị thương mại
Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc thì cho rằng Trung Quốc đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã trợ cấp cho 'các công ty thành công nhất của quốc gia' và đặt các rào cản chính thức và không chính thức trên con đường các công ty nước ngoài tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống trung ương tập quyền và chủ nghĩa trọng thương của riêng mình.
Đúng là những chính sách không công bằng này đòi hỏi phải chú ý và hành động từ phần còn lại của thế giới. Chính quyền Trump xứng đáng nhận được một sự tín nhiệm nhất định nào đó cho việc giải quyết vấn đề này - đặc biệt là trong bối cảnh Tập đã ôm lấy [kinh tế] trung ương tập quyền sau nhiều thập kỷ tự do hóa. Nhưng sự đảo ngược này lớn và lâu dài đến thế nào ? Các tập quán của Trung Quốc thì khác với các nước thị trường mới nổi khác hiện nay ra sao ? Và một lần nữa, phản ứng đúng của người Mỹ là gì ?
Hầu hết tất cả các nhà kinh tế đều đồng ý rằng Trung Quốc có được nhiều thành công kinh tế của mình nhờ ba yếu tố cơ bản : chuyển đổi từ kinh tế học cộng sản sang cách tiếp cận dựa trên thị trường hơn, một tỷ lệ tiết kiệm cao giúp đầu tư vốn lớn, và tăng năng suất. Trong ba thập kỷ qua, nước này cũng đã mở cửa đáng kể cho đầu tư nước ngoài - nhiều hơn so với nhiều thị trường mới nổi lớn khác - cho phép vốn đổ vào. Trung Quốc là một trong chỉ có hai nước đang phát triển được xếp hạng trong 25 thị trường hàng đầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài kể từ năm 1998. Trong nhóm BRICS gồm các thị trường mới nổi lớn (bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế mở và cạnh tranh nhất. Còn như tác động của các chính sách trọng thương của Trung Quốc đối với nền kinh tế Mỹ, cựu Bộ trưởng tài chính Mỹ, Lawrence Summers, đã lưu ý rằng 'không thể tranh luận một cách nghiêm túc rằng các thực tế thương mại không công bằng của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến tăng trưởng của Mỹ thậm chí là 0,1% mỗi năm'.
Điều đáng chú ý là trên mặt trận kinh tế, hầu hết mọi trách nhiệm đổ cho Trung Quốc ngày nay - chuyển giao công nghệ bắt buộc, thực hành thương mại không công bằng, việc tiếp cận hạn chế đối dành cho các công ty nước ngoài, thiên vị pháp lý cho các công ty địa phương - cũng đã được đổ cho Nhật Bản trong những năm 1980s và 1990s. Vào thời điểm đó, cuốn sách đầy ảnh hưởng 'Địa vị thương mại : Nước Mỹ đang nhượng tương lai của mình lại cho Nhật Bản như thế nào và Làm thế nào để giành lại nó' (Trading Places : How America Is Surrendering Its Future to Japan and How to Win It Back) của Clyde Prestowitz đã giải thích rằng Mỹ chưa bao giờ tưởng tượng ra được việc giao dịch với một quốc gia mà 'công nghiệp và thương mại [có lẽ được] tổ chức như một phần của một nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu quốc gia cụ thể'. Một cuốn sách được đọc rộng rãi khác của thời đại đó có tựa đề 'Cuộc chiến sắp tới với Nhật Bản'. Khi tăng trưởng của Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi thái quá này cũng vậy.
Trung Quốc hôm nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm của Tập Cận Bình để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước này giành được địa vị thống trị về kinh tế trong các lĩnh vực quan trọng. Nhưng trong lịch sử rộng lớn với nhiều điều ít được để ý, lợi thế lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà chỉ từ quy mô/kích cỡ của nó. Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận với Trung Quốc và sẵn sàng nhượng bộ để có được nó. Điều này hầu như không làm cho Trung Quốc trở nên bất thường. Các quốc gia khác có ảnh hưởng tương tự thường đi xa nữa với hành vi tương tự hoặc tệ hơn - không ai khác hơn là chính Mỹ cũng vậy. Một báo cáo năm 2015 của gã khổng lồ về dịch vụ tài chính, Credit Suisse, cung cấp một danh sách hữu ích về các rào cản chống lại hàng hóa nước ngoài đã được các nước lớn đưa ra từ năm 1990 đến 2013. Với tổng số gần 450 rào cản, Mỹ là một liên minh riêng mình. Tiếp theo là Ấn Độ, sau đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 5, với chỉ một phần ba các rào cản phi thuế quan được áp đặt so với Mỹ. Bức tranh đã không thay đổi mấy trong những năm kể từ đó.
Hầu hết các thay đổi gần đây trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh đã là tiêu cực, nhưng thậm chí cái đó cũng vẫn chưa phải là toàn bộ câu chuyện. Trung Quốc đang thay đổi theo một số đường lối, đôi khi mâu thuẫn nhau. Ngay cả với việc quay trở lại sự kiểm soát nhà nước lớn hơn dưới thời Tập, thì một thị trường tự do hoang dã cũng đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực rộng lớn như hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Cũng đã có việc tự do hóa trong lập quy thực sự nào đó - thậm chí là cải cách hành chính và tư pháp, như nhà khoa học chính trị Yuen Yuen Ang [2] đã nêu chi tiết. Sự hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước lớn hơn so với vài năm trước, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ cái một thời đã từng là một phần trung tâm của chiến lược trọng thương của mình : sử dụng một đồng tiền được [có chủ ý] định giá thấp để thúc đẩy tăng trưởng. Nhà kinh tế học Nicholas Lardy [3] đã tính toán rằng sự kết thúc của chủ nghĩa trọng thương tiền tệ chiếm 'khoảng một nửa sự chậm lại tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu'.
Hoặc xem đó là cái gì, cái nói theo Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của tổng thống Mỹ Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp thương mại của Mỹ với Trung Quốc : 'hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ của chúng ta'. Việc Trung Quốc tham gia vào chuyện trộm cắp tràn lan sở hữu trí tuệ là một thực tế được chấp nhận rộng rãi - ngoại trừ trong số các công ty Mỹ đang kinh doanh tại Trung Quốc. Trong một cuộc khảo sát gần đây về các công ty như vậy do Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung (US-China Business Council) thực hiện, bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ 6 trong danh sách các mối quan tâm cấp bách, đã giảm xuống từ vị trí thứ 2 trong năm 2014. Các công ty này lo ngại nhiều hơn về tài trợ của nhà nước cho các công ty đối thủ và việc trì hoãn phê duyệt giấy phép cho sản phẩm của họ. Tại sao sự thay đổi này lại từ năm 2014 ? Năm đó, Trung Quốc đã tạo ra các tòa án chuyên ngành đầu tiên để xử lý các vụ án sở hữu trí tuệ. Năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí tuệ Bắc Kinh. Tòa án đã phán quyết cho các công ty nước ngoài thắng kiện trong tất cả 63 vụ.
Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối mặt với áp lực của phương Tây và, mặc dù thế, bởi vì chúng phục vụ lợi ích cạnh tranh của chính Trung Quốc - công ty nộp đơn xin cấp bằng sáng chế lớn nhất trên toàn thế giới năm ngoái là gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Nhưng cũng đúng là nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách cấp cao của Trung Quốc đã lập luận rằng nước này sẽ hiện đại hóa và phát triển kinh tế chỉ khi nó theo đuổi cải cách hơn nữa. Không làm thế, họ đã cảnh báo, sẽ khiến đất nước bị mắc kẹt trong 'bẫy thu nhập trung bình' - số phận chung của các quốc gia thoát nghèo nhưng vấp phải bức tường với mức GDP khoảng 10 ngàn USD trên đầu người, đã thất bại trong việc hiện đại hóa nền kinh tế, hệ thống pháp quy và pháp lý của họ hơn nữa.
Chừng nào sự phát triển chính trị của Trung Quốc còn đáng quan ngại, phán quyết này vẫn còn không rõ ràng. Trung Quốc đã không mở cửa chính trị của mình đến mức như nhiều người đã dự đoán ; trong thực tế nó đã tiến tới sự đàn áp và kiểm soát lớn hơn. Đối xử tồi tệ của Bắc Kinh với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, một khu vực ở tây bắc Trung Quốc, đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân quyền. Nhà nước cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội kiểu Orwell [4]. Những thực tế này là một thảm kịch đối với người dân Trung Quốc và là một trở ngại cho đất nước tham gia lãnh đạo toàn cầu. Tuy nhiên, sẽ là một sự cường điệu khi thêm chúng vào làm bằng chứng cho sự thất bại của chính sách của Mỹ. Trong thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng sự tham dự sẽ dẫn một cách không thể lay chuyển nổi tới nền dân chủ tự do ở Trung Quốc. Họ hy vọng rằng nó sẽ diễn ra như vậy, thậm chí mong đợi điều ấy, nhưng trọng tâm của họ luôn đặt vào việc tiết chế hành vi bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã đạt được.
Băng qua lằn ranh
Dưới thời Tập, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò lãnh đạo của nó trong các cơ quan của Liên Hiệp Quốc cho tới Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative) mênh mông và việc xây dựng các hòn đảo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu một bước đột phá đối với sự thụ động xưa của đất nước trên trường quốc tế, bị kìm giữ bởi câu ngạn ngữ của nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây là Đặng Tiểu Bình 'Giấu sức mạnh, chờ thời' [5]. Đặc biệt, việc xây dựng quân đội của Trung Quốc là quy mô và được thiết kế theo cách gợi ý rằng một kế hoạch dài hạn đang được thực hiện một cách có hệ thống. Nhưng mức độ ảnh hưởng chấp nhận được đối với Trung Quốc sẽ là gì, với trọng lượng kinh tế của nó trên thế giới ? Nếu Washington không đặt câu hỏi này trước tiên, họ không thể đưa ra những tuyên bố nghiêm túc về những việc sử dụng quyền lực nào của Trung Quốc là vượt qua lằn ranh.
Trung Quốc, theo một số thước đo, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong vòng 10 đến 15 năm nữa, nó có thể sẽ chiếm vị trí này theo mọi thước đo. Đặng đã đưa ra lời khuyên của mình 'chờ thời' đến khi nền kinh tế của đất nước chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó đang đại diện cho hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi đến thời của mình, và giờ đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn nhiều một cách tự nhiên sẽ tìm kiếm một vai trò khu vực và toàn cầu lớn hơn.
Hãy xem trường hợp của một quốc gia khác đang trỗi dậy mạnh mẽ, điều này trở lại vào thế kỷ XIX, mặc dù không gần như trên quy mô của Trung Quốc ngày nay. Mỹ vào năm 1823 đã là nước mà bây giờ gọi là một quốc gia đang phát triển - thậm chí không nằm trong số 5 nền kinh tế hàng đầu thế giới - ấy vậy mà với Học thuyết Monroe, nó đã tuyên bố yêu sách toàn bộ bán cầu Tây cấm không được bén mảng đối với các cường quốc ở Châu Âu. Trường hợp của Mỹ là một sự tương tự không hoàn hảo, nhưng nó như một lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức mạnh kinh tế, chúng sẽ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối với môi trường của mình. Nếu Washington xác định mọi nỗ lực như vậy của Trung Quốc là nguy hiểm, thì nó sẽ khiến Mỹ chống lại các động lực tự nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào cái mà học giả Graham Allison đã gọi là 'cái bẫy Thucydides' [6] - nguy cơ của một cuộc chiến giữa một cường quốc đang trỗi dậy và một nước bá chủ lo lắng.
Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ cạnh tranh như vậy là một thách thức mới và độc nhất vô nhị. Kể từ năm 1945, các quốc gia lớn vươn lên giàu có và nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington, nếu không phải là những nước gần như là được bảo hộ : Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một đặc tính thường gây rối trong cuộc sống quốc tế - các cường quốc mới đang trỗi dậy - do đó đều cực kỳ lành tính đối với Mỹ. Tuy vậy, Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các cường quốc đang trỗi dậy trước đó ; nó cũng luôn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Kết quả là, nó chắc chắn sẽ tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng độc lập lớn hơn. Thách thức đối với Mỹ, và phương Tây nói chung, sẽ là xác định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và thích ứng với nó - để có được sự tín nhiệm khi các hành động của Bắc Kinh vượt qua lằn ranh.
Cho đến nay, hồ sơ theo dõi của phương Tây về việc thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc rất kém. Thí dụ, cả Mỹ và Châu Âu đều miễn cưỡng nhượng lại bất kỳ mảnh đất nào cho Trung Quốc trong các thể chế cốt lõi quản trị kinh tế toàn cầu, Ngân hàng thế giới WB (World Bank) và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), vẫn là các câu lạc bộ Âu-Mỹ. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong Ngân hàng phát triển Châu Á ADB (Asian Development Bank), nhưng Mỹ đã chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập tổ chức tài chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á AIIB (Asian Infrastructure Investment Bank) (mà Washington chống lại song không có kết quả).
Pompeo đã khẳng định - trong một tuyên bố kiểu bề trên mà chắc chắn sẽ chọc giận bất cứ công dân Trung Quốc nào - rằng Mỹ và các đồng minh phải giữ Trung Quốc ở 'đúng chỗ của nó'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo Pompeo, là họ chi nhiều cho quân đội hơn mức cần thiết cho quốc phòng của mình. Nhưng điều tương tự vậy, tất nhiên, cũng có thể nói về Mỹ - và của Pháp, Nga, Vương quốc Anh và hầu hết các nước lớn khác. Trong thực tế, một định nghĩa hữu ích về một cường quốc là một nước có liên quan tới nhiều hơn là chỉ liên quan tới an ninh riêng của mình.
Trật tự cũ - trong đó các nước Châu Âu nhỏ đóng vai trò những đối thủ nặng ký toàn cầu trong khi những con hà mã to vật như Trung Quốc và Ấn Độ lại bị loại khỏi những thứ hạng hàng đầu của các tổ chức toàn cầu - không thể duy trì được nữa. Trung Quốc sẽ phải được dành một vị trí bên bàn và phải được tích hợp một cách thành thật vào các cấu trúc ra quyết định, hoặc họ sẽ tự do và đơn phương tạo ra các cấu trúc và các hệ thống mới của riêng mình. Sự thăng tiến của Trung Quốc tới quyền lực toàn cầu là yếu tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ. Nó phải được công nhận như vậy
Không tự do, chẳng quốc tế lẫn chả có trật tự
Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã báo hiệu về hồi chuông báo tử của trật tự quốc tế tự do - tập hợp các chính sách và các định chế, được rèn dập phần lớn bởi Mỹ sau Thế chiến thứ II, tạo nên tổng thể một hệ thống dựa trên luật lệ, trong đó chiến tranh giữa các nước đã mất dần tầm quan trọng trong khi thương mại tự do và nhân quyền đã phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm chính trị trong nước của Trung Quốc - một quốc gia độc đảng không cho phép sự phản đối hay bất đồng chính kiến - và một số hành động quốc tế của nó khiến nó trở thành một người chơi không dễ dàng gì trong hệ thống này.
Tuy nhiên, đáng ghi nhớ là trật tự quốc tế tự do chưa bao giờ là tự do, quốc tế, hay có trật tự như bây giờ vẫn được mô tả một cách luyến tiếc cả. Ngay từ đầu, nó đã vấp phải sự khăng khăng phản đối từ Liên Xô, tiếp theo sau là một loạt các đổ vỡ trong hợp tác giữa các đồng minh (qua cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, qua Việt Nam một thập kỷ sau) và sự đào ngũ phần nào đó của Mỹ dưới thời Nixon, người vào năm 1971 đã chấm dứt thực tiễn bảo lãnh của Washington đối với trật tự tiền tệ quốc tế bằng việc sử dụng dự trữ vàng của Mỹ. Một hình ảnh thực tế hơn là một trật tự quốc tế tự do non trẻ, đã hư hỏng từ đầu bởi những ngoại lệ, sự bất hòa và tính mong manh. Nước Mỹ, về phần mình, lại thường hành động ra ngoài các quy tắc của trật tự này, khi thực hiện các can thiệp quân sự thường xuyên có hoặc không có sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc ; trong những năm từ 1947 đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, nó đã cố gắng thay đổi chế độ 72 lần trên khắp thế giới. Nó bảo lưu quyền hành giống như vậy trong lĩnh vực kinh tế, tham gia vào chủ nghĩa bảo hộ ngay cả khi nó chống lại các biện pháp khiêm tốn hơn được áp dụng bởi các quốc gia khác.
Sự thật về trật tự quốc tế tự do, như với tất cả các khái niệm như vậy, là chưa từng bao giờ thực sự có một thời kỳ hoàng kim, nhưng cũng không có thứ trật tự bị phân rã quá như nhiều người tuyên bố. Các thuộc tính cốt lõi của trật tự này - hòa bình và ổn định - vẫn còn tồn tại, với sự suy giảm rõ rệt do chiến tranh và thôn tính kể từ năm 1945. (Hành vi của Nga ở Ukraine là một ngoại lệ quan trọng). Về mặt kinh tế, đó là một thế giới thương mại tự do. Thuế quan trung bình giữa các nước đã công nghiệp hóa là dưới 3%, giảm từ 15% trước Vòng đàm phán thương mại quốc tế Kennedy trong thập niên 1960. Thập kỷ vừa qua đã chứng kiến sự thụt lùi về một số độ đo mức toàn cầu hóa nhưng từ mức cơ bản cực kỳ cao. Toàn cầu hóa từ năm 1990 có thể được mô tả là đã tiến lên ba bước và chỉ lùi một bước.
Trung Quốc hầu như không đủ điều kiện là một mối nguy hiểm chết người đối với trật tự không hoàn hảo này. Hãy so sánh hành động của nó với Nga - một quốc gia mà trong nhiều đấu trường chỉ đơn giản là kẻ phá hoại, cố gắng phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và các mục tiêu quốc tế của nó, thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn do nó tăng giá dầu (nguồn tài sản lớn nhất của Kremlin). Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi nó bẻ cong các quy tắc và, thí dụ như, tham gia vào chiến tranh mạng, thì nó đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì cố gắng phá hoại tính hợp pháp của các cuộc bầu cử dân chủ ở Mỹ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo ngại sự bất đồng quan điểm và sự phản đối và đặc biệt đau thần kinh với các vấn đề của Hongkong và Đài Loan, sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ theo đúng đường lối của đảng. Nhưng đây là những nỗ lực để bảo tồn những gì Bắc Kinh coi là chủ quyền của mình - không có gì giống như Moscow, những nỗ lực có hệ thống nhằm gây trở ngại và phá vỡ nền dân chủ phương Tây ở Canada, Mỹ và Châu Âu. Nói tóm lại, Trung Quốc đã hành động theo các cách can thiệp, trọng thương và đơn phương - nhưng thường ít hơn rất nhiều so với các cường quốc khác.
Sự trỗi dậy của một nhà nước độc đảng mà nó tiếp tục bác bỏ các khái niệm cốt lõi về quyền con người thì thể hiện một thách thức. Ở một số khu vực nhất định, các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đã đe dọa các thành tố của trật tự quốc tế tự do, như thể các nỗ lực của nó nhằm làm suy yếu các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu cũng như hành vi của nó ở Biển Đông và các phần 'nước ngoài gần' khác của nó. Những trường hợp đó cần được kiểm tra một cách trung thực. Đối với vấn đề đầu, chẳng mấy điều có thể nói được để giảm nhẹ trách nhiệm. Trung Quốc thì rất muốn né tránh/thoát khỏi [vấn đề về] các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của mình, và chương trình nghị sự đó cần được phơi bày và chống lại. (Quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã đạt được điều hoàn toàn ngược lại bằng cách nhượng lại lĩnh vực này cho Bắc Kinh).
Nhưng trật tự quốc tế tự do đã có thể thích ứng với nhiều chế độ khác nhau - từ Nigeria tới Saudi Arabia cho đến Việt Nam - và vẫn cung cấp một khung khổ dựa trên các quy tắc mà chúng khuyến khích hòa bình, ổn định và ứng xử văn minh giữa các quốc gia. Quy mô và các chính sách của Trung Quốc đặt ra một thách thức mới đối với việc mở rộng quyền con người chủ yếu đã diễn ra từ năm 1990. Nhưng chuyện một lĩnh vực thoái trào tiềm năng thì không nên được xem là mối đe dọa chết người đối với công cuộc lớn hơn nhiều của một hệ thống quốc tế thương mại tự do, dựa trên quy tắc và rộng mở.
Chính sách ngăn chặn và các phí tổn
Giả định cuối cùng ủng hộ sự đồng thuận mới là chuyện một hình thức đối đầu dai dẳng nào đó với Trung Quốc sẽ răn đe được chủ nghĩa phiêu lưu của nó ra nước ngoài và tạo tiền đề cho một sự chuyển đổi trong nội bộ. Rất ít người hào hứng chấp nhận thuật ngữ 'ngăn chặn' của thời chiến tranh lạnh, nhưng nhiều người chấp nhận một phiên bản logic nào đó của nó. Lý thuyết là một đường lối cứng rắn chống lại Trung Quốc sẽ buộc nước này phải cư xử đàng hoàng và thậm chí cải cách. Không nói ra nhưng rõ ràng trung tâm của chiến lược diều hâu ấy là ý niệm rằng ngăn chặn Trung Quốc sẽ sớm làm sụp đổ chế độ của nó, giống như đã xảy ra với Liên Xô.
Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế bất tự nhiên được xây dựng dựa trên sự bành trướng thô bạo và thống trị quân sự. Với Trung Quốc, Mỹ sẽ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức mạnh mẽ về sự đoàn kết và niềm tự hào dân tộc đã vươn lên để giành lấy vị trí trong số các cường quốc của thế giới. Trung Quốc đang trở thành một quốc gia ngang hàng về kinh tế, thực sự là một nhà lãnh đạo công nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của nó làm cho dân số Mỹ thành nhỏ bé và thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa thì hiện đang nằm ở Trung Quốc. Nó sở hữu một số máy tính nhanh nhất hành tinh và nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn nhất trên trái đất. Ngay cả khi nó trải qua một số loại thay đổi chế độ, các đặc điểm rộng lớn hơn về sự trỗi dậy và sức mạnh của nó sẽ vẫn cứ tồn tại.
Lầu Năm Góc đã ôm lấy ý niệm Trung Quốc là 'đối thủ cạnh tranh chiến lược' hàng đầu của Mỹ. Từ một quan điểm quan liêu, chỉ định này có ý nghĩa hoàn hảo. Trong 20 năm qua, quân đội Mỹ đã chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy và du kích ở các quốc gia yếu ớt, và hết lần này đến lần khác phải giải thích tại sao bộ máy đắt tiền của nó đã thất bại trước những kẻ thù thiếu tiền bạc, được trang bị kém này. Ngược lại, để làm kẻ thù của Trung Quốc là quay trở lại những tháng ngày hoàng kim của chiến tranh lạnh, khi Lầu năm góc có thể tăng ngân sách thật lớn bằng cách gợi lên bóng ma của một cuộc chiến tranh chống lại một quân đội giàu có, hiện đại với công nghệ tiên tiến của riêng mình. Suốt thời gian ấy, logic của răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các cường quốc đã đảm bảo rằng một cuộc chiến tổng lực giữa hai bên sẽ không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, bất kể lợi thế thế nào về ngân sách của Lầu Năm Góc, chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ và làm phình thêm tổ hợp công nghiệp-quân sự [7] mà tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower từng cảnh báo chống lại.
Hãy thêm vào đó là mức độ phụ thuộc lẫn nhau lớn giữa Mỹ và Trung Quốc. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và vào năm 2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Cũng còn có sự phụ thuộc lẫn nhau của con người - hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc học tập tại Mỹ, cùng với gần năm triệu công dân và người định cư Mỹ gốc Hoa. Mỹ đã được hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu tiên tiến nhất rồi sau đó áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm các cửa người tài năng như vậy vì tài năng đó đi với hộ chiếu không hợp lệ, nó sẽ nhanh chóng mất vị trí đặc quyền trong thế giới công nghệ và đổi mới.
Cách tiếp cận hiện nay với Trung Quốc của chính quyền Trump, chạy dọc theo hai đường riêng biệt và mâu thuẫn, cùng một lúc tránh sự phụ thuộc lẫn nhau lẫn đi theo nó. Về thương mại, mục tiêu của Washington nói rộng ra là hội nhập : để Trung Quốc mua thêm từ Mỹ, đầu tư nhiều hơn vào Mỹ và cho phép người Mỹ bán và đầu tư nhiều hơn vào Trung Quốc. Nếu thành công, nỗ lực này sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa hai nước. Đó là một nỗ lực đáng khen ngợi, mặc dù té ra là thuế quan thường gây phí tổn cho bên áp đặt thuế nhiều hơn bên người bị áp thuế. Theo một số ước tính, thuế quan lốp xe của chính quyền Obama làm tốn khoảng 1 triệu USD cho mỗi việc làm mà Mỹ tiết kiệm được. Cách tiếp cận tổng thể, tuy vậy, là khôn ngoan, ngay cả khi được thực hiện nhằm theo đuổi chương trình nghị sự 'nước Mỹ trên hết', vì sự phụ thuộc lẫn nhau mang lại cho Mỹ đòn bẩy lớn hơn đối với Trung Quốc.
Trong các vấn đề về công nghệ, mặt khác, cách tiếp cận của chính quyền Trump là nhất quyết phân rã. Chiến lược ở đây là cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm điều tương tự - tạo ra một thế giới bị chia cắt giữa hai phe. Chiến dịch toàn cầu của chính quyền Trump chống lại Huawei đã tuân theo logic này ; kết quả nghèo nàn của chiến dịch đó cho thấy các lỗ hổng logic. Phần còn lại của thế giới không đi theo sự dẫn dắt của Mỹ (mà nó thiếu công nghệ thay thế để cạnh tranh với các chào mời 5G của Huawei). Chính quyền Trump đã yêu cầu 61 quốc gia cấm công ty ấy. Cho đến nay, chỉ có ba nước tham gia, cả ba nước trong số đó đều là đồng minh của Mỹ.
Tỷ lệ thành công ảm đạm này là một dấu hiệu chỉ báo sớm cho thấy chiến lược 'tách rời nhau' rộng hơn sẽ ra như thế nào. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm nhiều người chơi chủ chốt ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ phản ứng thế nào với việc tách rời [giữa Mỹ và Trung Quốc], các nhà lãnh đạo cấp cao trên toàn thế giới hầu như đều đưa ra một phiên bản nào đó của câu trả lời mà một người đứng đầu chính phủ đã đưa ra cho tôi : 'Xin đừng yêu cầu chúng tôi phải chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Bạn sẽ không thích câu trả lời bạn nhận được đâu'. Điều này không có nghĩa là họ nhất thiết phải đứng về phía Trung Quốc - nhưng họ có thể thích ở lại không vào phe nào, hoặc chơi ván bài hai cường quốc đó chống lại nhau. Còn hơn thế, một Trung Quốc bị cô lập mà nó sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công nghệ nội địa của riêng mình thì sẽ không bị áp lực bởi Mỹ nữa.
Sự vắng mặt kỳ lạ trong hầu hết các cuộc thảo luận về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là câu hỏi về phản ứng của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng vậy, có những người tạo lập đường lối cứng rắn, những người đã cảnh báo trong suốt nhiều năm rằng Mỹ tìm cách giữ cho Trung Quốc yếu và rằng bất kỳ dấu hiệu tham vọng nào của Trung Quốc cũng sẽ gặp phải một chiến lược ngăn chặn. Còn hơn thế nhiều nữa, thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc đang cho phép những tiếng nói đó đòi phải được minh oan, từ đó cho họ đòn bẩy để thúc đẩy chính loại hành vi quyết đoán và gây bất ổn mà chính sách của Mỹ nhắm tới ngăn ngừa.
Mỹ đang trong cuộc đua tranh với Trung Quốc - đó là một thực tế và sẽ vẫn như vậy trong phần lớn thế kỷ này. Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không, tiếp tục cố gắng hội nhập Trung Quốc [với thế giới hay không] thay vì cố gắng cô lập nó bằng mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, phân mảnh, được đánh dấu bởi những hạn chế được đặt ra bởi chính phủ và các loại thuế đối với thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự thịnh vượng giảm sút, sự bất ổn dai dẳng và triển vọng thực sự của xung đột quân sự đối với tất cả các bên liên quan.
Sự sụp đổ của toàn cầu hóa, tất nhiên, là mục tiêu của nhiều trong số những quan niệm hàng đầu của chính quyền Trump. Bản thân tổng thống đã công khai chỉ trích 'chủ nghĩa toàn cầu' và coi thương mại tự do là cách để các nước khác cướp bóc ngành công nghiệp Mỹ. Ông coi các liên minh của Mỹ là lỗi thời, còn những định chế và chuẩn mực quốc tế là những ràng buộc hạn chế không đáng có đối với chủ quyền quốc gia. Những người dân túy cánh hữu đã ôm chặt lấy những quan điểm này trong nhiều năm. Và nhiều người trong số họ - đặc biệt là ở Mỹ - hiểu chính xác rằng cách dễ nhất để phá vỡ toàn bộ kiến trúc quốc tế tự do sẽ là gây ra một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc. Khó hiểu hơn nữa nằm ở chỗ những người đã dành hàng thập kỷ để xây dựng cái kiến trúc đó đang sẵn sàng hỗ trợ một chương trình nghị sự chắc chắn sẽ phá hủy nó.
Chiến lược không quá bí mật của Mỹ
Một chính sách khôn ngoan hơn của Mỹ, hướng đến việc biến Trung Quốc thành một 'cổ đông có trách nhiệm', vẫn có thể đạt được. Washington nên khuyến khích Bắc Kinh phát huy ảnh hưởng lớn hơn trong khu vực của mình và xa hơn, miễn là họ sử dụng ảnh hưởng này để củng cố hệ thống quốc tế. Sự tham gia của Trung Quốc vào những nỗ lực giải quyết [các vấn đề của loài người] sự nóng lên toàn cầu, phổ biến hạt nhân, rửa tiền và khủng bố nên được khuyến khích - và đánh giá cao. Sáng kiến Vành đai và Con đường của Bắc Kinh có thể là một lợi ích cho thế giới đang phát triển nếu được theo đuổi một cách cởi mở và minh bạch, ngay cả khi hợp tác với các nước phương Tây ở bất cứ nơi nào có thể. Về phần mình, Bắc Kinh sẽ cần chấp nhận sự chỉ trích của Mỹ về các vấn đề nhân quyền, tự do ngôn luận và tự do nói một cách tổng quát hơn.
Những điểm bắt cháy nguy hiểm nhất có thể là Hongkong và Đài Loan, nơi hiện trạng rất mong manh và cán cân quyền lực thì ủng hộ Bắc Kinh. Lầu năm góc đã ban hành 18 bài tập mô phỏng chiến tranh chống lại Trung Quốc trên Đài Loan và lần nào thì Trung Quốc cũng đã thắng. Washington nên làm rõ rằng bất kỳ chiến thắng nào như vậy cũng sẽ là chiến thắng kiểu Pyrros [8], dẫn đến sự sụp đổ kinh tế ở Hongkong hoặc Đài Loan, sự di cư hàng loạt từ các đảo đó và sự lên án của quốc tế. Nếu Bắc Kinh hành động một cách mau lẹ [nguyên văn : dốc/dựng đứng] ở Hongkong hoặc Đài Loan, chính sách hợp tác của Mỹ sẽ trở nên không thể biện hộ được trong nhiều năm.
Sự đồng thuận mới về Trung Quốc bắt nguồn từ nỗi sợ hãi rằng một lúc nào đó nước này có thể chiếm lấy toàn cầu. Nhưng có lý do để có niềm tin vào sức mạnh và mục đích của Mỹ. Cả Liên Xô lẫn Nhật Bản đều không thể chiếm lĩnh thế giới, bất chấp những lo ngại tương tự về sự trỗi dậy của họ. Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng phải đối mặt với một loạt thách thức nội bộ, từ sự suy vi nhân khẩu học đến hàng núi nợ nần. Nó đã thay đổi trước đó và sẽ buộc phải thay đổi một lần nữa nếu các lực tích hợp và răn đe tiếp tục đè lên nó. Giới tinh hoa Bắc Kinh biết rằng đất nước của họ đã thịnh vượng trong một thế giới cởi mở và ổn định. Họ không muốn phá hủy thế giới đó. Và mặc dù có một thập kỷ trì trệ chính trị trên đại lục, mối liên hệ giữa sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu và đòi hỏi mở cửa chính trị lớn hơn nữa là có thật, như đối với hai xã hội Trung Quốc vẫn được Bắc Kinh theo dõi sát sao - Hồng Kông và Đài Loan.
Một số nhà quan sát Mỹ nói về quan điểm lâu dài của Trung Quốc, về kế hoạch bí mật, kiên nhẫn của nó thống trị thế giới, liên tục được thực hiện kể từ năm 1949, nếu không phải là từ trước đó. Học giả và cựu quan chức Bộ quốc phòng Mỹ, Michael Pillsbury, đã gọi nó là 'cuộc đua marathon trăm năm' của Trung Quốc trong một cuốn sách thường được chính quyền Trump ca ngợi. Nhưng một bức tranh chính xác hơn là về một đất nước đã chần chừ một cách phù hợp từ một liên minh chặt chẽ với Liên Xô đến sự chia rẽ Trung-Xô, từ Đại nhảy vọt tới Cách mạng văn hóa đến một câu chuyện thành công tư bản, và từ sự thù địch sâu sắc đối với phương Tây tới quan hệ chặt chẽ với Mỹ rồi quay trở lại việc tán tỉnh với thái độ thù địch. Nếu đây là một cuộc đua marathon, nó đã thực hiện một số bước ngoặt kỳ lạ, nhiều trong số đó có thể đã chấm dứt nó hoàn toàn.
Trong khi đó, kể từ năm 1949, Mỹ đã kiên nhẫn đưa ra các cấu trúc và chính sách để tạo ra một thế giới ổn định, cởi mở và hội nhập hơn ; đã giúp các nước bước vào thế giới đó ; và đã răn đe những kẻ tìm cách phá hủy nó - tất cả đều thành công đáng kinh ngạc. Washington đã là cái đối ngược với sự do dự/dao động hay tập trung quá mức xét về ngắn hạn. Vào năm 2019, quân đội Mỹ vẫn ở bên bờ sông Rhine, họ vẫn đang bảo vệ Seoul và họ vẫn ở Okinawa.
Trung Quốc đưa ra một thách thức mới và lớn. Nhưng nếu Washington có thể giữ bình tĩnh và kiên nhẫn tiếp tục theo đuổi chính sách cam kết cộng với răn đe, buộc Trung Quốc phải điều chỉnh, trong khi [Mỹ] cũng tự điều chỉnh để tạo không gian cho nó, một học giả nào đó trong nhiều thập kỷ từ bây giờ có thể viết về kế hoạch không có gì là bí mật của Mỹ nhằm mở rộng khu vực hòa bình, thịnh vượng, cởi mở và quản trị tốt trên toàn cầu - một chiến lược marathon đã có kết quả.
Fareed Zakaria
Nguyên tác : The New China Scare - Why America Shouldn't Panic About Its Latest Challenger, Foreign Affairs, 6/12/2019
Một thân hữu của Viet-studies dịch và chú giải
Nguồn : viet-studies, 11/12/2019
[1] Fareed Zakaria : Nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ, năm nay mới 55 tuổi song đã rất thành công trong sự nghiệp báo chí. Tốt nghiệp Đại học Yale và lấy bằng PhD tại Đại học Harvard, F. Zakaria giữ nhiều mục cho các kênh tivi như CNN hay các tạp chí danh tiếng như Foreign Affairs, Washington Post, Newsweek... Khá nổi tiếng, mặc dù còn khá trẻ, với những suy nghĩ tự do, độc đáo và độc lập.
[2] Yuen Yuen Ang : Nhà khoa học chính trị người gốc Singapore, Phó Giáo sư về khoa học chính trị tại Đại học Michigan, trước khi về làm Phó Giáo sư cho Đại học Michigan (2011) cô đã là trợ lý giáo sư tại Đại học Columbia. Tốt nghiệp loại xuất sắc nhất (Summa Cum Laude) Đại học Colorado, lấy bằng thạc sĩ (2003) và PhD (2009) về khoa học chính trị. Là một chuyên gia am hiểu về Trung Quốc, diễn giảng nhiều và viết nhiều cho các tạp chí/báo (như Bloomberg, Foreign Affairs, Project Syndicate, Wall Street Journal...) về Trung Quốc. Các tác phẩm (sách, bài báo...) của cô được nhiều giải thưởng và được nhiều hãng tin, báo, tạp chí trích dẫn.
[3] Nicholas Lardy : Nhà kinh tế học, thành viên cao cấp danh hiệu Anthony M. Solomon tại PIIE (Peterson Institute for International Economics, Viện Peterson về kinh tế quốc tế, Washington D.C.), chuyên gia giỏi về kinh tế Trung Quốc, tác giả của vài chục đầu sách về Trung Quốc. N. Lardy đồng thời là thành viên và là biên tập viên trong ban biên tập của Asia Policy và China Review, Hội đồng quan hệ quốc tế CFR (Council on Foreign Relations, một think-tank hàng đầu thế giới về quan hệ quốc tế, có ảnh hưởng nhất ở Mỹ). N. Lardy tốt nghiệp Đại học Wisconsin (1968) và lấy bằng PhD tại Đại học Michigan (1975), đều về kinh tế học.
[4] Hệ thống kiểu Orwell : Mang tên nhà văn, nhà báo và nhà phê bình người Anh từng mô tả một kiểu điều kiện xã hội 'biểu thị một thái độ và chính sách tàn bạo kiểm soát hà khắc bằng công tác tuyên truyền, giám sát, thông tin sai, chối bỏ sự thật và thao túng quá khứ'.
[5] Tiếng Việt thường được dịch là 'Giấu mình chờ thời'. Nguyên bản tiếng Trung Quốc của câu ngạn ngữ đó là 韜光養晦 (thao quang dưỡng hối), nghĩa đen là 'giấu ánh sáng nuôi dưỡng bóng tối', do Đặng Tiểu Bình sử dụng để ẩn dụ về chính sách đối ngoại của Trung Quốc khi đó.
[6] Cái bẫy Thucydides (Thucydides trap) : Thucydides (nhà sử học thực chứng đầu tiên trên thế giới) đã viết từ hơn 2.400 năm trước trong cuốn 'Lịch sử chiến tranh Peloponnesus' về nguyên nhân của cuộc chiến tranh : 'sự lớn mạnh của cường quốc Athens và nỗi lo sợ mà nó gây ra ở Sparta'. Nói một cách khác, khi một cường quốc trỗi dậy, một cường quốc đã sẵn có sẽ lo ngại và chuẩn bị chiến tranh, với cái này biến thành một vòng luẩn quẩn thì rút cục sẽ dẫn đến chiến tranh. Khái niệm 'cái bẫy Thucydides' đã được G.T. Allison (Giáo sư nổi tiếng về khoa học chính trị tại Trường hành chính Kennedy, Đại học Harvard) đặt ra và sử dụng để ám chỉ rằng sự lo ngại của Mỹ trước sức mạnh đang tăng lên của Trung quốc có thể chuyển hóa thành chiến tranh (nóng hay lạnh). Trong bài báo có tựa đề 'The Thucydides Trap', Foreign Policy 9/5/2017, G. Allison đã tổng kết rằng 'trong 500 năm qua đã có 16 trường hợp trong đó một cường quốc đang nổi lên đe doạ sẽ thay thế một cường quốc cầm quyền. Mười hai trong số này đã kết thúc trong chiến tranh'. Bốn trường hợp còn lại, theo G. Allison là 'Tây Ban Nha vượt qua Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ 15, Mỹ vượt qua Anh vào đầu thế kỷ 20, và sự trỗi dậy của Đức ở Châu Âu từ năm 1990 - sự đi lên của Liên bang xô viết là một bài học độc nhất vô nhị ngày hôm nay. Mặc những khoảnh khắc mà một cuộc đụng độ dữ dội dường như đã chắc chắn diễn ra, một sự dâng trào trí tưởng tượng chiến lược đã giúp cả hai bên phát triển các cách cạnh tranh mà không xảy ra một cuộc xung đột thảm khốc. Cuối cùng, Liên bang xô viết đổ ụp và Chiến tranh lạnh kết thúc với một tiếng rên chứ không phải bằng một tiếng nổ'.
[7] Tổ hợp công nghiệp-quân sự (MIC, Military-Industrial Complex) : Liên minh nhằm những mục đích chung giữa những nhân vật hoạch định chính sách, các tướng lĩnh quân đội với các công ty sản xuất/cung ứng đồ quân sự cũng như những tầng lớp trong xã hội quan tâm tới ngân sách quốc phòng, bao gồm cả những người vận động hành lang. Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, đưa ra khái niệm này lần đầu vào năm 1961 trong diễn văn từ biệt đọc trước quốc hội, cảnh báo về nguy cơ có thể gây hại cho xã hội của liên minh công nghiệp-quân phiệt móc ngoặc và thao túng đó. Xin lưu ý không nên nhầm lẫn với khái niệm Tổ hợp công nghiệp quốc phòng (DIC, Defence-Industrial Complex, trong tiếng Nga là Военно-Промышленный Комплекс, nếu được dịch sát từng chữ cũng sẽ là 'Tổ hợp công nghiệp-quân sự' nên hay gây nhầm lẫn) vẫn được các nhà nghiên cứu lịch sử thiên về kinh tế của các nước phương Tây sử dụng để chỉ Phức hợp công nghiệp-quân sự trong quá trình nghiên cứu về công nghiệp quân sự Liên xô trước đây - bao gồm công nghiệp quốc phòng, các đơn vị nghiên cứu và sản xuất của nó, lực lượng lao động và hệ thống quản lý, các nhà máy và các nhà lãnh đạo, không bao hàm các lãnh đạo Đảng, nhà nước, quân đội chuyên nghiệp cũng như một số thành phần khác.
[8] Chiến thắng kiểu Pyrros (Pyrrhic victory) : Là chiến thắng mang tính hủy diệt đối phương song bên chiến thắng cũng tổn thất nặng nề, có thể dẫn tới diệt vong. Pyrros là vua và là chỉ huy quân sự kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp cổ đại), từng chiến thắng, đánh tan tác quân La Mã trong các trận đánh tại Heraclea (280 trước công nguyên) và Asculum (279 trước công nguyên) song mất rất nhiều binh lực và tướng tài, bản thân nhà vua cũng bị thương. Sau chiến thắng Asculum, quần thần dâng lời tôn vinh chiến công, nhà vua nói rằng 'Thêm một trận thắng như vậy thì sự nghiệp của trẫm cũng đi đời'. Thực tế thì, mặc dù quân La Mã bị tổn thất nặng hơn quân Ipiros rất nhiều trong các trận Heraclea và Asculum song La Mã có tiềm lực hơn hẳn Ipiros (các thiệt hại không bù đắp được) nên tới năm 275 trước công nguyên thì La Mã đánh bại Ipiros.
******************
(2) Thay vì triệt hạ, Mỹ nên thích nghi với sự vươn lên của Trung Quốc ?
VOA, 11/12/2019
Thay vì xem Trung Quốc là một đối thủ nguy hiểm mà Mỹ cần phải cắt đứt quan hệ và tìm cách triệt hạ về kinh tế, chính trị và quân sự, Washington nên chấp nhận thực tế là sự vươn lên của Trung Quốc là không cách nào có thể cản lại được và Mỹ và thế giới đều được hưởng lợi từ sự vươn lên đó, một bài viết trên tạp chí chuyên ngành về đối ngoại ‘Foreign Affairs' nhận định.
Trung Quốc đang thi hành chính sách ngoại giao quyết đoán dưới thời Tập Cận Bình
Tác giả Fareed Zakaria trong bài phân tích nhan đề ‘Nỗi sợ mới về Trung Quốc : Tại sao Mỹ không nên hoảng sợ về đối thủ mới nhất này ?' đã trình bày cụ thể những lý do mà VOA Việt ngữ xin lược dịch để giới thiệu đến quý độc giả.
Sự đồng thuận mới
Trong cuộc tranh luận hiện nay của Mỹ về Trung Quốc, có sự đồng thuận mới từ phía lưỡng đảng, cánh quân sự và các cơ quan truyền thông chủ chốt cho rằng Trung Quốc hiện là mối đe dọa đối với Mỹ cả về kinh tế và chiến lược, rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã thất bại, và Washington cần một chiến lược mới mẻ và cứng rắn hơn để kiềm chế Bắc Kinh. Sự đồng thuận này đã đẩy lập trường của công chúng Mỹ về phía gần như là thù địch : theo thăm dò dư luận, có 60% người Mỹ hiện có quan điểm tiêu cực về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - mức cao kỷ lục kể từ khi Trung tâm Nghiên cứu Pew bắt đầu cuộc thăm dò này vào năm 2005.
Cần phải nói rõ : Trung Quốc là một chế độ đàn áp với những chính sách hoàn toàn phi tự do, từ cấm đoán tự do ngôn luận cho đến cầm tù các nhóm tôn giáo thiểu số. Trong năm năm qua, họ đã tăng cường kiểm soát chính trị và kinh tế ở trong nước. Còn ở nước ngoài, họ là kẻ ganh đua và trong một số lĩnh vực là đối thủ của Mỹ. Nhưng câu hỏi chiến lược thiết yếu cho người Mỹ ngày nay là, liệu những sự thật này có khiến Trung Quốc trở thành một mối đe dọa lớn và ở mức độ đe dọa như thế, nó cần được xử lý như thế nào ?
Hậu quả của việc phóng đại mối đe dọa của Liên Xô là rất lớn : trong nước Mỹ là sự chà đạp nhân quyền trắng trợn trong thời kỳ McCarthy (vị nghị sỹ đề ra dự luật chống Cộng mang tên ông) ; cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân nguy hiểm ; một cuộc chiến tranh dài, vô ích và thất bại ở Việt Nam ; và vô số các cuộc thiệp quân sự khác ở những nước được gọi là Thế giới thứ Ba. Hậu quả của việc không hiểu đúng thách thức của Trung Quốc ngày hôm nay sẽ còn lớn hơn nữa. Mỹ có nguy cơ phung phí những lợi ích mà khó khăn lắm mới có được từ bốn thập kỷ can dự với Trung Quốc, khuyến khích Bắc Kinh thực hiện chính sách đối đầu, và đưa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuộc xung đột tàn nhẫn với quy mô và mức độ không rõ ràng. Điều này sẽ dẫn đến nhiều thập kỷ bất ổn và bất an. Một cuộc chiến tranh lạnh với Trung Quốc có thể sẽ kéo dài và tốn kém hơn nhiều so với cuộc chiến với Liên Xô, với kết cục không chắc chắn.
Mỹ nên dành thời gian để xem xét kỹ các giả định đằng sau sự đồng thuận mới về Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, sự đồng thuận đó là : thứ nhất, sự can dự đã thất bại vì nó không ‘chuyển hóa sự phát triển bên trong và hành vi bên ngoài của Trung Quốc' ; thứ hai, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh hiện là mối đe dọa đáng kể nhất đối với lợi ích của Mỹ và, mở rộng ra, đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà Mỹ đã gầy dựng sau năm 1945 ; thứ ba, chính sách đối đầu tích cực với Trung Quốc sẽ giúp đẩy lùi mối đe dọa tốt hơn là tiếp tục cách tiếp cận trước đó.
Sự đồng thuận lưỡng đảng này ra đời để đáp lại những thay đổi đáng kể và đáng lo ngại ở Trung Quốc. Kể từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo tối cao ở Trung Quốc, quá trình tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại và cải cách chính trị - dù hạn chế - đã bị đảo ngược. Bắc Kinh bây giờ kết hợp đàn áp chính trị với tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa vốn giống như thời đại Mao Trạch Đông. Ở nước ngoài, Trung Quốc có tham vọng và quyết đoán. Những thay đổi này là có thật và đáng lo ngại.
Can dự và phòng ngừa
Xác định phản ứng hiệu quả đòi hỏi phải bắt đầu từ hiểu biết rõ ràng về chiến lược Trung Quốc của Mỹ cho đến thời điểm này. Điều không thấy trong đồng thuận mới là trong gần năm thập kỷ kể từ khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon mở cửa cho Bắc Kinh, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc chưa bao giờ hoàn toàn là can dự mà là sự kết hợp của can dự và răn đe. Vào cuối những năm 1970, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc gắn kết Trung Quốc vào hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu sẽ tốt hơn là để họ ngồi ngoài, tức tối và tìm cách cản trở. Nhưng Washington cũng đồng thời hỗ trợ nhất quán cho các cường quốc Châu Á khác, bao gồm, tất nhiên là tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Cách tiếp cận đó, đôi khi được mô tả là một ‘chiến lược phòng ngừa', đảm bảo rằng khi Trung Quốc trỗi dậy, sức mạnh của nó sẽ được kiểm soát và các nước láng giềng của Trung Quốc cảm thấy an toàn.
Vào những năm 1990, khi kẻ thù Liên Xô không còn nữa, Ngũ Giác Đài đã cắt giảm chi tiêu, đóng cửa căn cứ và giảm quân số trên toàn thế giới, ngoại trừ ở Châu Á. Chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương năm 1995 của Lầu Năm Góc, còn được gọi là Sáng kiến Nye, đã cảnh báo về việc xây dựng quân đội và tham vọng chính sách đối ngoại của Trung Quốc và tuyên bố rằng Mỹ sẽ không giảm sự hiện diện quân sự trong khu vực. Thay vào đó, ít nhất 100.000 lính Mỹ sẽ ở lại Châu Á trong tương lai gần. Bán vũ khí cho Đài Loan sẽ tiếp tục vì hòa bình ở Eo biển Đài Loan để răn đe Bắc Kinh đừng sử dụng vũ lực đối với hòn đảo tự trị này.
Cách tiếp cận phòng ngừa này được duy trì bởi tổng thống của cả hai đảng. Chính quyền George W. Bush đã đảo ngược chính sách phi đảng phái của Mỹ trong hàng thập kỷ để công nhận Ấn Độ là cường quốc hạt nhân mà chủ yếu là để thêm một chốt chặn khác về Trung Quốc. Dưới thời Tổng thống Barack Obama, Hoa Kỳ đã tăng cường răn đe, mở rộng sự hiện diện ở Châu Á với các thỏa thuận quân sự mới với Úc và Nhật Bản và nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam. Đó cũng là mục đích của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ra đời nhằm để tạo cho các nước Châu Á một nền tảng kinh tế cho phép họ kháng cự sự thống trị của Trung Quốc. Bản thân ông Obama đã đương đầu với ông Tập về vấn đề không gian mạng và áp thuế nhập khẩu lốp xe Trung Quốc để trả đũa các chính sách thương mại không công bằng của nước này.
Quốc gia có trách nhiệm ?
Trung Quốc ngày nay là một quốc gia có trách nhiệm về địa chính trị và quân sự. Họ đã không gây chiến kể từ năm 1979. Họ cũng không sử dụng vũ lực gây chết chóc ở nước ngoài kể từ năm 1988. Bắc Kinh cũng không tài trợ hoặc hỗ trợ cho các lực lượng nổi dậy vũ trang ở bất cứ đâu trên thế giới kể từ đầu những năm 1980. Sự không can thiệp quân sự đó là kỷ lục duy nhất trong số các đại cường. Tất cả các ủy viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã sử dụng vũ lực nhiều lần ở nhiều nơi trong vài thập kỷ qua với Mỹ là nước dẫn đầu.
Bắc Kinh đã đi từ nỗ lực làm suy yếu trật tự quốc tế đến bỏ ra số tiền lớn để củng cố trật tự đó. Bắc Kinh hiện là nước đóng góp lớn thứ hai cho Liên Hiệp Quốc và chương trình gìn giữ hòa bình của cơ quan này. Họ đã triển khai 2.500 nhân viên gìn giữ hòa bình, nhiều hơn tất cả các thành viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an gộp lại. Từ năm 2000 cho đến 2018, Bắc Kinh ủng hộ 182 trong số 190 nghị quyết của Hội đồng Bảo an áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia được coi là đã vi phạm luật pháp hoặc chuẩn mực quốc tế.
Nếu ai đó đã dự đoán vào năm 1972 rằng Trung Quốc sẽ trở thành người bảo vệ nguyên trạng quốc tế, ít ai có thể tin rằng nó sẽ xảy ra.
Chơi xấu về kinh tế ?
Sự đồng thuận mới về hành vi kinh tế của Trung Quốc cho rằng nước này đã buộc các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ, đã trợ cấp cho ‘công ty nhà nước hàng đầu' và đã dựng lên các rào cản chính thức và không chính thức để chặn đường các công ty nước ngoài đang tìm cách thâm nhập thị trường Trung Quốc. Nói tóm lại, Bắc Kinh đã sử dụng nền kinh tế quốc tế mở để củng cố hệ thống kinh tế đặt dưới sự quản lý Nhà nước của họ.
Đúng là những chính sách không công bằng này cần được phần còn lại của thế giới chú ý và đáp trả. Chính quyền Trump xứng đáng được khen ngợi vì đã giải quyết vấn đề này, đặc biệt là trong bối cảnh ông Tập củng cố sự kiểm soát của Nhà nước sau nhiều thập kỷ tự do hóa. Và một lần nữa, Mỹ cần phải phản ứng như thế nào mới là đúng ?
Hầu hết các kinh tế gia đều đồng ý rằng Trung Quốc thành công về kinh tế như vậy nhờ vào ba nhân tố cơ bản : chuyển đổi từ nền kinh tế cộng sản sang cách tiếp cận mang tính thị trường hơn, tỷ lệ tiết kiệm cao giúp họ có thể đầu tư vốn ào ạt và năng suất gia tăng. Trong ba thập kỷ qua, quốc gia này cũng đã mở tiếp nhận đầu tư nước ngoài một cách đáng kể. Trung Quốc là một trong chỉ hai quốc gia đang phát triển có mặt trong 25 thị trường hàng đầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1998. Trong nhóm BRICS các quốc gia mới nổi lớn, Trung Quốc luôn được xếp hạng là nền kinh tế mở và cạnh tranh nhất.
Điều đáng chú ý là hầu hết những cáo buộc nhằm vào Trung Quốc ngày nay như ép buộc chuyển giao công nghệ, thương mại không công bằng, hạn chế tiếp cận đối với các công ty nước ngoài, ưu ái về luật lệ cho các công ty tong nước, cũng từng là những chỉ trích nhằm vào Nhật Bản trong những năm 1980 và 1990.
Vào thời điểm đó, cuốn sách có ảnh hưởng lớn của Clyde Prestowitz với tựa đề : Đổi ngôi : ‘Làm thế nào nước Mỹ đầu hàng tương lai cho Nhật Bản và làm thế nào để giành lại vị thế' giải thích rằng nước Mỹ chưa bao giờ tưởng tượng phải xử lý một quốc gia mà ‘công nghiệp và thương mại được tổ chức như một phần của nỗ lực đạt được các mục tiêu quốc gia cụ thể'. Khi tăng trưởng của Nhật Bản giảm dần, những nỗi sợ hãi quá đà này cũng dần biến mất.
Trung Quốc ngày nay đặt ra một số thách thức mới, đặc biệt là quyết tâm của ông Tập để nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc giúp nước này chiếm ưu thế kinh tế trong các lĩnh vực quan trọng. Nhưng lợi thế lớn nhất của Trung Quốc trong hệ thống thương mại toàn cầu không đến từ việc họ sẵn sàng vi phạm các quy tắc mà từ quy mô quá lớn của nó. Các quốc gia và công ty muốn tiếp cận thị trường Trung Quốc phải sẵn sàng nhượng bộ để được tiếp cận. Điều này cũng không có gì bất thường. Các quốc gia khác có sức mạnh tương tự thường có cách làm tương tự hoặc thậm chí còn tệ hơn nữa mà cũng chẳng hề hấn gì. Một báo cáo năm 2015 của Credit Suisse tổng kết một loạt các rào cản phi thuế quan mà các nước lớn áp đặt trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2013 với Mỹ gần như đứng một mình không nước nào bằng. Tiếp theo là Ấn Độ, sau đó là Nga. Trung Quốc đứng ở vị trí thứ năm với số lượng rào cản phi thuế quan chỉ bằng một phần ba của Mỹ. Mọi thứ đã không thay đổi nhiều kể từ đó.
Hầu hết những thay đổi gần đây trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh đều tiêu cực, nhưng không phải toàn bộ đều là như vậy. Ngay cả khi ông Tập thiết lập trở lại sự kiểm soát nhà nước chặt chẽ hơn, thị trường tự do đã lớn mạnh trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Chính phủ hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhà nước hơn so với vài năm trước đây, nhưng Bắc Kinh đã từ bỏ chính sách vốn từng đóng vai trò trung tâm trong chiến lược thương mại của họ : phá giá đồng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Kinh tế gia Nicholas Lardy đã tính toán rằng việc chấm dứt cách làm này ‘chịu trách nhiệm đến phân nửa trong đà suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu'.
Theo ông Peter Navarro, cố vấn thương mại hàng đầu của Tổng thống Donald Trump, vấn đề số một trong tranh chấp thương mại với Trung Quốc là ‘hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ'. Việc Trung Quốc có hành vi đánh cắp tài sản trí tuệ tràn lan là một thực tế được thừa nhận rộng rãi. Một khảo sát gần đây Hội đồng doanh nghiệp Mỹ-Trung thực hiện cho thấy bảo vệ sở hữu trí tuệ đứng thứ sáu trong danh sách các mối quan tâm cấp bách của các doanh nghiệp Mỹ hoạt động ở Trung Quốc, giảm từ vị trí thứ hai năm 2014. Đó chính là năm mà Trung Quốc đã thiết lập các tòa án chuyên môn đầu tiên để thụ lý các vụ án sở hữu trí tuệ. Trong năm 2015, các nguyên đơn nước ngoài đã đưa 63 vụ ra Tòa án Sở hữu trí tuệ Bắc Kinh và tòa đã phán phán quyết phần thắng cho các công ty nước ngoài trong tất cả 63 vụ.
Tất nhiên, những cải cách như thế này thường chỉ được thực hiện khi đối mặt với áp lực của phương Tây và, ngay cả khi đó, chúng phục vụ lợi ích cạnh tranh của chính Trung Quốc -hãng xin bằng sáng chế lớn nhất thế giới năm ngoái là hãng viễn thông khổng lồ của Trung Quốc Huawei.
Cho Trung Quốc vai trò xứng đáng ?
Còn về các diễn biến chính trị, mọi việc là không thể nghi ngờ. Trung Quốc đã không mở cửa chính trị đến mức nhiều người mong đợi ; trên thực tế họ tiến tới đàn áp và kiểm soát chặt chẽ hơn. Sự đối xử tàn tệ của Bắc Kinh đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo. Nhà nước cũng đã bắt đầu sử dụng các công nghệ mới, như phần mềm nhận dạng khuôn mặt và trí tuệ nhân tạo, để tạo ra một hệ thống kiểm soát xã hội toàn diện. Tuy nhiên, sẽ là cường điệu khi cho rằng chúng là bằng chứng cho sự thất bại của chính sách Mỹ. Trên thực tế, rất ít quan chức Mỹ từng lập luận rằng việc can dự sẽ dẫn đến nền dân chủ tự do ở Trung Quốc. Họ chỉ hy vọng rằng nó sẽ xảy ra, nhưng trọng tâm của họ luôn là điều chỉnh hành vi bên ngoài của Trung Quốc, điều mà họ đã thành công.
Dưới thời ông Tập, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trở nên tham vọng và quyết đoán hơn, từ việc theo đuổi vai trò lãnh đạo tại các cơ quan Liên Hợp Quốc đến Sáng kiến Vành đai và Con đường và bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông. Những động thái này đánh dấu sự đoạn tuyệt với chính sách trước đó của Bắc Kinh trên vũ đài quốc tế theo phương châm do cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình để lại là ‘Giấu mình chờ thời'. Đặc biệt, quân đội Trung Quốc được xây dựng với quy mô và được thiết lập theo cách cho thấy họ đang thực hiện một cách có hệ thống kế hoạch dài hạn. Nhưng đối với Mỹ mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc như thế nào là chấp nhận với trọng lượng kinh tế của họ trên thế giới ? Nếu trước tiên Washington không đặt ra câu hỏi này, họ không thể đưa ra những tuyên bố nghiêm túc rằng Trung Quốc sử dụng quyền lực nào là vượt qua giới hạn. Trung Quốc, theo một số tiêu chí, đã là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong vòng mười đến 15 năm tới, nước này có thể sẽ chiếm được vị trí này tính theo tất cả các tiêu chí. Ông Đặng đưa ra lời khuyên ‘giấu mình chờ thời' khi nền kinh tế Trung Quốc chiếm khoảng 1% GDP toàn cầu. Ngày nay, nó chiếm hơn 15%. Trung Quốc thực sự đã chờ đợi thời cơ của mình, và giờ đây, một Trung Quốc mạnh mẽ hơn tự nhiên sẽ tìm kiếm vai trò lớn hơn ở khu vực và toàn cầu.
Hoa Kỳ vào năm 1823 là được xem là quốc gia đang phát triển theo tiêu chuẩn bây giờ, thậm chí còn không nằm trong số năm nền kinh tế hàng đầu thế giới, và với Học thuyết Monroe, nước này đã tuyên bố toàn bộ bán cầu Tây là ‘không thể đụng đến' đối với các cường quốc Châu Âu. Trường hợp của Mỹ là lời nhắc nhở rằng khi các nước có được sức mạnh kinh tế, họ tìm kiếm sự kiểm soát và ảnh hưởng lớn hơn đối với không gian của họ. Nếu Washington xem nỗ lực tương tự của Trung Quốc là nguy hiểm, thì nước Mỹ sẽ đi ngược lại sự vận động tự nhiên của đời sống quốc tế và rơi vào ‘cái bẫy Thucydides', tức nguy cơ chiến tranh giữa một cường quốc mới nổi và cường quốc hiện trạng.
Trung Quốc khó lòng là mối đe dọa mang tính sống còn đối với trật tự quốc tế tự do. Đối với Mỹ, đối phó với một đối thủ như vậy là một thách thức mới. Kể từ năm 1945, các quốc gia mới vươn lên trở thành phồn vinh và có địa vị nổi bật đều là những đồng minh thân cận nhất của Washington như : Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ lớn hơn nhiều so với các nước đó mà nó còn nằm ngoài cấu trúc liên minh và phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Thách thức đối với Hoa Kỳ và phương Tây nói chung là xác định phạm vi có thể chấp nhận được đối với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc và thích nghi với nó.
Cho đến nay, phương Tây đã hành động rất kém để thích nghi với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cả Hoa Kỳ và Châu Âu đều không muốn để mất phần về tay Trung Quốc trong các định chế kinh tế toàn cầu cốt lõi như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tìm kiếm vai trò lớn hơn trong Ngân hàng Phát triển Châu Á, nhưng Mỹ đã chống lại. Kết quả là vào năm 2015, Bắc Kinh đã thành lập định chế tài chính đa phương của riêng mình, Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á vốn gặp phải sự phản đối của Washington nhưng vô vọng. Ngoại trưởng Mỹ Pompeo đã phát biểu một cách kẻ cả rằng Mỹ và các đồng minh phải kiềm giữ Trung Quốc ở ‘nơi thích hợp của họ'. Tội lỗi của Trung Quốc, theo ông Pompeo, là họ chi cho quân đội nhiều hơn cần thiết để phòng thủ. Nhưng Mỹ, Pháp, Nga, Anh và hầu hết các nước lớn khác đều làm như vậy.
Trật tự thế giới cũ mà các nước Châu Âu có trọng lượng lớn trên trường quốc tế trong khi những quốc gia khổng lồ như Trung Quốc và Ấn Độ bị loại khỏi hàng đầu của các tổ chức toàn cầu là không thể bền vững. Trung Quốc sẽ phải được dành cho vị trí xứng đáng và thực sự được cơ cấu vào các cấu trúc ra quyết định, nếu không họ sẽ tự hành động và đơn phương tạo ra các định chế và trật tự mới của riêng mình. Sự vươn lên của Trung Quốc nắm lấy quyền lực toàn cầu là nhân tố mới quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế trong nhiều thế kỷ.
Không đe dọa trật tự thế giới như Nga ?
Đối với nhiều người, sự trỗi dậy của Bắc Kinh đã gióng lên hồi chuông báo tử đối với trật tự quốc tế tự do được Mỹ thiết lập sau Đệ nhị Thế chiến, vốn bao gồm hệ thống dựa trên luật pháp giúp giảm bớt nguy cơ chiến tranh và tạo điều kiện cho giao thương và nhân quyền phát triển. Tính chất chính trị của Trung Quốc, một nhà nước độc đảng vốn không dung thứ chống đối hay bất đồng chính kiến và một số hành động của họ trên quốc tế khiến họ trở thành một thành viên không thoải mái trong trật tự này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng trật tự quốc tế không bao giờ tự do, hoặc có trật tự thật sự. Bản thân nước Mỹ cũng thường hành động bên ngoài các quy tắc của trật tự này chẳng hạn như họ thường xuyên can thiệp quân sự có hoặc không có sự chấp thuận của Liên Hiệp Quốc ; trong khoảng thời gian từ năm 1947 đến 1989, khi Mỹ được cho là đang xây dựng trật tự quốc tế tự do, họ đã tìm cách thay đổi chế độ 72 lần trên toàn thế giới. Mỹ cũng thực thi chủ nghĩa bảo hộ trong khi sỉ vả các biện pháp thương mại ôn hòa hơn của các nước khác.
So với Nga, vốn tìm cách phá vỡ thế giới dân chủ phương Tây và thường được hưởng lợi trực tiếp từ sự bất ổn vì nó làm tăng giá dầu (nguồn thu nhập lớn nhất của Kremlin), Trung Quốc không có vai trò như vậy. Khi họ thật sự bẻ cong các quy tắc và tham gia vào chiến tranh mạng, họ đánh cắp các bí mật quân sự và kinh tế thay vì tìm cách phá hoại các cuộc bầu cử dân chủ ở Hoa Kỳ hoặc Châu Âu. Bắc Kinh lo ngại bất đồng và chống đối và đặc biệt nhạy cảm về Hong Kong và Đài Loan và sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để kiểm duyệt các công ty phương Tây trừ khi họ đi theo đường lối của đảng. Nhưng Bắc Kinh làm như vậy là để bảo vệ điều mà họ xem là chủ quyền chứ không giống như những nỗ lực có hệ thống của Moscow nhằm phá hoại nền dân chủ phương Tây.
Sự trỗi dậy của một quốc gia độc đảng vốn bác bỏ các khái niệm cốt lõi về nhân quyền là một thách thức. Các chính sách đàn áp của Bắc Kinh đe dọa các yếu tố của trật tự quốc tế tự do, như nỗ lực hạ thấp các chuẩn mực nhân quyền toàn cầu và hành xử của họ ở Biển Đông. Những vấn đề cần được xem xét một cách trung thực. Trung Quốc rất muốn né tránh bị định danh các vi phạm nhân quyền và nghị trình đó cần được vạch trần và chống lại. Tuy nhiên, quyết định của chính quyền Trump rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc lại có tác dụng ngược bằng cách nhượng sân chơi lại cho Bắc Kinh.
Giả định cuối cùng trong sự đồng thuận mới là kiên trì đối đầu với Trung Quốc sẽ ngăn hành động phiêu lưu của họ ở nước ngoài và tạo tiền đề cho sự thay đổi bên trong. Tức là lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc sẽ buộc nước này phải biết điều và thậm chí phải cải cách. Trung tâm của chiến lược diều hâu này là quan niệm rằng kiềm chế Trung Quốc sẽ dẫn đến sự sụp đổ chế độ, giống như đã xảy ra với Liên Xô.
Nhưng Trung Quốc không phải là Liên Xô, một đế chế phi tự nhiên được xây dựng trên sự bành trướng tàn bạo và thống trị quân sự. Ở Trung Quốc, Mỹ đối đầu với một nền văn minh, và một quốc gia, với ý thức đoàn kết và niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ. Trung Quốc đang trở thành một đồng đẳng kinh tế của Mỹ và thực sự là nước đi đầu về công nghệ trong một số lĩnh vực. Dân số của họ gấp nhiều lần của Mỹ và là thị trường lớn nhất thế giới cho hầu hết mọi hàng hóa trên thế giới. Nó có trữ lượng ngoại hối lớn nhất trên hành tinh.
Phụ thuộc lẫn nhau
Lầu Năm Góc đã đưa ra khái niệm Trung Quốc là ‘đối thủ chiến lược' hàng đầu. Nếu xem Trung Quốc là kẻ thù tức là nước Mỹ quay trở lại thời đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, khi mà Lầu Năm Góc có thể tăng ngân sách rất nhiều bằng cách thổi phồng bóng ma của một đối thủ với quân đội rủng rỉnh tiền bạc, tân tiến với công nghệ mũi nhọn. Trong khi đó, khả năng răn đe hạt nhân và sự thận trọng của các cường quốc đảm bảo rằng một cuộc chiến toàn diện giữa hai bên sẽ không bao giờ xảy ra. Chi phí cho một cuộc chiến tranh lạnh như vậy với Trung Quốc sẽ là vô cùng lớn, làm biến dạng nền kinh tế Mỹ.
Ngoài ra Mỹ và Trung Quốc còn có sự phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng 527% kể từ năm 2001 và trong năm 2018, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng hóa lớn nhất cho Mỹ. Hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Hoa Kỳ, cùng với gần năm triệu công dân Mỹ gốc Hoa. Mỹ đã hưởng lợi rất nhiều từ việc là nơi tập trung những bộ óc thông minh nhất để thực hiện nghiên cứu mũi nhọn nhất và sau đó áp dụng nó vào mục đích thương mại. Nếu Mỹ cấm cửa những tài năng như vậy chỉ vì họ đến từ Trung Quốc, Mỹ sẽ nhanh chóng mất vị thế đặc quyền trong thế giới công nghệ và sáng tạo.
Trong các vấn đề về công nghệ, chiến lược của chính quyền Trump là cắt đứt với Trung Quốc và buộc phần còn lại của thế giới phải làm theo, chẳng hạn trong lệnh cấm tập đoàn viễn thông Huawei. Tuy nhiên, phần còn lại của thế giới không nghe theo vì Mỹ thiếu công nghệ thay thế để cạnh tranh với các sản phẩm 5G của Huawei. Chính quyền Trump đã yêu cầu 61quốc gia cấm cửa Huawei nhưng cho đến nay chỉ có ba nước tham gia và đều là đồng minh thân cận của Mỹ. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của nhiều quốc gia ngoài Mỹ, bao gồm các nước lớn ở Tây bán cầu, chẳng hạn như Brazil. Khi được hỏi họ sẽ phản ứng thế nào về việc cắt đứt giữa Mỹ và Trung, các nhà lãnh đạo trên thế giới hầu như đều đưa ra câu trả lời giống nhau là : ‘Đừng yêu cầu chúng tôi chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Quý vị sẽ không thích câu trả lời đâu'. Hơn nữa, nếu Trung Quốc bị cô lập thì họ sẽ xây dựng chuỗi cung ứng và công nghệ nội địa của riêng mình và khi đó áp lực của Mỹ sẽ không làm gì được.
Trung Quốc cũng có thành phần cứng rắn như Mỹ. Những người này đã cảnh báo trong nhiều năm rằng Mỹ đang tìm cách kiềm chế Trung Quốc. Lập trường của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đang khiến cho thành phần diều hâu này chứng tỏ tầm ảnh hưởng của họ và từ đó cho họ đòn bẩy để thúc đẩy hành vi quyết đoán và gây bất ổn – chính là điều mà Mỹ muốn tránh.
Vấn đề là liệu Mỹ có nên cạnh tranh trong khuôn khổ quốc tế ổn định hay không và tiếp tục hội nhập Trung Quốc thay vì cố gắng cô lập bằng mọi giá. Một trật tự quốc tế bị phá vỡ, bị rẽ đôi với những hạn chế nhằm vào nahu và thuế vào thương mại, công nghệ và du lịch, sẽ dẫn đến sự giảm sút thịnh vượng, bất ổn dai dẳng và nguy cơ xung đột quân sự trên toàn cầu.
Khó lòng soán ngôi Mỹ ?
Nhận định của nhà báo Fareed Zakaria cũng giống như ý kiến của ông Richard Heydarian, phó giáo sư chính trị học thuộc Đại học De La Salle, Philippines, tại một buổi thảo luận bàn tròn mới đây ở Viện Hudson, Washington D.C., với chủ đề ‘Đẩy lùi Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương'.
Vị giáo sư này nói rằng việc gìn giữ hòa bình và ổn định ở Châu Á-Thái Bình Dương ‘không phải là vấn đề đương đầu hay loại bỏ Trung Quốc mà là đảm bảo chúng ta có thể xử lý sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng một cách có thể chấp nhận được và có lợi ích cho cả hai bên'.
Ông dẫn lại nhận định của cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, người mà ông cho rằng ‘rất am hiểu về Trung Quốc, rằng ‘sự trỗi dậy của Trung Quốc đột biến đến mức nó sẽ thay đổi bản thân trật tự thế giới chỉ vì quy mô, tầm ảnh hưởng và tham vọng của Trung Quốc'.
"Chúng ta cảm thấy điều này rất rõ ở khu vực Đông Nam Á", ông nói. "Đây không chỉ là một cường quốc mới nổi khác mà chúng ta phải tìm cách cân bằng mà là cường quốc thay đổi luật lệ của cuộc chơi".
Tuy nhiên, ông cho rằng Mỹ và thế giới không nên quá lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc vì theo ông lập luận, dù có trỗi dậy đi nữa, Trung Quốc cũng khó lòng soán ngôi Mỹ.
"Rất nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng Trung Quốc sắp vượt qua Mỹ vì quy mô GDP của họ quá lớn", ông nói. "Nhưng sức mạnh của một nước không chỉ đơn thuần là quy mô của nền kinh tế mà còn là tài nguyên, là nguồn nhân lực, là mức sống và là khả năng có được công nghệ của nước đó".
Ông đưa ra dẫn chứng là trong một lĩnh vực mũi nhọn là công nghệ sinh học ‘Mỹ hiện đi trước Trung Quốc khá xa'.
"Nhiều người hoảng sợ vì Trung Quốc đang cho ra lò đến một triệu khoa học gia mỗi năm. Nhưng vấn đề là chất lượng của các khoa học gia này, họ có tỷ lệ trích dẫn và bài báo đăng trên các tạp chí ISI đến đâu", ông phân tích.
Một lý do nữa mà Trung Quốc khó lòng giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới của Mỹ là ‘người dân khắp khu vực Châu Á-Thái Bình Dương vẫn muốn Mỹ là nước lãnh đạo nhiều hơn Trung Quốc mặc dù đã có những nghi ngờ về chính quyền Trump.
Ông cho biết về mặt chính thức lãnh đạo các nước Đông Nam Á hoan nghênh các khoản đầu tư của Trung Quốc trong khôn khổ Ý tưởng Vành đai-Con đường nhưng ‘trong hậu trường có rất nhiều nghi ngại từ phía các chuyên gia và các quan chức chính phủ'.
Ông cũng chỉ ra rằng trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng mà ông cho là tuyến đầu của cuộc cạnh tranh địa chính trị, ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á không lớn như nhiều người tưởng mà thật ra Nhật Bản mới là người dẫn đầu.
"Nếu nhìn vào Đông Nam Á thì Nhật có nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng hơn Trung Quốc", ông nói và cho biết ở những nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên Biển Đông như Việt Nam và Philippines, Nhật Bản là nước dẫn đầu trong đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bỏ xa các nước khác.
Ông cho biết ở Việt Nam, Nhật hiện có 74 dự án cơ sở hạ tầng so với chỉ 24 dự án của Trung Quốc.
Nguồn : VOA, 11/12/2019