Chỉ còn hai ngày nữa là kỷ niệm 48 năm ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Tôi viết bài này như một lời xin lỗi muộn màng với dân tộc, đất nước. Lời xin lỗi phải chờ tới 48 năm sau mới đủ can đảm nói lên.
Tôi viết bài này như một lời xin lỗi muộn màng với dân tộc, đất nước. Lời xin lỗi phải chờ tới 48 năm sau mới đủ can đảm nói lên.
Khi cuộc chiến ngày càng khốc liệt vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 thế kỷ 20, không thấy được những chết chóc, tàn bạo, những hiểm nguy rình rập từng giây, từng phút, từng ngày của người lính trong các binh chủng bộ binh, nhẩy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân... lúc hành quân. Tôi thờ ơ với những bản tin chiến sự hàng ngày đăng kín trên các tờ báo, hay được radio, TV tường thuật.
Vào lúc miền Nam sụp đổ, tôi chỉ là một sĩ quan nhỏ, cấp bậc trung úy trong binh chủng không quân, chỉ có nhiệm vụ huấn luyện, không trực tiếp tác chiến. Sau thời gian huấn luyện quân sự, chuyên môn, nằm ở hậu cứ ở các phi trường Tân Sơn Nhứt, Nha Trang, Phan Rang, Đà Nẵng... tôi vẫn bình thản ngày ngày bình yên đi ăn sáng trong các câu lạc bộ ở các phi trường. Chiều tối rảnh rỗi ra phố uống cà phê, đi xem xi-nê...
Cho dù chiến sự ngày càng dữ dội, tin tức về những trận đánh nhau với những thương vong nặng nề từ cả 2 phía không khiến tôi quan tâm, lo lắng. Tôi đọc tin tức, coi truyền hình, nghe radio những thiệt hại về nhân mạng, những tàn phá, nhà cửa, ruộng vườn của người dân ở các quận lỵ, địa điểm giao tranh với tâm trạng dững dưng như chuyện của một đất nước, dân tộc nào xa xôi, không dính dáng, liên hệ gì với người Việt.
Những lần đi công tác trên các chuyến phi cơ, ngoài phi hành đoàn chỉ có vài người lính đi đưa tiễn những chiếc quan tài phủ cờ vàng bắt đầu có mùi hôi thối từ xác những người lính tử trận, tôi chỉ cảm thấy hơi khó chịu nhưng chưa bao giờ đặt câu hỏi : "Những người lính chết trận đang nằm trong đó, hy sinh cho ai, cho những điều gì ?". Tự do, dân chủ, nhân quyền với tôi lúc đó thật mơ hồ.
Cho đến lúc vào tù cải tạo, những năm tháng bị tuyên truyền, nhồi sọ bởi cán bộ, vệ binh cộng sản, tôi mới dần dần ý thức được những điều mà những người lính hy sinh nằm trong những quan tài tôi đã thấy : Tại sao, họ chiến đấu vì cái gì ? Mặc dù ngay cả những người lính chết trận đó chưa chắc đã ý thức, hiểu rõ được họ đang chiến đấu để chống lại cái gì. Họ chỉ biết họ đang chống lại kẻ thù có cùng màu da, tiếng nói…
Đi tù một thời gian, tôi được phóng thích và trở về Sài Gòn. Sống được ít lâu, tôi bỏ đi làm rẫy ngoài Long Thành để trốn tránh sự theo dõi, đe dọa của chính quyền quận Phú Nhuận – sau khi tố cáo sự lạm quyền của cán bộ trong ủy ban nhân dân quận trước khá đông đồng bào tại trường tiểu học Võ Tánh.
Càng ngày tôi càng hiểu biết rõ hơn về bản chất của chế độ cũng như con người cộng sản Việt Nam – một chế độ bất nhân, tàn bạo, thâm hiểm, gian manh, xảo trá cùng cực. Họ không những chỉ thâm độc, gian ác, lẻo lự, dối trá với người dân mà còn ngay cả với đồng chí, đồng đảng của họ. Không có việc gì tàn nhẫn, vô lương, xảo trá mà đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam ngần ngại, run tay, không dám làm khi cần phải bảo vệ địa vị cá nhân cũng như sự tồn tại của đảng. Nguyên tắc "Còn Đảng, Còn Mình" đã giúp cho họ tồn tại đến ngày hôm nay.
Tiếc thay, sự hiểu biết của tôi đã quá trễ. Trễ như người dân miền Nam khi nhận ra được sự thật về bản chất người cộng sản, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh. Nhận ra nhưng không làm gì được. Chế độ cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc thuần hóa người dân cũng như đào tạo được một lũ sai nha bảo vệ chế độ. Sự đói nghèo, khổ cực, bị trấn áp, cưỡng bức, đe dọa, tù đầy trong một thời gian dài hơn 47 năm trên cả nước đã làm tê liệt ý chí phản kháng, đòi hỏi nhân quyền, sự công bằng xã hội của người dân.
Trong suốt thời gian 21 năm (1954-1975), người dân miền Nam đã hoàn toàn phó mặc việc chống lại sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt cho chính quyền và quân đội. Cho dù sự thất bại của miền Nam trước sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt có nhiều lý do nhưng rõ ràng một trong những nguyên nhân đó là lãnh đạo của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa rõ ràng không hề quan tâm đến đấu tranh chính trị, giảng giải cho người dân hiểu về rõ cộng sản.
Phim Chúng tôi muốn sống của đạo diễn Vĩnh Noãn, với tài tử Lê Quỳnh, Mai Trâm, những bài báo của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm trong thập niên 50 thế kỷ 20 ở miền Bắc được tổng hợp bởi ông Hoàng Văn Chí... không gây được ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng miền Nam vì không được truyền thông, báo chí chuyển tải, phổ biến rộng rãi. Chỉ một số ít người dân thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng… biết, xem về những phim ảnh, bài viết này.
Chế độ giáo dục nhân bản của miền Nam đã bị chế độ giáo dục nhồi sọ, sắt máu, tàn bạo của miền Bắc hủy diệt. Hậu quả thế nào thì mọi người đã thấy. Lỗi của ai ? Lỗi của thế hệ chúng tôi, những thanh niên rường cột của đất nước đã không làm tròn được trách nhiệm, bổn phận ? Đó là lỗi lầm do thiếu hiểu biết, thiếu năng nổ, thiếu tinh thần dấn thân, học hỏi, tìm hiểu. Đa số chỉ biết cầm súng chống trả lại kẻ thù một cách thật đơn giản, không có một định hướng, một tư tưởng chính trị làm nền tảng cho cuộc chiến đấu sống còn của mình.
Không có nhiều người trong lứa tuổi chúng tôi đặt câu hỏi với thế hệ đàn anh : Vì sao chúng ta chống cộng ? Sự thiếu hiểu biết (về cộng sản) để có thể trả lời cho câu hỏi là một trong những nguyên nhân thất bại của miền Nam trong cuộc chiến Quốc-Cộng ? Cái giá phải trả cho tự do trong một cuộc đối đầu với chế độ cộng sản mà hiểu biết của người dân miền Nam về họ quá giới hạn, kém cõi.
Cho dù thế nào đi nữa, ngày hôm nay hồi tưởng lại cuộc đời mình, những tháng ngày trong quân đội, trong ngục tù cộng sản, thời gian sống ở hải ngoại, tôi cảm thấy mình có lỗi với quê hương, đất nước, dân tộc. Bài viết này, kỷ niệm 48 năm đất nước rơi vào tay người cộng sản, xin được coi như lời Xin Lỗi Muộn Màng của một người dân đã không tròn nhiệm vụ với đất nước, dân tộc.
Nếu người dân miền Nam hiểu biết về cộng sản Bắc Việt như người dân Ukraine hiểu biết về cộng sản Nga, lịch sử Việt Nam ngày nay (có thể) đã khác. Rất tiếc là lịch sử không có chữ NẾU.
Một ngày cuối tháng Tư
Nguyễn Tiến Cường
(28/04/2023)
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Phòng trà Sài Gòn trước 1975 - Ảnh minh họa
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Trước tiên, di sản lớn nhất của Việt Nam Cộng Hòa đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương diệt tận gốc rễ của chính quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay thì hình như không có lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc Bolero, hay còn được gọi là "nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, chính trị hành chính và xã hội.
Tự hào tuổi trẻ và nền giáo dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh hay thoát ra khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của "giấc mơ xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở Sài Gòn từ đầu thập niên 2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục, tuy mang tiếng "từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-1963 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Sau này, khi có dịp về sống ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố -Trụ sở Hạ nghị viện Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Giới trẻ Việt Nam đang hướng về tương lai
Họ la hét ầm ĩ, có vài cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng Thái Lan hay Malaysia. Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là "non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ ít nghĩ xa như vậy.
Những người lớn tuổi xưa cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm, Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời Việt Nam Cộng Hòa, cũng phải tâm sự lên tiếng khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài Gòn, được hưởng nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa : Biết đâu sẽ có một ngày ?
Di sản cộng hòa cho Việt Nam nay là gì ?
A. Việt Nam Cộng Hòa và thành công kinh tế thị trường
Dù chưa được quen thuộc nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản lớn, Việt Nam Cộng Hòa đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn toàn với nền kinh tế Việt Nam bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý thuyết "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989 đã giúp Việt Nam có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách thể chế song hành với cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm dưới Việt Nam Cộng Hòa với thời gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước Việt Nam thống nhất, hai di sản kinh tế nổi bật của Việt Nam Cộng Hòa là :
Cách mạng Xanh
Đặc biệt là chính sách "Cải Cách Điền Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi "Người Cày Có Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới "Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích kinh tế đáng kể của Việt Nam Cộng Hòa khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt nhất.
Nước Việt Nam thống nhất sau tháng 4/1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm 1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang vùng thiếu, đã làm lại cuộc "cách mạng xanh" nói trên của Việt Nam Cộng Hòa, khởi đầu toàn chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền kinh tế trong ba thập niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần Nông" đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau Việt Nam đang từ thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
Khai thác dầu khí
Việt Nam Cộng Hòa đã tìm ra vài "túi dầu" đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư ngần ngại.
Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận chính trị sau này đã tiếc cho Việt Nam Cộng Hòa là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh Henry Kissinger ký kết bán đứng Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước Việt Nam thống nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế Việt Nam bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra.
Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng một phần di sản của Việt Nam Cộng Hòa là đây ?
B. Nền dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa
Nền dân chủ phôi thai của Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình v.v…vẫn được thực thi.
Một ngôi chùa của người Hoa trong Chợ Lớn
Chủ trương pháp trị, hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc hội và Tổng Thống tương đối tự do ; nền hành chánh trung ương và địa phương được điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam thống nhất bây giờ mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam bây giờ mới bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa và cử chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây giờ mới sửa soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc áp dụng những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C. Các tổ chức xã hội dân sự
Các tổ chức này dưới thời Việt Nam Cộng Hòa được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và tài chính. Ví dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà nước tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không được quyền ra báo, như đã duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở Điều 25 Hiến pháp 2013 viết :
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định".
Sinh viên biểu tình chống chính phủ Nguyễn Khánh, tháng 8/1964 ở Sài Gòn
Như nói ở trên, những dòng viết ngắn của tôi nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con dân Việt Nam Cộng hòa cũ.
Với thời gian hơn 50 năm từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ" trong 12 năm để tò mò xem xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Tôi tự cho mình trên nguyên tắc là người thuộc "Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ nhất Cộng hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn "đồng minh" Hoa Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng sản.
Lời hứa bằng giấy trắng mực đen của Tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa bằng văn thư với Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành chấp nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền Nam thân yêu, nhưng chúng ta, những người miền Nam đã để lại di sản Việt Nam Cộng Hòa đáng kể cho cả đất nước và dân tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp xúc của tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng, chúng ta cũng phải nhìn nhận về "legacy" của "Bên Thắng Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại "chiến thắng" của họ năm 1975 nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp lực chính trị ngay từ trong lòng Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như "món quà chuộc" lấy lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được chiến thắng quân sự sau cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền hành chính trị, xét cho cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ biết "góp vốn" bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai dân chủ và văn minh trong tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ là công lao lớn cho dân tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo hiện nay chỉ biết nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh quang" của chiến thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi nhanh chóng.
Đã trải qua thời Việt Nam Cộng Hòa, cuộc sống ở hải ngoại và có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin vào lẽ tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ : "Cùng tắc biến, biến tắc thông…"
Nhiều người lãnh đạo cũ của Việt Nam Cộng Hòa ở tuổi 35-50 lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80 tuổi của Việt Nam bây giờ cũng phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp của thế hệ lãnh đạo cộng sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ đang thành quá khứ, và không phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang trưởng thành, chỉ chưa có quyền được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể "tắc" mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG" mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ 25-55, lớp người quyết định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, sẽ nối tiếp bó đuốc lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ để lại tên tuổi trong lịch sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường trong vùng Đông Nam Á.
Vũ Thăng Long
Nguồn : BBC, 23/04/2019
Tác giả Vũ Thăng Long, gửi bài tới Diễn đàn BBC News Tiếng Việt từ California, Hoa Kỳ.
30/4, không chỉ là chuyện ‘quá khứ’
Mạnh Kim, VOA, 26/04/2019
Trong khi trong nước giăng ra cờ phướn "Mừng ngày giải phóng thống nhất đất nước" thì kiều bào tại nhiều nước lại mặc niệm "Ngày Quốc hận". Khi những câu chuyện "chiến thắng" của phía "bên này" được đắc ý tung ra thì "bên kia" người ta nhắc nhau những bi kịch không thể quên trong nhà tù cộng sản lẫn những giọt nước mắt cay xót của lớp lớp thuyền nhân. 44 năm sau ngày 30/4/1975, oán hận giờ còn được chất thêm, không chỉ với gánh nặng quá khứ...
The Vietnam War poster.
Trong bản "Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam 30/4" đưa ra ngày 4/4/2019, Ban Tuyên giáo Đảng cộng sản Việt Nam "chỉ đạo" :
- Tuyên truyền giá trị, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ; đường lối cách mạng Việt Nam, đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta ; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Nêu bật sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường của quân và dân ta ; sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam ; sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta ; những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước…
- Tuyên truyền về thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xây dựng Đảng của đất nước, của tỉnh và các đơn vị, địa phương trong thời gian qua, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay ; khẳng định sự kế thừa, phát huy tinh thần "quyết thắng" và chủ động nắm bắt thời cơ trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975 để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế…
Với bài Xuyên tạc lịch sử chính là phá hoại tương lai, báo Quân Đội Nhân Dân ngày 22/4/2019 đã nã phát đạn "chào mừng ngày thống nhất" theo chỉ đạo Tuyên giáo. Bài báo viết :
"Cứ đến dịp kỷ niệm 30/4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như "tháng Tư là tháng "vo gạo bằng nước mắt", "mùa quốc hận-tháng tư đen". Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc "tử tế"… Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng ấy để "mở nền thái bình muôn thuở", "dập tắt chiến tranh muôn đời".
Bản "Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam" cùng với bài báo trên cho thấy, chiến tuyến "quốc-cộng" vẫn còn sờ sờ. Phân biệt "địch-ta" giữa những người mang chung dòng máu vẫn không hề biến mất. Lòng hận thù và nghi kỵ vẫn chưa nguôi. Thậm chí mới đây, trong buổi gặp kiều bào tại Cộng hòa Czech ngày 17/4/2019, Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn nói :
"Khi tôi đón ông Donald Trump vào thăm chính phủ, thì ổng cầm lá cờ Việt Nam ổng đưa lên cao thế này… Đó là gì ? Là bọn phản động, lưu vong người Việt và chống chúng ta rã rời chân tay luôn" ! Ai "chân tay rã rời", trong số "kiều bào ta ở nước ngoài là một phần máu thịt không thể tách rời" ?
44 năm qua, chưa có dịp 30/4 nào mà vấn đề hòa hợp-hòa giải được chính thức đặt ra. Bất luận nhai đi nhai lại rằng "Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được nhân dân Việt Nam, bạn bè quốc tế công nhận" – như được lặp lại lần nữa trong bài viết trên tạp chí Quốc Phòng Toàn Dân ngày 22/03/2019, chưa thời điểm 30/4 nào mà những kẻ "chiến thắng" mời người "thua cuộc" trở về cùng ngồi trên một bàn với nghị trình và lộ trình xóa bỏ hận thù quá khứ để xây dựng tương lai chung. Chế độ cộng sản, từ 1975 đến nay, vẫn giương súng bắn vào "kẻ thù quá khứ", trong khi luôn tránh né nguồn gốc và nguyên nhân tại sao "bọn phản động và lưu vong người Việt" cứ mãi "khơi gợi hận thù". Những cái chết vùi thây trong trại "cải tạo" hay cảnh người ăn thịt người trong các chuyến vượt biên liệu có thể được xóa toẹt đi, khi mà, thậm chí một lời xin lỗi còn chưa được đưa ra ?
44 năm dẫn dắt đất nước "mở nền thái bình muôn thuở", "chế độ mới" đã thay thế "chế độ cũ" bằng gì ? Một nền chính trị "bát nháo, đảo chính triền miên" với hệ thống chính quyền "tham nhũng tận cùng", như cách mà hai nền Đệ nhất và Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa được hệ thống tuyên truyền cộng sản miêu tả, đã được thay bằng một chính thể tham nhũng tệ hại gấp bao nhiêu lần ? Chế độ mới không chỉ có một "gia đình trị" mà nhan nhản "gia đình trị". Nền chính trị "chế độ mới" chưa từng xảy ra đảo chính nhưng các cuộc thanh trừng chặt chém phe nhóm bây giờ đã trở thành "trò chơi vương quyền" ngày càng khốc liệt lôi kéo sự theo dõi hồi hộp trong hứng thú của "một bộ phận không ít người dân". Đằng sau bức màn nhung của cuộc chiến cung đình, người dân mặc tình đồn đoán ai lên, ai xuống ; thậm chí ai giết ai và kẻ nào chết vì bị đầu độc gì. Một nền chính trị như thế có thể được gọi là "ổn định" ?
"Cái gọi là "tự do báo chí của Việt Nam Cộng Hòa" như một số kẻ vẫn rêu rao thực chất chỉ là lừa bịp, giả dối" – báo Nhân Dân (trong bài Sự thật không thể chối cãi, số ra ngày 31/08/2018) viết. Tuy nhiên, hệ thống "báo chí cách mạng" của chế độ cộng sản có sự kiện nào tương tự "Ngày Ký giả đi ăn mày" như miền Nam trước 1975 để phản đối kiểm duyệt báo chí ? Chế độ mới không "lê máy chém đi khắp miền Nam" nhưng họ kéo máy ủi đi khắp tỉnh thành cả nước trong các vụ cưỡng chiếm đất đai. Chế độ mới đã thay nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa từng được đánh giá cao nhất nhì Đông Nam Á thành một môi trường giáo dục bệ rạc cùng tình trạng suy thoái đạo đức tuột xuống tận cùng… 44 năm đằng đẵng đã đạt được những "thành tích" như thế, trong tiếng vỗ tay tự huyễn và trong sự mỉa mai của người dân khi họ cười cợt với những "tự hào quá, Việt Nam !"…
30/4 bây giờ không chỉ là sự nhắc lại quá khứ. Nó còn là dịp nhìn lại quê hương hiện tại với sự tự vấn rằng "Việt Nam quê hương tôi" sẽ tiếp tục điêu tàn và tan hoang đến mức nào, để người dân lại nổi điên trước sự hỗn loạn giáo dục, để những tiếng than van vận nước nổi trôi trước sự thao túng của "người anh em" Trung Quốc lại cất lên không ngưng, để cơn tức giận lại nổ bùng trước sự chứng kiến các vụ lũ lượt tháo chạy ra nước ngoài của "cán bộ cộng sản" nhằm tránh "thụ hưởng" những "thành tựu" mà "Đảng quang vinh" của họ mang lại. "Hận thù 30-4" giờ đây không chỉ liên quan quá khứ và sự cần thiết của việc thể hiện cụ thể chuộc lỗi quá khứ. Oán ghét và mâu thuẫn bây giờ còn là vấn đề của hiện tại và sự cần thiết điều chỉnh để sửa sai hiện tại. 44 năm sau cuộc nội chiến ý thức hệ, chính quyền cộng sản giờ đã "thành công" trong việc tạo ra một cuộc chiến "ý thức hệ" khác, mỗi lúc mỗi âm ỉ gay gắt, giữa khao khát dân chủ của người dân và cái "mô hình" gọi là "dân chủ tập trung" của chế độ. Trong cuộc xung đột "nội chiến" mới này, không còn là cuộc đọ súng của hai miền Nam Bắc. Nó là cuộc đối đầu giữa người dân từ Bắc xuống Nam trên một quốc gia thống nhất, với một chế độ cai trị đang "rã rời chân tay" bởi sự dối trá và bao che dối trá của họ chưa bao giờ bị lật tẩy nhanh bằng lúc này.
Mạnh Kim
Nguồn : VOA, 26/04/2019
***********************
Cộng thắng, thắng ai, thắng cái gì ?
Thiện Ý, VOA, 25/04/2019
Trong bài trước, trên diễn đàn này của Đài VOA, chúng tôi đã viết về "nỗi uất hận" của "Bên thua cuộc" là Việt quốc, qua tiêu đề "Quốc hận, hận ai, hận cái gì, hận để làm gì ?". Bài viết này chúng tôi viết về"nỗi vui mừng" của "Bên thắng cuộc" là Việt cộng với tiêu đề"Cộng thắng, thắng ai, thắng cái gì, thắng để làm gì ?". Đúng như nhận xét lúc sinh thời của Ông Võ Văn Kiệt, cố cựu Thủ tướng chính phủ Việt cộng, đại ý rằng : Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã là niềm vui, nhưng cũng là nỗi buồn của hàng triệu người Việt Nam.
Bộ đội cộng sản Bắc Việt cầm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tràn vào dinh Độc Lập ở Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975.
Vì vậy bên vui mừng Việt cộng (Đảng và Chính quyền cộng sản Việt Nam) đã coi ngày 30/4/1975 là ngày "Đại thắng" và hàng năm thường ăn mừng với hình thức và mức độ "hoành tráng" tùy theo tình hình thực tế và nhu cầu tuyên truyền chính trị đòi hỏi ; song cường độ nhiệt thành dường như giảm dần theo thời gian. Vì sao vậy ? Qua bài này, người viết muốn trả lời phần nào cho câu hỏi này.
I. Cộng thắng : thắng ai, thắng cái gì, thắng để làm gì ?
Cộng thắng Quốc, cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước Miền Nam, để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.
Đó là mục tiêu chiến lược được Đại Hội Toàn đảng Cộng sản Việt Nam (ngụy trang Đảng Lao Động Việt Nam) lần thứ III họp từ ngày 5 đến ngày 10/09/1960 ởHà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 50.000 đảng viên lúc bấy giờ. Ông Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch đảng, Lê Duẩn được bầu là Bí thư Thứ nhất. Nghị quyết của Đại Hội này đã hạ quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc làm hậu phương lớn để"giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
II. Việt cộng đã thực hiện các mục tiêu chiến lược thế nào để thắng ?
1. Việt cộng đã thành đạt hai mục tiêu thắng Việt quốc, cướp được chính quyền Quốc gia Nam Việt Nam
Thành quả này có được nhờ các yếu tố chủ quan và khách quan sau đây :
- Chủ quan (về phía Việt cộng) trong chiến tranh, Việt cộng đã huy động, tận dụng được nhân lực, tài lực nhân dân Miền Bắc và lôi kéo được một số ít nhân dân Miền Nam lao vào cuộc chiến, nhờ vững về tổ chức, giỏi về tuyên truyền lừa mị nhân dân và quốc tế, đi kèm bạo lực, khủng bố cưỡng bách tận tình.
Vững về tổ chức vì chỉ có một đảng duy nhất nắm quyền trong một chế độ độc tài toàn trị cộng sản.Những người lãnh đạo chính quyền, quân đội cộng sản Bắc Việt hầu hết tập trung tâm lực vào cuộc chiến với quyết tâm chiến thắng. Việt cộng giỏi tuyên truyền lừa mị khi dùng chiêu bài "ngụy dân tộc" (từ thời kháng chiến chống Pháp) để phát động chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam dưới ngọn cờ "Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc", để kích động lòng yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm của nhân dân. Đối với những người dân nào biết được ý đồ này, không tin vào những sự tuyên truyền dôi trá của Việt cộng, nhưng vẫn phải tham gia cuộc chiến, không thể có sự chọn lựa nào khác. Vì nếu không họ sẽ bị các công cụ bảo vệ" nền chuyên chính vô sản" như công an, quân đội, pháp trường nghiền nát hay bị chế độ tem phiếu hộ khẩu xiết chặt dạ dày… (*).
- Khách quan (về phía Việt quốc) do phải thực hiện một chế độ dân chủ pháp trị phôi thai trong khung cảnh chiến tranh nên có nhiều kẽ hở để Việt cộng lợi dụng dân chủ cài cấy người vào nội bộ chính quyền các cấp, dân sự cũng như quân sự và các tôn giáo, tổ chức dân sự lỏng lẻo. Đồng thời, tìm cách mê hoặc, lôi kéo tuổi trẻ, thanh niên, sinh viên học sinh vào các phong trào "chống Mỹ cứu nước" gây bất ổn triền miên xã hội Miền Nam.
Ngoài ra, cũng phải thừa nhận, là đã có nhiều vấn đề ngay trong các cấp lãnh đạo của chính quyền Miền Nam, liên quan đến quyền lực và sự dựa dẫm vào Hoa Kỳ. Đồng thời, mặt trận tuyên truyền cũng là nơi thể hiện sự yếu kém của chính quyền miền Nam, không củng cố và làm sáng tỏ đượcvai trò chính thống của chính quyền và "Chính nghĩa quốc gia, dân tộc, dân chủ" trong nhân dân và trên trường quốc tế ; nên đã bị "ngụy nghĩa cộng sản, phi dân tộc, phản dân chủ" giật mất chính nghĩa để biến thành "bên thua cuộc" một cách phi lý, bất công gây uất hận cho bên "Việt quốc" là thế.
- Nhận định : Cộng có thắng Quốc thật không ?
Sự thật, khách quan và công bình hơn, như chúng tôi đã trình bày trên diễn đàn này một số bài viết về thực chất chiến tranh Việt Nam. Rằng đó là cuộc chiến tranh giữa hai phe, bốn bên. Hai phe đó là phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa (chiến tranh ý thức hệ toàn cầu) ; với bốn bên Liên Xô và Trung quốc, bên Hoa Kỳ và đồng minh (ngoại chiến) ; bên Việt cộng và bên Việt quốc (nội chiến quốc-cộng). Cả hai cuộc chiến này cùng diễn ra trên chiến trường Việt Nam, trùng lắp không gian và thời gian, nhưng khác ý đồ, lợi ích của các bên tham chiến muốn thành đạt qua cuộc chiến thường gọi chung là cuộc "Chiến tranh Việt Nam". Cuộc chiến này đã chấm dứt vào ngày 30/4/1975, sau khi bên cộng sản Bắc Việt đánh bại hoàn toàn bên quốc gia Nam Việt, thôn tính được Miền Nam, thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy theo ý nghĩa thông thường, phe xã hội chủ nghĩa đã thắng phe tư bản chủ nghĩa trong cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, thông qua cuộc chiền tranh cục bộ tại Việt nam, vì đã giành thêm lãnh địa toàn cõi Việt Nam cho phe xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác một cách cụ thể là bên Liên Xô và Trung quốc đã thắng bên Hoa Kỳ và đồng minh trong cuộc chiến tranh cục bộ Việt Nam. Đồng thời, bên Việt cộng cũng đã thắng bên Việt quốc trong "cuộc chiến tranh quốc-cộng" tại Việt Nam ( thắng một giai đoạn của cuộc "Nội chiến ý thức thức hệ Quốc-Cộng", hai giai đoạn kia là "Tiền chiến tranh Quốc-Cộng" (1930-1954) và "hậu chiến tranh Quốc-Cộng" từ 1975 đến nay vẫn chưa kết thúc).
Thế nhưng như chúng tôi đã đưa ra nhận định nhiều lần, rằng đó chỉ là "chiến thắng biểu kiến" (coi vậy chứ không phải vậy). Vì chiến tranh Việt Nam đã kết thúc nhanh gọn, bị động và bất ngờ cho hai bên nội chiến Quốc-Cộng ; cùng với diễn biến các sự kiện vào những ngày tháng cuối cùng trước và sau khi khi kết thúc cuộc chiến một cách không bình thường, tựa hồ như một kịch bản tiền định… Vì nếu việc kết thúc chiến tranh Việt Nam quả là một "thắng lợi thật" của phe xã hội chủ nghĩa trong đó có "bên thắng cuộc" Việt cộng, thì tình hình Việt Nam và thế giới phải biến chuyển theo chiều hướng khác với thực tế kể từ sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975.
Thực tế hợp luận lý (logic) phải là phe xã hội chủ nghĩa, cụ thể là các cường quốc cộng sản hàng đầu như Liên Xô, Trung Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi viện tối đa cho chế độ cộng sản Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển đến cường thịnh. Ðể làm gì ? – Ðể phát huy thắng lợi Việt Nam nhằm lôi kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong vùng hãy noi gương Việt Nam, lao vào "một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc…" để đạt mục tiêu lật đổ các chính quyền tư sản, xóa bỏ "các chế độ người bóc lột người" để thay thế bằng các chế độ "Xã hội chủ nghĩa" ; rằng hãy theo gương Việt Nam, để trong "Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng" sẽ được trợ giúp tối đa về vũ khí, lương thực để đánh thắng các chính quyền "phản động" ; và sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong "tinh thần quốc tế vô sản", để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng vô sản toàn cầu, xây dựng thành công "xã hội xã hội chủ nghĩa" tại mỗi nước, tiến tới xã hội viên mãn toàn cầu : "Xã hội cộng sản" với đỉnh cao là "Thiên đường Cộng sản" trong viễn tưởng !
Thế nhưng thực tế trái ngược là, chỉ sau trên dưới 15 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975-1991), Liên Xô và toàn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế sụp đổ, chỉ còn sót lại bốn nước trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sao ?
Nay thì thực tế ngày càng cho thêm dữ kiện đầy đủ để mọi người Việt Nam có thể đi đến thống nhất nhận định, rằng cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là cuộc nội chiến ý thức hệ do các cường quốc phát động và tiến hành trên đất nước Việt Nam, thông qua các cá nhân, tập đoàn bản xứ tri tình (Việt cộng) hay ngay tình (Việt quốc) làm công cụ, xô đẩy nhân dân Việt nam vào một cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn. Hậu quả bi thảm của cuộc chiến tranh này đất nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ và lợi ích chiến lược trong vùng của các cường quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến Việt Nam.
Và vì vậy, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt quốc), mà chỉ vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc (chiến lược toàn cầu mới) đã để cho chiến tranh Việt Nam đi đến kết thúc. Chính dân tộc Việt Nam, nhân dân hai miền Bắc-Nam mới là nạn nhân và là bên thua cuộc hoàn toàn. Thiết tưởng đã 44 năm qua rồi, thời gian đã quá đủ cho cả Việt quốc và Việt cộng chẳng nên tiếp tục tự hào về cuộc chiến ấy nữa, khi trong cuộc nội chiến "nồi da xáo thịt" này, các bên đều bị ngoại bang sử dụng như những công cụ chiến lược một thời. Thực tế bây giờ là cả Việt quốc và Việt cộng cần cố gắng đẩy lùi quá khứ, hướng đến tương lai, để biết phải làm gì và cần làm gì hữu ích, có lợi nhất cho nhân dân và đất nước.
2. Mục tiêu Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa đạt thì sao ?
Đây là mục tiêu chiến lược thứ ba cũng là mục tiêu tối hậu mà Việt cộng vẫn chưa thành đạt, dù chiến tranh Việt Nam kết thúc đã 44 năm rồi (1975-2019).Việt cộng đã có một thời gian dài thử nghiệm mô hình xã hội chủ nghĩa của mình.
Nhiều câu hỏi được đặt ra là Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội là vì cái gì, sao chưa thành đạt, bao giờ hay sẽ không bao giờ thành đạt ?
III. Thay lời kết
Chúng tôi dự định sẽ tìm cách trả lời những câu hỏi trên qua một bài viết chi tiết khác dưới chủ đề : "44 năm Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội vì sự nghiệp cộng sản quốc tế, thành quả và triển vọng". Đồng thời đi kèm với bài viết tựa đề "44 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước, thành quả và triển vọng".
Mục đích để bạn đọc so sánh thấy được trong giai đoạn cuối cùng của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam (hậu chiến tranh Quốc-Cộng ) Việt cộng hay Việt quốc bên nào sẽ thành đạt mục tiêu tối hậu của mình :
- Việt cộng có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ?
- Việt quốc có thành đạt mục tiêu dân chủ hóa đất nước
- và Cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng sẽ có cơ may chấm dứt khi nào và như thế nào ?
Houston, 15/4/2019
Thiện Ý
Nguồn : VOA, 25/04/2019
(*) Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp đã "ngụy dân tộc" nên đã phải tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập Mặt trận "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội" gọi tắt là Việt Minh (mặt nạ của Việt cộng).
Sau Hiệp định Genève 1954 Pháp ký với Việt Minh chia đôi đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam dấu mặt dưới cái tên Đảng Lao Động Việt Nam, ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa dưới bảng hiệu chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có từ sau "Cách mạng Tháng 8/1945"với chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng do Ông Hồ làm Chủ tịch, dựng lên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (20/12/1960), rồi Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam(1967) làm công cụ quân sự và chính trị thực hiện cái gọi là "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đật nước" dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản). Tất cả những cái ngụy trên đã lộ nguyên hình sau khi cộng sản Bắc Việt cướp được chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam vào ngày 30/4/1975.